Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH VAI TRÒ của đại BIỂU QUỐC hội – THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 35 (2009 – 2013)
ĐỀ TÀI

VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Giảng viên hướng dẫn:
Nguyễn Nam Phương
Bộ môn: Luật Hành chính

Sinh viên thực hiện:
Huỳnh Tuấn Vũ
MSSV: 5095490
Lớp: Luật Hành chính – K35

Cần Thơ, tháng 4/2013


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định tại Hiến pháp năm 1992 “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Qua đây đã khẳng định được vai trò quan trọng của Quốc hội đối với Nhà nước và nhân
dân. Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan


tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan
nhà nước ở trung ương cũng như ở địa phương. Trong đó, đổi mới và nâng cao chất
lượng hoạt động của Quốc hội như một yêu cầu bức thiết nhằm đẩy nhanh quá trình hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Từ khi ra đời cho đến nay, Quốc hội đã không ngừng phát triển và có nhiều thay đổi
qua từng giai đoạn lịch sử. Quốc hội cũng đã có những đóng góp quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, hiện nay qua quá trình hoạt động của
mình Quốc hội đã và đang bộc lộ nhiều yếu kém, hạn chế. Một vài hoạt động của Quốc
hội chưa đạt được hiệu quả như mong đợi, do đó chưa thực hiện tốt vai trò, chức năng
luật định. Điều này đã làm suy giảm vai trò của Quốc hội trong bộ máy Nhà nước.
Những yếu kém và hạn chế trong hoạt động của Quốc hội được gây ra bởi nhiều yếu
tố khác nhau. Trong đó, yếu tố đại biểu Quốc hội đóng vai trò quyết định bởi hoạt động
của Quốc hội được tạo thành từ hoạt động của bản thân từng đại biểu. Với mục đích
nhằm tìm ra những hạn chế trong hoạt động của đại biểu Quốc hội, làm rõ nguyên nhân
của những hạn chế, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc
hội, người viết chọn đề tài “Vai trò của đại biểu Quốc hội – Thực trạng và giải pháp”
làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trước hết, nghiên cứu này nhằm làm rõ quy định của pháp luật về Quốc hội cũng
như đại biểu Quốc hội, thông qua đó tìm hiểu nhiệm vụ cũng như quyền hạn, xem xét
tính chính xác, đúng đắn và hiệu quả của quy định trên cơ sở khoa học và thực tế. Từ đó,
người viết ghi nhận những điểm chưa phù hợp, những thiếu sót và cuối cùng là đưa ra
kiến nghị, giải pháp đối với những vấn đề đang tồn tại.
3. Phạm vi nghiên cứu
Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội. Trong luận văn
này, người viết sẽ khái quát hóa vị trí, vai trò của Quốc hội cũng như đối với đại biểu
Quốc hội. Tập trung phân tích những thành tựu và hạn chế trong quy định của pháp luật
về đại biểu Quốc hội, về hoạt động của đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở tìm hiểu nguyên
GVHD: Nguyễn Nam Phương


Trang 1

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
nhân gây ra những hạn chế trong hoạt động của đại biểu Quốc hội, luận văn tiếp tục đưa
ra những giải pháp, ý kiến đề xuất góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của những
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, người viết vận dụng những kiến thức đã có kết hợp với thu
thập, tổng hợp tài liệu có liên quan đến quy định của pháp luật về Quốc hội và đại biểu
Quốc hội. Bên cạnh đó, người viết còn sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, phân
tích luật viết kết hợp lý luận và thực tiển để góp phần làm rõ đề tài.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bố cục đề tài gồm ba chương:
Chương 1. Lý luận chung về Quốc hội và đại biểu Quốc hội
Chương 2. Cơ sở pháp lý về hoạt động của đại biểu Quốc hội
Chương 3. Thực trang và giải pháp nâng cao vai trò của đại biểu Quốc hội

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 2

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUỐC HỘI VÀ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đại biểu Quốc hội là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. Với tư cách là cơ quan
quyền lực nhà nước Quốc hội có cơ cấu tổ chức và những hình thức hoạt động gì, cũng
như đại biểu Quốc hội phải thỏa mãn những tiêu chuẩn nào và có quyền và nghĩa vụ ra
sao. Trong chương 1 của luận văn người viết sẽ tập trung làm rõ những nội dung kể trên.
1.1 KHÁI QUÁT VỀ QUỐC HỘI
1.1.1 Khái niệm Quốc hội
Hiến pháp hiện hành năm 1992 khẳng định “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”. 1 Quốc hội là nơi tập hợp những đại biểu ưu tú, những đại biểu này
được nhân dân cả nước bầu ra đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Các cơ
quan, tổ chức của Quốc hội được thành lập nhằm mục đích thực hiện có hiệu quả chức
năng và nhiệm vụ của Quốc hội, đảm bảo phát huy bản chất của nhà nước ta là nhà nước
của dân, do dân và vì dân.
Về nguyên tắc, quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân nhưng nhân dân không
trực tiếp thực hiện quyền đó mà ủy thác cho những người đại biểu đại diện cho họ để
thực hiện. Những đại biểu này tập trung tại Quốc hội, họ mang theo những ý chí, nguyện
vọng của nhân dân cả nước để đưa ra trước Quốc hội, nơi hội tụ những điều kiện tốt nhất
để có thể cùng bàn bạc và giải quyết một cách thấu đáo những vấn đề quan trọng của
quốc gia. Mặt khác, Chỉ có Quốc hội mới có quyền biến những ý chí, nguyện vọng đó
thành những quy định có giá trị pháp lý đối với cả nước.
1.1.2 Vị trí pháp lý, tính chất pháp lý của Quốc hội
1.1.2.1 Vị trí pháp lý
Vị trí pháp lý của Quốc hội là tổng hợp các mối quan hệ quy định về vị trí, tính chất,
vai trò của Quốc hội trong bộ máy nhà nước, được Hiến pháp và Luật ghi nhận. Hay nói
cách khác, vị trí pháp lý của Quốc hội được thể hiện trong các mối quan hệ về phân công
quyền lực nhà nước cũng như sự chi phối của nó đối với các cơ quan nhà nước khác
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước bằng các quy định của Hiến pháp và Luật.


1

Điều 83, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung 2001.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 3

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
Trước hết, vị trí pháp lý của Quốc hội được ghi nhận một cách cơ bản và chủ yếu
trong các quy định của Hiến pháp – văn bản pháp lý có giá trị pháp lý cao nhất. Sau đó,
vị trí pháp lý của Quốc hội được quy định cụ thể hơn trong các văn bản pháp luật khác.
Tất cả các văn bản quy định về cách thức thành lập, thẩm quyền, cách thức hoạt động
cũng như mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác đều góp phần khắc
họa nên vị trí pháp lý của Quốc hội.2
Hiến pháp thể hiện rõ nhất vị trí của Quốc hội với việc dành điều đầu tiên nói về các
cơ quan nhà nước Hiến pháp đã dành để nói về Quốc hội. Theo đó, Điều 83 Hiến pháp
1992 ghi nhận: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về
đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những
nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và
hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước”.
Như vậy, Quốc hội chiếm vị trí cao nhất trong toàn bộ bộ máy nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không một cơ quan nhà nước nào trong bộ máy các cơ quan

nhà nước của ta có được vị trí như vậy. Sở dĩ, Quốc hội có một địa vị như vậy vì Quốc
hội là cơ quan duy nhất do nhân dân cả nước bầu ra một cách trực tiếp.3
Việc Hiến pháp quy định như vậy là nhằm mục đích thể hiện rõ bản chất của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về một nhà nước kiểu mới, khác với các nhà nước
trước đây. Và đây cũng là đặc điểm nói lên sự khác nhau giữa mô hình tổ chức Nhà nước
ta- Nhà nước xã hội chủ nghĩa với các mô hình tổ chức nhà nước khác của chế độ tư bản
chủ nghĩa.4

1.1.2.2 Tính chất pháp lý
Giống như vị trí pháp lý, tính chất pháp lý của Quốc hội cũng được ghi nhận trong
Hiến pháp “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực

2

Lê Thanh Vân: Vị trí, tính chất của Quốc hội nước ta trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước (Phần một),
Báo điện tử Đại biểu nhân dân, 2007, [truy
cập ngày 15-3-2013].

