Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH TRÁCH NHIỆM bồi THƯỜNG THIỆT hại DO súc vật gây RA lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.7 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
(Niên khóa 2009 – 2013)

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT
GÂY RA: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giảng viên hướng dẫn:
Th.s: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

Sinh viên thực hiện:
Chao Thị Mỹ Lệ
MSSV: 5095431
Lớp: Luật Hành chính – K35

Cần Thơ, tháng 6/2012


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..


……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU------------------------------------------------------------------------------01
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO SÚC VẬT GÂY RA -----------------------------------------------------------------04

1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây --------------------04
1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra--------------09
1.3. Sự cần thiết nghi nhận pháp lý bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra---------13
1.4. Lược sử phát triển chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc
vật gây ra ------------------------------------------------------------------------------------15
CHƯƠNG 2. QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT GÂY RA ----------------------------23
2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây
ra ---------------------------------------------------------------------------------------------23
2.1.1. Có hoặt động gây thiệt hại trái pháp luật của súc vật -----------------------23
2.1.2. Có thiệt hại do súc vật gây ra-----------------------------------------------------26
2.1.3. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại_người có trách nhiệm
bồi thường bị suy đoán là có lỗi trong quản lý súc vật -----------------------------26
2.1.4. Có mối quan hệ nhân quả giữa sự tác động gây thiệt hại của súc
vật với thiệt hại xảy ra --------------------------------------------------------------------28
2.1.5. Những trường hợp không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại --------------------------------------------------------------------------------------------28
2.2. Xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
------------------------------------------------------------------------------------------------28
2.2.1. Vấn đề xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
súc vật gây ra -------------------------------------------------------------------------------28
2.2.2. Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra--------------29
2.2.2.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu và người chiếm
hữu hợp pháp súc vật ----------------------------------------------------------------------29


2.2.2.2.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng
súc vật trái pháp luật với người thứ ba có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại
cho người khác -----------------------------------------------------------------------------31
2.2.2.3. Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra do nhiều người cùng thực

thực -------------------------------------------------------------------------------------------32
2.2.2.4. Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra thả rông theo tập quán gây
thiệt hại --------------------------------------------------------------------------------------34
2.3. Thủ tục giải quyết tranh chấp và thi hành án về bồi thường thiệt
hại do súc vật gây ra. --------------------------------------------------------------------35
2.3.1. Thủ tục giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do súc vật
gây ra ----------------------------------------------------------------------------------------35
2.3.1.1. Việc xác định các đương sự trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra-----------------------------------------------------------------35
2.3.1.2. Việc xác định Tòa án có thẩm quyền để thực hiện việc khởi kiện
bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra ---------------------------------------------------37
2.3.2. Vấn đề thi hành án về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra --------------42
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG THIỆT DO SÚC VẬT GÂY RA VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN---------------------------------------------------------------------------------------43
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật vể bồi thường thiệt hại do súc vật
gây ra ----------------------------------------------------------------------------------------43
3.1.1. Tình hình chung áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do súc
vật gây ra ------------------------------------------------------------------------------------43
3.1.2. Một số vướng mắc -----------------------------------------------------------------45
3.1.2.1. Việc áp dụng súc vật thả rông theo tập quán và xác định mức độ
lỗi của chủ thể ------------------------------------------------------------------------------45
3.1.2.2. Việc xác định một động vật khi nào là súc vât khi nào là nguồn
nguy hiểm cao độ ---------------------------------------------------------------------------47
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những vấn đề về bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra ---------------------------------------------------------------50


3.2.1. Về khái niệm trách nhiệm bồi thường do súc vật gây thiệt hại làm
bình diện chung cho nghiên cứu và áp dụng thực tiễn pháp luật-----------------50

3.2.1. Về xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường --------------------51
3.2.2. Về phân biệt một động vật khi nào là súc vât khi nào là nguồn
nguy hiểm cao độ --------------------------------------------------------------------------51
3.2.3. Cần quy định cụ thể hơn về trách nhiệm dân sự của chủ thể trong
trường hợp súc vật đang mắc các dịch bệnh và công nhận vận dụng tập
quán ------------------------------------------------------------------------------------------52
3.2.4. Về điều kiện phát sinh làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại -------------------------------------------------------------------------------------------52
KẾT LUẬN---------------------------------------------------------------------------------54


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại của trách nhiệm
dân sự được áp dụng khi có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật hoặc tài sản của
một chủ thể nào đó đã gây ra trong thực tế một thiệt hại. Bộ luật Dân sự 2005 đã
qui định khá chi tiết và hệ thống đối với loại trách nhiệm này. Trong đó, có những
qui định về những thiệt hại do chính hành vi của con người gây nên và những qui
định về thiệt hại do súc vật gây thiệt hại.
Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
hiện nay do quá trình đô thị hoá, xây dựng mới các khu kinh tế, khu du lịch, các
công trình hạ tầng cơ sở ngày càng nhiều. Các phương tiện giao thông cơ giới, các
máy móc thiết bị ngày càng hiện đại hoạt động với công suất lớn…mà đặc tính
chứa đựng những nguy hiểm khách quan trong quá trình chiếm hữu, quản lý, kiểm
soát, hoạt động dễ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản cho con người
ngày càng lớn, làm phát sinh trách nhiệm bồi thường do tự thân súc vật này gây
thiệt hại. Một yêu cầu khách quan là sự điều chỉnh của pháp luật phải phù hợp với
thực tế cuộc sống và xã hội Việt Nam, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và

