Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.64 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ DIỆU THÚY

QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA CÔNG DÂN
VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp
Mã số: 60 38 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Động

HÀ NỘI - 2010


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS. TS. Nguyễn
Văn Động, giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội – người đã dành nhiều
thời gian và tâm huyết hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Đồng thời, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo tham gia giảng dạy
lớp Cao học Luật khóa XV, Khoa Sau đại học và Ban Giám hiệu trường
Đại học Luật Hà Nội.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp cơ quan Ban Tôn giáo Chính phủ - những người đã tạo mọi


điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
để tôi có được kết quả như ngày hôm nay.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, mặc dù tác giả đã có nhiều cố
gắng, nhưng chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót và
hạn chế. Tác giả xin chân thành cảm ơn và tiếp thu mọi ý kiến đóng góp
của các thầy cô và toàn thể bạn đọc để luận văn đạt kết quả cao hơn.

Hà Nội, ngày 19 tháng 01 năm 2010
Học viên

Nguyễn Thị Diệu Thúy


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Cơ sở lý luận của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

8

công dân Việt Nam
1.1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các văn bản chính trị pháp lý 8
quốc tế
1.2. Khái niệm và đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

14


công dân Việt Nam
1.3. Những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện quyền tự do tín

23

ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam
Chương 2: Thực trạng và những giải pháp bảo đảm quyền tự do tín

29

ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1. Thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân

29

ở Việt Nam
2.2. Những giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công 57
dân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

73


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền dân sự và
chính trị cơ bản của con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về

quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
Việt Nam là đất nước có truyền thống văn hoá lâu đời và là một quốc
gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Trong suốt chiều dài lịch sử bốn
ngàn năm, dân tộc Việt Nam, từ Bắc đến Nam, từ các dân tộc thiểu số đến
người Kinh đa số, trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam đều ít nhiều mang
một niềm tin hoặc một tín ngưỡng, tôn giáo nào đó. Sự khác biệt về tinh thần
giữa người có đạo và người không có đạo, giữa các tôn giáo, tín ngưỡng
không làm mất đi ý thức chung về một dân tộc Việt Nam, về một Tổ quốc
Việt Nam độc lập, thống nhất mà biết bao thế hệ đã phải đổ mồ hôi, xương
máu để xây dựng và gìn giữ đến nay.
Theo thống kê đến cuối năm 2008, cả nước có trên 20 triệu tín đồ
(chiếm 25% dân số cả nước), với khoảng 80 ngàn chức sắc, trên 26 ngàn cơ
sở thờ tự, trường lớp đào tạo chức sắc của các tôn giáo như Phật giáo, Công
giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo,... Trong quá khứ cũng
như hiện tại, tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, tư tưởng, văn
hoá, xã hội của đất nước. Nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân, ngay từ hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng
hoà - Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992 đều khẳng định quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của công dân. Hiến
pháp năm 1992 tại Điều 70 quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp


2

luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước".
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân

luôn là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, không những được
nêu rõ ở những quan điểm, chủ trương, các văn bản pháp lý mà còn được bảo
đảm trên thực tế. Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo vệ và phát triển quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân luôn được ưu tiên trong chính sách của
Đảng và Nhà nước, trở thành một trong những vấn đề lớn thu hút sự quan tâm
của các cấp, các ngành và cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân cũng được tôn trọng và bảo đảm đầy đủ bởi Nhà nước và
xã hội. Đâu đó vẫn còn hiện tượng hạn chế, thu hẹp thậm chí vi phạm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; chính sách của Đảng, Nhà nước về
tự do tín ngưỡng, tôn giáo chưa được cụ thể hoá kịp thời thành pháp luật
nhằm bảo đảm thực hiện quyền này; việc kiểm tra, giám sát và xử lý các hành
vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân còn chưa kịp thời,
kiên quyết. Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, nhưng chủ yếu là do
trong bộ máy nhà nước và ở ngoài xã hội chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ,
toàn diện về ý nghĩa, tầm quan trọng và vai trò của quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân, chưa ý thức được sự cần thiết phải tôn trọng và bảo
đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân đã được pháp
luật quy định và bảo đảm thực hiện.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu khoa học về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân ở Việt Nam chưa được thường xuyên quan tâm trong giới
khoa học pháp lý mà hệ quả là, cho tới nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng được
một hệ thống các quan điểm lý luận khoa học hoàn chỉnh và đồng bộ về


