Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG đào tạo, bồi DƯỠNG cán bộ, CÔNG CHỨC THỰC TIỄN tại TRƯỜNG CHÍNH TRỊ THÀNH PHỐ cần THƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.86 KB, 51 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2008 – 2012

ĐỀ TÀI

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC - THỰC TIỄN TẠI
TRƢỜNG CHÍNH TRỊ TP. CẦN THƠ

Giáo viên hƣớng dẫn:
Th.s Võ Duy Nam

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Kim Nhung
MSSV: B080323
Lớp: Luật Hành chính K34

Cần Thơ, tháng 8/2011


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU------------------------------------------------------------------Chƣơng 1: Lý luận chung về cán bộ, công chức và chất lƣợng đào
tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức-------------------------------------------1.1. Khái quát chung về cán bộ, công chức ở Việt Nam--------------------------1.1.1 Khái niệm cán bộ, công chức--------------------------------------------1.1.2 Phân loại cán bộ, công chức----------------------------------------------------1.1.3 Nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức--------------------------------

1.1.4 Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức-------------------------------1.2. Những vấn đề cơ bản về đào tạo và chất lượng đào tạo------------------------------

1.2.1 Quan điểm của Đảng và nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,


công chức-------------------------------------------------------------------------------1.2.2 Khái niệm “đào tạo, bồi dưỡng”---------------------------------------1.2.3 Một số quan niệm về chất lượng---------------------------------------1.2.4 Quan niệm về chất lượng đào tạo---------------------------------------1.2.5 Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức----------------------------------------------------------------------Chƣơng 2: Thực trạng công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức –
thực tiễn tại trƣờng Chính trị TP. Cần Thơ------------------------------------2.1. Tổng quan về trường Chính trị Thành phố Cần Thơ-------------------------2.1.1 Vị trí, chức năng-----------------------------------------------------------2.1.2 Nhiệm vụ của Trường Chính trị TP Cần Thơ-------------------------2.1.3 Cơ sở vật chất của Trường Chính trị TP Cần Thơ--------------------2.1.4 Đội ngũ giảng viên--------------------------------------------------------2.1.5 Nội dung chương trình đào tạo tại trường Chính trị TP. Cần Thơ,
thời gian đào tạo------------------------------------------------------------------------2.1.6 Tiêu chí xếp loại - Kết quả xếp loại tốt nghiệp điển hình ở một số
lớp tại trường---------------------------------------------------------------------------2.2. Những qui định của pháp luật đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức---------------------------------------------------------------------------2.3 Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và
công tác đào tạo cán bộ, công chức tại trường Chính trị thành phố Cần Thơ--2.3.1 Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cả nước
2.3.2 Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại

1
3
3
3
6
6
7
8
8
9
9
10
11
13
13
13
13
14
14
17
19

19
21
21
24


trường Chính trị thành phố Cần Thơ------------------------------------------------Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng đào
tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ, công chức tại trƣờng chính trị TP. Cần
Thơ -------------------------------------------------------------------------------------3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức --------------------------------------------------------------------------------------

38
38

3.1.1 Định hướng nâng cao chất lượng cán bộ, công chức -----------------3.1.2 Định hướng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ở thành phố Cần Thơ------------------------------------------------------------

38

3.1.3 Một số kiến nghị về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức--3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

39

đang được đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Chính trị TP Cần Thơ----------------

40

38

3.2.1 Nhóm giải pháp nhằm cải thiện điều kiện khách quan ảnh hưởng

trực tiếp đến công tác đào tạo, bồi dưỡng học viên là cán bộ, công chức đang
được đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Chính trị TP Cần Thơ-----------------------

41

3.2.2 Nhóm giải pháp liên quan trực tiếp đến công tác đào tạo, bồi
dưỡng học viên là cán bộ, công chức tại Trường Chính trị TP Cần Thơ--------

42

KẾT LUẬN-----------------------------------------------------------------

44


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam ta đã và đang trong tiến trình hội nhập và phát triển. Thực tế
này đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đặt ra những đường lối, chính sách linh
hoạt, khoa học, phù hợp với xu hướng của thời đại nhưng vẫn giữ được nguyên
tắc hàng đầu là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trước yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới, nhiều quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật đang từng bước hình
thành và phát triển, nhiều quan hệ có yếu tố nước ngoài nảy sinh. Sự giao lưu,
trao đổi và giải quyết các công việc cụ thể liên quan đến yếu tố nước ngoài
ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, nẩy sinh nhiều vấn đề mới đặt ra cho các nhà
quản lý hành chính nhà nước từ trung ương đến cấp xã phải giải quyết, đòi hỏi
cán bộ QLHCNN phải có khả năng thích ứng, linh hoạt, làm chủ tri thức khoa
học mới có khả năng giải quyết tốt công việc.
Tuy nhiên hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn bất cập, trình độ
chuyên môn không đồng đều; vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức chưa

qua đào tạo, bồi dưỡng, trình độ học vấn thấp, chưa được trang bị về lý luận
chính trị, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào công việc còn hạn chế...
Chính vì vậy, việc tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng là nhiệm vụ
thiết thực, đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá cán bộ, nâng cao chất lượng cán bộ,
công chức trong cả nước nói chung và ở thành phố Cần Thơ nói riêng “nhằm
từng bƣớc nâng cao chất lƣợng, hiệu quả đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, đảng
viên, trƣớc hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý và kỹ năng, nghiệp vụ tổ
chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó ở địa
phƣơng,cơ sở” theo Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03/9/2008 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khóa X). Đây cũng chính là lý do mà người viết chọn
đề tài “Nâng cao chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức - thực
tiễn tại trƣờng Chính trị TP. Cần Thơ làm luận văn tốt nghiệp của mình, với
mong muốn góp phần phục vụ trực tiếp cho việc nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng của Trường Chính trị thành phố Cần Thơ.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm là rõ trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ,
công chức hiện tại của cả nước nói chung và của thành phố Cần Thơ nói riêng
từ đó có phương hướng và giải pháp tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
học viên là cán bộ, công chức đang học tại Trường Chính trị TP. Cần Thơ.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là vấn đề mà Đảng và
Nhà nước ta rất quan tâm, vì thế khi nghiên cứu đề tài nội dung mà em nghiên
cứu là:


- Những vấn đề chung về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Khái quát lên thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thực
tiễn tại trường Chính trị TP. Cần Thơ.
- Từ đó nêu lên phương hướng và giải pháp nhằm để tăng cường công

tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại Trường.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
Áp dụng các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức được thể hiện
trong các văn bản pháp luật có liên quan, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được thể hiện trong văn kiện của Đại hội
Đảng, và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức.
Trong quá trình viết còn sử dụng các thông tin từ tạp chí, giáo trình, truy
cập mạng Internet... trên cơ sở áp dụng các phương pháp tổng hợp, so sánh và
phương pháp phân tích luật viết để hoàn thành bài Luận văn.
5. Kết cấu luận văn:
Luận văn gồm: Lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng I: Lý luận chung về cán bộ, công chức và công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Chƣơng II: Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức –
thực tiễn tại trường Chính trị TP Cần Thơ
Chƣơng III: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức học tại trường
Chính trị TP Cần Thơ

