Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Tình hình áp dụng thuế GTGT trên thế giới và bài học kinh nghiệm từ những nước đã áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 35 trang )

ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

MỤC LỤC
Đề mục
Phần I
Phần II
1
2
3
II
1
2
3
4
Phần III
I
1
2
3
II
1
2
III
Phần IV
I
II
III
Phần V
I


II

Nội dung
Lời mở đầu
Những vấn đề chung về thuế GTGT
Khái niệm
Sự ra đời và phát triển của thuế GTGT
Tại sao lại chọn thuế GTGT
Nội dung chủ yếu của thuế GTGT
Xác định phạm vi áp dụng
Các hình thức thuế GTGT
Thuế suất
Quản lý thuế GTGT
Tình hình áp dụng thuế GTGT trên thế giới và bài học kinh nghiệm từ
những nước đã áp dụng.
Tình hình áp dụng thuế GTG T ở một số nước
Thuỵ Điển
Philipine
Trung Quốc
Một số nước kinh tế phát triển vẫn chưa áp dụng thuế GTGT
Hoa Kỳ
Australia
Bài học kinh nghiệm rút ra từ những nước đã áp dụng thuế GTGT.
Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT.
Những tồn tại của hệ thống thuế hiện hành
Sự cần thiế phải cải cách chính sách thuế
Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam
Đánh giá tình hình triển khai thực hiện thuế GTGT ổ Việt Nam
Những kết quả đạt được sau hơn 2 năm thực hiện
Những yếu tố thúc đẩy việc triển khai thực hiện thuế GTGT đạt được những

kết quả trên
Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện
Các biện pháp xử lý vướng mắc và phương hướng sắp tới

Số
trang
2
3
3
3
4
6
6
8
9
10
12

III
IV
Phần VI Kết luận

12
12
13
14
15
16
17
17

19
19
20
20
23
24
31
34
39
45

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là nguồn thu ổn định của Nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập quốc dân, thực hiện
điều tiết vĩ mô nền kinh tế và là công cụ bảo vệ kinh tế trong nước, cạnh tranh với nước ngồi.

NGUYỄN THU HỒNG

1

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Từ năm 1999 trở về trước, chúng ta đã sử dụng thành công cơ chế thuế cũ, tuy nhiên trong
tình hình mới , do xu hướng tồn cầu hoá chung của thế giới, cơ chế thuế hiện hành ở Việt Nam đã
lộ rõ một số mặt bất cập, dẫn đến khó khăn về quản lý, điều hành thuế và thất thu Ngân sách quốc
gia.

Vì vậy việc áp dụng một số luật thuế mới trong giai đoạn này là hết sức cần thiết. Trong đó
thuế giá trị gia tăng (GTGT) đã có những đóng góp quan trọng cho tiến trình cải cách chính sách
thuế của Nhà nước.
Trên thế giới, thuế GTGT (hay cịn gọi là VAT) đã có lịch sử lâu đời (bắt đầu xuất hiện năm
1917) và qua quá trình kiểm nghiệm ở nhiều nước trên thế giới, nó đã thể hiện được tính ưu việt của
mình so với các loại thuế tương đương. Mặc dù vậy một số nước cũng đã áp dụng không thành công
thuế GTGT do chưa chuẩn bị kỹ cơ sở hạ tầng cho một có chế thuế mới cũng như do chưa nắm bắt
rõ bản chất loại thuế này.
Chính vì vậy mục đích của đề án này là tìm hiểu bản chất của thuế GTGT, đánh giá tình hình
thực hiện ở Việt Nam trong những năm vừa qua và đề xuất những biện pháp xử lý thuế trong thời
gian tới nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống thuế ở Việt Nam.

NGUYỄN THU HỒNG

2

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

PHẦN II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA
TĂNG.
I./ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG (GTGT).
1./ Khái niệm.
Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hố, dịch vụ phát sinh trong
q trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
2./ Sự ra đời và phát triền của thuế GTGT.

Năm 1954 thuế GTGT lần đầu tiên ra đời tại Pháp dưới hình thức thuế đánh vào giai đoạn
sản xuất. Đến năm 1968, thuế này được nhập vào thuế lưu thông đánh vào dịch vụ và thuế địa
phương đánh vào lưu thông bán lẻ thành một loại thuế thống nhất chung thu ở giai đoạn bán lẻ (viết
tắt theo tiếng Pháp là TVA). Từ đó đến nay do tính ưu viết của mình, thuế GTGT ngày càng được sử
dụng rộng khắp ở nhiều nước trên thế giới. Thuế GTGT được sớm áp dụng ở Châu âu, chỉ hơn hai
mươi năm sau khi ra đời hình thức sơ khai đầu tiên, nó đã được coi là một trong những điều kiện
tiên quyết để gia nhập khối EC (năm 1977).
Tính đến năm 1995, trên thế giới có tới hơn 100 nước áp dụng thuế GTGT. Riêng Châu á kể
từ năm 80 trở lại đây đã có sự gia tăng vượt bậc về số lượng các thành viên sử dụng VAT. Đầu tiên
là Triều Tiên (1977), tiếp đến là Indonexia (1985), Đài Loan (1986), Philipine (1988), Mông Cổ
(1993), Trung Quốc (1994) và Việt Nam (1999).
Việc áp dụng một phương pháp tính thuế mới ở một quốc gia không phải là vấn đề đơn giản,
hệ thống thuế ảnh hưởng trực tiếp đến ngân sách và vấn đề phát triển kinh tế của quốc gia đó. Chính
vì vậy, khơng chỉ ở những nước đang phát triển mà ở một số nước kinh tế phát triển, do những quan
điểm khác nhau trong việc nghiên cứu nên quyết định áp dụng thuế GTGT kéo dài trong nhiều năm
như:
Nhật Bản đưa ra đề nghị áp dụng GTGT từ những năm 1955 đến năm 1986 nhưng tháng 4
năm 1989 mới thực hiện.
Newzeland: Phản đối kịch liệt thuế GTGT vào đầu những năm 80 nhưng đã ban hành
GTGT tháng 5 năm 1986.
NGUYỄN THU HỒNG