3

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, phát triển bền vững
và hội nhập quốc tế; chưa kịp thời cung cấp cho Đảng, Nhà nước những luận
cứ khoa học để hoạch định đúng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật

nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trên
thực tế.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài luận
văn thạc sĩ của mình, với mục đích góp phần khắc phục những hạn chế trong
nghiên cứu khoa học về bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
vấn đề quyền con người, quyền công dân trong đó có quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo được nhận thức một cách đầy đủ, khách quan hơn, việc quan tâm
nghiên cứu quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng được coi trọng và thúc đẩy.
Đã có một số công trình nghiên cứu như:
- Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị, tập thể tác giả, chủ biên:
GS. TS. Hoàng Văn Hảo - TS. Chu Hồng Thanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997, 288 trang. Sách đề cập đến những vấn đề lý luận về quyền con
người về dân sự và chính trị; phân tích quyền con người về dân sự và chính trị
trong các Hiến pháp Việt Nam và việc thực hiện quyền đó trên thực tế Việt
Nam. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thuộc nhóm quyền dân sự và chính
trị, vì vậy cuốn sách này là nguồn tư liệu quý để tác giả tham khảo trong quá
trình thực hiện luận văn.
- Tuyên ngôn thế giới và hai công ước 1966 về quyền con người, tập thể
tác giả, Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị


4

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002, 240 trang. Nội dung cuốn sách đề cập
đến những vấn đề cơ bản liên quan trực tiếp đến Tuyên ngôn thế giới về nhân

quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) và
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá(1966); đồng thời đề
cập đến việc áp dụng các nguyên tắc và quy định trong ba văn kiện đó trong
thực tiễn ở Việt Nam và trên thế giới. Cuốn sách này là một tư liệu quan
trọng, liên quan trực tiếp đến đề tài Luận văn, giúp tác giả củng cố những kiến
thức lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Bộ Tư pháp, Việt Nam với vấn đề quyền con người, chịu trách nhiệm
xuất bản PGS. TS. Hoàng Thế Liên, Hà Nội, 2005, 368 trang. Cuốn sách đã
cung cấp cho tác giả những kiến thức lý luận và nhận thức đúng đắn, toàn
diện về vấn đề quyền con người trên bình diện quốc tế và quốc gia, những
thành tựu cũng như những bài học kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo vệ quyền
con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; chống lại các luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phục vụ cho các hoạt động bảo vệ
quyền con người.
- Một số công trình khoa học của PGS. TS. Nguyễn Văn Động về
quyền công dân ở Việt Nam có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn, đã giúp
tác giả cả về phương pháp nghiên cứu, học thuật và nội dung nghiên cứu. Đó
là các công trình: Các quyền hiến định về xã hội của công dân ở Việt Nam
hiện nay, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, 203 trang; Quyền
con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Sách chuyên khảo,
Nxb Khoa học xã hội, 2005, 253 trang; Các quyền hiến định về chính trị của
công dân Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, 183
trang.
- Tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, Viện Khoa học xã
hội nhân văn quân sự thuộc Bộ quốc phòng, NXb. Quân đội nhân dân, Hà


5

Nội, 2005, 218 trang. Cuốn sách đã cung cấp cho tác giả những thông tin khái

quát, ngắn gọn và dễ hiểu một số vấn đề cơ bản về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam, sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực
thù địch và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay.
- Ban Tôn giáo Chính phủ, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam
(sách trắng), Hà Nội, 2009, 85 trang. Cuốn sách này đã giúp cho tác giả hiểu
rõ, đầy đủ và toàn diện hơn về tình hình tôn giáo và chính sách của Nhà nước
Việt Nam đối với tôn giáo.
- Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận và thực tiễn,
PGS.TS Đỗ Quang Hưng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008, 447 trang.
Sách đã hệ thống lại những nét chủ yếu của vấn đề lý luận và thực tiễn trong
công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước; quá trình Đảng, Nhà nước ta xây
dựng, phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách tôn giáo qua các giai
đoạn lịch sử, chủ yếu sau cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, giúp tác giả
có cái nhìn toàn diện, hệ thống về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước
ta qua các thời kỳ lịch sử.
3. Nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Luận văn có những nhiệm vụ, mục tiêu sau đây:
- Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận của quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân Việt Nam gồm: khái niệm, đặc điểm và những điều kiện
bảo đảm cho việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân
Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân ở Việt Nam được nêu rõ trong quan điểm, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước và thành tựu bảo đảm quyền này trên thực tế.