nền kinh tế thị trưòng. Với những điểm còn thiếu vắng của chế định này làm cho
cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi áp dụng
qui định của pháp luật để giải quyết đối với loại trách nhiệm này cần được khắc
phục kịp thời.
Ở nước ta hiện nay thì vấn đề súc vật thuộc quyền sở hữu của chủ thể ngày
càng trở nên phức tạp và đa dạng. Vì thế, "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn" cũng đặt ra nhiều hơn những vấn đề lý luận
và thực tiễn cần giải quyết.
Tuy nhiên, quy định về trách nhiệm bổi thường thiệt hại do súc vật gây ra
trong Bộ luật Dân sự 2005 còn rất chung chung chỉ mang tính định hướng trong
quá trình áp dụng, thông qua một điều luật cụ thể chưa thể khái quát được những
tình huống, những vấn đề vướng mắc, thiếu sót gặp phải trong thực tế. Do đó,
thông qua Điều 625 Bộ luật Dân sự 2005 người viết chọn đề tài, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do súc vật gây ra lý luận và thực tiễn, nhằm hoàn thiện hơn quy

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

1

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, giúp người đọc có
một cách nhìn và cách hiểu khái quát nhất về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
đúng theo tinh thần pháp luật Việt Nam, tạo tiền đề cho các quy định sau này hoàn
thiện hơn. Thông qua việc nghiên cứu đề tài sẽ có những phân tích, luận giải về
vấn đề nghiên cứu, tìm ra những thiếu khuyết trong qui định đó, đưa ra hướng
hoàn thiện pháp luật về chế định này nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp

luật. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định của pháp luật về
trách nhiệm dân sự do súc vật gây thiệt hại là việc làm có ý nghĩa quan trọng và
cũng là một trong các nhu cầu cấp bách đối với khoa học pháp lý dân sự ở Việt Nam
hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này người viết tập trung nghiên cứu làm rõ: một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của những quy định của pháp luật về loại trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do súc vật gây ra, đồng thời tìm hiểu quy định của Bộ luật Dân sự và các văn
bản pháp luật liên quan về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra và
qua đó, đối chiếu, so sánh giữa quy định của pháp luật với thực tiễn về loại trách
nhiệm này. Từ đó người viết đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở pháp
lý và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật
gây ra, góp phần bảo đảm việc nhận thức và áp dụng quy định của pháp luật được
thống nhất trong thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, nội dung, bản
chất quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
nhằm làm sáng tỏ các vấn đề xoay quanh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do súc vật gây ra như: chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây
ra, người chiếm hữu, sử dụng súc vật trái pháp luật, người thứ ba có lỗi làm súc
vật gây thiệt hại cho người khác, xác định trách nhiệm của các chủ thể trong việc
bồi thường thiệt hại, … những vấn đề lý luận và thực tiễn theo quy định của pháp
luật dân sự Việt Nam. Và các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ
luật Dân sự về loại trách nhiệm này, những tài liệu liên quan đến vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp phân tích, so sánh, diễn giải,
quy nạp, tổng hợp, chứng minh...

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

2


SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của học thuyết Mác – Lênin về
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhằm tìm ra mối liên
hệ giữa các hiện tượng để đánh giá các vấn đề nghiên cứu một cách khoa học. Các
phương pháp luận kết hợp với một số phương pháp phân tích, so sánh, diễn giải,
tổng hợp, ... cũng được sử dụng hợp lý trong quá trình thực hiện đề tài.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài các phần mục lục, lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn bao gồm 3 chương. Cụ thể:
Chương 1: Lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây
ra.
Chương 2: Quy chế pháp lý về việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do súc vật gây ra.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do súc vật gây
ra và kiến nghị hoàn thiện.

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

3

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO SÚC VẬT GÂY RA
1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây
* Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại được Bộ luật Dân sự 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung và chương XXI về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm
trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm,
nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường…
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống
trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của
mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người
vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó
phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi
bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại.
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách
nhiệm Dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình
gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
* Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước
áp dụng đối với người xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản và các quyền lợi ích hợp pháp của người khác. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thể hiện trong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn
được gọi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một hình thức cụ thể của
trách nhệm dân sự. Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy

định. Các điều kiện đó là: có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

4

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây
thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để
xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây
ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm có thể bồi thường
thiệt hại phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên.
Pháp luật quy định căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng tại các quy định sau:
Một là, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 604 Bộ luật Dân sự 2005. 1
Hai là, theo Nghị Quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật Dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo quy định tại
Điều 604 Bộ luật Dân sự 2005, về nguyên tắc chung thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây: phải có
thiệt hại xảy ra, phải có hành vi trái pháp luật. phải có mối quan hệ nhân quả giữa
thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật, phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người
gây thiệt hại. 2
Như vậy, pháp luật quy định các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh vào các trường hợp làm căn cứ nêu trên.

Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân
thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ xác định cơ sở
giải quyết bồi thường theo hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ rất khác nhau. Chính vì
vậy, xác định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật
dân sự một cách đúng đắn.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự
mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho
1

Xem Khoản 1 Khoản 2 Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2005
Xem Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
2

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

5

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách
nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy

định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì
phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
So với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một số khác biệt như: về cơ sở phát sinh trách
nhiệm, về điều kiện phát sinh trách nhiệm, về chủ thể chịu trách nhiệm, về mức
bồi thường.
Việc phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặc biệt có ý nghĩa trong việc thực hiện
nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo
hợp đồng nguyên đơn chỉ cần chứng minh thiệt hại là do người gây thiệt hại đã
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra còn trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bên bị thiệt hại ngoài việc chứng minh
thiệt hại còn phải chứng minh hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
* Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
Theo quy định chung của pháp luật thì công dân và pháp nhân có quyền được
bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp pháp… Tại Điều 1, Sắc lệnh 97/SL ngày 22.5.1950
đã ghi nhận : "Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nó
đúng với quyền lợi của nhân dân". Trong Hiến Pháp 1992 (Đạo luật cơ bản của
Nhà nước) đối với tài sản của công dân đã ghi nhận cụ thể: "Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.3 Bộ luật Dân sự 2005
cũng ghi nhận cá nhân có quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân
không gắn với tài sản, quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài
sản.4 Pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu tài sản và quyền được
hưởng lợi từ tài sản của các chủ sở hữu, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho chủ sở
hữu những nghĩa vụ khi thực hiện các quyền năng pháp lý của họ. Như vậy pháp
luật qui định, khi tài sản của bất kỳ chủ sở hữu nào mà gây thiệt hại trái pháp luật
cho chủ thể khác thì Nhà nước sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhất định
3
4


Xem Điều 58 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
Xem Điều 15 Bộ luật Dân sự năm 2005.

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

6

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

nhằm mục đích khắc phục những hậu quả xấu về tài sản và tinh thần, khôi phục lại
tình trạng vốn có ban đầu cho người bị thiệt hại. Việc khắc phục những tổn hại
được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nghĩa vụ gây ra chính là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Thông thường, thiệt hại xảy ra thường
do hành vi của con người gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều khi tài sản cũng có
thể tự bản thân nó gây ra tổn hại cho người khác ví dụ như nhà, công trình xây
dựng bị sụt, cây cối bị đổ, gẫy, súc vật cắn, húc người… Chính vì vậy, ngoài trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra thì pháp luật còn quy
định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra.
Trong thực tiễn sản xuất và đời sống xã hội của con người, súc vật đã trở
thành thú nuôi phổ biến, chăn nuôi trong nhà của con người, như: trâu, bò, lợn…
bản chất súc vật là động vật hoang dã, mang bản tính thú dữ đã được con người
thuần hóa, kiểm soát được hoạt động và tuân thủ theo sự quản lý của con người.
Tuy nhiên, trên thực tế xuất phát từ bản tính tự nhiên hoặc do lỗi quản lý của con
người, mà khi hoạt động súc vật có thể gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng hoặc
tài sản cho chính con người. Thực tế đó đã đặt ra một vấn đề pháp lý cần xác định
trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức với tư cách là chủ sở hữu súc vật, người
chiếm hữu, sử dụng súc vật hoặc người thứ ba trong việc bồi thường những thiệt

hại do súc vật gây ra.
Theo từ điển Tiếng Việt súc vật là thú vật nuôi trong nhà.5 Về mặt nội dung
thì súc vật là vật nuôi trong nhà đã được con người thuần hóa. Bản chất súc vật là
động vật hoang dã, mang bản tính thú dữ đã được con người thuần hóa, kiểm soát
được hoạt động và tuân thủ theo sự quản lý của con người. Tuy nhiên có những
loại động vật còn mang bản tính hoang dã, chưa được thuần hóa ví dụ: ong bò vẽ,
rắn độc… thì khi gây thiệt hại thì cần coi đây là nguồn nguy hiểm cao độ vì đây là
loại động vật còn mang tính hoang dã, chưa được thuần hóa và có tính chất nguy
hiểm lớn, luôn tìm ẩn khả năng gây thiệt hại Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự
2005 quy định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: “Nguồn
nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải
điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc,
5

Xem Từ điển tiếng Việt, trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia NXB Văn hóa Sài Gòn năm
2005, trang.

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

7

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy
định”.6
Nguồn nguy hiểm cao độ theo Điều 623 Bộ luật Dân sự 2005 được hiểu là
những vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt động vận hành, sản xuất, vận chuyển, bảo

quản... chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những
người xung quanh. Khái niệm cụ thể của những loại nguồn nguy hiểm trên được
quy định trong nhiều văn bản khác nhau7. Tính nguy hiểm của nó khác súc vật gây
ra ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối nguy cơ gây thiệt
hại, bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường
xung quanh. Mặc dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một
cách an toàn nhưng vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm
ngoài sự kiểm soát đó.
Theo người viết, khi xem xét sự vật gây thiệt hại có phải là nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra hay do súc vật gây ra hay không, cần căn cứ vào quy định của pháp
luật liên quan đến việc trông giữ, sử dụng, tính chất của sự vật như: mức độ nguy
hiểm, khả năng kiểm soát, quản lý của con người đối với sự vật.
Trong Bộ luật Dân sự 1995 cũng như Bộ luật Dân sự 2005 chỉ qui định một
cách bao quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó, có qui
định về trách nhiệm bồi thường trong một số trường hợp cụ thể có tính chất đặc
biệt mà không có quy định về khái niệm cũng như không có các quy định chung
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra. Qua qui định của pháp luật
Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung cũng như
qui định điều 625 Bộ luật Dân sự 2005 qui định về bồi thường thiệt hại do súc vật
gây ra các loại súc vật gây thiệt hại, có thể hiểu: bồi thường thiệt hại do súc vật
gây ra là là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng của chủ sở hữu, người chiếm hữu
hoặc người thứ ba khi họ có lỗi để súc vật gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và
tài sản cho cá nhân hoặc các tổ chức khác…
1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra là loại trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng phát sinh khi có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật của súc vật. Và
6

Xem Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Xem “Giáo trình Luật dân sự”, Tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân 2008 tr 308,

309.