3

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


Hy Lạp đồng ý chuyển sang GTGT khi ra nhập EC năm 1981 với tư cách một thành viên
chính thức, nhưng đến tháng 1 năm 1987 mới ban hành GTGT.
Canada ban đầu cũng rất phản đối việc ban hành GTGT thay thế cho thuế bán lẻ đang được
lưu hành ở các bang song đến tháng 1 năm 1991, GTGT đã được ban hành.
Thuỵ Sỹ đã phản đối đề nghị ban hành GTGT thay thế cho bán lẻ hiện hành. Song tháng 1
năm 1995, Thuỵ Sỹ đã ban hành GTGT.
3./ Tại sao lại chọn thuế GTGT.
(1)

thuế GTGT ra đời là một chu cầu tất yếu đối với nền kinh tế khi cơ cấu thuế cũ khơng

cịn đáp ứng được nhu cầu trong tình hình mới. Nói chung các u cầu đó có thế chia thành bốn
dạng sau:
Thứ nhất: Thuế doanh thu hiện hành không đáp ứng được yêu cầu thu và quản lý, có nhiều
bất hợp lý (như trùng lặp, quá phức tạp gây tâm lý nặng nề, hiệu quả khơng cao).
Thứ hai: Do q trình tồn cầu hố đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, yêu cầu mở rộng lưu
thơng hàng hố giữa các nước địi hỏi bãi bỏ, giảm thuế ở cửa khẩu đối với xuất nhập khẩu hàng hố
là rất quan trọng, nó giúp kích thích các nghành sản xuất dịch vụ trong nước, khuyến khích xuất
khẩu những tiềm lực quốc gia và góp phần thúc đẩy những mặt hàng thiết yếu. Trong xu thế hiện
nay, khơng thể tồn tại nền kinh tế đóng, hoặc gần như đóng do những rào cản thuế quan bất hợp lý.
Thuế GTGT ra đời đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu trên.
Thứ ba: Tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và có điều kiện thu hẹp các loại thuế khác.
Đa số các cơ chế thuế hiện hành của các nước khi chưa áp dụng thuế GTGT đều cồng kềnh, phức
tạp và có nhiều sự chồng chéo, điều đó gây khó khăn cho việc quản lý thuế của Nhà nước (như tính
thuế, thu thuế, giải quyết các trường hợp quá hạn thuế, miễn thuế..) cũng như việc kinh doanh của
người dân. Tình trạng này dễ dàng gây ra tâm lý ngại thuế, tránh thuế làm thất thu cho Ngân sách
một khoản không nhỏ. Để giải quyết các vấn đề trên cần phải có một cơ chế thuế mới phù hợp và rõ
ràng đối với tất cả mọi người, và thuế GTGT là một giải pháp.
Thứ tư: Sự phát triển của kinh tế đòi hỏi sửa đổi hệ thống thuế cho phù hợp. Chúng ta đã biết

rằng mỗi một thời kỳ phát triển kinh tế cần phải có một hệ thống chính sách quản lý cho phù hợp,
khơng có một cơ chế nào dúng cho mọi lúc mọi nơi. Vấn đề quản lý thuế cũng khơng nằm ngồi quy
luật ấy.

NGUYỄN THU HỒNG

4

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

(2)

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Như vậy thuế GTGT ra đời trước hết để đáp ứng tình hình mới, sau một thời gian

được áp dụng và kiểm nghiệm, thuế GTGT được đại đa số các nước trên thế giới thừa nhận về
những ưu điểm nổi bật của nó ở các mặt sau:
a.

Khắc phục được một số mặt hạn chế của thuế doanh thu hiện hành. Có khả năng

mang lại nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Kinh nghiệm của các nước: Indonexia,
Newzeland, Bồ Đào Nha và Tuinidi đã chứng minh rõ điều này. Đại đa số các nước áp dụng thuế
GTGT, khoản thu từ số thuế này thường đảm bảo từ 12% đến 30% tổng số thu của Ngân sách Nhà
nước (tương đương khoảng 5% đến 10% tổng sản phẩm quốc dân).
b.


Tính trung lập: Với điều kiện số lượng đối tượng được miễn hạn chế và sự vận dụng

thuế suất 0% chỉ hạn chế đối với hoạt động xuất khẩu, GTGT là một thứ thuế trung lập và không
dẫn đến bất kỳ một sự méo mó nào. Điều này thể hiện tính ưu việt của thuế GTGT so với các loại
thuế được nó thay thế.
c.

Tính đơn giản: Tính đơn giản của thuế GTGT bắt nguồn từ cơ chế đánh thuế và

khấu trừ thuế của nó. Đối tượng nộp thuế GTGT sẽ thu số GTGT khi bán hàng và khấu trừ số thuế
GTGT đã nộp khi mua vật tư, hàng hoá đầu vào, số chênh lệch còn lại nộp vào Ngân sách Nhà nước.
(Việc tính thuế căn cứ vào các hố đơn bán hàng và mua hàng).

II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA THUẾ GTGT.
1./ Xác định phạm vi áp dụng.
Về đối tượng chịu thuế: GTGT là loại thuế đánh vào sử dụng, có nghĩa là đánh vào người
tiêu dùng, người nộp thuế là người kinh doanh, người chịu thuế là người tiêu dùng trực tiếp và gián
tiếp nộp thuế thông qua người kinh doanh.
Đối tượng nộp thuế: Tất cả các thể nhân và các pháp nhân có cung cấp hoặc nhập khẩu
hàng hố và dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Một số nước dùng doanh thu để giới hạn đối tượng nộp thuế. Ví dụ: Khơng phải là đối tượng
nộp GTGT, đối với các doanh nghiệp có mức doanh thu hàng năm thấp hơn:
+ 200.000 pê xô (Philipines).
+ 200.000 Sek (Thuỵ Điển).
+ 30.000 Can D (Canada).

NGUYỄN THU HỒNG

5


TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

+ 100.000 DDK (Đan Mạch).
+ 1.000.000 Sin D (Singapore).
+ 60.000 D (Indonexia).
Có nước áp dụng hình thức thu khoán đối với đối tượng kinh doanh vừa và nhỏ. Như vậy,
việc xác định đối tượng nộp thuế là để nhằm giới hạn đối tượng nộp thuế, loại trừ bớt số lượng lớn
về quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ.
Trong giai đoạn chuyển đổi từ thuế doanh thu sang áp dụng GTGT, thường có ba hình thức
triển khai áp dụng GTGT.
Hình thức thứ nhất: áp dụng GTGT tồn bộ, có nghĩa là áp dụng đối với các đối tượng nộp
thuế hoạt động ở tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, buôn bán và bán lẻ. Điển hình áp dụng
hình thức này là các nước: Thuỵ Điển, Pháp, Thái Lan, Hungari.
Hình thức thứ hai: áp dụng GTGT từng phần, tức là áp dụng đến từng khâu của q trình
ln chuyển sản phẩm hàng hố. Ví dụ: Indonexia, Nhà nước ban hành đạo luật từ năm 1983, nhưng
do trình độ quản lý của cán bộ nghành thuế và nhận thức của người nộp thuế nên đến năm 1985, đạo
luật thuế mới được thi hành và thực hiện theo từng bước như sau:
+ Năm 1985: Đối tượng nộp thuế là những người sản xuất.
+ Năm 1989: Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các đại lý bán buôn.
+ Năm 1993: Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các cửa hàng bán lẻ.
Hình thức thứ ba: Thực hiện thí điểm GTGT đối với một số nghành. Điển hình áp dụng hình
thức này là Trung Quốc. GTGT được ban hành và thực hiện thí điểm từ năm 1980 đến 18/9/1994
được ban hành chính thức. Bước thí điểm chỉ áp dụng với các sản phẩm: xe đạp, quạt điện, kim khí,
máy móc thiết bị, phụ tùng, động cơ, thép. Năm 1986 mở rộng diện đối với các sản phẩm cơng