6

- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng

đưa ra những giải pháp tiếp tục bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân Việt Nam trong điều kiện đổi mới, phát triển bền vững và hội nhập
quốc tế của nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân Việt Nam quy định trong Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ; quan
điểm, chính sách, pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân; đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu quan
điểm của luật pháp quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và vấn đề bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để có cơ sở đối chiếu, so sánh pháp luật
bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam với các chuẩn mực quốc
tế; đề xuất một số giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận đúng đắn, khoa
học là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người nói
chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng; quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bảo đảm thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân và quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và vấn đề bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngoài ra, luận văn còn được xây dựng trên cơ sở vận dụng các phương
pháp cơ bản như phân tích - tổng hợp, xã hội học, so sánh để làm sáng tỏ
những vấn đề liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức
khoa học cơ bản mang tính lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của


7


công dân Việt Nam; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; quá trình hình thành và phát triển
của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp Việt Nam, tiến trình
luật pháp tôn giáo ở Việt Nam đặc biệt từ năm 1990 đến nay. Luận văn cũng
nêu lên những thành tựu bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân Việt Nam trên thực tế; đồng thời nêu ra một số giải pháp cơ bản
tiếp tục bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam
trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
kết cấu gồm 2 chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân Việt Nam.
- Chương 2: Thực trạng và những giải pháp bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM
1.1. QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO TRONG CÁC VĂN BẢN
CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ QUỐC TẾ

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của
con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của
nhiều quốc gia trên thế giới. Liên hợp quốc đề cao và bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo qua Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 và Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền này trong pháp luật.
Xét về nguồn gốc, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ra đời khá sớm
trong lịch sử. Trong lịch sử loài người thời kỳ cổ đại, trung đại hay các chế độ
quân chủ phong kiến đều dựa trên một tôn giáo chính thống làm nền tảng ổn
định xã hội. Ngay sau khi các cuộc cách mạng tư sản thành công, các chế độ
dân chủ (tư sản) cộng hoà ra đời, tình trạng đó cơ bản chưa thay đổi, dù quyền
lực thần quyền đã bị hạn chế. Trong khi đó, các vấn đề khủng bố, bạo lực, kết
tội tôn giáo hoặc chiến tranh sắc tộc tôn giáo vẫn không ngừng diễn ra. Nhu
cầu lớn đầu tiên trong quyền tự do tôn giáo với rất nhiều quốc gia là nhu cầu
mỗi công dân có thể đi theo một tín ngưỡng riêng hay cải đạo mà không sợ bị
chính phủ phạt tội hoặc các “tôn giáo chính thống” trả thù.
Quan niệm về tự do tôn giáo được hình thành ở châu Âu với các cuộc
cách mạng tư sản thế kỷ XVII - XVIII. Những nhà tư tưởng như John Locke,
đã đặt nền móng cho quyền tự do tôn giáo khi cho rằng, tôn giáo là vấn đề của
cá nhân hơn là của xã hội. Vai trò của nhà nước không phải là khuyến khích


9

phát triển tôn giáo mà cơ bản là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân có thể sở hữu
niềm tin tôn giáo của chính mình và cách tốt nhất là hãy để con người tự lựa
chọn tôn giáo cho mình.
Trong tiến trình vận động của lịch sử, quan niệm về tự do tôn giáo dần
dần trở nên hoàn thiện hơn. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 đề
cập đến tự do, song chưa nói cụ thể về tự do tôn giáo. Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Pháp năm 1789 đã nói đến tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự
do tôn giáo, song cũng chưa nói rõ về tự do tôn giáo: “Mỗi người đều được
phát biểu tư tưởng tự do, về tôn giáo cũng vậy, miễn là những tư tưởng phát

