Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH về QUI ĐỊNH cấm kết hôn THEO PHÁP LUẬT hôn NHÂN và GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.99 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Khóa 31 (2005 – 2009)

Đề tài:

VỀ QUI ĐỊNH CẤM KẾT HÔN THEO PHÁP LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH

Sinh viên th ực hiện:

Giáo viên hướng dẫn:

Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

Trần Thị Ngọc Tuyền
MSSV : 5055005
L ớp : Luật Hành Chính -K31

Cần Thơ 11-2008


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ----------------------------------------------------------------------------- 1
1. Tính cấp thiết của đề tài---------------------------------------------------------------------- 1
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài -------------------------------------------------------------- 2
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài -------------------------------------------------------- 2


4. Cơ cấu của luận văn -------------------------------------------------------------------------- 2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VÀ
NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CẤM KẾT HÔN ---------------------- 3
1.1. Các khái niệm cơ bản của luật hôn nhân và gia đình------------------------------ 3
1.1.1. Khái niệm về luật hôn nhân và gia đình ------------------------------------------- 3
1.1.1.1. Khái niệm ---------------------------------------------------------------------------- 3
1.1.1.2. Phạm vi điều chỉnh------------------------------------------------------------------ 3
1.1.1.3. Tính chất ------------------------------------------------------------------------------ 4
1.1.2. Khái niệm về về hôn nhân------------------------------------------------------------- 4
1.1.2.1.Khái niệm ------------------------------------------------------------------------------ 4
1.1.2.2. Đặc điểm của hôn nhân ------------------------------------------------------------- 4
1.1.3. Khái niệm về kết hôn ------------------------------------------------------------------- 5
1.1.3.1.Khái niệm ------------------------------------------------------------------------------ 5
1.1.3.2. Tính chất của kết hôn---------------------------------------------------------------- 5
1.1.3.3. Các điều kiện kết hôn---------------------------------------------------------------- 6
1.1.4. Khái niệm về kết hôn trái pháp luật ------------------------------------------------ 6
1.1.4.1. Khái niệm ----------------------------------------------------------------------------- 6
1.1.4.2. Khái niệm về cấm kết hôn ---------------------------------------------------------- 7
1.2. Lịch sử về các qui định cấm kết hôn theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
------------------------------------------------------------------------------------------------------ 7
1.2.1. Luật cổ và tục lệ ------------------------------------------------------------------------ 7
1.2.1.1. Quốc triều hình luật------------------------------------------------------------------ 8
1.2.1.2. Bộ luật Gia Long --------------------------------------------------------------------- 9
1.2.2. Luật cận đại ------------------------------------------------------------------------------ 9
1.2.2.1. Bộ dân luật Giản yếu 1883 ------------------------------------------------------- 10
1.2.2.2. Bộ luật dân sự Bắc kì (1931) và Trung kì (1936)------------------------------ 11


1.2.3.Luật hiện đại ---------------------------------------------------------------------------- 12

1.2.3.1. Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam do chính quyền thực dân Pháp và
Đế quốc Mỹ ban hành ------------------------------------------------------------------------- 13
1.2.3.2. Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa -- 15
CHƯƠNG 2. NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CẤM
KẾT HÔN VÀ HẬU QUẢ CỦA VIỆC HỦY KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT -- 18
2.1. Các trường hợp cấm kết hôn theo pháp luật hiện hành------------------------- 18
2.1.1. Các qui định về điều kiện kết hôn nói chung ----------------------------------- 18
2.1.1.1. Phải đủ tuổi kết hôn---------------------------------------------------------------- 18
2.1.1.2. Phải có sự tự nguyện của hai bên nam, nữ khi kết hôn ----------------------- 20
2.1.1.3. Việc kết hôn không rthuộc các trường hợp cấm kết hôn qui định tại điều 10
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000-------------------------------------------------------- 23
2.1.2. Các trường hợp cấm kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện
hành --------------------------------------------------------------------------------------------- 24
2.1.2.1. Cấm kết hôn giữa những người đang có vợ, có chồng------------------------ 24
2.1.2.2. Cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn ------------------------------ 26
2.1.2.3. Cấm những người cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong phạm
vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc kết hôn với nhau ------------------------ 28
2.1.2.4. Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính--------------------------------- 30
2.1.2.5. Cấm kết hôn giả tạo---------------------------------------------------------------- 33
2.2. Chế tài trong trường hợp kết hôn trái pháp luật-------------------------------- 34
2.2.1. Hủy kết hôn trái pháp luật – chế tài của Luật hôn nhân và gia đình------ 34
2.2.1.1 Hình thức chế tài ------------------------------------------------------------------- 40
2.2.1.2. Thời hiệu khởi kiện và trình tự, thủ tục yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật
---------------------------------------------------------------------------------------------------- 40
2.2.1.2.1. Thời hiệu khởi kiện ----------------------------------------------------------- 41
2.2.1.2.2. Trình tự, thủ tục yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật-------------------- 43
2.2.2. Hậu quả pháp lí đối với hai bên vợ, chồng -------------------------------------- 43
2.2.2.1. Về nhân thân --------------------------------------------------------------------- 43
2.2.2.1.2. Về tài sản ------------------------------------------------------------------------- 44
2.2.2.1.3. Về thừa kế ---------------------------------------------------------------------- 44