nghiệp nhẹ, vật liệu xây dựng, khống sản kim loại.
Qua tổng kết đánh giá của các nước, trong ba hình thức tiến hành GTGT, hình thức tồn bộ
là hiệu quả nhất. Tuy nhiên, hình thức này địi hỏi phải có sự chuẩn bị rất đầy đủ về luật, các văn
bản hướng dẫn luật, trình độ hiểu biết của người nộp thuế, trình độ quản lý của từng cơ quan thuế,
chứng từ hố đơn, ý thức chấp hành luật...
Hình thức áp dụng GTGT ở từng khâu kết quả bị hạn chế, cịn hình thức áp dụng thí điểm ở

NGUYỄN THU HỒNG

6

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

phạm vi hẹp, ở một số ngành là khơng đem lại kết quả.
2./ Các hình thức tính thuế GTGT.
ở các nước đã thực hiện GTGT hiện nay áp dụng một trong hai phương pháp khấu trừ theo
hoá đơn và phương pháp tính chênh lệch theo báo cáo kế toán.
a./ Phương pháp khấu trừ theo hoá đơn:
Đây là phương pháp được hầu hết các nước áp dụng do: Tính thuế dựa vào hố đơn đảm bảo
xác định thuế có cơ sở để kiểm tra thuế. Có thể áp dụng chính sách thuế với nhiều thuế suất (nếu thu
thuế theo chênh lệch chỉ có thể áp dụng một thuế suất). Có thể tính GTGT thu thuế theo thời gian ấn
định một tháng, hai tháng hay một quí.
b./ Phương pháp thu GTGT trên chênh lệch theo báo cáo kế toán:
Phương pháp này xác định thuế phải dựa trên số liệu báo cáo kế toán của đơn vị áp dụng
phương pháp này sẽ có những vấn đề sau:

Thứ nhất: Các xí nghiệp coi GTGT chỉ là thuế bổ xung đánh vào lợi nhuận, cịn các nhân
viên của họ thì coi đó là lại thêm một thứ thuế nữa đánh vào quĩ tiền lương.
Thứ hai: Báo cáo chỉ kêt thúc một lần trong năm, vậy là tất cả các khoản thanh toán GTGT
phải dựa vào kết tốn năm.
Thứ ba: Khó kiểm tra thuế phải nộp từng kỳ so với phương pháp sử dụng hố đơn và khơng
có cơ sở để tiến hành các cuộc kiểm tra chéo thuế giữa đơn vị mua và bán.
Mơ hình GTGT Nhật Bản được sử dụng theo phương pháp này (1/4/1989): Thu GTGT trên
cơ sở báo cáo kế toán với một thuế suất là 3% và đã quyết định điều chỉnh lên 5% để thi hành từ
tháng 4/1997. Nhật Bản khơng phát hành hố đơn áp dụng riêng đối với thuế GTGT vì các doanh
nghiệp phản ứng, theo phương pháp tính thuế hiện hành các doanh nghiệp tự tính và nộp thuế. Các
doanh nghiệp nhỏ khơng phải nộp thuế GTGT.
3. Thuế suất.
Thông thường, để đạt được số thu tương đương so với số thu hiện hành của thuế doanh thu
mà nó thay thế, GTGT phải có mức thuế suất cao hơn (thường là gấp ba lần thuế suất doanh thu). Vì
GTGT chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của hàng hoá hay sản phẩm qua mỗi lần luân chuyển hàng hoá
(danh mục các nước áp dụng thuế GTGT và thuế suất GTGT).

NGUYỄN THU HỒNG

7

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Có hai cơ chế thuế suất được áp dụng:
+ Cơ chế một thuế suất (không kể thuế suất 0% áp dụng với xuất khẩu và một số mặt hàng

thiết yếu (nếu có). Trong số 100 nước thì có 44 nước áp dụng GTGT với cơ chế một thuế suất, trong
đó Đan Mạch là một nước có mức thuế suất cao nhất (32%). Nhật, Singapore la nước có mức thuế
suất thấp nhất (3%).
+ Cơ chế nhiều thuế suất (không kể thuế suất 0%).
Trong số các nước còn lại áp dụng GTGT với có chế nhiều thuế suất thì số lượng thuế suất
giao động từ 2 đến 5 (trường hợp Colombia 5 thuế suất). Thuế suất thấp nhât la 1% (Bỉ, Thổ Nhĩ
Kỳ), 2% (Nam Triều Tiên) và thuế suất cao nhất là 50% (Senegal), 45% (Trung Quốc), 38% (ý) và
36% (Hy Lạp). Phần lớn các nước áp dụng cơ chế ba thuế suất. Chỉ có một số nước áp dụng 4 và 5
thuế suất: Bỉ- Colombia.
Mơ hình thuế suất của khối EC: Qui định ngoài thuế suất 0% áp dụng cho xuất khẩu, hệ
thống thuế suất chỉ gồm 2 thuế suất: Một mức thuế suất thấp nhưng không thấp hơn 5%; Một mức
thuế suất cao thường hơn 15%.
Qui định về thuế suất 0% và miễn thuế: thuế suất 0% được áp dụng trong đại đa số các nước
chủ yếu đối với hoạt động xuất khẩu. Đối tượng áp dụng thuế suất 0% tức là được thoái trả lại số
GTGT đã chịu trên hàng đầu vào, biện phấ này được đánh giá là hữu hiệu nhất đối với việc xuất
khẩu.
Một số nước áp dụng thuế suất 0% đối với các mặt hàng và dịch vụ khác nhau như Thuỵ
Điển (đối với báo chí xuất bản hàng ngày, xang máy bay phản lực), Canada (đối với lương thực thực
Đan Mạch và Trung Quốc khơng sử dụng

phẩm, các dịch vụ tài chính quốc tế.
thuế suất 0%.