biểu đó không làm tổn thương đến nền trật tự công cộng đã được pháp luật
ấn định phân minh” [24, tr. 114]. Năm 1905, Luật Phân ly nổi tiếng của nước
Pháp thật sự nói về tự do lương tâm và tự do thờ cúng. Như vậy, cho đến đầu
thế kỷ XX, quan niệm về tự do tôn giáo mới chỉ mang tính quốc gia riêng lẻ.
Trên bình diện quốc tế, mãi đến ngày 10-12-1948, khi Liên hợp quốc thông
qua Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền thì tự do tôn giáo mới trở thành một
quyền mang tính quốc tế.
Trên phạm vi quốc tế, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người
được ghi nhận trong một số văn bản chính trị - pháp lý của Liên hợp quốc bao
gồm các văn bản mang tính chất tuyên ngôn như Hiến chương của Liên hợp
quốc năm 1945, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948; các văn bản
mang tính chất pháp lý như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966, trong đó, Hiến chương của Liên hợp quốc và Tuyên ngôn nhân
quyền là những văn bản không có tính ràng buộc pháp lý, nhưng có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định các nguyên tắc và định hướng đạo lý, chính trị
của quyền con người nói chung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng.
Công ước là văn bản có tính ràng buộc pháp lý, bao gồm các nội dung cụ thể


10

về quyền con người và các quốc gia chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với
những văn kiện này.
Nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế bao
gồm tự do có, theo hoặc thay đổi một tôn giáo hay tín ngưỡng do mình lựa
chọn; tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng
với những người khác, công khai hoặc không công khai dưới các hình thức
như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng.
- Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945, tại phần mở đầu, đã tuyên
bố: “Khẳng định một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân

phẩm và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ,...” [24,
tr. 128]. Khoản 3, Điều 1 (Chương I) đã đề cập đến nội dung quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo hướng “khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền
của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt
chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo” [24, tr. 132]. Điều 55, Mục c
(Chương IX, Hợp tác quốc tế về kinh tế và xã hội) ghi nhận Liên hợp quốc
khuyến khích: “Sự tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ bản
của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn
giáo” [24, tr. 138].
- Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (được thông qua và tuyên bố theo
Nghị quyết số 217A ngày 10-12-1948 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc) gồm
Lời nói đầu và 30 điều. Lần đầu tiên, Đại hội đồng Liên hợp quốc có một văn
bản chính thức về nhân quyền, tạo cơ sở để Liên hợp quốc cụ thể hoá thành
các công ước mang tính chất pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia thành viên
công ước trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người nói chung, các quyền
về dân sự, chính trị nói riêng trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Điều 18 của Tuyên ngôn định nghĩa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
như sau: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn


11

giáo; quyền này bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo và niềm tin, cũng như
quyền tự do biểu hiện tôn giáo hay niềm tin của mình, một mình hay cùng
chung nhau, ở nơi công cộng hay ở nơi riêng tư, bằng thuyết giảng, tục lệ, thờ
cúng và làm các nghi lễ” [24, tr. 152]. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã
kế thừa và phát triển tư tưởng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của Pháp năm 1789. Điểm phát triển ở đây là Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền quy định về quyền này cụ thể và chặt chẽ hơn.

Để thực hiện được các quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính
trị, xã hội trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Tuyên ngôn đã xác
định các bảo đảm như tôn trọng và thực thi các nguyên tắc “Tất cả mọi người
sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và về các quyền” (Điều 1); “Mỗi
người đều được hưởng tất cả các quyền và tất cả các tự do đã được tuyên bố
trong bản Tuyên ngôn này, không hề có sự phân biệt nào, nhất là sự phân biệt
về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay mọi ý kiến
khác,…” (Điều 2) [24, tr.146]; “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật và có quyền được pháp luật bảo vệ ngang nhau, không phân biệt. Mọi
người đều có quyền được bảo vệ ngang nhau chống lại mọi sự phân biệt đối
xử vi phạm bản Tuyên ngôn này và chống lại mọi điều gây ra sự phân biệt đối
xử ấy” (Điều 7) [24, tr. 148]. Bên cạnh đó, Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền đã đề cập đến những giới hạn trong việc thực hiện quyền này tại Điều
29 như sau:
“1. Cá nhân phải có những bổn phận đối với cộng đồng, chỉ trong đó
nhân cách của mình mới có thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Trong việc thực
hiện các quyền và hưởng thụ các tự do của mình, mọi người chỉ bị giới hạn
bằng luật pháp nào nhằm bảo đảm thừa nhận và tôn trọng các quyền và các tự
do của người khác và nhằm thoả mãn những yêu cầu đúng đắn của đạo đức,