3

Điều 7, Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001.
Nguyễn Đăng Dung, Lê Hữu Thể: Tìm hiểu pháp luật Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp.Hồ
Chí Minh, 2001, tr.179.

4

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 4


SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội của nghĩa Việt Nam”.5 Quốc hội vì vậy thể hiện tính
đại diện nhân dân và tính quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của mình.
Tính đại biểu cao nhất được thể hiện ở: 6
Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân cả nước bầu ra.
Đại biểu Quốc hội vừa là người đại diện cho nhân dân địa phương vừa là người đại
diện cho nhân dân cả nước làm việc trong cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội. Quốc
hội có các đại biểu đại diện cho mọi tầng lớp, thành phần, tôn giáo, dân tộc trong xã hội.
Quốc hội được giao thực hiện những chức năng, nhiệm vụ lớn phục vụ cho lợi ích
chung của toàn dân tộc và toàn thể nhân dân. Quốc hội là nơi thể hiện tâm tư, nguyên
vọng của nhân dân cả nước, nơi nói lên tiếng nói của nhân dân cả nước.
Tính quyền lực Nhà nước cao nhất thể hiện ở:
Quốc hội là nơi tập trung thống nhất quyền lực Nhà nước, những quyền lực được
nhân dân cả nước giao phó. Quyền lực này bao gồm quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Các cơ quan khác ở trung ương được Quốc hội phân công thực hiện một phần quyền
lực, trong quá trình thực hiện quyền lực phải thường xuyên báo cáo công tác trước Quốc
hội, chịu sự giám sát, kiểm tra của Quốc hội và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về kết
quả thực hiện công việc được phân công.
Ban hành những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất đó là Hiến pháp và các đạo luật.
Giám sát tối cao hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Quyết định các vấn đề quan trọng của Đất nước mà các cơ quan khác không có được
như: Quyết định những vấn đề về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế- xã hội, quốc
phòng và an ninh của đất nước, những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy Nhà nước, quyết định những vị trí nhân sự chủ chốt trong bộ máy nhà nước,
quyết định về những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.


5
6

Điều 83, Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001.
Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử: Địa vị pháp lý của Quốc hội,
[truy cập ngày 13-22013].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 5

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
1.1.3 Chức năng, hoạt động của Quốc hội
1.1.3.1 Chức năng của Quốc hội
Với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội nước ta có ba chức
năng chính sau đây:
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quyền lập hiến và lập
pháp của Quốc hội xuất phát từ vị trí và tính chất của cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Chỉ có Quốc hội mới có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý
cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội. Các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà
nước khác ban hành phải cụ thể hóa Hiến pháp và luật, không được trái với tinh thần và
nội dung của Hiến pháp và luật. Hiến pháp và luật là hai loại pháp luật có hiệu lực pháp
lý cao nhất quy định các hoạt động quan trọng của xã hội. Chỉ có Quốc hội với tư cách là
cơ quan quyền lực nhà nước tối cao mới có quyền thông qua những loại văn bản này.
Ngược lại, cũng chính việc quốc hội, cơ quan duy nhất được quyền thông qua các loại

văn bản này mới chứng tỏ là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao.
Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội quyết định những
chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xă hội, quốc phòng, an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
về quan hệ xã hội và hoạt dộng của công dân.
Chức năng giám sát: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của Nhà nước”. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ riêng biệt của mỗi cơ quan nhà
nước mà các cơ quan này thực hiện giám sát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình hoạt
động của mình, nhưng quyền giám sát tối cao thuộc về Quốc hội. Quốc hội thực hiện
giám sát nhằm làm cho những quy định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để
và thống nhất. Quốc hội giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước đảm bảo cho các
cơ quan này hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn được quy định, làm cho bộ máy nhà nước
hoạt động đều đặn, hiệu lực, không chồng chéo, chống các biểu hiện tham nhũng, quan
liêu, hách dịch. Thông qua hoạt động giám sát này, Quốc hội thực hiện chức năng lập
pháp và quyết định những vấn đề quan trọng khác của nhà nước. 7
Những chức năng quan trọng này của Quốc hội có sự thống nhất và có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Thông qua nhiệm vụ lập hiến và lập pháp (tức là bằng các đạo luật)
Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ khác của mình. Như quyết định các chính sách đối nội,
đối ngoại, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, chính sách tiền tệ và các lĩnh vực tổ chức
7

Nguyễn Đăng Dung, Lê Hữu Thể: Tìm hiểu pháp luật Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp.
Hồ
Chí Minh, 2001, tr 181-186.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 6

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ



Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Ngược lại, thông qua việc thực hiện chức năng
giám sát của mình mà Quốc hội kiểm tra lại chất lượng các đạo luật và các quyết định do
mình ban hành để có thể đề xuất sáng kiến sửa đổi, bổ sung hoàn thiện và nâng cao chất
lượng của chúng. Cứ như thế, trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, hiểu quả và
hiệu lực của các hoạt động lập pháp, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và
giám sát tối cao ngày càng được nâng cao.8
1.1.3.2 Hoạt động của Quốc hội
Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế
độ hội nghị và quyết định theo đa số. Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm
bằng hiệu quả của các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc
hội.9
Địa vị pháp lý của Quốc hội không những được nói lên từ cách thức thành lập, từ
thẩm quyền, từ cơ cấu, mà còn được thể hiện trong hoạt động của Quốc hội. Xuất phát từ
đăc điểm các đại biểu Quốc hội được bầu từ các đơn vị bầu cử có địa vị pháp lý như
nhau, cho nên các đại biểu Quốc hội có quyền hạn và nghĩa vụ như nhau.
Kỳ họp Quốc hội là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội, nơi biểu hiện trực
tiếp và tập trung nhất của quyền lực Nhà nước, trí tuệ của đại biểu Quốc hội và quyền
giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Quốc hội họp
thường lệ mỗi năm hai kỳ, một kỳ vào giữa năm và một kỳ vào cuối năm. Trong trường
hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc
hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập kỳ họp
bất thường.10
Các phiên họp của Quốc hội diễn ra công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề
nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít
nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín.
Để đảm bảo hiệu quả của các kỳ họp, mọi kỳ họp phải được tiến hành theo một trình

tự bắt buộc. Trình tự tiến hành các kỳ họp của Quốc hội được quy định một số điểm
chính trong Hiếp pháp và Luật tổ chức Quốc hội. Những quy định này được chi tiết hóa
trong nội quy kỳ họp Quốc hội, tiến trình kỳ hợp thường đươc chia làm ba giai đoạn:
chuẩn bị kỳ hợp, thảo luận và thông qua các dự án. Ngoài trình tự trên, nội quy kỳ họp có
8