Miễn thuế (không áp dụng) GTGT: Các đối tượng được miễn thuế khác với các đối tượng
được hưởng thuế suất 0% ở chỗ họ khơng có quyền khấu trừ đầu vào thuế đầu vào đã nộp. Qui định
miễn chịu thuế có thể xuất phát từ nhiều lý do: Về kinh tế, xã hội, về tránh sự đánh thuế chồng chéo,
về kỹ thuật: khó xác định giá trị tăng thêm như: Các dịch vụ về tài chính tín dụng, dịch vụ vận tải
quốc tế về hàng không, đường sắt.
Ví dụ : Thuỵ Điển qui định 29 mặt hàng và dịch vụ được miễn chịu thuế.
Đan Mạch qui định 14 mặt hàng và dịch vụ được miễn chịu thuế.


NGUYỄN THU HỒNG

8

Đức

qui

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

định 5 mặt hàng và dịch vụ được miễn chịu thuế.
4./ Quản lý GTGT.
Đăng ký thuế: Các đối tượng nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ đầu tiên là đăng ký thuế tại cơ
quan thuế địa phưong nơi đặt cơ quan điều hành thường trú của mình theo mẫu thống nhất do cơ
quan thuế cung cấp. Một số nước sử dụng mã số đăng ký thuế cũ (thuế doanh thu) và thêm vào đuôi
của dãy số đăng ký một số bổ xung để chỉ rõ là số đăng ký GTGT. Riêng Nhật Bản không sử dụng
hệ thống mã hố số đăng ký trong cơng tác quản lý GTGT.
Nộp thuế: Đa số các nước áp dụng GTGT thực hiện nộp thuế theo cơ chế tự kê khai tính và
nộp thuế theo mẫu in sẵn do cơ quan thực hiện cung cấp. Nộp tờ khai và thanh toán thuế theo định
kỳ hàng tháng, quí (tuỳ theo chế độ nộp thuế qui định cho từng loại đối tượng).
Việc thoái thuế: Phần lớn được giao cho cơ quan thu thuế, trong trường hợp số thuế được
khấu trừ lớn (xuất khẩu hàng hoá hoặc mua sắm tài sản giá trị lớn, đối tượng kinh doanh có quyền
kê khai đề nghị cơ quan thuế thoái trả số tiền đã trả khâu trước. Cơ quan thuế kiểm tra và thoái trả
tiền thuế đã trả ngay một lần hoặc thoái trả dần trong một thời gian tuỳ theo qui định của từng nước

và khả năng ngân sách mỗi nước. Theo cách này cơ quan thuế thường có một tài khoản thu GTGT
và sử dụng nguồn thu để thối thuế, khoản cịn lại nộp vào Ngân sách Nhà nước.
Việc khấu trừ thuế GTGT: Các nước áp dụng khấu trừ theo hoá đơn đầu vào và cho khấu trừ
tồn bộ số phát sinh từng kỳ, khi tính thuế GTGT phải nộp. Hầu hết các nước cho áp dụng khấu trừ
thuế đầu vào của tài sản cố định nhằm khuyến khích đầu tư, cũng có nước khơng cho áp dụng như
Trung Quốc.

NGUYỄN THU HỒNG

9

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

PHẦN III. TÌNH HÌNH ÁP DỤNG THUẾ GTGT TRÊN THẾ
GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ NHỮNG NƯỚC ĐÃ ÁP
DỤNG.
I./ TÌNH HÌNH ÁP DỤNG THUẾ GTGT Ở MỘT SỐ NƯỚC.
1./ Thuỵ Điển: Là một nước đi đầu trong việc áp dụng thuế GTGT (1969). Trước khi thực
hiện GTGT, Thuỵ Điển đã thực hiện cơ chế thuế doanh thu với một thuế suất 10% áp dụng chủ yếu
đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế. Mục tiêu của sự chuyển đổi là khuyến khích hàng xuất khẩu và
thực hiện hồn thuế đối với hoạt động xuất khẩu.
Q trình chuyển đổi thuế ở Thuỵ Điển được tiến hành qua hai giai đoạn:
-

Mùa xn năm 1968 Bộ Tài Chính giải trình trước Quốc hội và các doanh nghiệp về


kế hoạch, nội dung chuyển đổi cơ chế nộp thuế.
-

Mùa thu năm 1968 được Quốc hội thông qua và ban hành năm 1969 với những nội

dung cơ bản:
Thứ nhất: Các đối tượng nộp thuế doanh thu đều chuyển sang nộp GTGT. Thời kỳ đó có
160.000 đối tượng nộp thuế doanh thu. Các dịch vụ khơng phải nộp thuế, 200.000 hộ nơng dân năm
ngồi cơ chế GTGT.
Thứ hai: áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế nộp khâu trước.
Thứ ba: Thuế suất lúc đầu áp dụng một mức thuế là 10% như thuế doanh thu nhưng do cơ
chế khấu trừ nên làm giảm số thuế GTGT. Để bù đắp nguồn thu, Thuỵ Điển đã tăng phí bảo hiểm
1% trên tổng quĩ lương. Trong quá trình thực hiện Thuỵ Điển cũng đã điều chỉnh thuế suất và bổ
sung thêm mức thuế vào.
Thứ tư: Đối với những đầu tư trang thiết bị, máy móc khi thực hiện GTGT cung được khấu
trừ.
Thứ năm: Khơng qui định cho miễn giảm GTGT vì khơng thể dùng chính sách thuế GTGT
để trợ cấp.

NGUYỄN THU HỒNG

10

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


2./ Philipines: Khi Chính phủ mới ra đời (tháng 12 năm 1986) việc cải cách sửa đổi hệ thống
thuế là việc làm trước tiên của nước này. Chương trình thuế năm 1986 bao gồm 29 khâu cải cách
phải tiến hành và đã được soạn thảo. Một trong những cải cách về cơ cấu đưa ra trong chương trình
là ban hành thuế GTGT. Được thể chế hoábăng Lệnh số 273, có hiệu lực thi hành từ 1/1/1988. Như
vậy, để ban hành thuế GTGT, Philipines đã trải qua quá trình nghiên cứu và chuẩn bị.
Ngày 1/1/1988, Philipines bắt đầu thực hiện GTGT. Có thể tóm tắt ở mấy điểm sau:
-

Thuế GTGT được xây dựng dể hợp lý hoá hệ thống đánh thuế hàng hoá và dịch vụ

chịu thuế, để đơn giản hoá việc quản lý thuế và làm cho hệ thống thuế Philipines công băng hơn.
-

Thuế GTGT được áp dụng trên diện rộng hàng hoá và một số dịch vụ, trên từng hoạt

động bán hay nhập khẩu những hàng hoá dịch vụ đó.
-

Thuế suất qui định một mức là 10% đánh trên tổng giá bán hay tổng số tiền nhận

được từ bán hàng hoá hay dịch vụ, thay cho thuế doanh thu đối với người sản xuất gồm 4 thuế suất:
0%, 10%, 20%, 30%, thuế trên dịch vụ: 15 thuế suất từ 0% đến 30%. Tuy nhiên, có miễn thuế đối
với một số hoạt động kinh doanh được áp dụng để khuyến khích một số hoạt động như sản xuất
nơng sản, giảm bớt ảnh hưởng đến giá cả một số mặt hàng như dầu lửa, và để đơn giản việc quản lý
thuế đối với doanh nghiệp nhẹ và các dịch vụ tài chính.
-

Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hố xuất khẩu.