2.2.2.2. Hậu quả pháp lí đối với con cái------------------------------------------------ 45
2.2.2.3. Hậu quả pháp lí đối với người thứ ba ----------------------------------------- 46
2.2.3. Các chế tài khác – chế tài hành chính và hình sự------------------------------ 47


CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUI ĐỊNH CẤM
KẾT HÔN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VẤN ĐỀ
3.1. Thực trạng áp dụng các qui định cấm kết hôn ------------------------------------ 49
3.2. Gỉai pháp hoàn thiện vấn đề ---------------------------------------------------------- 55
PHẦN KẾT LUẬN --------------------------------------------------------------------------- 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Luận văn tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là “hạt nhân của xã hội” (lời nói của chủ tịch Hồ Chí Minh), gia đình
còn là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục
nhân cách góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Có thể hiểu gia đình là
một đơn vị gồm những người sống chung có quan hệ gắn bó với nhau bằng những mối
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng mà cơ sở để tạo nên
gia đình là hôn nhân. Hôn nhân được xem là tiền đề của gia đình, hôn nhân cũng là
bước phát triển tất yếu của tình yêu của đôi nam nữ. Để tiến tới hôn nhân, về mặt
phong tục tập quán không chỉ đôi trai gái mà cả gia đình hai bên cần phải tiến hành
nhiều nghi thức truyền thống. Về mặt pháp luật, hai bên nam nữ cần phải thỏa mãn các
điều kiện kết hôn do pháp luật qui định và phải tiến hành đăng kí kết hôn với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thì mới được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp.
Chính vì thế, muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp không thể không chú ý đến nền tảng
hôn nhân và gia đình. Do đó, hiến pháp nước cộng hòa xã hội nghĩa Việt Nam đã ghi

nhận: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện,
tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng” (Điều 64 Hiến pháp năm 1992).
Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội quan hệ
hôn nhân và gia đình cũng có nhiều thay đổi, phát sinh thêm nhiều vấn đề phức tạp mà
pháp luật cần can thiệp giải quyết để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên có liên
quan, ổn định trật tự xã hội, thực hiện nếp sống mới, tiến bộ, dân chủ văn minh, đảm
bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện nay buộc hai bên
nam nữ muốn tiến tới hôn nhân phải thực hiện đầy đủ các thủ tục kết hôn và thoả mãn
các điều kiện kết hôn do pháp luật qui định. Pháp luật qui định là vậy nhưng trong thực
tiễn còn rất nhiều trường hợp đã vi phạm điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp luật và vi
phạm các điều cấm của luật hôn nhân và gia đình, thực tế đó ngày càng trở nên phức
tạp và làm ảnh hưởng đến phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc .
Vì vậy, để trang bị kiến thức hôn nhân gia đình cho bản thân em trong quá trình
công tác sau này cũng như giúp cho những người khác hiểu đúng, chính xác Luật hôn
nhân và gia đình, đồng thời tuyên truyền trong cộng đồng để mọi người thực hiện đúng
pháp luật, tránh các trường hợp kết hôn trái pháp luật vi phạm các điều kiện cấm kết
hôn dể cho chế độ hôn nhân gia đình nước ta càng tiến bộ và hoàn thiện hơn. Cũng vì
những lí do trên mà em đã quyết định chọn đề tài: “Về qui định cấm kết hôn theo pháp