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ CÔNG TÁC
ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC


1.1. Khái quát chung về cán bộ, công chức ở Việt Nam
1.1.1 Khái niệm cán bộ, công chức:
Ở nước ta, khi nói về bộ máy nhà nước thì người ta liên tưởng ngay đến
đội ngũ cán bộ, công chức. Chính vì vậy, khái niệm cán bộ, công chức được

hình thành từ rất lâu và qua mỗi thời kỳ khác nhau thì có khái niệm khác nhau
về công chức, điển hình:
- Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất đất nước và đi lên
chủ nghĩa xã hội, có lẽ thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng rất sớm và phổ biến
nhất. Hình tượng “người cán bộ Cách mạng” kiên cường, anh dũng, bất khuất
sẵn sàng hy sinh vì độc lập của tổ quốc, vì tự do của nhân dân đã đi vào lòng
người với bao sự kính yêu, ngưỡng mộ. Do vậy, lúc đầu quan niệm về cán bộ
có thể được hiểu là những người tham gia cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam để đấu tranh giành chính quyền từ tay thực dân Pháp
và triều đình nhà Nguyễn.
- Từ khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, lập lên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay quan niệm về cán bộ, công chức đã trãi
qua nhiều giai đoạn phát triển có những nội dung và phạm vi khác biệt. Điều
này chứng tỏ các thuật ngữ trên ngoài tính khoa học còn chịu sự tác động của
xu hướng chính trị trong từng thời kỳ cách mạng. Cho đến Hiến pháp 1992, thì
thuật ngữ cán bộ, viên chức được sử dụng phổ biến như quy định: “... cán bộ,
viên chức phải tôn trọng nhân dân ..” và “Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn
... đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước ...”(1).
- Thực trạng trong những năm qua, sự hình thành đội ngũ cán bộ, công
chức ở nước ta từ nhiều nguồn, bằng nhiều con đường như: bầu cử, phân công
sau khi tốt nghiệp các chương trình đào tạo, tuyển dụng, đề bạt. Phạm vi cán
bộ rất rộng, đội ngũ không ổn định, luôn có sự điều đồng, thuyên chuyển nơi
này sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, mang tính đối phó chắp
vá không kế hoạch. Từ đó việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đề bạt
đánh giá cán bộ không dựa vào tiêu chí chuyên môn nghiệp vụ dẫn đến khó
khăn trong việc ổn định và phát triển đất nước.
- Trên tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Ủy ban
Thường
(1)


ở Điều 8, Điều 112 Hiến pháp 1992

vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức được ban hành
ngày26/2/1998. Pháp lệnh cán bộ, công chức đã xác định phạm vi, nghĩa vụ,
quyền lợi của cán bộ, công chức bước đầu đáp ứng tình hình chính trị, kinh tế
và xã hội.
Theo Điều 1 của Pháp lệnh cán bộ, công chức được hiểu là công dân


Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm:
1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ, trong
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ,
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
3. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao một công vụ
thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo ngành chuyên môn, được
xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi
ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn
riêng;
4. Thẩm phán Toàn án nhân dân, kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
5. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, làm
việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sỹ
quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp.
Cho đến pháp lệnh cán bộ, công chức đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2003
thì lại quy định chi tiết cán bộ, công chức làm việc ở Trung ương, ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; ở Điều 1
khoản d, g, h của pháp lệnh lại quy định thêm:
d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức

hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước, tổ chức.
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư
Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Đến nay theo Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân


chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp
công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công
chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân

Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu
tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp
xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Nhƣ vậy, cán bộ, công chức là công dân Việt Nam, đƣợc tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hƣởng lƣơng từ ngân
sách nhà nƣớc hoặc đƣợc bảo đảm từ quỹ lƣơng của đơn vị sự nghiệp công lập
theo quy định của pháp luật, làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Căn cứ Nghị định của Chính phủ số 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01
năm 2010 quy định những người là công chức:
- Công chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Công chức trong Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội,
Kiểm toán Nhà nước.
- Công chức trong Bộ, cơ quan ngang Bộ và các tổ chức khác do Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập.
- Công chức trong cơ quan hành chính.
- Công chức trong hệ thống Tòa án nhân dân.
- Công chức trong hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân.
- Công chức trong cơ quan của tổ chức chính trị - xã hội.
- Công chức trong cơ quan, đơn vị của Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân.
- Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập.
Từ pháp lệnh cán bộ, công chức đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2003 và
Luật cán bộ, công chức năm 2008 cho thấy đã có sự quy định chi tiết hơn, cụ
thể hơn trong từng chức danh cán bộ, công chức ở Trung ương, ở tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), cán bộ xã, phường,
thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã). Từ đó, có chính sách đào tạo, bồi dưỡng



cụ thể nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước nói
chung, của hệ thống hành chính nói riêng trong cả nước.
1.1.2 Phân loại cán bộ, công chức:
Cán bộ, công chức được phân loại như sau (2):
 Phân loại theo trình độ đào tạo:
a) Công chức loại A là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ
đào tạo chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học;
b) Công chức loại B là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ
đào tạo chuyên môn giáo dục nghề nghiệp;
c) Công chức loại C là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ
đào tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.
 Phân loại theo ngạch công chức:
a) Công chức ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương trở lên;
b) Công chức ngạch chuyên viên chính và tương đương;
c) Công chức ngạch chuyên viên và tương đương;
d) Công chức ngạch cán sự và tương đương;
đ) Công chức ngạch nhân viên và tương đương.
 Phân loại theo vị trí công tác:
a) Công chức lãnh đạo, chỉ huy;
b) Công chức chuyên môn, nghiệp vụ.
1.1.3 Nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức:
Về nghĩa vụ của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ:
(2)

Điều 4 Nghị định của Chính phủ số 117/2003/NĐCP ngày 10/10/2003 về tuyển dụng, sử dụng cán
bộ, công chức trong cơ quan nhà nước.

Cán bộ, công chức phải “Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về
kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc giao”(3).