-

áp dụng tính thuế theo phương pháp khấu trừ và cho khấu trừ đối với tài sản dùng

trong thương mại hoặc kinh doanh.
Kết quả thu thuế GTGT của Philipines được biểu hiện qua ba năm (bảng kèm theo) đã cho
thấy tỉ lệ về số thu VAT so với số thu CP, GDP, GNP đều tăng sau 10 và 20 năm áp dụng cơ chế
thuế mới.
Năm

1988
1989
1990

Số thu
từ VAT

Số thu
từ thuế

Số thu
của CP

GDP

GNP

1
13
20

12

2
90
122
69

3
113
154
79

4
826
964
527

5
823
961
527

% số thu
VAT/số
thu thuế
1/2
14,5
16,7
17,1


% số thu
VAT/số
thu CP
1/3
11,8
13,3
14,8

Số thu
Số thu
VAT/G VAT/G
DP
NP
1/4
1/5
1,6
1,6
2,1
2,1
2,2
2,2

3./ Trung Quốc: Là nước có chủ trương nghiên cứu ban hành thuế GTGT từ năm 1980, sau

NGUYỄN THU HỒNG

11

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D



ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

4 năm nghiên cứu, ngày 18/9/1984 chính thức ban hành. Trung Quốc đã tiến hành theo phương pháp
thí điểm. Sau đây đề cập một số nhận xét của chuyên gia thuế Trung Quốc từ 28/6 đến 12/7/1993 do
đồng chí Trần Xuân Thắng - Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê dẫn đầu).
Chương trình thí điểm về thuế GTGT ở Trung Quốc đã gặp nhiều vướng mắc do các nguyên
nhân chủ yếu:
a.

Chưa chuẩn bị kỹ về chế độ hướng dẫn thực hiện và xử lý các trường hợp vướng mắc

b.

GTGT chỉ thực hiện cho một số sản phẩm ở khâu sản xuất, chưa thực hiện ở khâu lưu

thực tế.

thông, dịch vụ, vì vậy, trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn vướng mắc, khơng xử lý triệt
để, chính xác, chưa đạt được mục đích của GTGT là khắc phục triệt để thu thuế trùng lặp.
Bên cạnh đó, GTGT của Trung Quốc có quá nhiều thuế suất, mức chênh lệch giữa các thuế
suất cao từ 43% đến 12%. Vì vậy, khi thực hiện khấu trừ thuế phức tạp, căn cứ khơng chính xác, gây
ra vận dụng tuỳ tiện, khơng kiểm soát được chặt chẽ việc khấu trừ tiền thuế ở cơ quan cấp dưới.
Để khắc phục tình trạng này, đảm bảo thẹc hiện đơn giản, dễ kiểm soát, hiện nay Trung
Quốc thực hiện khoán mức khấu trừ thuế cho các sản phẩm đầu vào, bước đầu có nhiều mức, nay
thực hiện thống nhất một mức 7%.
Do thu theo phương pháp khấu trừ chung cho một mức thoát ly hoá đơn, nên phạm vi khấu
trừ thuế rộng thực tế có khi thuế thu thấp vì trong số thuế được khấu trừ có phần thuế chưa được tính

nộp Ngân sách.
Một trong những điều kiện tiên đề để thực hiện thành công GTGT là thực hiện cơ chế giá thị
trường. Nhưng hiện nay Nhà nước Trung Quốc vẫn quản lý giá hơn 100 mặt hàng, vì vậy, quá trình
thực hiện GTGT của Trung Quốc gặp khó khăn.
Thực hiện GTGT ở khâu sản xuất của Trung Quốc gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Để việc
quản lý, thực hiện GTGT có hiệu quả, Trung Quốc phân ra từng đối tượng để có biện pháp thu thuế:
Xí nghiệp qui mơ nhỏ thu khốn, Xí nghiệp có qui mơ lớn và vừa thu căn cứ vào sổ sách kế toán.
Thực tế hiện nay GTGT chỉ áp dụng trong các xí nghiệp quốc doanh.
II./ MỘT SỐ NƯỚC KINH TẾ PHÁT TRIỂN VẪN CHƯA ÁP DỤNG THUẾ GTGT.
Cho dù GTGT là một loại thuế có nhiều ưu điểm nhưng cho đến nay có một sơ nước kinh tế

NGUYỄN THU HỒNG

12

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

phát triển chưa áp dụng. Chúng ta sẽ nghiên cứu những nguyên nhân của vấn đề trên thông qua phân
tích tình hình hai nước đại biểu là Mỹ và Austraylia

Hoa Kỳ (Mỹ): Là một nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới. Một cường quốc có
ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều lĩnh vực trên thế giới, tuy nhiên, cho đến nay Mỹ vẫn chưa chấp nhận
GTGT. Vì vậy đau là những lý do ngăn cản con đường GTGT xâm nhập vào Mỹ?
Về cơ bản Mỹ thoả mãn với hệ thống thuế doanh thu khâu bán lẻ cấp bang và liên bang hiện
hành. Thuế suất doanh thu bán lẻ cấp bang tương đối thấp, trung bình khoảng 4,6%, diện đánh thuế

cũng tương đối hạn chế. Ví dụ: ở Mỹ có 29 bang khơng đánh thuế lương thực thực phẩm, 25 bang
miễn thuế cho hầu hết các dịch vụ. Cơ chế thuế hiện hành của Mỹ không gây trở ngại lắm cho hoạt
động sản xuất dịch vụ trong nước. Chính vì vậy, nước Mỹ chưa thực sự có nhu cầu về một cơ chế
thuế mới.
Tuy nhiên, Mỹ cũng đã quan tâm đến GTGT trong thời gian tương đối dài (20 năm qua), và
trong cuộc tranh luận gần đây, các chuyên gia đã nêu ra một số lý do để Mỹ ban hanh GTGT là:
-

GTGT sẽ thay thế 1 phần thuế đánh trên quĩ lương (bảo hiễm xã hội) (52 tỷ USD).

-

GTGT se thay thế 1 phần thuế thu nhập công ty (28 tỷ USD).