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

1

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của
mình. Đồng thời, em cũng nhận thấy đây là đề tài hay, thiết thực và gần gũi trong cuộc

sống của mỗi người. Tuy nhiên, ở một giới hạn nào đó em cũng chưa hiểu rõ hết vấn
đề do bản thân là một sinh viên nên có sự hạn chế về trình độ, do đó chất lượng đề tài
có thể chưa cao và còn nhiều thiếu xót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô để bài luận văn của em được hoàn thiện hơn.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các qui định về cấm kết hôn trong Luật hôn nhân và
gia đình hiện hành. Đồng thời, qua đó em cũng nêu lên một số thực trạng áp dụng
những qui định cấm kết hôn trong thực tế hiện nay và giải pháp để hoàn thiện vấn đề.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện bài viết này em đã vận dụng các phương pháp phân tích và so
sánh. Bên cạnh đó, em cũng kết hợp giữa lí luận và thực tiễn cùng với việc sưu tầm tài
liệu để giải quyết vấn đề đặt ra trong đề tài.
4. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mục lục, phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về Luật hôn nhân và gia đình và những qui định của pháp
luật về cấm kết hôn.
Chương 2: Những qui định chung của pháp luật về cấm kết hôn theo pháp luật
hiện hành và hậu quả của việc kết hôn trái pháp luật.
Chương 3: Thực trạng áp dụng những quy định cấm kết hôn và giải pháp hoàn
thiện vấn đề.
Em xin chân thành cám ơn cô Đoàn Thị Phương Diệp đã tận tình hướng
dẫn em trong suốt thời gian qua để em có thể hoàn thành bài luận văn này đúng
thời hạn. Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn!

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

2

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền



Luận văn tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG QUI
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CẤM KẾT HÔN
1.1. Các khái niệm cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình
1.1.1. Khái niệm về Luật hôn nhân và gia đình
1.1.1.1. Khái niệm
Luật hôn nhân và gia đình là văn bản do Quốc hội ban hành qui định về chế độ
hôn nhân và gia đình. Trong chừng mực nào đó, có thể định nghĩa Luật hôn nhân và
gia đình là tập hợp tất cả các qui tắc chi phối sự thành lập và vận hành của gia đình.
1.1.1.2. Phạm vi điều chỉnh
- Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của
công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng củng cố chế độ hôn nhân và gia
đình Việt Nam.
Có 3 dữ kiện quan trọng liên quan đến gia đình mà từ việc phân tích 3 dữ kiện
ấy người làm luật đề ra các qui tắc của mình là:
+ Sự phối hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà nhằm xây dựng một cuộc
sống chung.
+ Sinh con .
+ Giáo dục con.
- Luật hôn nhân và gia đình được xây dựng trên 6 nguyên tắc1:
+ Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng.
+ Hôn nhân giữa Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo
với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được
tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
+ Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
+ Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ

kính trọng, chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc
phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc,
giúp đỡ nhau.
+ Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai
và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú.
+ Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em giúp đỡ các bà mẹ thực
hiện tốt các chức năng cao quí của người mẹ.
1

Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

3

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

1.1.1.3. Tính chất
- Tính phòng ngừa phổ biến là tính chất quan trọng. Cũng như tất cả các ngành luật,
Luật hôn nhân và gia đình được xây dựng và hoàn thiện bởi sự thôi thúc của yêu cầu
đảm bảo trật tự xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị trong điều kiện sự
xung đột giữa người với người, chứ không phải sự hoà hợp là thuộc tính của quan hệ
xã hội. Luật ghi nhận những thái độ cư xử bị cấm hoặc được cho phép và bằng cách đó
sẽ ngăn ngừa việc xảy ra những vụ vi phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Do đó, các
qui tắc của luật đều có tác dụng phòng ngừa và xử lí những tình huống vi phạm chẳng
hạn luật qui định cấm kết hôn giữa những người thân thuộc là ngăn ngừa sự hình thành
các gia đình thoái hoá về nòi giống và đạo đức hay việc áp đặt cần phải có nghĩa vụ