Trang thông tin Quốc hội Việt Nam: Chức năng nhiệm vụ của Quốc hội,
. vn/htx/Vietnamese/C1400/C1403/#2XZZVx6nfpIM, [truy cập ngày 2-2-2013].
9
Điều 4, Luật tổ chức Quốc hội 2001, sửa đổi bổ sung năm 2007.
10
Điều 62, Luật tổ chức Quốc hội 2001, sửa đổi bổ sung năm 2007.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 7

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
quy định cách thức tiến hành kỳ họp thứ nhất, trình tự tiến hành chất vấn, trả lời chất vấn
và trình tự lập pháp.
1.1.4 Cơ cấu tổ chức của Quốc hội
Tổ chức của Quốc hội bao gồm những cơ cấu bên trong được lập ra để giúp Quốc
hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Tổ chức của Quốc hội do
Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội quy định.
Tổ chức Quốc hội là một trong những yếu tố đảm bảo hiệu quả hoạt động của Quốc
hội. Việc xây dựng tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp được đặt ra với yêu cầu đảm
bảo hoạt động của Quốc hội. Theo tinh thần đó Quốc hội được xây dựng bao gồm: Ủy

ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
1.1.4.1 Ủy ban thường vụ Quốc hội
Trước đây, trong tổ chức của Quốc hội cũng đã có Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

11

Nhưng theo quy định của Hiến pháp 1980, Ủy ban Thường vụ Quốc hội được thay thế
bằng Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước theo quy định của Hiến pháp 1980, là cơ
quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, Đồng thời là Chủ tịch tập thể của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để phân biệt rõ chức năng Nguyên thủ Quốc gia và chức năng thường trực Quốc
hội. Hiến pháp 1992 đã tách Hội đồng Nhà nước thành hai chế định: Chủ tịch nước và Ủy
ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước đảm bảo chức năng của Nguyên thủ Quốc gia,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm có Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội
và các Ủy viên do Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội làm các
Phó Chủ tịch.12
Số Phó Chủ tịch Quốc hội và số Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội
quyết định.
Thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính
phủ, làm việc theo chế độ chuyên trách.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội mỗi khóa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho
đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới.
Trong tổ chức của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội giữ một vai trò
hết sức quan trọng. Là người đứng đầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội
11
12

Điều 51, Hiến pháp năm 1959
Điều 6, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, sửa đổi bổ sung năm 2007.


GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 8

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
phải chủ trì và điều hành hoạt động của Ủy ban Thường vụ, lãnh đạo công tác, chỉ đạo
chuẩn bị, triệu tập, và là chủ tọa phiên hợp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Giúp việc cho Chủ tịch Quốc hội có các Phó chủ tịch Quốc hội, được phân công
đảm nhiệm các phần việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội
làm việc theo chế độ hội nghị, mỗi tháng hợp ít nhất một lần.
1.1.4.2 Hội đồng dân tộc
Hội đồng dân tộc là cơ quan thuộc Quốc hội có nhiệm vụ tham mưu cho Quốc
hội về vấn đề dân tộc. Nhiệm vụ của Hội đồng dân tộc là nghiên cứu và kiến nghị
với Quốc hội những vấn đề về dân tộc, thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách
dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng
bào dân tộc thiểu số. Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính
phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng dân tộc. Hội đồng dân tộc còn có những nhiệm
vụ, quyền hạn khác như các Ủy ban của Quốc hội.
Hội đồng dân tộc có nhiệm vụ thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp
lệnh và các dự án khác, thẩm tra những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ
Quốc hội giao.
Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc. Giám sát hoạt động của chính phủ, các
bộ và cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhân dân khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh, thực hiện quyền giám sát, kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc

giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình.
Tham gia ý kiến về dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ
quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có liên quan đến vấn đề dân tộc và giám
sát việc thực hiện các văn bản đó.
Kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội các vấn đề về chính sách dân
tộc của Nhà nước, các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan,
kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 9

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
và các cơ quan khác của Nhà nước ở trung ương và địa phương về những vấn đề có liên
quan đến dân tộc thiểu số.
Hội đồng dân tộc có quyền kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét trình
Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn.
Hội đồng dân tộc chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời
gian Quốc hội không họp thì báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1.1.4.3 Các Ủy ban của Quốc hội
Các Ủy ban của Quốc hội và Hội đồng dân tộc đều là các cơ quan của Quốc hội.
Các cơ quan này được thành lập để giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ

của mình. Đối với các Ủy ban của Quốc hội với việc được tổ chức với nhiều ủy ban mỗi
ủy ban đảm nhiệm riêng một lĩnh vực để giúp Quốc hội có thể quản lý và giám sát tốt
hơn các hoạt động diễn ra trong xã hội.
Quốc hội thành lập các Uỷ ban sau đây:13
Uỷ ban pháp luật
Uỷ ban tư pháp
Uỷ ban kinh tế
Uỷ ban tài chính, ngân sách
Uỷ ban quốc phòng và an ninh
Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng
Uỷ ban về các vấn đề xã hội
Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường
Uỷ ban đối ngoại
Mổi Ủy ban đảm nhận một nhiệm vụ liên quan đến những vấn đề quan trọng của đất
nước. Với cơ cấu tổ chức như vậy, để các cơ quan này có thể kịp thời báo cáo cho Quốc
hội về những vấn đề phát sinh hay những biến động xảy ra để Quốc hội có thể đề ra các
biện pháp nhằm ngăn chặn và giải quyết. Mặc khác, đây cũng được xem là cơ quan tham
mưu cho Quốc hội trong việc nghiên cứu các dự thảo luật. Khi xét thấy cần thiết, Quốc
hội có thể thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra một
vấn đề nhất định.

13

Điều 22, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, sửa đổi bổ sung năm 2007.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 10

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ



Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1.2.1 Khái niệm đại biểu Quốc hội
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, không
chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước,
là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội.14
Đại biểu Quốc hội là những người công dân ưu tú được nhân dân cả nước tín nhiệm
bầu ra bằng cuộc tổng tuyển cử tự do. Đại biểu Quốc hội là cầu nối quan trọng giữa Nhà
nước với nhân dân, các vị đại biểu này vừa phải chịu trách nhiệm với cử tri vừa phải chịu
trách nhiệm trước cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Trong khi làm nhiệm vụ, đại
biểu Quốc hội phải xuất phát từ lợi ích chung của cả nước, đồng thời phải quan tâm đến
lợi ích chính đáng của nhân dân địa phương nơi bầu ra mình. Đại biểu Quốc hội cần phải
gương mẫu trong việc thực hiện đúng những quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc
thực hiện tốt và có hiệu quả công tác của mình.
1.2.2 Đặc điểm, tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội
1.2.2.1 Đặc điểm của đại biểu Quốc hội
Với tư cách là người đại diện cho nhân dân cả nước trước Quốc hội, với những
quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể trong Hiến pháp và luật, thì đại biểu Quốc hội
được xem là những chủ thể đặc biệt có những điểm khác biệt rõ rệt với các chủ thể đại
diện khác, sự khác biệt đó được thể hiện qua những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân,
không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân
cả nước. Đây là một đặc điểm thể hiện sự khác biệt giữa đại biểu Quốc hội với đại biểu
Hội đồng nhân dân, mặc dù hai vị đại biểu này đều là những người đại diện cho quyền
lực của nhân dân nhưng đại biểu Hội đồng nhân dân chỉ đại diện cho nhân dân tại Hội
đồng nhân dân từng cấp, còn về phía đại biểu Quốc hội thì không những đại diện cho
nhân dân ở địa phương đó mà còn đại diện cho nhân dân cả nước.
Thứ hai, bình đẳng và độc lập trong hoạt động của đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc

hội dù là đại biểu hoạt động chuyên trách hay kiêm nhiệm đều có địa vị pháp lý và tư
cách đại biểu ngang nhau, họ luôn phải được bình đẳng trong hoạt động của Quốc hội, là
người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội. Các đại biểu
Quốc hội luôn bình đẳng với nhau về quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm, không hình thành
thứ bậc quyền uy trong quan hệ giữa các đại biểu Quốc hội, không có đại biểu Quốc hội
cấp trên, đại biểu Quốc hội cấp dưới, không có đại biểu Quốc hội này lãnh đạo đại biểu
14

Điều 43, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, sửa đổi bổ sung năm 2007.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 11

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
Quốc hội khác. Mối quan hệ giữa họ là mối quan hệ phân công, phối hợp trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Đoàn đại biểu
Quốc hội. Đó là hình thức tổ chức để thực hành dân chủ trong Quốc hội chứ tuyệt nhiên
không hình thành thứ bậc quyền uy, phục tùng. Đặc điểm này đã xuyên suốt trong tất cả
các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về đại biểu Quốc hội (Hiến pháp, Luật tổ
chức của Quốc hội, Luật giám sát của Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu
Quốc hội…) khi quy định về nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ đều không
có thuật ngữ lãnh đạo.
Do đó, cơ chế hoạt động của đại biểu Quốc hội nhất là đại biểu Quốc hội chuyên
trách phải hoàn thiện theo hướng không dẫn đến sự bất bình đẳng về địa vị pháp lý,
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các đại biểu Quốc hội. Dù ở cương vị nào (Chủ

tịch, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Hội đồng dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội, các Ủy viên thường trực của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội…) họ đều là đại biểu của nhân dân và luôn phải được bình đẳng trên mọi phương
diện với tư cách là đại biểu Quốc hội.
Thứ ba, hoạt động theo nhiệm kỳ. Đây là đặc điểm quan trọng trong hoạt động của
đại biểu Quốc hội, bảo đảm cho Quốc hội luôn được đổi mới, tạo áp lực của cử tri, nhân
dân với đại biểu, đồng thời là yếu tố tác động mạnh mẽ khiến đại biểu Quốc hội phải tu
dưỡng, rèn luyện, hoạt động xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri, của nhân dân. Đặc
điểm hoạt động theo nhiệm kỳ cũng chứa đựng những rủi ro đối với các đại biểu Quốc
hội hoạt động chuyên trách. Đồng thời cũng đặt ra yêu cầu khi bố trí đại biểu Quốc hội
làm việc theo chế độ chuyên trách bên cạnh những tiêu chuẩn về phẩm chất, trình độ,
năng lực còn phải tính đến độ tuổi để ít nhất phải được 02 khóa ở Quốc hội.
Thứ tư, hoạt động không thể có ủy quyền. Trong xã hội nhiều quan hệ pháp luật có
thể được ủy quyền như quan hệ pháp luật dân sự, thương mại hoặc quan hệ pháp luật
hành chính…Tuy nhiên, hoạt động của đại biểu Quốc hội là hoạt động không có ủy
quyền. Đại biểu Quốc hội nhận sự ủy quyền từ cử tri, nhân dân, sự ủy quyền mang tính
song trùng, vừa ủy quyền thực hiện quyền lực, vừa giao trách nhiệm, nghĩa vụ để thay
mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội. Sự ủy quyền này được thực
hiện thông qua bầu cử và được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận, được cụ thể hóa thành
những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội. Do đó, đại biểu Quốc

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 12

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
hội là chủ thể duy nhất thực hiện nhiệm vụ và chịu trách nhiệm trước cử tri, nhân dân mà

không thể có ủy quyền.15
1.2.1.2 Tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội
Để có thể đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ là một người đại diện cho ý chí, nguyên
vọng của nhân dân trước Quốc hội đòi hỏi các vị đại biểu Quốc hội cần hội đủ nhiều tiêu
chuẩn cần thiết. Việc quy định những tiêu chuẩn này còn đảm bảo cho quá trình hoạt
động của Quốc hội vì chất lượng của đại biểu Quốc hội góp phần rất lớn trong việc thành
công của Quốc hội. Quy định này giúp công dân trước khi viết đơn tự ứng cử hoặc chấp
nhận sự giới thiệu của tổ chức phải suy nghĩ xem mình có thể đạt được những tiêu chuẩn
đó hay không. Những tiêu chuẩn đó được Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định như
sau: 16
Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liên chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp
hành pháp luật, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liệu, hách dịch,
cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật.
Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, tham gia quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín
nhiệm.
Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.
Phẩm chất đạo đức của mỗi đại biểu Quốc hội phải được thể hiện trong lối sống của
chính đại biểu, của gia đình đại biểu đó, trong quan hệ với đồng nghiệp, với cấp trên, cấp
dưới và trong mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Có thể vì điều kiện công tác người đại
biểu Quốc hội không có điều kiện thường xuyên gần gũi với tất cả bà con nơi cư trú,
nhưng trong mọi trường hợp tiếp xúc với dân chúng phải biểu thị lòng tôn trọng, sẵn sàng
lắng nghe những phản ánh trung thực của nhân dân. Người đại biểu Quốc hội phải gương
mẫu trong phong trào chống tiêu cực như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và
gương mẫu chấp hành pháp luật.


15

Nguyễn Đình Quyền: Một số đặc điểm trong hoạt động của đại biểu Quốc hội, Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân
cử, [truy cập ngày 24-22013].
16
Điều 3, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997, sửa đổi bổ sung năm 2010.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 13

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
Đại biểu Quốc hội phải có trình độ nhất định về pháp luật, phải nắm vững chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình trong nước và xu thế chung trên thế
giới, để có thể góp phần thảo luận Hiến pháp, thảo luận và thông qua các Luật và Bộ luật,
góp phần tham gia giám sát việc thi hành pháp luật cũng như giám sát các hoạt động của
Chủ tịch nước, của Chính phủ, của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, của các Bộ, Ngành, của
Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người đại biểu Quốc hội phải đủ trình độ để
xét đoán các căn cứ khả thi của những kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và
tham gia quyết định các vấn đề quan trọng, các dự án lớn do Chính phủ đệ trình Quốc
hội. Người đại biểu Quốc hội phải xứng đáng là người đại biểu đích thực của nhân dân,
thường xuyên liên hệ với nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng, đề xuất của quần
chúng và được nhân dân tín nhiệm.
Đại biểu Quốc hội chuyên trách thì phải dành toàn bộ thời gian công tác phục vụ
cho nhiệm vụ được giao, còn với các đại biểu Quốc hội không chuyên trách thì cũng phải
dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc để thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội.
1.2.3 Phân loại đại biểu Quốc hội