-

Một lý do nữa được đưa ra năm 1983 là GTGT cịn có thể tài trợ cho quốc phòng

(thực tế là để tăng số thu cho Ngân sách).
Năm 1984, một sự thảo nữa được đưa ra với ý đồ dùng GTGT để thay thế cho thuế thu nhập
cá nhân, thuế thu nhập công ty và thuế thừa kế, thuế suất GTGT là 15%. GTGT sẽ là động lực tạo
nguồn thu chủ yếu cho Ngân sách. Năm 1985, Mỹ đưa ra một dự thảo về mơ hình GTGT nữa, áp
dụng theo phương án trực tiếp.
Nói chung, các phương án đưa ra nhằmban hành GTGT cuối cùng cũng chỉ là để tăng số thu
cho Ngân sách. Dù vậy các Nghị sĩ đã bác bỏ việc ban hành GTGT với nhứng lý do chủ yếu sau:
a.

Lo sợ về tính luỹ thối của GTGT.

b.


Lo lắng về việc GTGT gây lạm phát.

NGUYỄN THU HỒNG

13

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

c.

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Cán bộ thuế bang và quận (địa phương) lo sợ về việc ban hành GTGT sẽ xâm phạm

đến nguồn thu của họ.
d.

Cả cơ quan thuế bang và liên bang đều lo ngại việc áp dụng GTGT sẽ tác động về

phương diện quản lý.
Autralia: Autralia cũng là một trong những nước OECD đến nay chưa chấp nhận GTGT vì
một số lý do như sau:
a.

Lo sợ về chi phí quản lý cao.


b.

Lo sợ về khả năng trốn thuế tăng.

c.

Những yêu cầu về hồn thuế khai tăng thêm có thể là một lỗ hổng cũng nghiêm trọng

tương đương như lập hoá đơn sai.
d.

Chi phí cho việc cưỡng chế thuế tăng. Lo sợ về tính luỹ thối.

Như vậy, những lý do chủ yếu của việc chưa ban hành thuế GTGT ở Mỹ và Autralia là các
lý do mang màu sắc chính trị chứ không phải về kinh tế, do đặc thù của các nước đó (quan hệ liên
bang và bang đang ổn định, họ khơng muốn có sự xáo trộn đễ dàng gây nên tình hình mất ổn định
chung).
III./ BÀI HOC KINH NGHIỂMUT RA TỪ CÁC NƯỚC ĐÃ TÍNH THUẾ GTGT.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước áp dụng GTGT cà hội thoả, trao đổi kinh nghiệm
với các chuyên gia thuế GTGT của các tổ chức quốc tế và một số nước có thể rut ra một số bài học
kinh nghiệm như sau:
1.

Thuế GTGT là một loại thuế có nhiều ưu điểm cần nghiên cứu áp dụng nhằm góp

phần thúc dẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển theo cơ chế thị trường, mở rộng kinh tế đối
ngoại, tạo nguồn thu ổn định và phát triển cho Ngân sách quốc gia. Nhưng khơng thể và khơng nên
áp dụng thí điểm thuế GTGT trong phạm vi hẹp ở một số nghành và một số đơn vị.
2.


Nội dung chính sách thuế GTGT ban hành phải được nghiên cứu kỹ, qui định cụ thể

làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện được rõ ràng, thống nhất. Phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản
của thuế GTGT với sự vận dụng và qui định phù hợp với từng nước.
-

Củng cố chế độ hoá đơn, chứng từ, hạch tốn, kế tốn, nhưng khơng thể đợi đến lúc

thực hiện đầy đủ hoá đơn chứng từ mới áp dụng GTGT, vì việc áp dụng GTGT cũng thúc đẩy việc

NGUYỄN THU HỒNG

14

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

sử dụng hoá đơn chứng từ.
-

Cần làm tốt công tác tuyên truyền và hướng dẫn chế độ thuế này để mọi đối tượng,

mọi người đều hiểu và thực hiện đúng.
-

Công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý thuế GTGT cho cán bộ thuế phải được


quan tâm và chuẩn bị trưóc.
-

Phải từng bước hiện đại hố trang thiết bị cơng cụ quản lý thuế, trong đó trang bị hệ

thống máy vi tính là quan trọng để nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý thuế nói chung, và thuế
GTGT nói riêng.
-

Đồng thời với việc ban hành thuế GTGT cần sửa đổi hệ thống thuế đồng bộ nhằm

xác định rõ phạm vi , mục tiêu điều chỉnh của từng loại thuế (thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB...).
Mức thuế và chính sách thuế cần có tính ổn định khơng nên thay đổi luôn.
-

Cần nhận thức đúng và đầy đủ tác động có thể xẩy ra trong giai đoạn đầu áp dụng

GTGT để có phương án xử lý, trong đó vấn đề điều hành Ngân sách, quản lý giá cả là vấn đề quan
trọng.

PHẦN IV. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG THUẾ GTGT.
I./ NHỮNG TỒN TẠI CỦA HÊN THỐNG THUẾ HIỆN HÀNH.
Trong q trình thực hiện, hệ thống chính sách thuế hiện hành đã được sửa đổi, bổ xung
nhiều lần đáp ứng yếu cầu của tình hình thực tế. Nhưng cho đến nay, nền kinh tế nước ta đã có
những bước phát triển theo cơ chế thị trường, khu vực kinh tế Nhà nước được sắp xếp tổ chức lại,
bước đầu hoạt động có hiệu quả; khu vực kinh tế ngồi quốc doanh phát triển đa dạng dưới nhiều
hình thức, các xí nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam ngày càng tăng. Chính
trong bối cảnh này, hệ thống chính sác thuế đã bộc lộ những khuyếm khuyết về các mặt:
-


Chưa bao quát hết các nguồn thu đã, đang và sẽ phát sinh trong nền kinh tế thị trường

như: lãi cổ phần, lãi tiền gửi, thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần, thu nhập từ chuyển nhượng tài
sản; chưa bao quát hết các hoạt động dich vụ.
-

Trong mỗi loại thuế phải cùng một lúc vừa thực hiện mụctiêu bảo đảm nguồn thu cho

Ngân sách Nhà nước và thực hiện mục tiêu nhiều chính sách khác, do đó, làm cho nội dung chính
sách thuế phức tạp, gây khó khăn trong q trình thực hiện cả đối với cán bộ thuế cũng như đối
tượng nộp thuế.
NGUYỄN THU HỒNG

15

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

-

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Về mặt kỹ thuật, hệ thống thuế hiện hành cũng như trong từng sắc thuế còn quá phức

tạp, trùng lặp, nhất là thuế doanh thu, nên hiệu quả chưa cao, cịn gây tâm lí chồng chéo nặng nề.
-


Trong chính sách cịn có những điểm chưa phù hợp với thơng lệ quốc tế, do đó, có

thêt trở thành những cản trở trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu
vực và trên thế giới (đặc biệt là chính sách thuế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài cũng như trong
nước.