chung thuỷ giữa vợ và chồng là muốn ngăn ngừa sự đỗ vỡ của hôn nhân dẫn đến sự
tan rã của gia đình. Luật qui định rằng con phải kính trọng cha mẹ là nhằm ngăn ngừa
khả năng xuất hiện những đứa con ngỗ nghịch trong gia đình, qua đó cũng hạn chế khả
năng xuất hiện những thành phần xấu cho xã hội.v.v…
- Luật hôn nhân và gia đình đã góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn
nhân gia đình tiến bộ. Xây dựng chuẩn mực pháp lí về cách ứng xử cho các thành viên
trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt
Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
1.1.2. Khái niệm về hôn nhân
1.1.2.1. Khái niệm
Hôn nhân theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là sự liên kết giữa một
người đàn ông và một người đàn bà trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng và tự nguyện
theo qui định của pháp luật nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình
hạnh phúc, dân chủ, hoà thuận và bền vững. Theo Điều 8 khoản 6 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 thì: “ Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”.
1.1.2.2. Đặc điểm của hôn nhân
Hôn nhân có những đặc điểm sau:
- Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Đó là hôn nhân
một vợ một chồng2 .
- Hôn nhân là sự liên kết bình đẳng giữa một người đàn ông và người đàn bà trên
nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, việc xác lập quan hệ hôn nhân do hai bên nam nữ
hoàn toàn tự nguyện quyết định, không ai được ép buộc hoặc cản trở3. Cơ sở tự
nguyện trong tình yêu là tình yêu chân chính giữa nam và nữ, không bị những tính
2
3

Điều 2,4,10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp


4

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

toán về kinh tế chi phối, tính hiện thực về sự bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và
chồng gắn liền với tính hiện thực của sự phát triển kinh tế xã hội. Sự bình đẳng về hình
thức pháp lí trong pháp Luật hôn nhân và gia đình là một bước phát triển trong pháp
luật Việt Nam. Tự do, bình đẳng trong hôn nhân là thực sự cần thiết, các quan hệ hôn
nhân bị ràng buộc bởi những tính toán về kinh tế, về địa vị, giai cấp thì chưa thể có tự
do và bình đẳng thực sự.
- Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và người đàn bà nhằm chung sống
với nhau suốt đời, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững4.
Hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng là điều
kiện đẳm bảo sự liên kết đó được hạnh phúc, bền vững. Tính chất bền vững suốt đời là
đặc trưng của hôn nhân xã hội chủ nghĩa, khi yêu nhau, vợ chồng đều mong muốn
được chung sống, gắn bó bên nhau suốt đời, hạnh phúc và hòa thuận.
- Hôn nhân phải tuân theo các qui định của pháp luật. Theo qui định tại các điều
9,10,11 và các điều khác tại chương X Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, việc kết
hôn và li hôn được tiến hành theo trình tự pháp luật, các nghi lễ mang tính chất tôn
giáo và phong tục tập quán không bị cấm đoán nhưng chỉ có tính chất riêng tư. Để
được công nhận hôn nhân hợp pháp, việc đăng kí kết hôn phải tuân theo qui định của
pháp luật.
1.1.3. Khái niệm về kết hôn
1.1.3.1. Khái niệm
Theo Điều 8 khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: “Kết hôn là việc
nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo qui định của pháp luật điều kiện kết hôn và

đăng kí kết hôn”.
Kết hôn được xem là một trong những quyền cơ bản của con người, là quyền
nhân thân của công dân. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay việc kết hôn đòi hỏi phải
tuân theo những qui định mà pháp luật hôn nhân và gia đình đã đề ra nếu vi phạm thì
có thể sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lí, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, gây xáo
trộn trật tự xã hội.
1.1.3.2. Tính chất của kết hôn
- Kết hôn là một giao dịch mang tính chất pháp lí, chứ không phải là một giao dịch có
ý nghĩa vật chất hoặc tôn giáo. Đó là một giao dịch xác lập trong đời sống dân sự, chứ
không phải trong đời sống tâm linh và là một giao dịch được xác lập với sự tham gia

4

Điều 1 và Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

5

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

bắt buộc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các điều kiện về nội dung của việc kết
hôn phải được cơ quan nhà nước kiểm tra một cách chặt chẽ.
- Kết hôn là một giao dịch long trọng, tuân theo những qui định nghiêm ngặt về trình
tự, thủ tục do pháp luật qui định, những qui định ấy tạo thành tập hợp các điều kiện về
hình thức của việc kết hôn.
1.1.3.3. Các điều kiện kết hôn