1.2.3.1 Đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm
Cho đến nay, hầu hết các đại biểu Quốc hội đều hoạt động kiêm nhiệm. Với vị trí là
cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, là nơi thể hiện tập trung của quyền lực Nhà nước
và xuất phát từ nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, cơ cấu tổ chức
của Quốc hội phải bao gồm các đại biểu ưu tú nhất của các ngành, các cấp, các cơ quan,
tổ chức từ trung ương đến địa phương thuộc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Có như
vậy mới đảm bảo cho Quốc hội thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ cực kỳ quan
trọng trong việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật, quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước.17
Các đại biểu kiêm nhiệm có thể là công chức trong các cơ quan hành pháp và tư
pháp, có thể là đại biểu hội đồng nhân dân, đại biểu trong các tổ chức chính trị, chính trị
xã hội, đại biểu thuộc các lực lượng vũ trang nhân dân, các đơn vị kinh tế…
Các đại biểu Quốc hội không thường xuyên làm việc tại Quốc hội, lại công tác tại
nhiều cơ quan, địa phương khác nhau thuộc mọi vùng miền của đất nước. Công việc
chính của họ không phải duy nhất là làm đại biểu Quốc hội, càng không phải thường
xuyên, chuyên nghiệp làm công việc giám sát, thẩm tra hoặc cho ý kiến về các dự án luật,
pháp lệnh mà là đảm nhiệm công việc ở các cơ quan, tổ chức thuộc các ngành, địa
17

Nguyễn Đình Quyền: Đại biểu Quốc hội – chuyên trách và kiêm nhiệm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7, 2003.
tr, 22-27, tr. 23.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 14

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ



Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
phương nơi họ thường xuyên làm việc. Nhiều người còn là cán bộ chủ chốt của các cơ
quan, tổ chức và địa phương đó. Vì vậy, việc tham gia hoạt động đại biểu Quốc hội của
các đại biểu kiêm nhiệm như thế nào phải được nghiên cứu để có cơ chế cho phù hợp với
đặc điểm này, nhất là đối với các đại biểu kiêm nhiệm thuộc các cơ quan hành pháp và tư
pháp để bảo đảm cho các quyết định của Quốc hội được khách quan.18
Các đại biểu kiêm nhiệm giữ vai trò quan trọng trong việc gắn hoạt động của đại
biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội với hoạt động thực tiễn trên mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội, góp phần phản ánh trung thực và đầy đủ tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân. Họ góp phần đảm bảo cho các quyết định của Quốc hội phù hợp và kịp
thời đáp ứng các yêu cầu mà cuộc sống đặt ra. Xuất phát từ tính chất đặt thù từng ngành,
từng lĩnh vực, từng địa phương nơi các đại biểu kiêm nhiệm đang công tác, mà nội dung
các vấn đề được Quốc hội xem xét, thảo luận sẽ được cân nhắc từ các góc độ khác nhau
của các nhà hoạt động thực tiễn, các nhà khoa học, các nhà quản lý, nhà kinh doanh, nhà
luật học. Các đại biểu kiêm nhiệm vừa là người tham gia quyết định các chính sách,
quyết định thông qua các đạo luật tại Quốc hội, lại vừa là người triển khai, tổ chức thực
hiện các chính sách, các quy định của pháp luật vào cuộc sống. Do đó, phải tính đến yếu
tố này trong cơ cấu đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm là thành viên của Hội đồng dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội.19
1.2.3.2 Đại biểu Quốc hội chuyên trách
Đại biểu Quốc hội chuyên trách là đại biểu thường xuyên làm nhiệm vụ của đại biểu
Quốc hội, thực hiện các công việc trong phạm vi, lĩnh vực được phân công tại các cơ
quan của Quốc hội, Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hưởng lương và phụ cấp (nếu có) từ kinh phí hoạt
động của Quốc hội.20 Qua một số năm gần đây, việc bố trí đại biểu Quốc hội hoạt động
chuyên trách đã làm thay đổi sâu sắc chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội. Đa số các đại biểu này được bố trí vào các cơ quan của Quốc hội
như Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Việc xây
dựng đội ngũ đại biểu Quốc hội chuyên trách là hướng đi phù hợp với thực tiễn tổ chức
và hoạt động của Quốc hội nước ta.


18

Nguyễn Đình Quyền: Đại biểu Quốc hội – chuyên trách và kiêm nhiệm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7, 2003.
tr, 22-27, tr. 23.

19

Nguyễn Đình Quyền: Đại biểu Quốc hội – chuyên trách và kiêm nhiệm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7, 2003,
tr. 22-27, tr. 23.
Nguyễn Nhân Tỏ: Đại biểu Quốc hội chuyên trách, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12 (65), 2005, tr. 13-17, tr.
13.

20

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 15

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
Về vị trí, đại biểu Quốc hội chuyên trách có vị trí ngang bằng với các đại biểu Quốc
hội khác trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu vì đại biểu Quốc hội
chuyên trách nói riêng và đại biểu Quốc hội nói chung đều là người đại diện cho nhân
dân trong Quốc hội và thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước tại Quốc hội.
Xuất phát từ nhiệm vụ và chế độ làm việc, nên pháp luật quy định đại biểu Quốc hội
chuyên trách có những điều kiện bảo đảm riêng như: được bố trí nơi làm việc và các điều
kiện, phương tiện cần thiết, được sắp xếp công việc khác khi không tiếp tục làm đại biểu

Quốc hội chuyên trách, thời gian hoạt động chuyên trách được tính vào thời gian công tác
liên tục, được hưởng lương, phụ cấp theo quy định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Các
quy định về nhiệm vụ và điều kiện đảm bảo này không tạo cho đại biểu Quốc hội chuyên
trách một vị trí cao hơn so với các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm. Đây chỉ là các quy
định cụ thể hoá cơ chế hoạt động phù hợp với đại biểu Quốc hội chuyên trách trong bối
cảnh chung về tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta.
Đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung ương, là những người được bố trí vào các
cơ quan của Quốc hội và hoạt động theo quy chế hoạt động của cơ quan mà đại biểu đó là
thành viên. Việc bố trí này giúp các đại biểu có thể tích cực tham gia trong công tác xây
dựng pháp luật, tham gia các đoàn giám sát hay tự nghiên cứu giám sát văn bản quy
phạm pháp luật. Trong lĩnh vực lập pháp, các đại biểu chuyen trách đã tham gia thảo luận
và cho ý kiến các dự án luật trước khi trình ra kỳ họp Quốc hội tại hai hội nghị chuyên
trách dưới sự chủ trì của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Từ những kết quả thành công
bước đầu cho thấy, đây là những điều kiện rất thuận lợi để đại biểu không những đại biểu
được cung cấp nhiều hơn thông tin về quá trình soạn thảo, chỉnh lý, mà còn đóng góp ý
kiến vào quá trình tiếp tục hoàn thiện dự thảo.21 Công việc này chiếm hầu hết thời gian và
công sức của đại biểu chuyên trách ở trung ương. Đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung
ương cũng tích cực tham gia các phiên hợp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để đóng góp
những hiểu biết của mình với công việc chung, tham mưu kịp thời giúp Ủy ban Thường
vụ Quốc hội thông qua các Nghị quyết, ban hành những quyết sách phù hợp tình hình
kinh tế xã hội.
Đại biểu Quốc hội chuyên trách ở địa phương, với điều kiện toàn bộ thời gian dành
cho Quốc hội, và nhất là vai trò của là Phó trưởng đoàn của đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. Rõ ràng là đại biểu chuyên trách có nhiều thuận lợi hơn
trong việc gần gũi với nhân dân địa phương, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri với
các cấp chính quyền ở địa phương và trung ương, tổ chức các hoạt động của Đoàn đại