Về quyền hạn của cán bộ, công chức:
Cán bộ, công chức “Đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao trình độ chính
trị, chuyên môn, nghiệp vụ”(4). Bên cạnh đó, “cán bộ, công chức còn đƣợc
hƣởng tiền lƣơng và các chế độ khác liên quan đến tiền lƣơng nhƣ tiền làm
thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định của
pháp luật” và “Cán bộ, công chức đƣợc nghỉ hàng năm, nghỉ lễ, nghỉ để giải
quyết việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động. Trƣờng hợp do yêu


cầu nhiệm vụ, cán bộ, công chức không sử dụng hoặc sử dụng không hết số
ngày nghỉ hàng năm thì ngoài tiền lƣơng còn đƣợc thanh toán thêm một khoản
tiền bằng tiền lƣơng cho những ngày không nghỉ” (5). Hay “Cán bộ, công chức
đƣợc bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động
kinh tế, xã hội; đƣợc hƣởng chính sách ƣu đãi về nhà ở, phƣơng tiện đi lại, chế
độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật; nếu bị thƣơng
hoặc hy sinh trong khi thi hành công vụ thì đƣợc xem xét hƣởng chế độ, chính
sách nhƣ thƣơng binh hoặc đƣợc xem xét để công nhận là liệt sĩ và các quyền
khác theo quy định của pháp luật”(6).
1.1.4 Ý nghĩa của việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
trong bộ máy nhà nước:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ
cán bộ “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải
thích cho nhân dân ta hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”.
Với vị trí là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân, nên người cán bộ phải
có đủ năng lực, phẩm chất để làm tốt vai trò, nhiệm vụ được giao. Theo Người,
cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muốn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém. Để có những người cán bộ tốt, có đủ năng lực làm việc, họ
phải được đào tạo, bồi dưỡng; do đó, Người nhấn mạnh rằng “huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng”. Nếu cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì công việc

xây dựng đường lối sẽ đúng đắn, đó là điều kiện đưa sự nghiệp cách mạng đi
đến thắng lợi.
Tóm lại, cán bộ, công chức có vai trò quyết định trong sự nghiệp phát
triển đất nước. Chính vì vậy, công tác giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng mang ý
nghĩa rất thiết thực nhằm từng bước nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị, phẩm
chất cách mạng, trình độ trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ,
công chức của nước ta hiện nay.
(3)

khoản 1 Điều 9 luật Cán bộ, công chức 2008 đã quy định cán bộ, công chức

(4)

khoản 4 Điều 11 luật Cán bộ, công chức 2008 về quyền của cán bộ, công chức

(5)

Điều 12 và Điều 13 luật Cán bộ, công chức 2008

(6)

Điều 14 luật Cán bộ, công chức 2008

1.2. Đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức:
1.2.1 Khái niệm “đào tạo, bồi dưỡng” cán bộ, công chức:
“Đào tạo” và “bồi dƣỡng” được hiểu như sau: “Đào tạo” là quá trình
truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của
từng cấp học, bậc học. Còn “Bồi dƣỡng” là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng
cao kiến thức, kỹ năng làm việc (7).
Đào tạo cán bộ, công chức có tính đặc thù so với đào tạo nguồn nhân lực

cho đất nước nói chung. Đào tạo nguồn nhân lực được thực hiện cho mọi đối
tượng, mọi lứa tuổi; mọi thành phần trong tất cả các loại trường hiện có. Còn


đào tạo cán bộ, công chức chỉ giới hạn trong phạm vi những người làm việc
trong hệ thống chính trị hoặc là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam ở cơ sở.
Đó cũng chính là đối tượng được điều chỉnh bởi Luật Cán bộ, công chức năm
2008 và một số văn bản pháp luật có liên quan.
Nguồn cán bộ thuộc diện quy hoạch đào tạo có tầm quan trọng hàng đầu.
Đây là nguồn cán bộ kế cận phải đảm bảo tiêu chuẩn chính trị và chuyên môn
nghiệp vụ. Cụ thể mỗi cấp đào tạo phải quy định tiêu chuẩn “đầu vào” và có sự
trù liệu bố trí, sử dụng “đầu ra” có hiệu quả. Việc quy hoạch cán bộ cử đi đào
tạo nhằm chuẩn bị một đột ngũ cán bộ chủ chốt cho các cấp.
“Bồi dƣỡng” có thể coi là một quá trình cập nhật kiến thức còn thiếu
hoặc lạc hậu, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề
nhiệp theo các chuyên đề. Bồi dưỡng nhằm giúp cho cán bộ, công chức có cơ
hội củng cố và mở mang một cách có hệ thống những tri thức, kỹ năng chuyên
môn nghề nghiệp; để hoàn thành tốt công việc được giao.
Tóm lại, Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và
phát triển nguồn nhân lực là một giải pháp hữu hiệu nhằm nâng dần tính hiệu
quả trong công việc. Người cán bộ được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng sẽ có những
kiến thức cơ bản, chuyên sâu về lĩnh vực công tác. Qua học tập, học viên được
nâng cao nhận thức chính trị, tri thức lý luận, tư duy sáng tạo để có khả năng
tham mưu và giải quyết những vấn đề thực tiễn.
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, công chức nói
chung và cán bộ, công chức nói riêng ở thành phố Cần Thơ. Ta cần phải đánh
giá sơ bộ về năng lực của họ. Bởi vì, hiểu được năng lực của từng đối tượng cụ
thể thì kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
mới đạt hiệu quả cao.


(7)

Điều 5 Nghị định của Chính phủ số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 03 năm 2010 về đào tạo, bồi
dưỡng công chức

1.2.2 Đánh giá sơ bộ về năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức:
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực
phục vụ cho tiến trình cải cách hành chính nhằm góp phần đắc lực vào sự
nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần hướng tới mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài. Trước hết, phải xác định năng
lực của đội ngũ cán bộ, công chức hiện có. Vấn đề cần quan tâm là năng lực
được hiểu như thế nào và làm thế nào để đánh giá đúng năng lực của cán bộ,
công chức.
Năng lực được hiểu là khả năng làm việc tốt; chỉ mức độ hoàn thành tốt
công việc nào đó. Một người bình thường đều có năng lực suy nghĩ, phẩm chất,


tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành tốt công việc nào đó
với chất lượng cao (8).
Ngoài ra, năng lực là “khả năng về thể chất và trí tuệ của cá nhân con
người, hoặc khả năng của một tập thể có tổ chức, tự tạo lập và thực hiện được
hành vi xử sự của mình đề ra hoặc do nhà nước hay chủ thể khác ấn định với
kết quả tốt nhất” (9).
* Tiêu chí đánh giá năng lực:
+ Về trình độ đào tạo: là kết quả của quá trình giáo dục và đào tạo trong
nhà trường. Quá trình giáo dục và đào tạo trong nhà trường cung cấp cho con
người những kiến thức và kinh nghiệm xã hội. Trình độ đào tạo, với tư cách là
kết quả của quá trình đào tạo tại nhà trường được thể hiện thông qua hệ thống
văn bằng, chứng chỉ của cá nhân.