Điều kiện kết hôn được hiểu là nhóm các qui tắc mang tính mệnh lệnh bắt buộc
liên quan đến việc kết hôn. Hôn nhân mà vi phạm các điều kiện kết hôn theo luật định
thì coi là trái pháp luật và có thể bị hủy.
Đây chính là qui tắc bắt buộc phải thi hành, tuân thủ, đã gọi là mệnh lệnh thì
phải chấp hành. Ta hiểu rằng “điều kiện” như một cái gì đó bắt buộc phải thực hiện,
nếu thực hiên đúng, đầy đủ thì mục đích công việc định hướng coi như hoàn tất và
đúng pháp luật. Nói đến điều kiện kết hôn thì ta có điều kiện nội dung và điều kiện
hình thức, điều kiện nội dung có ý nghĩa quan trọng và được cơ quan nhà nước kiểm
tra chặt chẽ và qui định chi tiết về nội dung, các vấn đề để kết hôn hợp pháp. Điều kiện
về hình thức đó là những trình tự, thủ tục do pháp luật qui định, nó mang tính hình
thức bên ngoài, nó là điều kiện đủ để tạo thành một tập hợp các điều kiện theo Luật
hôn nhân và gia đình Việt Nam. Điều kiện kết hôn thực sự là quan trọng khi đi vào đời
sống vì khi vi phạm các điều kiện ấy, hôn nhân bị coi là trái pháp luật và có thể bị hủy
bỏ. Quan hệ vợ chồng mà vi phạm các điều kiện ấy thì không được coi là quan hệ hôn
nhân và không thể làm phát sinh các hệ quả pháp lí của quan hệ hôn nhân.
- Theo Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ta có thể khái quát các điều kiện
kết hôn như sau:
+ Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên.
+ Việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa
dối bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
+ Việc kết hôn không thuộc các trường hợp cấm kết hôn qui định tại Điều 10 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000.
1.1.4. Khái niệm về kết hôn trái pháp luật
1.1.4.1. Khái niệm
Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng kí kết hôn nhưng
vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật qui định5.

5

Điều 8 khoản 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.


GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

6

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Việc vi phạm các điều kiện kết hôn do pháp luật qui định, cụ thể là vi phạm các
điều kiện cấm kết hôn tại Điều 9 và Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Việc kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội như vi
phạm nghiêm trọng về đạo đức, lối sống, nhân cách của gia đình Việt Nam, phá vỡ
hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hưởng đến sức khỏe và việc duy trì nòi giống của
dân tộc, Nhà nước ta đã thể hiện thái độ nghiêm khắc thông chế tài hủy hôn nhân trái
pháp luật.
1.1.4.2. Khái niệm về cấm kết hôn
Cấm kết hôn là những trường hợp theo luật định mà khi nam, nữ kết hôn với
nhau mà rơi vào các trường hợp đó thì pháp luật cấm họ kết hôn với nhau.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và 2000 đều có điều khoản qui định
trường hợp cấm kết hôn bởi đây là vấn đề hết sức quan trọng. Trên thực tế, có những
trường hợp có quan hệ chung sống khi một trong hai bên đã có vợ, có chồng, hoặc có
những người không có năng lực hành vi nhưng vẫn bị gia đình buộc phải kết hôn. Đặc
biệt, có những trường hợp tồn tại hôn nhân giữa hai bên nam, nữ có quan hệ về nuôi
dưỡng hoặc cùng dòng máu về trực hệ. Dù thuộc trường hợp nào kể trên thì đây cũng
là một trong những nguyên nhân đem lại sự đau khổ cho các gia đình và không phù
hợp với truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Vì thế, trên cơ sở kế thừa Luật
hôn nhân và gia đình 1959, 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã qui định cụ
thể hơn và bổ sung và hoàn thiện hơn các trường hợp cấm kết hôn.