21

Ngô Đức Mạnh: Đại biểu Quốc hội chuyên trách: Một số suy nghĩ về tăng cường năng lực hoạt động, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 11, 2003, tr. 13-17, tr. 16.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 16

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
biểu, nhất là làm nòng cốt trong việc lấy ý kiến của nhân dân và các đại biểu không
chuyên trách ở địa phương đóng góp các dự án luật, pháp lệnh.22
Tóm lại, đây là những nội dung công việc mà một đại biểu chuyên trách phải làm và
chuyển tải được những thông điệp mà cử tri gửi gắm để điều hòa, cân bằng các mối quan
hệ, lợi ích của cử tri địa phương và của trung ương. Đại biểu Quốc hội chuyên trách ở địa
phương ngoài việc thực hiện vai trò của người đại biểu Quốc hội nói chung còn phải hoạt
động theo quy chế của Đoàn đại biểu Quốc hội đồng thời phải giữ vai trò nòng cốt trong
các hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội.
1.2.4 Vai trò của đại biểu Quốc hội
Đại biểu Quốc hội là những người có những quyền hạn và nhiệm vụ nhất định theo
quy định của pháp luật để thực hành quyền lực Nhà nước trong Quốc hội. Ở nước ta, vai
trò của đại biểu Quốc hội được cụ thể hóa trong các quy phạm pháp luật khi đó, đại biểu
Quốc hội là người đại diện cho nhân dân cả nước, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực
Nhà nước trong Quốc hội. Nên đại biểu Quốc hội sẽ có hai vai trò quan trọng đó là vai trò
đối với Quốc hội và đối với cử tri.
1.2.4.1 Vai trò đối với Quốc hội
Sự thành công hay không trong một nhiệm kỳ của Quốc hội phụ thuộc rất nhiều vào
năng lực cũng như hiệu quả của việc thực hiện vai trò của các vị đại biểu Quốc hội.
Trong việc thực hiện vai trò của mình tai Quốc hội đòi hỏi các đại biểu phải tích cực
tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tại các tổ chức

khác của Quốc hội mà đại biểu Quốc hội là thành viên họ vẫn cần thể hiện vai trò của
mình trong công tác xây dựng chương trình và kế hoạch nhằm phát huy hiệu quả tốt nhất.
Khi một kiến nghị về luật hay dự án pháp luật được đưa ra để Quốc hội xem xét, lấy
ý kiến của đại biểu thì các vị đại biểu phải thật tích cực trong việc thẩm tra tính hợp pháp
và hợp lý của nó, để qua đó có thể giúp Quốc hội có thể đưa ra những quy định phù hợp.
Đối với những vấn đề cần được làm rõ và giải quyết đại biểu Quốc hội được quyền chất
vấn, thông qua hoạt động này vừa thể hiện được vai trò của đại biểu vừa giúp nhân dân
nắm bắt những thông tin cần thiết.
Ngoài ra, đại biểu Quốc hội phải tham gia các kỳ họp của Quốc hội để đưa những ý
chí và nguyện vọng của nhân dân ra trước Quốc hội, để cùng bàn bạc và giải quyết. Mặt
khác, thông qua tham dự các kỳ họp đại biểu Quốc hội có thể nắm bắt những vấn đề quan
trọng, cần thiết sau đó về triển khai lại cho cử tri địa phương.

22

Ngô Đức Mạnh: Đại biểu Quốc hội chuyên trách: Một số suy nghĩ về tăng cường năng lực hoạt động, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 11, 2003, tr. 13-17, tr. 16.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 17

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
1.2.4.2 Vai trò đối với cử tri.
Với tư cách là người được nhân dân cả nước bầu ra và đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của họ, đòi hỏi các vị đại biểu Quốc hội phải tự ý thức được vai trò của mình đối
với sự tín nhiệm đó. Song song đó, các vị đại biểu Quốc hội phải thực hiện đúng những

nhiệm vụ đã được Đảng và Nhà nước đề ra. Đại biểu Quốc hội được xem là cầu nối quan
trọng giữa Quốc hội với nhân dân, họ đem nhứng ý kiến, tâm tư và nguyện vọng của
nhân dân đến với Quốc hội để được xem xét và giải quyết.
Để làm được điều đó đại biểu Quốc hội phải thường xuyên báo cáo với cử tri, thu
thập những phản ánh từ ý kiến của cử tri đối với Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà
nước. Đây là một việc làm rất quan trọng vì thông qua báo cáo người dân có thể giám sát
được việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội. Mỗi năm, ít nhất một lần đại biểu
phải báo cáo trước cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Ngoài ra, đại biểu Quốc hội phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp và
pháp luật. Thường xuyên tuyên truyền phổ biến pháp luật cho nhân dân, tích cực trong
công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân, góp phần phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
Tóm lại, đại biểu Quốc hội là cầu nối quan trọng không thể thiếu giữa nhân dân và
Quốc hội. Đại biểu Quốc là những người được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra nên họ
cần phải cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình để xứng đáng với sự tin tưởng đó.
Trong công tác cũng như trong đời sống đại biểu phải luôn là tấm gương tốt cho nhân dân
nôi theo, phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân để có thể làm tốt vai trò là
cầu nối của mình và qua đó cũng góp phần xây dựng niềm tin vững chắc của nhân dân
đối với Quốc hội để có thể đưa đất nước ta ngày càng hoàn thiện và phát triển.
1.2.5 Khái niệm Đoàn đại biểu Quốc hội
Các đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung
ương hợp thành Đoàn đại biểu Quốc hội. Đoàn Đại biểu Quốc hội có Trưởng đoàn, Phó
Trưởng đoàn, có trụ sở, văn phòng giúp việc và có kinh phí hoạt động theo quy định của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.23
Đoàn đại biểu Quốc hội có đại biểu hoạt động chuyên trách. Đại biểu Quốc hội
trong Đoàn có nhiệm vụ thực hiện chương trình công tác và sự phân công của Đoàn, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội.

23


Điều 60, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, sửa đổi bổ sung năm 2007.