II./ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CẢI CÁCH HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THUẾ.
Những thành tựu đã đạt được trong 10 năm đổi mới đã tạp tiền đề đưa kinh tế nước ta sang
một giai đoạn cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước, đồng thời ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác
kinh tế với các nước trong khu vực trong nước và trên thế giới. Phương hướng phát triển kinh tế với
các nước trong kỳ 1996 - 2000 như nới trên đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế mở rộng hợp tác trong
thời gian tới. Vì vậy cải cách thuế là một điều tất yếu nhằm mục đích:
Thứ nhất: Khắc phục những nhược điểm của hệ thống thuế hiện hành, tạo sự thích ứng của
nó trong cơ chế thị trường, bảo đảm yêu cầu động viên vào Ngân sách mà Đại hội lần thứ VII của
Đảng đã đề ra cho những năm tới: ;àm cho thuế thực sự là một công cụ có hiệu lực của Nhà nước
trong giai đoạn mới, thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước theo hướng
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
Thứ hai: Làm cho hệ thống chính sách thuế cũng như từng sắc thuế tiến tới những yếu tố
tương đồng với thuée các nước và phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp
tác, giao lưu kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới.
III./ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước. Hoạt động cà vận hành của thị trường chưa thật linh hoạt, nhiều doanh
nghiệp có trình độ cơng nghệ, kỹ thuật cũng như trình độ quản lý thấp, năng suất lao động thấp, khả
năng cạnh tranh kém, chưa thích nghi và điều chỉnh nhanh nhạy để phù hợp với chính sách kinh tế
mới. Vì vậy việc áp dụng thuế GTGT trong giai đoạn này là hết sức cần thiết. Thuế GTGT có những
ưu điểm nổi bật có thể khắc phục được phần nào khó khăn khi thực hiện luật thuế cũ:
Thứ nhất: Thuế GTGT có thể khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là không thu
NGUYỄN THU HỒNG


16

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

trùng lắp thuế nên có tác động tích cực đối với sản xuất dịch vụ. Đồng thời việc thực hiện thuế
GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệpcòn đòi hỏi các doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế
phải tăng cường quản lý như: ghi chép ban đầu, mở sổ sách kế toán và mua, bán hàng hố có hố
đơn chứng từ, đổi mới cơng nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trong tình
hình mới.
Về lưu thơng hàng hố, tuy trong bối cảnh nền kinh tế giảm phát kéo dài, nhưng vì thuế
GTGT chỉ điều tiết trong phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên sẽ thúc đẩy việc lưư
thơng hàng hố thuận lợi.
Thứ hai: Thuế GTGT sẽ khuến khích đầu tư trong nước, mở rộng quy mơ sản xuất, kinh
doanh, đổi mới công nghệ hiện đại. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định,
toàn bộ số thuế GTGT phải trả lại khi mua sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc
hoàn lại cho doanh nghiệp. Đồng thởitong quá trình trực hiện, Chính phủ cịn có những biện pháp
khuyến khích thêm như đối với những cơng trình, hạng mục cơng trình đã hồn thành bàn giao.
Năm 1998 sang năm 1999 mới thanh tốn thì được nộp thuế theo mức thuế như cũ. Từ
01/09/1999 đã giảm 50% mức thuế GTGT cho xây dựng, lắp đặt. Nhờ đó số vốn đầu tư sẽ tăng lên.
Thứ ba: Thuế GTGT sẽ góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm hàng hố, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, giải quyết nhu cầu
ngày càng tăng của xã hội.
Thuật thuế GTGT qui định hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế xuất 0% và được hoàn thuế
GTGT đầu vào nên đã khuyến khích xuất khẩu và tạo điều kiện để hàng hố Việt Nam có thể cạnh
tranh về giá cả so với hàng hoá tương tự của các nước trên thị trường quốc tế.

Thứ tư: Việc thực hiện thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu sẽ góp phần bảo hộ hàng hố
sản xuất trong nước. Kết hợp với cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hố năm 1999, thuế GTGT
sẽ góp phần hạn chế tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng cao cấp từ nước ngoài, thực hiện tiết kiệm cho
sản xuất. Đối với vật tư, nguyên vật liệu nhập khẩu vẫn thực hiện thu thuế GTGT khi hàng nhập về,
nhưng đã có xem xét điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu để ổn định sản xuất trong nước.
Thư năm: Thuế GTGT cịn góp phần cơ cấu lại nền kinh tế từ sản xuất thay thế nhập khẩu
chuyển mạnh sang sản xuất hướng xuất khẩu. Thuế GTGT sẽ khuyến khích việc sản xuất, xuất khẩu
những mặt hàng nước ta có thế mạnh như nơng sản, lâm sản, thuỷ sản... bằng các qui định cụ thể

NGUYỄN THU HỒNG

17

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

như không thu thuế GTGT đối với hàng do người sản xuất bán ra, cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào
đối với các cơ sở chế biến, thương mại mua các mặt hàng, hoàn thuế đầu vào cho các cơ sở xuất
khẩu các mặt hàng này nếu có hố đơn GTGT đầu vào...
Thứ sáu: Thuế GTGT khơng làm tăng giá cả hàng hố. Bản chất thuế GTGT khơng làm tăng
giá vì nó thay thế thuế doanh thu đã được kết cấu vào trong giá. Điều này cũng đòi hỏi các Bộ,
Nghành địa phương phải có biện pháp quản lý hướng dẫn kịp thời và đúng đắn việc thực hiện thuế
GTGT. Tránh tình trạng một số doanh nghiệp hay hộ kinh doanh chưa hiểu rõ, có thể sẽ cộng thêm
thuế vào giá cũ để bán làm giá cả hàng hố tăng thêm.

PHẦN V. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN

THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM.
Thực hiện chương trình cải cách thuế bước II, Quốc hội đã thông qua hai luật thuế mới: Luật
thuế Giá trị gia tăng (thuế gián thu), Luật thuế thu nhập (thuế trực thu) và sửa đổi bổ xung Luật thuế
tiêu thụ đặc biệt: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Đồng thời sửa đổi, bổ xung các luật thuế có
liên quan như: Luật Nhân sách, Luật khuyến khích đầu tư trong nước...để thực hiện đồng bộ các luật
thuế mới.
Với nhận thức rằng việc triển khai thực hiện các Luật thuế mới được thi hành từ 01/01/1999,
có tác động nhiều mặt đến tình hình kinh tế xã hội, nên thời gian đầu không tránh khỏi những khó
khăn và lại càng khó khăn hơn khi kinh tế nước ta đang bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ trong khu vực, thiên tai lại liên tiếp sảy ra.
Ba yêu cầu phải đạt được khi thực hiện triển khai các luật thuế mới:
-

Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các hộ kinh

doanh trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp ổn định được hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng
cường hạch toán kinh tế, nâng cao năng lực quản lý, nâng cao cao khả năng cạnh tranh trong nước,
trên thị trường quốc tế.
-

Bảo đảm không ảnh hưởng lơn đến kế hoạch thu của Ngân sách Trung ương trong

NGUYỄN THU HỒNG

18

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ


ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

những năm đầu thực hiẹen. Tạo điều kiện để Ngân sách địa phương ổn định nguồn thu, nâng dần tỷ
lệ các địa phương cân đối Ngân sách và có đóng góp cho Ngân sách Trung ương.
-

Bảo đảm ổn định thị trường trong nước, tránh gây ra những biến động mạnh về giá cả,

đặc biệt là giá vật tư, hàng hoá quan trọng dùng cho sản xuất và tiêu dùng thiết yếu để ổn định sản
xuất và không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.
Nghị quyết số 18/1998/QH10 ngày 25/11/1988: "Chính phủ cần tập chung chỉ đạo thực hiện
các luật thuế mới, nhất là luật thuế GTGT. Để chủ động giải quyết kịp thời những khó khăn cho các
doanh nghiệp khi thực hiện Luật thuế GTGT nhằm ổn đinhj và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Quốc hội cho phép Chính phủ trong thời gian đầu thực hiện được áp dụng quy định tại Điều 28 Luật
thuế GTGT để giảm thuế đối với hoạt động thương mại, dịch vụ du lịch, ăn uống, và không khống
chế mức giảm tối đa 50% số thuế GTGT phải nộp. Sau một thời gian thực hiện, Chính phủ trình
UBTVQH sửa đổi bổ sung các mức thuế suấttheo qui định tại Điều 8 của Luật thuế GTGT và báo
cáo Quốc hội trong kỳ họp gần nhất.
I./ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU HƠN HAI NĂM THỰC HIỆN.
Trong hai năm đầu tiên triển khai các Luật thuế mới tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng với tinh
thần chủ động, lại được sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Bộ chính trị, của UBTVQH, và sự điều
hành thướng xuyên, cụ thể của Chính phủ, cùng với sự cố gắng của các nghành, các cấp, của các cơ
quan đoàn thể, sự hưởng ứng của các đối tượng nộp thuế, sự đồng tình của nhân dân, sự nỗ lực của
nghành tài chính, nghành thuế, đến nay sau một năm thực hiện các Luật thuế mới đã đi vào cuộc
sống, sản xuất kinh doanh giữ được ổn định, bước đầu các Luật thuế mới đã phát huy được tác dụng
trên các mặt.

1./ Về sản xuất kinh doanh.
Với việc thực hiện Luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các cơng trình đầu tư xây

dựng cơ bản giảm khoảng 10% so với trước đâu. tồn bộ thuế GTGT của cơng trình xây dựng cơ
bản được hạch tốn riêng khơng tính vào giá cơng trình như thuế doanh thu, vì vậy chi phí khấu hao
tài sản cũng giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp xây dựng mua sắm tài sản cố định có thuế GTGT đều
được khấu trừ hoặc hồn thuế. Mặt khác khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải
chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án, thì
khơng thuộc diện chịu thuế GTGT trong thời gian ba ngày kể từ ngày nộp tờ khai. Từ khi thực hiện
Gnhị định só 78?NĐ-CP giảm 50% mức thuế GTGT đối với sản phẩm xây dựng cơ bản thì mức

NGUYỄN THU HỒNG

19

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D


ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

thuế GTGT các doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình quân chỉ còn
khoảng 1% đến 2%, thấp hơn so với mức 4% khi nộp thuế doanh thu, thậm chí cịn được hồn thuế.
Thực hiện thuế GTGT cịn thuc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thơng hàng hố phát triển do
thuế GTGT chỉ thu trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các khâu sản xuất, lưu thông đến
khâu tiêu dùng cuối cùng với hai phương pháp tính thuế (phương pháp khấu trừ thuế, và phương
pháp trực tiếp). Đã khắc phục nhược điểm của thuế doanh thu là thuế trùng lên thuế, đã thuc đẩu
chun mơn hố, hiệp tác sản xuất, nhất là trong lĩnh vực sản xuất có khí như: sản xuất, lắp ráp xe
đạp, xe máy, ơ tô, điện, điện tử...
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có qui định chế độ khuyến khích đối với đầu tư các cơ
sở sản xuất mới thành lập được miễn thuế hai năm đầu, được giảm 50% trong hai năm sau nữa. Nếu
đầu tư vào những lĩnh vực, nghành nghề, vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư sẽ được hưởng mức thuế

suất thấp hơn so với các dự án khác (đầu tư trong nước hưởng thuế suất là 15%, 20%, 25%, đầu tư
nước ngoài là 10%, 15%, 20%) và còn được ưu đãi miễn giảm thuế thời gian dài hơn. Thời gian
được miễn giảm thuế cao nhất là 13 năm trong dó miễn thuế 4 năm đầu và giảm 50% thuế trong 9
năm tiếp theo. Ngoài ra, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cịn khuyến khích miễn, giảm thuế đối với
các trường hợp đầu tư dây chuyền sản xuất mới, mở rộng qui mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi
trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất, di chuyển có sở kinh doanh.
Đối với Nhà nước đã giảm mức thuế chuyển quyền sử dụng đát từ 10% xuống cịn 2% đối
với đát sản xuất nơng nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, đát làm muối và giảm từ 20% xuống
4% đối với đát ở, đất xây dựng cơng trình, đất khác. Các sơ sở kinh doanh chuyển quyền sử dụng
đất thuê, không phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất. Đối với các cơ sở kinh doanh được Nhà
nước giao đất xây dựng nhà ở để bán, xây dựng kết cấu hạ tầng cho thuê thì đất chuyển quyền được
miễn thuế chuyển quyền sử dụng đất không chịu thuế GTGT tính trên giá đất chuyển quyền. Ngồi
ra, Nhà nước cịn giảm lệ phí trước bạ đất từ 2% xuống 1% lam cho thị trường đất đai, nhà cửa đã có
dấu hiệ sơi dộng hơn trước.
Đối với phí, lệ phí đã thống nhất áp dụng một mức thu phí, lệ phí chung cho cả các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước. Giảm lệ phí cấ giấy phép đặt văn
phịng đại diện của nước ngoài từ 5000 USD/lần (tương đương với 70 triệu đồng Việt Nam) xuống
còn 1 triệu đồng/ lần và khơng thu lệ phí đối với trường hợp gia hạn giấy phép đặt văn phịng đại
diện.
Trong q trình thực hiện, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng, dịch

NGUYỄN THU HỒNG

20

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 41-D




×