12

trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. 3. Không một
trường hợp nào, các quyền và tự do ấy có thể được thực hiện trái với những
mục đích và những nguyên tắc của Liên hợp quốc” [24, tr. 158].
- Tuyên bố của Liên hợp quốc năm 1981 về hạn chế tất cả các hình
thức bạo lực và phân biệt vì tôn giáo hoặc tín ngưỡng ra đời thì vấn đề tự do
tôn giáo mới được trình bày hoàn chỉnh hơn. Gần 30 năm qua, văn bản này có
tầm quan trọng hàng đầu trong các công ước quốc tế về việc bảo vệ quyền tự

do tôn giáo. Nội dung cơ bản của văn kiện này như sau: Thờ cúng và gia nhập
các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, xây dựng và duy trì các cơ sở tôn giáo
(Điều 6.a); thành lập và duy trì các tổ chức từ thiện vì con người và xã hội
(Điều 6.b); có quyền được yêu cầu, sử dụng đối với những hoạt động có sử
dụng phương tiện cho sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng (Điều 6.c); sáng tác, ban
hành hay phổ biến những ấn phẩm cần thiết trong phạm vi sinh hoạt tôn giáo
(Điều 6.d); thuyết giảng giáo lý ở những địa ở những địa điểm phù hợp với
mục đích ấy (Điều 6.e); đi xin hoặc tiếp nhận những nguồn tài trợ về tài chính
từ các cá nhân và các tổ chức (Điều 6.f); được phép nghỉ hay tổ chức kỷ niệm
những ngày lễ theo giáo lý (Điều 6.h); được phép thiết lập và duy trì mối liên
lạc với các cá nhân và cộng đồng có quan hệ tôn giáo ở cấp quốc gia hay quốc
tế (Điều 6.i).
Tuyên bố này của Liên hợp quốc đã đề cập cả ba vấn đề còn tranh cãi
hiện nay về quyền tự do tôn giáo. Thứ nhất, vấn đề định nghĩa thuật ngữ “tôn
giáo”. Thứ hai, quyền “đổi đạo” có cần được bảo vệ. Thứ ba, có thể coi tuyên
bố này có giá trị pháp lý quốc tế.
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (được thông qua
và để ngỏ cho các nước ký kết, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết của
Đại hội đồng Liên hợp quốc số 2200, ngày 16-12-1966, có hiệu lực từ ngày
23-3-1976). Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định với bốn nội


13

dung cụ thể, trong đó nội dung thứ nhất gần giống với Điều 18 của bản Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền. Nhưng nội dung thứ nhất của khái niệm về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị được ghi nhận chuẩn xác hơn tại Khoản 1, Điều 18:“Mọi người
đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này bao
gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do

bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người
khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện,
thực hành và giảng đạo” [24, tr. 242].
Ngoài ra, trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, khái
niệm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được bổ sung thêm ba nội
dung, làm cho quan niệm về quyền này rõ ràng và đầy đủ hơn, đó là: không
một ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn
giáo hoặc tín ngưỡng (Khoản 2, Điều 18); quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc
tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những
giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ
hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác
(Khoản 3, Điều 18); các quốc gia thành viên Công ước này cam kết tôn trọng
quyền tự do của các bậc cha mẹ và trong trường hợp có thể áp dụng được,
quyền tự do của những người đỡ đầu hợp pháp trong việc giáo dục tôn giáo và
luân lý cho con cái họ (Khoản 4, Điều 18) [24, tr. 242 - 244].
Bốn nội dung của khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện
tại Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị gắn kết với
nhau trong mối tương quan mật thiết, vừa nói lên được tính phổ quát của
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa “để ngỏ” cho những quốc gia với
những đặc thù riêng có thể thực hiện được. Vì vậy, tính khả thi trong hiện
thực của nó rất cao.