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 18

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
Nhiệm vụ của Đoàn đại biểu Quốc hội:24
Phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban mặt trận Tổ
Quốc ở địa phương tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, dự án pháp lệnh và các
dự án khác theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tổ chức để đại biểu Quốc hội thảo luận về dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án
khác, dự kiến chương trình kỳ họp Quốc hội.
Tổ chức để đại biểu Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật, đấu tranh chống
tham nhũng, giám sát văn bản quy phạm pháp luật của địa phương. Khảo sát tình hình
thực tế ở địa phương, góp ý với địa phương thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh. Khi cần thiết, kết quả giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội được công bố
trên các thông tin đại chúng.
Phân công đại biểu Quốc hội trong Đoàn tham gia Đoàn công tác, Đoàn giám sát
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
Tham gia ý kiến về việc giới thiệu đại biểu Quốc hội trong Đoàn ứng cử đại biểu
Quốc hội khoá sau, phân công đại biểu Quốc hội trong Đoàn tham gia Đoàn giám sát về
việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá sau, bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội ở địa phương.
Mỗi năm hai lần, vào giữa năm và cuối năm, báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội về tình hình hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, và đại biểu Quốc hội, đồng thời
thông báo với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Riêng đối với Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội còn có nhiệm vụ tổ chức để các đại

biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện các nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội và nhiệm vụ của
Đoàn đại biểu Quốc hội. Thường xuyên giữ mối liên hệ với Chủ Tịch Quốc hội, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội trong Đoàn, Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam ở địa phương và Văn phòng Quốc
hội.
Như vậy, sau khi tìm hiểu khái quát về Quốc hội cũng như đại biểu Quốc hội chúng
ta có thể thấy được nhiệm vụ, quyền hạn và tính chất quan trọng của hai chủ thể này. Về
phía đại biểu Quốc hội, đây là một chủ thể đặc biệt với tư cách là người đại diện cho
nhân dân cả nước. Với tính chất quan trọng như vậy, pháp luật đã đảm bảo cho đại biểu
24

Đại biểu nhân dân thành phố Hồ Chí Minh: Chức năng, nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc
hội,
/>E594EB6E7?p_p_id=EXT_ARTICLEVIEW&p_p_lifecycle=0&p_p_col_id=centertop&p_p_col_count=3&_EX
T_ARTICLEVIEW_groupId=10217&_EXT_ARTICLEVIEW_articleId=31571&_EXT_ARTICLEVIEW_versio
n=1.0&_EXT_ARTICLEVIEW_redirect=%2Fweb%2Fguest%2F55, [truy cập ngày16-1-2013]

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 19

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
những quyền cũng như quy định nhiệm vụ trong hoạt động của đại biểu. Vai trò của đại
biểu được thể hiện thông qua hoạt động mà đại biểu thực hiện. Để tìm hiểu rõ hơn về
những quy định của pháp luật về hoạt động của đại biểu Quốc hội, người viết sẽ tìm hiểu
cụ thể qua chương 2 – Cơ sở pháp lý về hoạt động của đại biểu Quốc hội.


GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 20

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Đại biểu Quốc hội đã và đang ngày càng khẳng định được vai trò của mình đối với
Quốc hội và nhân dân cả nước. Đại biểu Quốc hội là cầu nối quan trọng giữa Quốc hội
với nhân dân cả nước, vai trò của đại biểu Quốc hội được thể hiện thông qua những hoạt
động mà đại biểu thực hiện. Ở chương này người viết xin đưa ra những quy định của
pháp luật về những hoạt động của đại biểu Quốc hội, qua đó tìm hiểu vai trò cũng như
tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của đại biểu Quốc hội.
2.1 VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Dựa trên những quy định của pháp luật, cụ thể là trong Luật tổ chức Quốc hội quy
định về quyền và nghĩa vụ của đại biểu Quốc hội người viết chia vai trò của đại biểu
Quốc hội như sau.
2.1.1 Trong hoạt động lập pháp
Quốc hội nước ta có vị trí và vai trò rất quan trọng trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Quốc hội đã trải qua một chặng đường dài phát triển, đã khẳng định vai
trò, vị trí của mình là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất. Hoạt động của Quốc hội về lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng được tăng cường. Bước đường trưởng thành
của Quốc hội là bằng chứng của việc thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng không
ngừng củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.25

Lập pháp là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản nhất của Quốc hội, nhằm
thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành các quy định của Nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng. Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật đã từng bước được hoàn thiện, góp phần
quan trọng vào “việc giữ vững” ổn định chính trị, đổi mới kinh tế và mọi mặt cuộc
sống.26
Cá nhân mỗi đại biểu Quốc hội có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng
Luật, Nghị quyết. Luật, Nghị quyết có được thông qua hay không tùy thuộc vào sự quyết
định và bấm nút của mỗi đại biểu Quốc hội. Vai trò cá nhân của mỗi đại biểu Quốc hội
25
26

Điều 2, Hiến pháp 1992,sửa đổi bổ sung 2001.
Phan Trung Lý: Tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo yêu cầu nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nghiên
cứu lập pháp – Văn phòng Quốc hội, -dongQuoc-hoi-theo-yeu-cau-nha-nuoc-phap-quyen-XHCN#ixzz2MV1Wh346, [truy cập ngày 22-2-2013].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 21

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
thể hiện rõ nhất trong quá trình xem xét, thông qua dự thảo Luật, dự thảo Nghị quyết của
Quốc hội. Trong quá trình này, các đại biểu Quốc hội tham gia phát biểu ý kiến, tranh
luận, bày tỏ quan điểm và biểu quyết tại phiên họp toàn thể của Quốc hội.27
Thông qua hoạt động lập pháp đã thể hiện được nhiệm vụ cũng như vai trò của
những vị đại biểu. Nối tiếp hoạt động tiếp xúc cử tri để tập hợp những ý kiến đóng góp
của người dân và trình bày những ý kiến đó trước Quốc hội. Thì hoạt động lập pháp của
đại biểu Quốc hội là hoạt động góp phần thể chế hóa những ý kiến đó thành những quy

định của pháp luật.
Tuy nhiên, theo dõi hoạt động của các đại biểu Quốc hội qua nhiều nhiệm kỳ, có thể
thấy rằng hoạt động lập pháp là một trong những hoạt động còn có những hạn chế nhất
định. Tuỳ khả năng, trình độ, vị trí công tác của mình, mà hiệu quả, chất lượng hoạt động
lập pháp của mỗi đại biểu Quốc hội là khác nhau. Thông thường, hoạt động này chỉ tập
trung ở những đại biểu chuyên trách, đại biểu là những chuyên gia, nhà khoa học, đại
biểu đang công tác ở những cơ quan nghiên cứu, viện khoa học liên quan đến hoạt động
lập pháp, tư pháp...
Mặt khác, các đại biểu thường đối mặt với một nghịch lý, mỗi đại biểu phải “ôm”
hàng ngàn trang tài liệu, nhưng vẫn thiếu thông tin chắt lọc, đã qua xử lý. Thiếu thông tin
dạng này là một nguyên nhân chủ chốt khiến đại biểu Quốc hội nhiều lúc biểu quyết theo
cảm tính hoặc biểu quyết theo người khác. Thực tế cho thấy trước những vấn đề lớn,
nhiều đại biểu Quốc hội rất lúng túng vì thiếu cơ sở thông tin, không nắm được vấn đề.
Các đại biểu Quốc hội gọi đây là tình trạng “không biết mà phải biểu quyết”, hoặc như có
đại biểu cho biết, “bấm nút mà trong lòng vẫn không yên”.28
2.1.2 Trong hoạt động chất vấn
Hoạt động chất vấn tại kỳ họp Quốc hội được cử tri cả nước quan tâm trong nhiều
năm gần đây, bởi lẽ hoạt động chất vấn sẽ làm rõ hơn trách nhiệm chính trị của người
đứng đầu các cơ quan hành pháp ở trung ương và ở địa phương, góp phần nâng cao chất
lượng của cả hệ thống bộ máy Nhà nước . Thực tiễn cho thấy, để thực hiện chức năng của
người đại biểu dân cử theo luật định, thì hoạt đông của đại biểu dân cử rất sinh động và
đa dạng. Một trong những chức năng quan trọng chính là giám sát, mà chất vấn được
27