1.2. Lịch sử các qui định cấm kết hôn theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
1.2.1. Luật cổ và tục lệ
Lịch sử Việt Nam gắn liền với chế độ phong kiến tập quyền kéo dài hàng nghìn
năm, luật pháp chịu ảnh hưởng nhiều của tư tưởng triết học nho giáo, phật giáo
v.v…Với quan niệm “Trọng nam khinh nữ”, “ tam tòng tứ đức”, “ngũ luân”… Bên
cạnh đó pháp luật về hôn nhân và gia đình có liên quan nhiều đến phong tục tập quán
và đạo đức, rất nhiều điều luật được bắt rễ từ phong tục, tập quán của Việt Nam và đi
sâu vào tiềm thức thành thói quen ứng xử trong nhân dân. Gia đình cổ Việt nam được
xây dựng trên phương thức sản xuất tiền phong kiến và phong kiến: ruộng đất và lao
động nông nghiệp là nền tảng kinh tế và là điều kiện vật chất để duy trì và phát triển
gia đình. Qui mô của gia đình cổ tuỳ thuộc theo qui mô ruộng đất tích tụ, nếu có nhiều
ruộng đất thì gia đình duy trì nhiều thế hệ chung sống trong một nhà, nếu có ít ruộng
đất thì gia đình duy trì số thế hệ vừa phải. Về mặt tổ chức, gia đình trong luật cổ và tục
lệ cổ theo chế độ phụ quyền, đứng đầu gia đình là người gia trưởng (chủ gia đình), gia

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

7

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

đình (chứ không phải là cá nhân) là chủ thể của quyền sở hữu tài sản. Người gia
trưởng là người điều hành các công việc sinh hoạt nội bộ gia đình kể cả việc dựng vợ,
gả chồng cho con cháu. Tiêu biểu cho chế độ hôn nhân gia đình phong kiến Việt Nam
được qui định trong hai bộ luật: Quốc triều hình luật (thường gọi là bộ luật Hồng đức)
ban hành dưới thời Lê (thế kỉ XV) và Hoàng việt luật lệ (thường gọi là bộ luật Gia
long) ban hành dưới thời Nguyễn (năm 1815). Tinh thần chung của hai bộ luật này qui

định về điều kiện kết hôn cũng như trường hợp cấm kết hôn như sau:
1.2.1.1. Quốc triều hình luật
Dưới thời Lê, quan hệ hôn nhân và gia đình được thiết lập trên những nguyên
tắc: Bảo đảm tôn ti trật tự, đẳng cấp trong mối quan hệ giữa các thành viên gia đình,
trọng nam khinh nữ, xác lập quyền tối cao của người gia trưởng. Do đó, Luật hôn nhân
và gia đình vào thời này tập trung bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền, đề cao vai trò của
người đàn ông, trong gia đình luật qui định cha mẹ có quyền và nghĩa vụ giáo dưỡng
nuôi dạy con cái. Con cái có nghĩa vụ vâng lời cha mẹ và phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi
già, phải để tang ông bà, cha mẹ trong ba năm, có thể chịu tội thay cha mẹ. Vì vậy,
trong quan hệ kết hôn, luật qui định các điều kiện kết hôn là “có sự đồng ý của cha
mẹ”6 thì hôn nhân đó mới được coi là hợp pháp. Đồng thời, cuộc hôn nhân đó không
được vi phạm các điều kiện cấm đoán như:
- Không được kết hôn giữa những người trong họ hàng thân thích (Điều 319)
- Cấm kết hôn khi đang có tang cha, mẹ hay chồng (Điều 317)
- Cấm kết hôn khi ông, bà, cha, mẹ đang bị giam cầm tù tội.(Điều 318)
- Cấm anh (em) lấy vợ goá của em (anh), trò lấy vợ goá của thầy (Điều 324).
- Quan lại và con cháu quan lại lấy con gái làm nghề hát xướng (Điều 323)
- Cấm lấy vợ của kẻ đang trốn tránh làm vợ của mình (Điều 338)
- Cấm quan ty ở trấn ngoài mà lấy đàn bà, con gái trong hạt mình (Điều 316)
- Cấm các quan ty mà cùng với những người tù trưởng ở biên giới kết thông gia (Điều
334)
- Cấm người vô lại lấy cô, dì, chị em gái, kế nữ, người thân thích (Điều 319).
Tuy nhiên, luật Hồng đức không qui định tuổi kết hôn, mặc dù trong Thiên nam
dư hạ tập (phần lệ Hồng đức hôn giá) có viết: “con trai 18 tuổi, con gái 16 tuổi mới có
thể thành hôn”, đây là qui định nhằm hạn chế nạn tảo hôn trong xã hội cũ. Đối với bộ
luật Hồng đức cũng cho thấy cuộc hôn nhân có giá trị pháp lí từ sau lễ đính hôn.