+ Về kỹ năng nghề nghiệp, là khả năng làm tốt một công việc nào đó,
làm chủ khả năng áp dụng các kỹ thuật, phương pháp và công cụ để giải quyết
công việc; nó là cách thức đặc biệt để tiến hành công việc.
+ Về thái độ hành vi, là làm chủ thái độ, hành vi, trạng thái tinh thần của
bản thân trước những vấn đề có liên quan cần giải quyết. Người có thái độ ứng
xử phù hợp, cầu thị, hợp tác, chia sẽ và quyết đoán sẽ giải quyết công việc
được nhanh chóng và thấu tình đạt lý.
Ngoài ra, kinh nghiệm thực tiễn cũng là yếu tố quan trọng của năng lực,
bởi vì năng lực của con người được hình thành và phát triển thông qua hoạt
động thực tiễn. Trong nhiều trường hợp, kinh nghiệm lại có ý nghĩa quyết định
đối với sự

(8)

Theo các từ điển tiếng Việt

(9)

Từ điển Thuật ngữ hành chính do Bộ Nội vụ, Học viện Hành chính Quốc gia và Viện nghiên cứu
Hành chính xuất bản năm 2009 ,Tr118

thành công hay thất bại của công việc. Kinh nghiệm ở đây là kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn, được đánh giá bằng thời gian và công việc mà cá nhân đã trải
nghiệm, bao gồm sự hiểu biết chung của cá nhân về con người và xã hội, về
hành vi ứng xử, về lối sống, đặc biệt là những kinh nghiệm xử lý, tiến hành
những gì liên quan đến công việc mà cá nhân đảm trách. Nếu thiếu kinh
nghiệm thực tiễn công chức rất khó có thể giải quyết nhanh chóng chính xác
những tình huống phức tạp trong quản lý hành chính nhà nước.
Bên cạnh đó, người tâm đắc với công việc, người có ý thức trách nhiệm,
nghĩa vụ của mình luôn có khả năng thực hiện công việc với chất lượng cao

hơn. Ý thức trách nhiệm đối với công việc của người cán bộ, công chức là yếu
tố quan trọng nhằm kết nối các yếu tố về trình độ, kỹ năng, thái độ hành vi và
kinh nghiệm thành một hệ thống năng lực thực sự của cá nhân.


Tóm lại, Năng lực cá nhân có thể thay đổi, phát triển nếu được khai thác,
sử dụng hợp lý và sẽ được phát triển đến mức độ cao nếu mỗi cá nhân được
đào tạo, bồi dưỡng và tạo điều kiện thuận lợi.
Những yếu tố đánh giá năng lực đội ngũ cán bộ, công chức
Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu chung đối với tất cả cán bộ, công
chức phải có khả năng thích ứng với công cuộc đổi mới, đáp ứng nhu cầu thực
tiễn. Đánh giá năng lực đội ngũ cán bộ, công chức cần xem xét qua các yếu tố
sau:
Thứ nhất, việc đánh giá năng lực cán bộ, công chức cần dựa vào kết quả
công việc. Đây là nguyên tắc, là phương pháp chung để đánh giá chất lượng
hoạt động của mỗi cán bộ, công chức cũng như đội ngũ cán bộ, công chức. Tuy
nhiên, khi đi vào từng trường hợp cụ thể cần dựa vào trình độ đào tạo, kỹ năng
nghề nghiệp, thái độ hành vi và kinh nghiệm thực tiễn của cá nhân.
Thứ hai, sự phù hợp giữa năng lực và yêu cầu công việc. Cần phải xem
xét công việc của cơ quan cũng như nhiệm vụ được giao cho từng cá nhân có
phù hợp hay không. Mức độ phù hợp giữa đối tượng và yêu cầu công việc là
yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định chất lượng, hiệu quả công việc, là tiêu
chuẩn cao nhất trong đánh giá năng lực cán bộ, công chức.
Thứ ba, trình độ hiện có của đội ngũ cán bộ, công chức: Ngày nay với
sự phát triển của khoa học công nghệ, yêu cầu người cán bộ, công chức phải có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ theo tiêu chuẩn chức danh của cán bộ, công
chức và cả kiến thức pháp luật, về quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh
tế, lý luận chính trị, sử dụng tin học, … mới có thể hoàn thành tốt công việc
được giao.
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 đã xác định tiêu chí để đánh giá

cán bộ, công chức (10):
(10)

Điều 28, khoản 1 luật cán bộ, công chức

a) Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước;
b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc;
c) Năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ;
d) Tinh thần trách nhiệm trong công tác;
đ) Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tóm lại, đất nước sẽ ngày càng phồn vinh nếu lực lượng cán bộ, công
chức có đầy đủ phẩm chất, năng lực. Đào tạo, bồi dưỡng một người cán bộ vừa
“hồng” vừa “chuyên” là mục tiêu cơ bản mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
1.2.3. Tính cấp thiết của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức:


Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, cải cách hành chính
đã và đang đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng một đội ngũ cán bộ, công
chức các cấp, các ngành có khả năng thích ứng với yêu cầu và nhiệm vụ chung
của đất nước. Trình độ, năng lực, ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công
chức có vai trò to lớn trong hoạt động quản lý nhà nước và đối với sự tiến bộ
xã hội. Nhưng hiện nay, bên cạnh những mặt đạt được; trình độ năng lực và
nghiệp vụ quản lý của cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế. Vẫn còn không ít
cán bộ, công chức giải quyết công việc theo chủ quan, nhiều vụ việc, tình
huống xảy ra không xử lý được. Một bộ phận cán bộ lại bằng lòng với kiến
thức, trình độ của mình, rất ngại trau dồi kiến thức, học tập nâng cao trình độ,
nghiệp vụ. Công tác quy hoạch cán bộ còn mang tính hình thức, đối phó; việc
cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng chưa đúng đối tượng, khi đào tạo về thì không

bố trí đúng theo chức năng, nhiệm vụ dẫn đến tình trạng học đối phó, học để
lấy bằng về hợp thức hóa cơ quan, rất ít trường hợp học với tâm huyết, học để
phục vụ cho Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Bên cạnh đó, phong trào thực hiện cuộc vận động “học tập và làm theo
tấm gương đạo đức” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào chiều sâu và rộng.
Vấn đề đạo đức phẩm chất của người cán bộ, công chức rất quan trọng. Tuy
nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức tha hóa đạo đức, có thái độ lệch
lạc, hành vi xem nhẹ, coi thường các giá trị truyền thống đạo lý, do đó, đánh
mất nhân phẩm, danh dự của chính mình, sống buông thả chạy theo lối sống
thực dụng. Làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; làm cho
những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước khó thực hiện được. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do ý thức pháp luật của
một bộ phận cán bộ, công chức chưa được trang bị kiến thức về lý luận chính
trị, tư tưởng đạo đức(11).

(11)

Trích từ bài “Những yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của
Đảng và Đoàn thể thành phố Cần Thơ đến năm 2020 của Lê Phú Hào-Phó Ban tổ chức Thành ủy.