7

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

8

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cũng mang những đặc điểm của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Tuy nhiên trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra nguyên nhân gây ra thiệt hại không phải là
do hành vi của con người mà là do bản thân súc vật gây ra. Đặc điểm pháp lý của
loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại này là phát sinh theo qui định của pháp luật
và là hậu quả pháp lý nằm ngoài mong muốn của chủ thể (chủ sở hữu súc vật,
người chiếm hữu, sử dụng súc vật, người thứ ba và bên bị thiệt hại) mà không có
sự thỏa thuận trước giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại, đồng thời bên gây
thiệt hại có lỗi. Khác với các trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác,
chủ sở hữu súc vật, người chiếm hữu, sử dụng súc vật, người thứ ba gây thiệt hại
không trực tiếp bằng hành vi của mình mà lại thông qua hoạt động của súc vật và
họ bị suy đoán là có lỗi trong quản lý hoạt động của chúng. Việc gây thiệt hại của
súc vật trong quá trình hoạt động xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau. Chính vì
vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra còn có những nét đặc thù
riêng: về điều kiện phát sinh trách nhiệm, về chủ thể chịu trách nhiệm dân sự do
súc vật gây ra, về năng lực chịu trách nhiệm, về đối tượng bị xâm phạm.
* Về điều kiện phát sinh trách nhiệm.

Nếu như các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói chung bao gồm có bốn điều kiện là: có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái
pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra,
có lỗi của người gây thiệt hại. Thì các điều kiện xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra trong loại trách nhiệm này không bao hàm hành vi gây
thiệt hại trái pháp luật của súc vật mà lại thông qua hoạt của súc vật tác động trực
tiếp gây thiệt hại đó là: có thiệt hại thực tế xảy ra, có hoạt động gây thiệt hại trái
pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật và
thiệt hại thực tế đã xảy ra, có lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại người có
trách nhiệm bồi thường bị suy đoán là có lỗi trong quản lý súc vật.
Trong thực tế của đời sống xã hội, có những thiệt hại phát sinh không phải do
lỗi trực tiếp từ con người mà là do các tài sản, thậm chí do súc vật gây ra. Và sẽ
không hợp lý khi một đồ vật gây thiệt hại lại xét đến yếu tố hành vi. Thuật ngữ
hành vi gây thiệt hại trái pháp luật chỉ đúng khi thiệt hại do con người, thực thể
của quan hệ xã hội và là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự gây ra.

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

9

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

Vì vậy, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra chỉ cần xác
định đúng hoạt động gây thiệt hại của súc vật là nguyên nhân có thể gây thiệt hại
về sức khỏe, tính mạng hoặc tài sản cho chính con người thì chủ thể súc vật bị suy
đoán có lỗi trong quản lý và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thiệt hại xảy ra nhất thiết phải có nguyên nhân xác định mà không thể là tự

nhiên. Theo quan điểm của triết học, nguyên nhân và kết quả luôn có mối liên hệ
nối tiếp nhau, nguyên nhân bao giờ cũng đi trước, là cái sinh ra kết quả, nhưng
một kết quả có thể lại do nhiều nguyên nhân sinh ra hoặc ngươc lại. Vì vậy khi xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai, cần xem xét thiệt hại đó do các
nguyên nhân nào gây ra, các nguyên nhân đó do đâu mà có… Nếu không xác định
được mối quan hệ nhân quả, nghĩa là không xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại
sẽ dễ dẫn đến các sai lầm khi áp dụng trách nhiệm dân sự.
Theo quan niệm truyền thống yếu tố lỗi chỉ được xem xét khi gắn với một
chủ thể xác định. Vì vậy, người ta cho rằng gắn lỗi cho đồ vật khi chúng gây thiệt
hại là không thể xảy ra. Tuy nhiên, theo nguyên tắc chung, lỗi trong dân sự là lỗi
suy đoán cho nên trong trường hợp súc vật gây thiệt hại thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe và tài sản cho các chủ thể dân sự thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng
súc vật bị suy đoán có lỗi trong quản lý và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Việc suy đoán lỗi sẽ không áp dụng trong trường hợp, gia súc gây thiệt hại do
lỗi hoàn toàn thuộc về người chiếm hữu, sử dụng súc vật trái pháp luật, người thứ
ba hoặc của chính người bị thiệt hại.
* Về chủ thể chịu trách nhiệm dân sự do súc vật gây ra.
Trong thực tế, nhiều trường hợp sự kiện gây thiệt hại của đồ vật diễn ra trong
một quá trình và có thể nói là không liên quan gì đến trạng thái tâm lý hay nhận
thức của chủ sở hữu. Nói cách khác sự kiện gây thiệt hại của đồ vật nằm ngoài
mong muốn cũng như sự kiểm soát của chủ sở hữu. Để nâng cao trách nhiệm của
chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật và theo nguyên tắc công bằng thông
thường thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật bị suy đoán có lỗi trong
quản lý và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc sở hữu hoặc quyền
quản lý của mình gây ra.
Việc xác định chủ thể trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây
ra cũng có những điểm khác biệt. Nếu xác định chính xác chủ sở hữu đối với súc

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền


10

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

vật, thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường là công bằng và hợp lý. Vì
vậy, để bảo đảm sự công bằng, cần xác định theo tiêu chí sau:
Xác định rõ chủ sở hữu, người chiếm hữu quản lý và sử dụng súc vật mà gây
thiệt hại cho chủ thể khác thì họ phải có trách nhiệm bồi thường.
Nếu người chiếm hữu, sử dụng súc vật trái pháp luật, người thứ ba có lỗi để
súc vật gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự trong trường hợp súc vật gây
thiệt hại.
Người thứ ba có lỗi để súc vật gây thiệt hại cho người khác mà gây thiệt hại
cho súc vật của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp súc vật thì phải bồi thường
thiệt hại.
Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật có lỗi trong quản lý súc vật để
người thứ ba dùng các hành vi tác động đến súc vật làm cho súc vật gây thiệt hại
cho người khác, thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật súc vật và người thứ
ba có lỗi cùng liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Đối với trường hợp súc vật thuộc sở hữu Nhà nước gây thiệt hại thì lại có
những đặc thù riêng. Do Nhà nước là một chủ thể đặc biệt có rất nhiều đặc quyền
và có thể được miễn trừ trách nhiệm nên theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành, Nhà nước mới chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của
cán bộ, công chức Nhà nước gây ra. Do đó, trong trường hợp súc vật của Nhà
nước gây ra thiệt hại thì Nhà nước chỉ hỗ trợ cho người bị thiệt hại mà không phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại và người bị thiệt hại sẽ phải gánh chịu một
rủi ro.
* Về năng lực chịu trách nhiệm.