6

Điều 314 Bộ luật Hồng Đức.


GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

8

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Ví dụ như: Điều 315 qui định: “gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gả
nữa phải phạt 80 trượng …Còn người con gái phải gả cho người hỏi trước. Tuy nhiên,
nếu trong thời gian từ lễ đính hôn cho đến khi thành hôn mà một trong hai bên bị tật
hay phạm tội thì bên kia có quyền từ hôn.
1.2.1.2. Bộ luật Gia long
Dưới thời Nguyễn, luật viết xây dựng khuôn mẫu gia đình phụ quyền Trung
Quốc. Thực ra, bộ luật Gia long chỉ dành cho gia đình sự quan tâm có chừng mực.Tuy
nhiên, từ các qui định rải rác trong các văn bản luật (kể cả trong các lệnh dưới các điều
luật chính) có thể thấy chủ trương của người làm luật thời Nguyễn là tôn vinh vai trò
của người đàn ông trong gia đình, hạ thấp vai trò, vị trí của người phụ nữ. Toàn bộ tài
sản và quyền lực gia đình nằm trong tay của người đàn ông, nếu người này chết thì
người mẹ goá không kết hôn lại giữ vị trí chủ gia đình dưới sự giám sát của gia tộc,
nếu cả cha và mẹ chết hết thì vai trò chủ gia đình do con trai trưởng đảm nhận. Nếu
con trai trưởng chưa trưởng thành thì việc quản lí được tộc trưởng đảm nhận cho đến
khi con trai trưởng đủ sức tự mình gánh vác công việc. Chính vì vậy, hôn nhân thời kì
này phụ thuộc vào cả cha mẹ: “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” tức là chế độ cưỡng ép kết
hôn. Việc gả chồng cho con gái, lấy vợ cho con trai đều do ông bà làm chủ hôn, theo
sự sắp đặt, lựa chọn của ông bà, cha mẹ và họ hàng. Nếu ông bà, cha mẹ chết cả thì
người tôn trưởng khác trong họ làm chủ hôn, cha mẹ có quyền không công nhận việc
kết hôn của con cái vì không có sự đồng ý của họ. Có thể xem đây là một hình thức

cấm kết hôn, đồng thời chúng ta cũng có thể thấy được dưới thời Nguyễn không có sự
tự nguyện trong hôn nhân. Mặc khác, ngoài những qui định cấm kết hôn ở thời Lê,
thời Nguyễn còn qui định thêm về việc cấm kết hôn như:
- Không được vi phạm trật tự thê thiếp (Điều 96)
- Cấm nô tì kết hôn với dân tự do (Điều 196)
→ Điều này càng thể hiện rõ sự phân biệt trật tự bình đẳng trong xã hội lúc bấy giờ.
1.2.2. Luật cận đại
Từ năm 1858 đến 1945 đến cuối thời kì thuộc địa, Việt nam vẫn là một nước
nông nghiệp lạc hậu. Người Việt nam thời kì này vẫn duy trì hình thái gia đình đại phụ
quyền và sinh sống trên mảnh ruộng mà gia đình có nghĩa vụ gìn giữ để truyền đời.
Mô hình đại gia đình phụ quyền vẫn được ghi nhận trong pháp luật thuộc địa như là
mô hình kiểu mẫu.
Sau khi nắm được toàn bộ lãnh thổ nước ta, chính quyền thực dân Pháp đã lần lược
ban hành những văn bản pháp luật mới qui định nhiều việc thay đổi nếp sinh hoạt cổ