1.2.4 Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức:
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Học để làm việc, làm ngƣời,
làm cán bộ, học để phục sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và Nhân
loại (12). Tuy nhiên, qua tổng kết quá trình học tập của các khóa học thời gian
qua tại trường Chính trị đã bộc lộ đối tượng người học chưa xác định đúng
mục đích, động cơ học tập, vẫn còn tồn tại tư tưởng “Học để có bằng cấp, để
chuẩn hóa”, “học cho có, thi cho qua” ... đây là một trong những nguyên nhân
dẫn đến hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Do đó,
muốn nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng thì phải làm sao cho đối tượng

người học hiểu được sự cần thiết phải học tập nâng cao trình độ, khả năng lý
luận chính trị. Theo Hồ Chí Minh “ Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết để
tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành” và Người đánh giá “vì trình độ lý


luận thấp kém cho nên đứng trƣớc nhiệm vụ mới, phức tạp sẽ không tránh khỏi
lúng túng, sai lầm, khuyết điểm, chính những sai lầm của ta trong thực tiễn
nhƣ trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức hoặc những khuyết điểm
trong lãnh đạo kinh tế là do trình độ lý luận thấp kém chứ không phải do giải
quyết thực tế thấp kém” (13).
Đảng ta tiếp tục khẳng định chủ trương “nâng cao chất lƣợng công tác đào tạo,
bồi dƣỡng cán bộ, khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp”(14). Do đó, tầm
quan trọng của công tác đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng là nhiệm vụ then chốt trong tiến trình hội nhập và phát triển đất nước.
Người cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, vững về lý
luận chính trị, am hiểu về công nghệ thông tin sẽ là đầu tàu vững chắc đưa đất
nước vững bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế “hòa nhập” chứ không
“hòa tan”.

(12)

Năm 1949, khi thăm Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi lại trong
sổ vàng của Trường.
(13)

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr.492

(14)

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr.261.


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC – THỰC TIỄN TẠI TRƢỜNG CHÍNH TRỊ TP. CẦN
THƠ
2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về đào tạo, bồi dƣỡng cán
bộ, công chức:
2.1.1 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Trong công cuộc đổi mới đất nước cùng tiến trình hội nhập quốc tế đặt
ra yêu cầu to lớn và bức bách về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở tất cả
các cấp là phải có đủ phẩm chất, năng lực góp phần đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh


quan niệm “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và Người khẳng định “công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Không có đội ngũ
công chức tốt thì dù đường lối, chính sách đúng đắn cũng khó có thể thực hiện
được. Cán bộ, công chức là chiếc cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân,
giữa Trung ương và địa phương. Cán bộ, công chức dù ở bất kỳ cấp nào cũng
đều thực thi pháp luật, đưa pháp luật đi vào cuộc sống nhân dân. Do đó, Cán
bộ, công chức tốt, uy tín Nhà nước được tăng cao, thu hút người dân tích cực
thực hiện quyền và nghĩa vụ, quản lý đạt được hiệu quả và ngược lại.
Theo Người, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần hướng
tới các mảng nghề nghiệp chuyên môn, chính trị, trình độ lý luận; cụ thể:
+ Trước hết, về huấn luyện nghề nghiệp, để đào tạo, bồi dưỡng có hiệu
quả thiết thực thì phải thực hành khẩu hiệu: “Làm việc gì học việc nấy”; việc
huấn luyện nghề nghiệp đòi hỏi phải hướng vào kiến thức chuyên môn, mang
tính nghiệp vụ chuyên ngành và từ đó áp dụng những kỹ năng đó vào giải
quyết những vấn đề thực tiễn trước mắt.
+ Về huấn luyện chính trị: Người quan niệm phải tập trung nâng cao

hiểu biết của cán bộ về thời sự-chính trị, xã hội và đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
+ Về trình độ lý luận: theo Hồ Chí Minh cán bộ phải là người giỏi về
trình độ lý luận. Người cho rằng, lý luận là đem thực tế lịch sử, kinh nghiệm
trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng làm thành kết
luận, rồi đem nó chứng minh vào thực tế. Do đó, huấn luyện lý luận luôn là nội
dung quan trọng trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Học lý luận
không phải theo kiểu nhồi nhét, xa rời thực tế, mà sau khi học rồi có thể tự
mình làm ra phương hướng chính trị, có thể trở thành người tổ chức và lãnh
đạo. Học lý luận như thế mới có thực, có ích.
2.1.2 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác đào tạo,
bồi dƣỡng cán bộ, công chức:
Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng phát triển sâu rộng, đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, đưa đất nước vững bước trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song thời cơ, nguy cơ, thách
thức luôn đan xen nhau trong một thế giới hội nhập phức tạp. Hơn lúc nào hết,
đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò quan trọng cho sự ổn định, phát triển đất
nước và cả hệ thống chính trị. Chính vì vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ
Chính trị, Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện tiếp
Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị đến năm 2015 nhằm đưa thành phố
Cần Thơ sớm trở thành đô thị loại I và cơ bản trở thành Thành phố công
nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của toàn vùng đồng bằng


sông Cöu Long. Tiêu chuẩn người cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước luôn được khẳng định:
Thứ nhất, đội ngũ công chức trước hết phải cập nhật mới chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước mới có khả năng triển

khai tốt và thực hiện có hiệu quả.
Thứ hai, nhằm giải quyết công việc đạt được năng suất và hiệu quả trong
điều kiện, môi trường luôn vận động, đổi mới thì ngoài việc trau dồi kiến thức
chuyên môn, người cán bộ, công chức còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng
và kiến thức về quản lý nhà nước.
Thứ ba, đội ngũ công chức trong cơ quan hành chính các cấp phải được
trang bị những kiến thức mới về quản lý nhà nước, về pháp luật, kỹ thuật và
nghiệp vụ hành chính.
Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một nhu cầu thiết
thực nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực của nguồn nhân lực; bảo
đảm tính đồng bộ, tính kế thừa, từng bước chuẩn hóa và trẻ hóa đội ngũ cán bộ,
công chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, điều hành của chính quyền các
cấp trong từng thời kỳ.
2.2 Cơ sở pháp lý đối với công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công
chức trong thời gian qua
2.2.1 Cơ sở pháp lý đối với công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công
chức trong cả nƣớc:
Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi
trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người yêu cầu “Đảng phải nuôi dạy
cán
bộ, nhƣ ngƣời làm vƣờn vun trồng những cây cối quý báu” (15). Bước vào thời kỳ
đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Chiến lược cán bộ theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 3 (khoá VIII), công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm
đặc biệt và dần đi vào nền nếp. Tại Hội nghị lần thứ 9 BCHTW Đảng khóa X,
Đảng ta đã chỉ rõ: “Nâng cao chất lƣợng công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi
dƣỡng cán bộ theo quy hoạch, theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, coi đây là giải
pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện chiến lƣợc cán bộ trong giai đoạn
mới”(16). Để thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định chủ trương “nâng cao
chất lƣợng công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, khắc phục tình trạng chạy theo

bằng cấp”(17).
Với quyết tâm trên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về cơ
bản đã được thực hiện trên cơ sở các kế hoạch dài hạn, có định hướng chỉ tiêu,
đối tượng, nội dung và thời gian cụ thể:
 Đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị trong đào tạo, bồi dưỡng công chức(18):


- Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức có trách nhiệm xây dựng
và công khai quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng cao
năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức.
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng công chức có trách nhiệm tạo điều
kiện để công chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của công chức.
 Đối với công chức trong đào tạo, bồi dưỡng (19):
Công chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng phải chấp hành nghiêm chỉnh quy
chế đào tạo, bồi dưỡng và chịu sự quản lý của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
Tại Điều 2 Nghị Định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 03 năm 2010 về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tiếp tục khẳng định mục tiêu đào tạo, bồi
dưỡng công chức:
- Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
- Góp phần xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp có đủ năng lực
xây dựng nền hành chính tiên tiến, hiện đại.
Tại khoản 2 Điều 1 – Quyết định số 1374/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 12 tháng 08 năm 2011 về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ,
(15)

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.5, tr.273.