Theo quy định tại Điều 606 Bộ luật Dân sự 2005 về năng lực chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân thì:
Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì
cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để
bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó
để bồi thường phần còn thiếu.

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

11

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ
phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà
có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám
hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản
để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu
người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không
phải lấy tài sản của mình để bồi thường.8
Theo quy định trên thì người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự gây thiệt hại thì có thể cha, mẹ hoặc người giám hộ phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, quy định này chỉ có thể áp dụng đối với trường
hợp thiệt hại là do hành vi của con người gây ra còn nếu thiệt hại là do tài sản gây

ra thì nguyên tắc này không thể được áp dụng bởi lẽ cha mẹ chỉ có thể bị suy đoán
là có lỗi trong việc giáo dục, quản lý con cái để con cái có hành vi trái pháp luật
gây ra thiệt hại cho người khác. Còn trong trường hợp súc vật gây thiệt hại chủ thể
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra phải là chủ sở hữu súc vật
đó hoặc người đang chiếm hữu, quản lý súc vật chứ không thể là cha mẹ hoặc
người giám hộ. Nếu cha, mẹ, người giám hộ cũng là người quản lý súc vật thì họ
cũng có thể là người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Mặc dù người
chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự không có năng lực tố tụng
nhưng người đại diện của họ có thể tham gia còn trách nhiệm vẫn phải thuộc về
những người này và họ phải bồi thường.
* Về đối tượng bị xâm phạm.
Nếu đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói chung có thể là sức khoẻ, tính mạng, tài sản danh dự, nhân phẩm, uy tín,
thì đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường do súc vật gây ra chỉ bao
gồm thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe,còn thiệt hại về danh dự, nhân phẩm,
uy tín không thuộc phạm vi tác động gây thiệt hại của súc vật. Điều này được lý
giải theo hướng, danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị nhân thân gắn liền
với từng cá nhân và danh dự, uy tín gắn liền với từng tổ chức nhất định. Trong
8

Xem Điều 606 Bộ luật Dân sự năm 2005.

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

12

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn


trường hợp bị xâm phạm đến các giá trị kể trên thường được thông qua hành vi
của con người dưới dạng hành động (như thông qua lời nói, chữ viết, hành vi cụ
thể) trong sự tác động của quá trình nhận thức cũng như ý thức tôn trọng các
quyền tuyệt đối này và ý thức chấp hành pháp luật của con người. Tuy nhiên việc
xâm phạm các lợi ích này có thể dẫn đến tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt
hại hay thân nhân của họ, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc xác định đối
tương bị xâm hại trong trường hợp súc vật gây thiệt hại lại là danh dự, nhân phẩm,
uy tín.
1.3. Sự cần thiết nghi nhận pháp lý bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói riêng là một quan hệ pháp luật dân sự, theo đó người gây ra
thiệt hại trong những điều kiện mà pháp luật quy định phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại do hành vi trái pháp luật của họ gây ra. Trong quan hệ nghĩa vụ này bên
bị thiệt hại được coi là người có quyền và có quyền yêu cầu bên gây thiệt hại là
người có nghĩa vụ phải bồi thường những thiệt hại đã xảy ra.
Trong đời sống thực tế hiện nay bên cạnh những thiệt hại do hành vi của con
người gây ra, có nhiều thiệt hại do tài sản gây ra mà cụ thể là do súc vật gây ra.
Vấn đề xác định trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu, người sử dụng súc vật, súc
vật khi có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác, hoặc trách nhiệm
của chủ sở hữu đối với các thiệt hại do súc vật, súc vật thuộc sở hữu của người đó
gây ra cho con người, cho xã hội ngày càng có ý nghĩa thực tế quan trọng.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật nhiều vấn đề mới đã xuất hiện
và gây khó khăn trong thực thi pháp luật khi phải áp dụng trách nhiệm dân sự. Để
đối phó với tình trạng này, từ lâu các luật gia trên thế giới đã bàn luận nhiều về
chủ đề: làm sao có thể tạo thêm những điều kiện thuận lợi nhất để bảo vệ nhanh và
kịp thời khi các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm hại.
Các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra đã tạo
cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến thiệt hại do
súc vật gây ra. Ngoài ra, cơ sở của trách nhiệm dân sự nói chung còn được xây

dựng trên nguyên tắc lỗi. Theo nguyên lý truyền thống, người bị thiệt hại muốn
được bồi thường còn phải dẫn chứng lỗi của người gây thiệt hại, ngoài ra họ còn
có trách nhiệm chứng minh sự thiệt hại (những tổn thất thực tế) do người có hành