14

Cho đến nay, nhìn tổng quát, đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
các văn bản quốc tế đã quy định: tuyên bố sự tồn tại quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện công khai một mình
hay trong cộng đồng; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn
giáo. Tuy nhiên, các văn bản pháp lý quốc tế cũng khẳng định quyền tự do tín

ngưỡng và tôn giáo không phải là một quyền tuyệt đối, mà là một quyền có
hạn chế. Các quốc gia có thể hạn chế quyền tự do này nếu đó là cần thiết để
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự xã hội, sức khoẻ đạo đức của cộng đồng, hoặc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác khỏi bị xâm hại.
Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
vào ngày 24-9-1982. Đây là một trong 12 công ước quốc tế mà Việt Nam đã
ký kết và cam kết thực hiện. Điều đó chứng tỏ rằng Đảng và Nhà nước ta
đánh giá rất cao tính khách quan, khoa học và nhân đạo thể hiện trong Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị nói chung và quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo nói riêng.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM

1.2.1. Khái niệm
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia, tự do tín ngưỡng hay tự
do tôn giáo thường được coi là một nguyên tắc ủng hộ quyền tự do của cá
nhân hay cộng đồng trong việc công khai hoặc bí mật thực hành, thờ phụng,
rao giảng, hay tu tập một tôn giáo hay tín ngưỡng. Khái niệm này thường
được thừa nhận là có bao gồm cả việc tự do thay đổi tôn giáo hoặc tự do
không theo một tôn giáo nào.
Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều
bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo


15

được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của
Nhà nước" [20, tr. 147].

Điều 1 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 cũng đã khẳng định:
“Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy” [2, tr. 7].
Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được hiểu là một trong
những quyền cơ bản của công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Nội dung cơ bản của quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện trên những mặt chủ yếu sau:
Một là, công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Đây là đặc trưng nổi bật trong nội dung quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam, theo đó, mọi người dân đều có
quyền lựa chọn theo một tôn giáo cụ thể nào đó, có quyền thay đổi tôn giáo và
cũng có quyền không theo một tôn giáo nào. Công dân có quyền tự do hoạt
động tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có
công với đất nước, với dân tộc, với cộng đồng thờ cúng thần thánh, những
biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác
tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá và đạo đức xã hội của
dân tộc. Các tổ chức tôn giáo, tín đồ và chức sắc tôn giáo có quyền sinh hoạt
tôn giáo theo giáo lý, giáo luật và lễ nghi của tôn giáo mà mình theo. Khoản
1, Điều 9 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “Người có tín ngưỡng, tín
đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện
và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học
tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo” [2, tr. 12].


16

Công dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng không cản
trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc; hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo phải theo đúng quy định của pháp luật; không được lợi dụng tín

ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo không có nghĩa là hoạt động của tôn giáo
nằm ngoài khuôn khổ pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của nhân
dân; không có nghĩa là lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại cách mạng.
Đây là một quyền cơ bản của con người, cần phải được tôn trọng và bảo vệ
không chỉ trong Hiến pháp, pháp luật mà cả trong thực tiễn cuộc sống.
Hai là, người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng,
tôn giáo phải tôn trọng lẫn nhau; không ai được xâm phạm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Không ai có quyền bắt người khác phải từ bỏ
tín ngưỡng, tôn giáo mà họ đang theo, hoặc bắt người khác phải theo một tôn
giáo nào đó. Tín đồ và chức sắc các tôn giáo không tuyên truyền lôi kéo, công
kích, chống đối lẫn nhau. Mọi người đều phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của người khác, tôn trọng quyền theo tôn giáo và quyền không theo một
tôn giáo nào của người khác; nghiêm cấm mọi biểu hiện lôi kéo áp đặt, vi
phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Khoản 2, Điều 9 Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo,
người có tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp
luật” [2, tr. 12].
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước không phân biệt
đối xử với một tôn giáo nào. Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không
có tín ngưỡng tôn giáo đều bình đẳng như nhau trước pháp luật, đều có nghĩa


17

vụ, trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Ba là, Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được Nhà nước bảo đảm bằng
pháp luật. Vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân là vi phạm
pháp luật, phải bị xử lý bằng pháp luật. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực
hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của
Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật
tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản
của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, hoạt động
mê tín dị đoan,... phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến các mối quan hệ xã
hội, nên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân nằm trong khuôn khổ
pháp luật. Vì vậy, Điều 8 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, một mặt, khẳng
định: “Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng; tôn giáo; vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân” [2, tr. 11]; mặt khác cũng
quy định phạm vi, giới hạn của quyền ấy: “Không được lợi dụng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích
động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái pháp luật,
chính sách của Nhà nước, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn
giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp
luật khác” [2, tr. 11].