(16


) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị TW 9 (khoá X), Nxb. CTQG, H, 2009, tr.249-250.

(17)

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr.261.

(18)

khoản 1, 2 Điều 48 – luật cán bộ, công chức.

(19)

khoản 1 Điều 49 – luật cán bộ, công chức.

công chức giai đoạn 2011-2015 “Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ có đủ năng
lực xây dựng hệ thống chính trị, nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiên
tiến, hiện đại”.
Hiện tại, cả nước đã hình thành một hệ thống các trường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức tương đối hoàn chỉnh gồm: Học viện Chính trị-Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh; mỗi tỉnh, thành phố đều có trường chính trị và
mỗi huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh có 1 trung tâm bồi dưỡng chính trị, hầu hết
được đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học.
2.2.2 Cơ sở pháp lý đối với công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công
chức tại thành phố Cần Thơ
Trên cơ sở Luật cán bộ, công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008, Nghị
định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về đào tạo,
bồi dưỡng công chức; Thông tư số 03/2011/TT-BNV ngày 25 tháng 01 năm
2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số



18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi
dưỡng công chức; thành phố CầnThơ đã ban hành Quyết định số 16/2011/QĐUBND ngày 09 tháng 5 năm 2011 về Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức của thành phố Cần Thơ. Quy chế này đƣợc áp dụng cho tất cả
các trƣờng hợp cán bộ, công chức, viên chức đƣợc cử đi học các lớp đào tạo,
bồi dƣỡng để chuẩn hóa, nâng cao năng lực chuyên môn phục vụ nhiệm vụ
đang đảm nhận và vị trí công tác, sử dụng kinh phí từ nguồn ngân sách nhà
nƣớc(20);
Thành phố Cần Thơ tính đến tháng 6/2011 có 9 đơn vị hành chính trực
thuộc 5 quận (Ninh Kiều, Bình thủy, Ô Môn, Thốt Nốt, Cái Răng) và 4 huyện
(Vĩnh Thạnh, Thới Lai, Cờ Đỏ, Phong Điền) và 85 xã, phường, thị trấn (trong
đó có 44 phường, 5 thị trấn và 36 xã). Hàng năm, căn cứ vào tiêu chuẩn cán
bộ, công chức, các sở ban, ngành đều lập danh sách đào tạo, bồi dưỡng dài hạn
cho đối tượng đương giữ chức vụ hiện tại và số lượng cán bộ, công chức tạo
nguồn. Sau đó, Thành ủy và UBND thành phố chỉ đạo Trường Chính trị phối
xây dựng kế hoạch mở lớp hàng năm. Sau khi xây dựng kế hoạch mở lớp,
Trường Chính trị sẽ gửi thông báo ngày, tháng cụ thể để mỗi đơn vị sắp xếp để
số cán bộ, công chức được cử đi học bàn giao công việc cho đồng nghiệp (21).
2.2.3 Công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức tại trƣờng
Chính trị thành phố Cần Thơ
Cùng chung tay thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của đất nước là đào tạo và
(20)

Khoản 2 Điều 1 Quyết định số 16/2011/QĐ-UBND

(21)

Kế hoạch mở lớp năm 2012 đính kèm.


bồi dưỡng cán bộ, công chức của bộ máy Đảng, chính quyền và các tổ chức
đoàn thể các cấp. Trường chính trị thành phố Cần Thơ thời gian qua đã nỗ lực
không ngừng để nâng cao chất lượng đào tạo theo tinh thần Quyết định số 184QĐ/TW ngày 03/9/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) “nhằm
từng bƣớc nâng cao chất lƣợng, hiệu quả đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, đảng viên,
trƣớc hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý và kỹ năng, nghiệp vụ tổ
chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó ở địa
phƣơng,cơ sở”; điển hình như sau:
2.2.3.1 Tổng quan về trường Chính trị TP. Cần Thơ
+ Thực hiện Nghị quyết số 22/2003/QH XI của Quốc hội nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (ngày 26-11-2003) và Nghị định số 05/2004/NĐCP (ngày 02-01-2004) của Thủ tướng Chính phủ về việc chia tách tỉnh Cần
Thơ thành đơn vị mới: Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và lập mới
tỉnh Hậu Giang.


Căn cứ Quyết định số: 07/QĐ-TU, ngày 03 tháng 01 năm 2004 của Ban
Thường vụ Thành ủy Cần Thơ, về việc thành lập Trường Chính trị TP. Cần
Thơ và quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Trường.
* Vị trí:
- Trường Chính trị TP. Cần Thơ là một đơn vị sự nghiệp trực thuộc
Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố có vị trí như một Ban ngành cấp
thành phố. Về nghiệp vụ Trường chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn của Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Học viện Hành chính Quốc gia.
+ Thành ủy quyết định về tổ chức bộ máy biên chế, chính sách đối với
cán bộ học viên của Trường; lãnh đạo, chỉ đạo nội dung, quy hoạch, kế hoạch
đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
+ Ủy ban nhân dân thành phố quản lý, hướng dẫn quy chế đào tạo, kế
hoạch ngân sách, kinh phí đào tạo, cơ sở vật chất và các nhu cầu hoạt động
khác của Trường.
* Chức năng, nhiệm vụ của Trường Chính trị TP Cần Thơ

Trường Chính trị TP. Cần Thơ có những chức năng và nhiệm vụ sau:
a/ Đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Đảng, chính quyền và
các đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn), đào tạo Trưởng, Phó
phòng, ban cấp Quận, Huyện; Trưởng, Phó phòng các ban ngành cấp thành phố
và cán bộ dự nguồn các chức danh trên.
b/ Bồi dưỡng ngắn hạn các đối tượng trên về lý luận chính trị, đường lối
chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.
c/ Bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, về
quản lý hành chính Nhà nước và công tác vận động quần chúng.
* Cơ sở vật chất của Trường Chính trị TP Cần Thơ
Hiện tại, cơ sở vật chất của Trường Chính trị gồm 6 hội trường có sức
chứa khoảng 1.000 học viên, 2 dãy nhà làm việc 3 tầng có 12 phòng làm việc,
1 thư viện, 1 phòng máy vi tính, 4 phòng khách, nhà tập thể cho cán bộ, giáo
viên của trường. Các phòng làm việc được trang bị máy vi tính, in sao chụp,
ghi băng, hệ thống âm thanh hiện đại để phục vụ cho công tác giảng dạy và
quản lý học viên.
* Đội ngũ Giảng viên:
Tiêu chuẩn chung của cán bộ giảng dạy ở Trường như sau (22):
1. Là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoặc đoàn viên Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
2. Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần
yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn


đấu thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
3. Có trình độ lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc khoa học
xã hội và nhân văn ở bậc đại trở lên hệ chính quy.
4. Có thái độ khách quan, trung thực, khiêm tốn, giản dị và gần gũi quần
chúng; tâm huyết với sự nghiệp giáo dục và đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà

nước.
5. Có khả năng sư phạm.
6. Có đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ.
Tùy theo chức năng của từng khoa thì có tiêu chuẩn riêng đối với đội
ngũ giảng viên ở khoa đó.
Hiện tại, Trường chính trị TP. cần thơ có tổng số 63 người, trong đó biên
chế là 45 người; có 20 giảng viên thuộc 06 khoa trực tiếp đứng lớp (kể cả Ban
Giám hiệu). Giảng viên có trình độ tiến sỹ: 02; giảng viên có trình độ thạc sỹ là
13; giảng viên có trình độ cử nhân là 5).
Đối trượng đào tạo, bồi dưỡng của trường là cán bộ chủ chốt ở cơ sở, là
những người có vốn sống thực tiễn, có kinh nghiệm là việc. Do đó, đòi hỏi lực
lượng giảng viên không những nắm vững lý luận chính trị mà còn phải có lý
luận thực tiễn đời sống mới có thể đáp ứng nhu cầu càng cao của học viên. Ý
thức được điều đó, lãnh đạo trường rất quan tâm tạo điều kiện cho giảng viên
đi học nâng cao trình độ. Hiện tại, có một giảng viên chuẩn bị đi học thạc sỹ ở
nước ngoài, 03 giảng viên đang học thạc sỹ, 05 giảng viên đang học đại học
văn bằng 2. Hàng năm, trường đều tổ chức cho giảng viên đi nghiên cứu thực
tế ở nước ngoài (phối hợp với Học viên chính trị Quốc gia); giảng viên các
khoa đều đi tham quan một số trường bạn trong cả nước nhằm mở rộng tầm
nhìn, trau đổi và học tập kinh nghiệm lẫn nhau; đi nghiên cứu thực tế ở các
quận, huyện trong thành phố.
* Đối tượng học viên (23):
a) Học viên học các lớp trung cấp tập trung:
- Là cán bộ Đảng, chính quyền đoàn thể trong quy hoạch đào tạo, có
năng lực học tập, rèn luyện để trở thành cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cấp
cơ sở, Trưởng, Phó phòng ban quận, huyện, thị xã; Trưởng, Phó phòng, ban
thuộc sở, ban ngành của tỉnh, thành phố.
- Có trình độ văn hóa tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc tương đương
trở lên.
- Có đủ sức khỏe để học tập.

- Tuổi đời dưới 40.
- Được tổ chức Đảng, chính quyền giới thiệu và tự nguyện đi học


b) Học viên học các lớp tại chức:
Giống như điểm a nhưng tuổi đời trên 40.
c) Học viên các lớp hoàn chỉnh:
- Là cán bộ Đảng, chính quyền đoàn thể trong quy hoạch đào tạo, có
năng lực học tập, rèn luyện để trở thành cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cấp
cơ sở, trưởng, phó phòng ban quận, huyện, thị xã; trưởng, phó phòng, ban
thuộc sở, ban ngành của tỉnh, thành phố.
- Có trình độ văn hóa tốt nghiệp Đại học
- Có đủ sức khỏe để học tập.
- Được tổ chức Đảng, chính quyền giới thiệu và tự nguyện đi học
* Quy chế chiêu sinh(24):
- Căn cứ tiêu chuẩn, nhu cầu, quy hoạch cán bộ, nhà trường phối hợp với
cấp ủy, chính quyền chiêu sinh các lớp đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của
Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân ở cấp cơ sở.
- Thông báo chiêu sinh gửi về các cơ quan, đơn vị cử người đi học trước
30 ngày kể từ ngày nhập học.
- Giấy báo nhập học gửi cho cá nhân được cử đi học ít nhất là 15 ngày
trước ngày khai giảng.
* Các loại chương trình đào tạo- bồi dưỡng cán bộ, công chức tại
Trường Chính trị TP. Cần Thơ (25) :
- Chương trình Trung cấp lý luận chính trị.
- Chương trình Trung cấp Hành Chính.
- Chương trình Trung cấp lý luận chính trị- Hành Chính.
- Chương trình Hoàn chỉnh Trung cấp lý luận chính trị.
- Chương trình bồi dưỡng kiến thức QLNN ngạch chuyên viên.
- Chương trình bồi dưỡng kỹ năng văn phòng.

* Hình thức đào tạo tại trường Chính trị:
- Hình thức đào tạo tập trung:
Học viên học tập trung theo học kỳ tại trường đến hết thời gian đào tạo
theo quy định.
- Đào tạo tại chức:
Tùy theo nội dung chương trình mỗi môn học dài hay ngắn mà học viên
tập trung học từ 01 hoặc 02 tuần mỗi tháng tại trường.
- Đào tạo “Hiệp quản”:


Thực chất của hình thức đào tạo này là liên kết với các Trung tâm bồi
dưỡng chính trị quận, huyện. Học viên ở quận, huyện nào thì học ở tại trung
tâm quận, huyện đó. Đây là hình thức có hiệu quả hiện nay vì nó kết hợp yêu
cầu nâng cao trình độ và điều kiện công tác, đi lại và ăn ở của cán bộ, công
chức và cán bộ chính quyền cơ sở.
Trên cơ sở Điều 4 Nghị định 161/2003/QĐ-TTg ngày 04/08/2003 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng rất
cụ thể căn cứ vào tiêu chuẩn, chức danh cán bộ, công chức. Để nội dung
chương trình đào tạo có cấu trúc hợp lý giữa các thành phần kiến thức lý luận
chính trị, quản lý nhà nước, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, có tính thiết thực
trong công việc hàng ngày. Học viện Chính trị-hành chính Quốc gia đã chú
trọng đến công tác biên soạn chương trình, giáo trình để phù hợp với đối tượng
cán bộ, công chức cho từng địa bàn khác nhau kết hợp với việc giao lưu, mở
rộng hợp tác với nhiều nước có nền hành chính phát triển về lĩnh vực đào tạo
cán bộ, công chức để đưa những luận cứ sát đáng hay những kinh nghiệm thực
tiễn vào giáo trình giúp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng có hiệu quả hơn.