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

13

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

vi vi phạm pháp luật gây ra phải gánh chịu khi do chính lỗi của người đó gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra đã mở ra một hướng giải quyết
tranh chấp, theo đó, khi súc vật gây ra thiệt hại, chủ sở hữu, người đang quản lý
súc vật đương nhiên bị coi là có lỗi.
Với quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, quyền lợi
của người bị thiệt hại được bảo đảm. Việc xác định trách nhiệm trên nguyên tắc lỗi
và trách nhiệm chứng minh của người có quyền, lợi ích bị xâm phạm nhiều khi rất
phức tạp và có thể còn có những bất lợi cho người bị thiệt hại. Nhiều trường hợp
tai nạn xảy ra do súc vật gây ra nhưng không có ai chứng kiến, hoặc thiệt hại thực
tế đã xảy ra nhưng không do lỗi của ai cả mà do súc vậ gây ra. Vì vậy, trong
những trường hợp này, nếu bắt buộc người bị thiệt hại phải dẫn chứng lỗi tức là đã
gián tiếp hạn chế quyền được đòi bồi thường của họ, nhất là những trường hợp
không phải do con người gây ra mà chỉ do súc vật gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cũng nhằm nâng cao ý
thức trách nhiệm của chủ sở hữu, người quản lý súc vật. Chủ sở hữu, người quản
lý súc vật có nghĩa vụ trông coi, quản lý, không để tài sản của mình gây thiệt hại
cho người khác. Để thực hiện nghĩa vụ đó, họ phải tuân thủ các quy tắc trong việc

sử dụng, bảo quản, sử dụng..., kịp thời phát hiện nguy cơ súc vật có thể gây thiệt
hại cho những người xung quanh để có biện pháp phòng ngừa, khắc phục thích
hợp. Khi súc vật gây ra thiệt hại, chủ sở hữu, người quản lý tài sản bị suy đoán là
có lỗi, trừ trường hợp họ chứng minh được lỗi thuộc về người khác.
Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng góp
phần làm minh thị các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
1.4. Lược sử phát triển chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
súc vật gây ra
Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự nếu không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết hoặc do luật định thì phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần. Nguyên tắc được coi là có tính
tất yếu để bảo vệ quyền lợi của các cá nhân và tổ chức đồng thời nhằm mục đích
duy trì trật tự lưu thông dân sự trong xã hội. Tuy vậy, nguyên tắc bồi thường thiệt

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

14

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

hại do vi phạm nghĩa vụ lại là kết quả của một quá trình diễn biến rất lâu dài trong
lịch sử.
Trong thời kỳ cổ xưa khi xã hội chưa có nhiều định chế để giải quyết các vụ
tranh chấp giữa các cá nhân với nhau nên mỗi khi quyền lợi của cá nhân bị xâm
phạm, các cá nhân được tự ý trừng phạt lẫn nhau hoặc bắt đối phương làm nô lệ,
hay tước đoạt tài sản của họ. Đây là chế độ tư nhân phục cừu. Dấu ấn của chế độ

này còn lưu lại trong một số điều của hai Bộ Luật Hồng Đức và Luật Gia Long.
Theo Điều 591 Bộ luật Hồng Đức thì: “Người đòi nợ không trình quan mà tự ý bắt
đồ đạc, của cải của người mắc nợ, nếu quá số tiền trong văn tự thì xử phạt 80
trượng, tính những của cải ấy trả cho người có nợ, còn thừa thì trả cho người mắc
nợ”.9 Như vậy Bộ luật Hồng Đức cho phép bắt đồ đạc để trừ nợ nếu việc trừ nợ
không quá số tiền cho vay. Hạn chế này của Bộ luật Hồng Đức nhằm loại trừ sự tự
tiện của chủ nợ trong việc chiếm đoạt tài sản của con nợ để bù vào số tiền cho vay.
Trong Bộ luật Gia Long, Điều 134 cũng đề cập đến vấn đề này nhưng rõ rệt
hơn. Bộ luật Gia Long cấm các chủ nợ không được tự tiện bắt gia súc hay tài sản
của con nợ và cũng không được bắt thân nhân của họ làm nô tỳ. Ngoài ra, người
gây thiệt hại cũng phải nộp một số tiền chuộc để tránh sự trả thù.
Từ các qui định viện dẫn trên chứng tỏ chế độ tư nhân phục cừu đã xuất hiện
ở Việt Nam. Có thể nói rằng đây là manh nha của chế độ trách nhiệm dân sự cho
dù không có điều khoản nào của hai Bộ luật trên nói đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng cả.
Đến khi bộ máy Nhà nước được tổ chức ổn định trong xã hội thì hai bên
không được tự tiện trả thù hay tự tiện thỏa thuận số tiền chuộc mà việc giải quyết
tranh chấp phải bằng cách bồi thường một khoản tiền mà pháp luật qui định.
Khoản tiền bồi thường này vừa có tính chất là hình phạt vừa có tính chất là bồi
thường. Theo Điều 29 Bộ luật Hồng Đức thì tiền đền mạng được ấn định tùy theo
phẩm trật của kẻ bị chết như sau: nhất phẩm, tòng nhất phẩm được đền 15.000
quan, nhị phẩm, tòng nhị phẩm 9.000 quan, tam phẩm, tòng tam phẩm 7.000 quan,
tứ phẩm, tòng tứ phẩm 5.000 quan, ngũ phẩm, tòng ngũ phẩm 2.000 quan, lục

9

Xem Điều 591 Bộ luật Hồng Đức.