28

Phương Hiền: Vai trò của đại biểu trong hoạt động lập pháp của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân tỉnh Quảng Nam,
. vn/Default.aspx?tabid=160&mid=659&ctl=New&News=325, [truy cập ngày 28-3-2013].
Nguyễn Đức Lam: Vai trò của các nguồn lực bổ trợ đại biểu Quốc hội trong hoạt động lập pháp, Nghiên cứu lập

pháp – Văn phòng Quốc hội,
[truy cập ngày 26-2-1013].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 22

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
hiểu là một hình thức của giám sát, là công cụ giám sát có hiệu quả trực tiếp của Quốc
hội, do chính đại biểu dân cử thực hiện.
Chất vấn là một hình thức giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu những vấn đề
thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời về những
vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn.29
Để câu hỏi có chất lượng các đại biểu cần phải biết đặt câu hỏi ngắn và tăng kỹ năng
đặt câu hỏi, vì chất vấn không phải là những câu hỏi đáp thông thường, hỏi để biết. Do
vậy, đại biểu phải chú ý đến nội dung chất vấn, biết chọn lọc vấn đề đích đáng, không
chung chung, trừu tượng, không quá đi vào chi tiết, vụn vặt, không đề cập bí mật quốc
gia… Muốn vậy, cùng với việc thu thập thông tin thật đầy đủ về vấn đề chất vấn, thì
đồng thời việc tìm hiểu đầy đủ về người được chất vấn, sẽ giúp người chất vấn chủ động
hơn trong quá trình tiến hành chất vấn, nhằm đạt đến sự rõ ràng, sự công khai, minh bạch
và chính xác của vấn đề được chất vấn.30
Như vậy, những kỹ năng như: thu thập thông tin, chuẩn bị câu hỏi sắc bén, trình bày
ngắn gọn, biết quản lý thời gian để không diễn giải, thương thuyết để tiếp tục chất vấn
làm rõ vấn đề, biết chú ý lắng nghe, biết lựa chọn sử dụng ngôn từ, sử dụng giọng nói,
ngôn ngữ cơ thể một cách thuyết phục sẽ làm nội dung trình bày chất vấn trở nên sinh

động và hiệu quả hơn.
Chất vấn cũng có nghĩa là cuộc đấu tranh giữa những người có trách nhiệm giám sát
với người có trách nhiệm quản lý và tổ chức thực hiện. Nếu người chất vấn chưa chỉ ra
vấn đề yếu kém, tồn tại và trách nhiệm trong quản lý thì có nghĩa là công tác giám sát
chưa đến nơi, đến chốn. Nếu người bị chất vấn trả lời chưa đầy đủ hoặc né tránh trả lời
thì người đó chưa thấy hết trách nhiệm của mình. Nên đại biểu dân cử cần có sự thẳng
thắn, có tính xây dựng, có lý lẽ và thực tiễn thuyết phục, không cần thiết tạo áp lực hay
có thái độ gay gắt, căng thẳng, quá lời.
Tại các phiên chất vấn đòi hỏi các đại biểu Quốc hội phải chuẩn bị tốt những câu
hỏi do mình đặt ra, nội dung câu hỏi phải ngắn gọn, xúc tích tránh tình trạng dài dòng
không bám sát nội dung cần làm rõ. Còn về phía người trả lời chất vấn cũng đòi hỏi trả
lời trực tiếp, đầy đủ nội dung các vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn và xác định rõ
29
30

Điều 49, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 sửa đổi bổ sung 2007.
Hùng Kỳ: Nâng cao hiệu quả chất vấn người đại biểu dân cử, Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh
Gia Lai,
[truy cập ngày 3-4-2013].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 23

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


Vai trò của đại biểu Quốc Hội – Thực trạng và giải pháp
trách nhiệm, biện pháp khắc phục. Việc trả lời phải đi vào nội dung chính của câu hỏi,
không được trả lời một cách chung chung không làm sáng tỏ được vấn đề. Một điều cần

đặt ra ở đây là đòi hỏi thái độ giữa người hỏi và người trả lời phải thoải mái tránh tình
trạng gay gắt, sung đột giữa hai bên làm không khí chất vấn trở nên căng thẳng, làm ảnh
hưởng đến hiệu quả của hoạt động.
Thực hiện chất vấn tốt, là thể hiện trình độ và bản lĩnh của người đại biểu. Diễn biến
và kết quả của các phiên chất vấn được đông đảo cử tri quan tâm theo dõi, nên các đại
biểu lại càng có trách nhiệm nặng nề hơn, ý thức là người đại diện của cử tri phải cao
hơn, khi đó đại biểu càng nên thận trọng, chu đáo, chuẩn bị kỹ mỗi khi chất vấn và trả lời
chất vấn.
Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn trong hoạt động chất vấn như trong các
buổi chất vấn tại kỳ họp, không phải nội dung chất vấn nào cũng được đại biểu Quốc hội
viết ra, đăng ký gửi đến Chủ tịch Quốc hội trước đó. Các buổi chất vấn thường được bố
trí lịch vào khoảng 10 ngày cuối của kỳ họp. Trong hơn 20 ngày họp trước đó, đại biểu
Quốc hội nhận được nhiều thông tin các loại từ phản ảnh của cử tri, từ dư luận báo chí...
việc nảy sinh thêm những vấn đề mà đại biểu thấy cần chất vấn có nội dung khác với
những chất vấn trước đã gửi là điều tất nhiên. Trong buổi chất vấn của kỳ họp, đại biểu
đã đăng ký và được mời phát biểu chất vấn, đại biểu lại nêu nội dung chất vấn mới. Hiện
tượng này xảy ra thường xuyên và người được chất vấn cũng đã cố gắng trả lời các chất
vấn mới đó, không phân biệt là chất vấn trước hay sau, có gửi đến Chủ tịch Quốc hội
trước hay chưa. Điều này phần nào cũng ảnh hưởng đến công tác chuẩn bị trả lời của
người được chất vấn.31
Tuy còn nhiều khó khăn, vướng mắc nhưng hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn
của Quốc hội vừa qua thật sự là điểm sáng trong sinh hoạt chính trị của nước ta. Các vấn
đề quan trọng, nhạy cảm đã được các đại biểu Quốc hội chất vấn và trả lời một cách có
trách nhiệm, chân thành và xây dựng, đó là minh chứng rõ ràng cho kết quả tích cực về
các hoạt động giám sát của đại biểu dân cử, là động lực thúc đẩy cho những họat động
nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực của Quốc hội trong tương lai.
2.1.3 Trong hoạt động tiếp công dân
Tiếp công dân là một trong những hoạt động quan trọng của người đại biểu dân cử.
Công tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân đóng vai trò
quan trọng trong việc gắn kết mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, nắm bắt

31

Nguyễn Văn Mễ: Nâng cao chất lượng, hiệu quả chất vấn của đại biểu Quốc hôi, Trung tâm bồi dưỡng đại biểu
dân cử,
[truy cập ngày 22-32013].

GVHD: Nguyễn Nam Phương

Trang 24

SVTH: Huỳnh Tuấn Vũ


×