18

1.2.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân
Việt Nam
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được xác lập, thực hiện

và phát triển phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế về kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội,... trong xã hội. Vì vậy, nó luôn phản ánh bản chất của chế độ
chính trị xã hội và trình độ phát triển của xã hội, thường xuyên biến đổi, phát
triển về nội dung và hình thức cùng với sự biến đổi, phát triển không ngừng
của chế độ chính trị - xã hội chủ nghĩa, chế độ nhân dân lao động làm chủ nhà
nước, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình và của xã hội nói chung trong
xu thế đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Từ nhận thức nêu trên,
có thể nêu lên một số đặc điểm cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân Việt Nam như sau:
Thứ nhất, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam gắn
với các quyền dân tộc cơ bản là độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn
lãnh thổ, trong đó giành được độc lập, tự do cho đất nước chính là điều kiện
để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Đặc điểm này
phản ánh tư tưởng cách mạng triệt để của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng
ta trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân chỉ có thể thực sự được đảm bảo khi cả dân tộc ta đã dành được quyền tự
do và độc lập. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không tách rời với vận mệnh
dân tộc, vận mệnh đất nước. Vì vậy, ngay sau khi nước nhà độc lập, trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ
đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta
tuyên bố tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” [21, tr. 9] .


19

Trong thời kỳ dân tộc ta bị thực dân Pháp thống trị, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định rằng, nếu đất nước không được độc lập, đồng bào các tôn
giáo cũng không có tự do, vì thế, đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc là

nguyện vọng thiết tha của mọi người dân Việt Nam, trong đó có đồng bào các
tôn giáo. Vào tháng 01-1946, khi nước ta đang đứng trước nguy cơ bị thực
dân Pháp xâm lược một lần nữa, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Nước không
được độc lập thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước
độc lập đã” (Theo báo Cứu quốc ngày 14-1-1946). Theo Hồ Chí Minh, chính
thực dân Pháp xâm lược đã tước đi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân và do đó, chúng sẽ thất bại. Trong thư gửi Hội Phật tử Việt Nam ngày 157 Âm lịch - 1947, Hồ Chí Minh cũng viết “Nước có độc lập thì đạo Phật mới
dễ mở mang” [21, tr. 197].
Có một điều đặc biệt là, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng vào sự thắng
lợi của dân tộc trong việc đấu tranh chống thực dân Pháp còn bởi do có “Đức
Chúa phù hộ”. Người viết: “Chúng ta toàn dân, giáo cũng như lương, đoàn
kết kháng chiến để Tổ quốc được độc lập, tôn giáo được tự do. Đức Chúa phù
hộ chúng ta, chúng ta chắc thắng lợi” [22, tr. 333]. Viết như vậy, không thể
xem Hồ Chí Minh là một người hữu thần, mà chính là Người đã quan tâm tới
việc củng cố thêm cho mối quan hệ hòa đồng với đồng bào có tôn giáo để
hướng tới mục tiêu tự do độc lập dân tộc. Trong thư “Gửi anh em văn hoá và
tri thức Nam bộ” ngày 25-9-1947, Người nói “Chính phủ cùng toàn thể đồng
bào Việt Nam kiên quyết chiến đấu, tranh quyền thống nhất và độc lập cho
nước nhà để cho văn hoá cũng như chính trị và kinh tế, tín ngưỡng, đạo đức
đều phát triển tự do. Từ ngày nước ta trở nên Dân chủ Cộng hoà, Hiến pháp ta
tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì Phật giáo cũng phát triển một cách thuận tiện.
Thế là: Nước có độc lập, thì đạo Phật mới dễ mở mang”.