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền


15

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

phẩm, tòng lục phẩm 1.000 quan, thất phẩm, tòng thất phẩm 500 quan, bát phẩm
đến cửu phẩm 300 quan, thứ dân trở xuống 150 quan.10
Trong trường hợp đánh người gây thương tích thì thì người phạm tội ngoài
hình phạt bị đánh roi còn phải bồi thường cho nạn nhân theo mức đã được qui định
trong Điều 466 Bộ Luật Hồng Đức như sau: “sưng phù thì phải đền tiền tổn
thương 3 tiền, chảy máu thì phải 1 quan, gãy một ngón tay, một răng thì đền 10
quan, đâm chém bị thương thì 15 quan. Đọa thai chưa thành hình thì 30 quan, đã
thành hình thì 50 quan, đứt lưỡi, hỏng âm, dương vật thì đền 100 quan. Về người
quyền quí thì xử khác”.11
Riêng Bộ luật Gia Long tiền bồi thường không được đề cập đến. Trong Bộ
luật Gia Long chỉ có Điều 201 qui định về tiền bồi thường cho gia đình nạn nhân
trong trường hợp phạm tội giết người, phạm nhân bị phạm tội chiếu theo điều luật
cố ý đả thương nhân thương chí tử nhưng cho chuộc tội. Tiền chuộc thì giao cho
gia đình nạn nhân để lo chôn cất. Nếu phạm nhân bị phạt tội giảo thì số tiền chuộc
là 12 lạng bạc. Đối với người điên giết người thì số tiền này cũng vậy.12
Bước phát triển tiếp theo của chế định bồi thường thiệt hại đánh dấu sự can
thiệp mạnh mẽ hơn của Nhà nước bằng cách dự liệu những chế tài về hình sự để
trừng phạt những kẻ nào xâm phạm đến tài sản và nhân thân kẻ khác. Ngoài việc
phải gánh chịu hình phạt kẻ phạm tội còn phải bồi thường cho nạn nhân những
thiệt hại mà họ đã gây ra. Vì mang tính chất hình phạt nên số tiền bồi thường được
ấn định gấp đôi, gấp ba, gấp bốn lần thiệt hại thực tế đã xảy ra.
Như vậy trong Cổ luật Việt Nam chưa có sự phân biệt rõ rệt giữa trách nhiệm
dân sự và trách nhiệm hình sự. Tuy chỉ được coi là một yếu tố cấu thành trong

trách nhiệm hình sự và chưa được coi là một chế định riêng biệt về trách nhiệm
dân sự (tức là chỉ bắt người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại mà không trừng
phạt về hình sự) song Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long cũng đã ý thức được
vai trò của bồi thường thiệt hại cũng vì thế mà trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã
dần dần có xu hướng tách rời khỏi các trách nhiệm hình sự. Theo Điều 581 Bộ luật
Hồng Đức thì thì: “Người thả trâu, ngựa cho dày xéo, ăn lúa, dâu của người khác
thì phải xử phạt 80 trượng và đền bù thiệt hại. Nếu cố ý thả cho dày xéo, phá hoại
10

Xem Điều 29 Bộ luật Hồng Đức.
Xem Điều 466 Bộ luật Hồng Đức.
12
Xem Điều 201 Bộ luật Gia Long.
11

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

16

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

thì xử biếm một tư và đền gấp đôi sự thiệt hại. Nếu vì trâu, ngựa chạy lồng lên
không kìm hãm được thì miễn tội trượng”.13 Như vậy, trong trường hợp này chỉ là
vấn đề bồi thường thiệt hại là một trách nhiệm thuần túy dân sự hoặc Điều 585 Bộ
luật Hồng Đức qui định rằng: “Trâu của hai nhà đánh nhau, con nào chết thì cả
hai cùng thịt, con nào sống thì hai nhà cùng cày, trái luật thì xử phạt 80 trượng”.14
Như vậy, hình phạt chỉ phải dùng đến khi các đương sự không tuân theo giải pháp

dân sự đã được ấn định.
Điều 91 Bộ luật Gia Long qui định về trường hợp khi vứt bỏ hay phá hoại đồ
vật, mùa màng, cây cối của người khác thì ngoài việc xử người vi phạm về tội
trộm can phạm mà còn phải bồi thường thiệt hại đã gây ra cho người cho người bị
thiệt hại. Tuy nhiên, nếu những đồ vật bị vứt bỏ hoặc bị phá hủy của tư nhân và sự
vứt bỏ, phá hoại do vô ý gây ra thì người gây ra thiệt hại chỉ phải bồi thường,
trường hợp này cũng hoàn toàn là trách nhiệm dân sự.
Tóm lại, mặc dù các qui định nêu trên chỉ áp dụng trong một phạm vi có giới
hạn song điều này chứng tỏ khái niệm trách nhiệm dân sự dân sự không phải là
khái niệm xa lạ trong Cổ Luật Việt Nam. Có thể nói rắng ý niệm này đã manh nha
và cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật dần dần được định hình với tư
cách là một chế định trách nhiệm.
Có thể nói chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói
chung và bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra nói riêng, đã trải qua một thời gian
dài hình thành và phát triển. Theo từ điển Tiếng Việt súc vật là thú vật nuôi trong
nhà, Chăn nuôi súc vật. Về mặt nội dung thì súc vật là vật nuôi trong nhà đã được
con người thuần hóa. bản chất súc vật là động vật hoang dã, mang bản tính thú dữ
đã được con người thuần hóa, kiểm soát được hoạt động và tuân thủ theo sự quản
lý của con người. Các nhà làm luật của Việt Nam cũng như những người áp dụng
pháp luật đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dựng cũng như giải thích các quy
định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh khi xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước nhà trách nhiệm
liên đới bồi thường thiệt hại cũng được giải thích khá cụ thể và rõ ràng trong chế
định trách nhiệm dân sự trong luật Hồng Đức là tổng thể các quy định của luật
Hồng Đức (Hay còn được gọi là Quốc Triều Hình Luật) quy định các vấn đề liên
13
14

Xem Điều 581 Bộ luật Hồng Đức.
Xem Điều 585 Bộ luật Hồng Đức.


GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

17

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

quan đến trách nhiệm dân sự của cá nhân trong thời đại phong kiến nhà Lê. Luật
Hồng Đức là một trong những bộ luật phong kiến tiến bộ nhất và đặc sắc nhất
trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Bộ luật đánh dấu thời kỳ hoàng kim nhất, rực rỡ
nhất của chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều đại Lê sơ, đặc biệt là dưới thời
vua Lê Thánh Tông. Luật Hồng Đức đuợc các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
đánh giá rất cao về tư tưởng và trình độ lập pháp, vượt xa so với khuôn mẫu tư
duy của thời đại phong kiến và để lại những dấu ấn sâu đậm cho đến tận ngày nay,
và một trong những nội dung đó là trách nhiệm dân sự. Chế định trách nhiệm dân
sự là nét đặc sắc, độc đáo đáng quan tâm trong Luật Hồng Đức. Mặc dù về tính
chất, đây là bộ luật hình sự (Quốc triều hình luật), nhưng Luật Hồng Đức chứa
đựng trong đó những yếu tố khá tiến bộ trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự, quy
định, dự liệu phong phú các trường hợp về tổn thất, thiệt hại trong thực tế cả về
vật chất lẫn tinh thần từ đó xác định trách nhiệm hình sự và dân sự. Chế định trách
nhiệm dân sự trong Luật Hồng Đức đưa tầm vóc của bộ luật lên tầm cao hơn so
với tư duy lập pháp phong kiến. Sự dự liệu sinh động, đầy tính thực tiễn của nó
vẫn còn dư âm mạnh mẽ cho đến ngày nay, có ý nghĩa lớn trong công tác xây
dựng và áp dụng pháp luật dân sự hiện đại. Và Thông tư 173 - Ủy ban Thẩm phán
của TANDTC ngày 23/3/1972 hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng (Thông tư 173). Thông tư 173 được ban hành trong bối cảnh nền lập pháp
của nước nhà còn ở giai đoạn mới hình thành, còn chưa phát triển. Ngoài ra điều

kiện kinh tế xã hội lúc đó rất đặc thù, nhận thức của các nhà làm luật và những
người có chức năng giải thích pháp luật còn hạn chế.
Tuy nhiên, khi xác định trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại trong
trường hợp chỉ có sự thống nhất ý chí về hậu quả cần phải xét đến phong tục, tập
quán nơi hành vi gây thiệt hại xảy ra cũng như của những người liên quan. Về vấn
đề này Báo cáo tổng kết hội nghị toàn ngành Toà án nhân dân năm 1967 đã giải
thích. Khi xác định trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại, Toà án có thể căn cứ
vào tình hình cụ thể của sự việc, phần chiếm đoạt hoặc mức độ lỗi của mỗi người
để ấn định phần bồi thường của mỗi người, giúp cho họ biết rõ phần trách nhiệm
bồi thường của mình trong số tiền phải bồi thường chung. Gặp trường hợp không
có căn cứ rõ ràng để ấn định phần bồi thường cụ thể của mỗi người thì Toà án
phân chia đều mức bồi thường cho mỗi người. Trong trường hợp tài liệu chưa đầy

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

18

SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: lý luận và thực tiễn

đủ, cần điều tra, thu thập thêm mới có thể định rõ được phần bồi thường của mỗi
người, và nếu có yêu cầu xét xử kịp thời vụ án hình sự, thì trong phần dân sự, Toà
án chỉ tuyên trách nhiệm liên đới, còn việc ấn định mức bồi thường của mỗi người,
thì Toà án sẽ bổ sung sau bằng một bản án dân sự. Nếu là vụ án dân sự hoặc việc
xét xử vụ án hình sự không có tính chất cấp bách, thì Toà án cần chờ kết quả của
việc điều tra bổ sung để có thể vừa tuyên trách nhiệm liên đới, vừa ấn định cụ thể
mức bồi thường của mỗi người.
Theo Thông tư 03, trong nhiều trường hợp nhiều người gây thiệt hại nhưng

giữa họ không có sự thống nhất ý chí về hành vi cũng như hậu quả thì họ cũng
phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Đây được coi là một sự thay đổi cơ
bản về nhận thức của những người xây dựng và giải thích pháp luật. Sự thay đổi
nhận thức nói trên là hoàn toàn phù hợp với sự phát triển xã hội, với sự phát sinh
nhiều quan hệ xã hội mới mà vào thời điểm ban hành Thông tư 173 chưa có.
Thông tư 03 - TATC ra đời trong bối cảnh đó. Như vậy, hướng dẫn của Thông tư
03 là phù hợp với thực tiễn, với tính chất của chế định trách nhiệm liên đới bồi
thường thiệt hại.
Ngoài ra trong Thông tư 173 cũng đề cập đến trách nhiệm bồi thường do súc
vật gây ra. Nhưng cũng chỉ đề cập đến trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu và
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng chứ chưa có qui định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của người thứ ba và vấn đề liên đới chịu trách nhiệm
cũng chưa được đề cập tới.
Tất cả những hạn chế này đã được khắc phục cơ bản trong các qui định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra được đề cập đến trong Bộ luật
Dân sự 1995 ở các Điều 627,629,630,631 và Bộ luật Dân sự 2005 ở các Điều
623,625,626,627.15 Đó là các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra, bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, bồi thường thiệt hại do
cây cối gây ra, bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra.
Trong số các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra này thì đối với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra đã qui định rất cụ thể về trách
nhiệm của chủ sở hữu, của người thứ ba, của người chiếm hữu sử dụng trái pháp
15

Xem Điều 627,629,630,631 Bộ luật Dân sự năm 1995 và Điều 623,625,626,627 Bộ luật Dân sự năm
2005.

GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

19


SVTH: Chao Thị Mỹ Lệ


×