(23), (24) và (25)

Quyết định số 268/QĐ-HVCT-HCQG, ngày 03 tháng 02 năm 2010 của Giám đốc Học

viện Chính trị -Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

* Phương pháp giảng dạy:
- Phương pháp thuyết trình: chủ yếu truyền đạt kiến thức theo kiểu “thầy
nói” và “trò nghe”. Đây là phương pháp cổ điển nhất nhưng được sử dụng ở
một số trung tâm quận, huyện do thiếu phương tiện hỗ trợ (máy chiếu) và lớp
đông học viên hoặc một số báo cáo viên thỉnh giảng.
- Phương pháp giảng theo tình huống: phương pháp này được hiểu là sau
khi nghe giảng lý luận, học viên phải dùng kiến thức lý luận đó để phân tích và
xử lý vụ việc phát sinh ở địa phương. Phương pháp giảng dạy này đáp ứng
được mục tiêu đào tạo của những nhà lãnh đạo, quản lý giỏi, người có nghiệp
vụ chuyên môn cao đủ năng lực xử lý các vấn đề phát sinh ở cơ sở đúng đường
lối của đảng và pháp luật của nhà nước. Phương pháp giảng dạy theo tình
huống thường được áp dụng cho các bài thuộc bộ môn nhà nước, pháp luật,
quản lý hành chính nhà nước, xây dựng đảng.
- Phương pháp hiện đại: Phương pháp này được sử dụng phổ biến hiện
nay tại Trường Chính trị thành phố Cần Thơ đối với giảng viên trẻ. Giáo án
điện tử này rất sinh động và phong phú, luôn cuốn người học tập trung vào bài
giảng nhiều hơn.
2.2.3.2 Nội dung chương trình đào tạo tại trường Chính trị TP. Cần
Thơ, thời gian đào tạo.


Hiện tại, Trường Chính trị TP. Cần Thơ áp dụng Nghị định số
18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 03 năm 2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi
dưỡng công chức ở Điều 6 Chương II bao gồm:
- Lý luận chính trị;
- Chuyên môn, nghiệp vụ;
- Kiến thức pháp luật; kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước và quản lý
chuyên ngành;

Bên cạnh đó, tùy theo từng lớp mà trường có chương trình đào tạo cụ thể
dựa trên kế hoạch số 04/KH-UBND ngày 27/01/2011 của UBND TP. Cần Thơ
về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và kế hoạch giảng dạy của Trường
Chính trị TP. Cần Thơ năm 2011 triển khai các chương trình, cụ thể như
sau(26):
+ Chương trình trung cấp lý luận chính trị:
Chương trình này gồm 12 học phần với 2530 tiết, trong đó có 866 tiết về
quản lý nhà nước do học viện Hành chính biên soạn chiếm 1/3 tổng số tiết
chương trình. Đây là chương trình đào tạo tổng hợp cho cán bộ đảng và chính
quyền cơ sở
(25)

Quyết định số 484/2002/QĐ-HVCTQG về chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo Đảng, Chính
quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở hệ trung cấp

nắm vững kiến thức lý luận chính trị và kiến thức quản lý nhà nước có trong hệ
thống và tương đối đầy đủ đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thời gian đào tạo: 12 tháng
+ Chương trình trung cấp Hành chính:
Nội dung chương trình được bố trí thành 20 môn học hoàn chỉnh được
thực hiện trong 2 năm. Người học không những được trang bị những lý luận cơ
bản về chính trị, triết học, kinh tế và điều quan trọng là học kỹ về chuyên môn
nghiệp vụ hành chính đủ để giải quyết các tình huống cụ thể khi thi hành công
vụ.
Thời gian đào tạo: 24 tháng
+ Chương trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính:
Dựa trên chương trình trung cấp lý luận chính trị và thêm 3 học phần của
quản lý nhà nước: nhằm giúp cho học viên cả về chính trị lẫn ngạch.
Thời gian đào tạo: 24 tháng
+ Chương trình bồi dưỡng chuyên viên: gồm 24 chuyên đề và phần

ngoại khóa với tổng số 700 tiết. Đối tượng là cán bộ, công chức có trình độ đại
học đang hưởng lương ngạch chuyên viên và tương đương. Ngoài những kiến
thức cơ bản về Nhà nước và pháp luật, chương trình tập trung vào những vấn


đề quản lý hành chính và các nghiệp vụ kỹ thuật hành chính nhằm giúp người
học thực hiện công tác chuyên môn nghiệp vụ của mình ở công sở.
Thời gian đào tạo: 08 tuần
+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức hành chính văn phòng: gồm 13
chuyên đề, với tổng số 140 tiết; chương trình này áp dụng cho hai đối tượng.
Một là, những người phụ trách công tác hành chính văn phòng. Hai là, những
người thực thi công tác hành chính văn phòng thì nội dung đi sâu vào nghiệp
vụ cụ thể.
Thời gian đào tạo: từ 03 ngày trở xuống.
* Kết quả xếp loại tốt nghiệp điển hình ở một số lớp tại trường:
Tên lớp
Trung cấp LLCT-HC

Số
lƣợng

Năm học

51

Xếp loại
Giỏi

khá


Trung bình

2009-2010

0

2 (3,9%)

49 (96,1%)

95

2009-2010

2 (2,1%)

29
(30,52%)

64
(67,36%)

69

2009-2010

4 (5,79%)

14
(20,28%)


51
(73,91%)

tập trung – khóa I
Trung cấp LLCT-HC
tại chức - khóa 21
Hoàn Chỉnh TC LLCT
tại chức - khóa IX

Năm 2004, khi chia tách tỉnh Cần Thơ để thành lập tỉnh Hậu Giang và
thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương, Trường Chính trị tỉnh Cần Thơ
cũng được sắp xếp làm hai bộ phận nhân sự để thành lập Trường Chính trị Hậu
Giang và Trường Chính trị thành phố Cần Thơ; mặc dù số lượng biên chế giảm
xuống, nhưng nhà trường vẫn đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được
Thành ủy, UBND thành phố giao trong thời kỳ mới. Hoạt động mở lớp được
quan tâm tổ chức thực hiện với nhiều chương trình và phương thức học tập,
theo số lượng lớp hằng năm thì nhu cầu về học tập lý luận chính trị ngày càng
tăng lên. (Số lƣợng lớp đào tạo theo từng năm đƣợc đính kèm ở phần sau trang
phụ lục)
2.3 Thực trạng công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức nói
chung và công tác đào tạo cán bộ, công chức tại trƣờng Chính trị thành
phố Cần Thơ
2.3.1 Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cả nước

Theo một kết quả điều tra mới đây (26), cả nước có khoảng 195.422 cán
bộ công chức hành chính từ Trung ương đến các huyện, thị; cán bộ công chức
cấp xã là 192.438 người. Trong đó, cán bộ công chức có trình độ đại học trở lên
chiếm 59,9%, có trình độ trung cấp là 33,96%, trình độ sơ cấp là 5,84%. Điều
đó cho thấy cán bộ công chức có trình độ chuyên môn chưa cao, hiện có tới 1/3

tổng đội ngũ có trình độ trung cấp.


×