20

Như vậy, việc giành thắng lợi cho sự nghiệp tự do độc lập của dân tộc
là mục tiêu cao nhất của lực lượng lãnh đạo cách mạng, đồng thời là của toàn
thể nhân dân ta, trong đó có đồng bào tôn giáo.
Với tư tưởng của Hồ Chí Minh về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo gắn

liền với nền tự do, độc lập của Tổ quốc là một tất yếu khách quan, vừa phản
ánh thực tế lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam và nhân dân
yêu chuộng độc lập, tự do trên thế giới, vừa phù hợp với các văn bản chính trị
- pháp lý quốc tế. Điều đó cũng nói lên quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
là: công dân thực sự được hưởng các quyền cơ bản của mình khi họ được
sống trong một nước độc lập, tự do, có chủ quyền dân tộc và toàn vẹn lãnh
thổ. Ngày nay, khi đất nước ta đã được tự do độc lập thì quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm hơn bao giờ hết. Đã có rất nhiều người có và
không có tôn giáo cho rằng, có lẽ chưa có thời kỳ nào mà hoạt động tôn giáo
ở nước ta lại được phát triển như ngày nay. Đó là việc tín đồ các tôn giáo gia
tăng, cơ sở thờ tự của các tôn giáo được sửa chữa, xây dựng mới rất khang
trang trên khắp mọi miền của Tổ quốc.
Thứ hai, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam luôn
được mở rộng, phát triển qua bốn bản Hiến pháp. Từ sau cách mạng Tháng
Tám năm 1945 đến nay, nước ta đã có bốn Hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980
và 1992). Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, quyền tự do tín ngưỡng
của công dân đã được xác lập: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín
ngưỡng” (Điều 10) [20, tr. 8]. Đến Hiến pháp năm 1959, quyền tự do tín
ngưỡng đã được tách thành một điều riêng với nội dung được quy định rõ hơn
so với Hiến pháp năm 1946:“Công dân nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà có
các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” (Điều
26) [20, tr. 35]. Hiến pháp năm 1980, tại Điều 68, ngoài quy định: “Công dân
có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” còn có


21

thêm nội dung “Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước” [20, tr. 90]. Hiến pháp năm 1992 bổ sung thêm 3
quy định mới là: “Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”, “Những nơi

thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ” và “Không ai
được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Những quy định mới này khẳng
định chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo.
Có thể nhận thấy rằng, ở mỗi Hiến pháp sau quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân không phải là sự sao chép lại các quy định của các
Hiến pháp trước, mà là sự kế thừa và phát triển trong điều kiện hoàn cảnh của
đất nước, nội hàm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng mở rộng
hơn và cũng cụ thể hơn. Việc mở rộng đó một mặt, phản ánh sự biến đổi và
phát triển đi lên của dân tộc và đất nước, gắn liền với tiến trình cách mạng
nước ta từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa và với sự phát triển không ngừng của Nhà nước Việt Nam kiểu mới - từ
Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà tới Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; mặt khác nói lên sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối
với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân.
Thứ ba, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân thuộc
trách nhiệm của Nhà nước, của toàn bộ hệ thống chính trị. Tín ngưỡng, tôn
giáo là một hiện tượng lịch sử xã hội, có nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội,
nhận thức và tâm lý, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và
diễn ra trên nhiều địa bàn. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta xác định: “Làm tốt
công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh
đạo” [10, tr. 50] .


22

Trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với công tác tôn giáo biểu
hiện: Trong lãnh đạo việc quản lý xã hội và điều hành đất nước, Đảng cộng
sản Việt Nam luôn quan tâm đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân

dân và có chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm bảo đảm quyền đó; Nhà
nước ban hành pháp luật, chính sách cụ thể để thể chế hoá quan điểm, chủ
trương của Đảng, có thái độ kiên quyết xử lý những phần tử xấu lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo chống pháp cách mạng; đồng thời có những giải pháp khả
thi để giải quyết phù hợp những nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân, như tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX và Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã xác định. Theo tinh
thần đó, bên cạnh việc xem xét giải quyết các vấn đề về hoạt động hợp pháp
của các tổ chức tôn giáo, Nhà nước kiên quyết xử lý đối với mọi hành vi lợi
dụng tôn giáo làm mất trật tự an toàn xã hội, gây tổn hại đến đạo đức lối sống,
văn hoá của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc tôn giáo thực hiện nghĩa vụ
công dân, phương hại đến độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn
dân, chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội
liên hiệp fhụ nữ, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam,… là
một bộ phận của hệ thống chính trị ở nước ta. Đây là tổ chức có vai trò quan
trọng, trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cho các tầng lớp nhân dân. Đây cũng là
lực lượng trực tiếp giáo dục tín đồ các tôn giáo chấp hành tốt các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều 7 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã
nêu rõ trách nhiệm của Mặt trận trong công tác tôn giáo đó là:
“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: a. Tập hợp đồng bào có tín


×