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

9

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

truyền của dân tộc. Bản thân quan hệ hôn nhân và gia đình cũng bị rơi vào tình trạng
vừa thể hiện xu hướng Âu hoá theo kiểu Pháp vừa cố duy trì những phong tục tập quán
của Việt nam. Có thể coi đây là bước qua độ chuyển từ quan điểm cổ điển mang sắc
thái đặc thù của luật cổ nước ta sang quan điểm pháp lí Tây phương trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình.
Thời kì này thực dân Pháp chia cắt đất nước ta ra làm ba miền, mỗi miền áp

dụng một bộ dân luật để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. Nhìn chung, thực
dân Pháp và giai cấp địa chủ đã lợi dụng chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến đã
tồn tại và duy trì từ nhiều thế kỉ ở Việt nam để củng cố nền thống trị của chúng. Ở
Bắc kì, áp dụng những qui định trong bộ dân luật 1936, ở Nam kì, áp dụng các qui
định theo tập Dân luật giản yếu 1883. Chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam thời kì
này thực ra chỉ là công cụ pháp lí của nhà nước thực dân phong kiến nhằm củng cố và
bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến. Trong các bộ luật trên, thì các qui định
cấm kết hôn được ghi nhận như sau:
1.2.2.1. Bộ dân luật giản yếu 1883
- Bộ dân luật Giản yếu là văn bản pháp luật dân sự được ban hành sớm nhất dưới chế
độ thuộc địa 1883. Nó hầu như không phản ánh, đúng hơn là chỉ phản ánh một cách
phiến diện tư duy pháp lí của người Việt nam thời đó. Bộ dân luật giản yếu thừa nhận
tình trạng bất bình đẳng trong gia đình, qui định nhiều nghĩa vụ của người phụ nữ như:
nghĩa vụ chung thủy mà không bắt buộc như thế đối với người chồng. Do đó, về điều
kiện kết hôn được qui định:
+ Phải có sự ưng thuận của hai bên nam nữ và của cha mẹ.
+ Đàn bà góa được phép tái giá nhưng phải có sự đồng ý của cha mẹ chồng (nếu sống
chung với cha mẹ chồng) hoặc cha mẹ ruột (nếu đã về ở với cha mẹ ruột).
+ Nữ 14 tuổi, nam 16 tuổi mới được phép kết hôn.
+ Không được kết hôn trong thời kì để tang cha, mẹ hay tang chồng, vợ. Cấm người
vợ không được kết hôn trong thời hạn 10 tháng kể từ ngày chồng mình qua đời dể
tránh sự lộn xộn về tử hệ.
+ Cấm kết hôn khi một trong hai bên nam, nữ bị điên cuồng, vô tri thức.
+ Cấm kết hôn giữa những người thân thuộc hay thân thích thuộc về trực hệ vào bậc
nào cũng vậy, bất luận là con nuôi hay con ngoài giá thú. Cụ thể là, về bàng hệ những
người sau đây bị cấm kết hôn với nhau:
* Anh, chị, em cùng cha, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và cùng mẹ khác cha
và các thân thích cùng đẳng cấp ấy.

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp


10

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

* Chú, bác, cô, dì, ông chú, ông bác, bà cô, bà bác.
* Các bà con cùng ông tổ và cùng họ (đồng tông).
Theo dân luật giản yếu, hôn lễ cũng có thể tiến hành theo thể thức dân luật
Pháp, không cần làm lễ nghi theo tục lệ, chỉ cần khai báo với chính quyền sau khi đã
công bố hợp pháp. Như vậy, hôn nhân trong thời kì này sẽ không được mặc nhiên
công nhận nếu không đăng kí kết hôn.
1.2.2.2. Bộ luật dân sự Bắc kì (1931) và Trung kì (1936)
- Cũng như các qui định pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình trước đây.
Bộ luật dân sự Bắc kì và Trung kì chịu ảnh hưởng của quan niệm phong kiến.
Trong quan hệ kết hôn: hai bộ dân luật vẫn duy trì chế độ hôn nhân cưỡng ép,
phụ thuộc vào các bậc cha, mẹ hay thân trưởng trong gia đình, dù con đã thành niên.
“Phàm con cái đã thành niên cũng như chưa thành niên không khi nào không có cha
mẹ bằng lòng mà kết hôn được” (Điều 77 bộ Dân luật Bắc kì). Chế độ đa thê cũng
được duy trì, bộ Dân luật Bắc kì qui định: “Có hai cách giá thú hợp pháp: giá thú về
chính thất và giá thú thứ nhất” (Điều 79) và “chưa lấy vợ chính thì không được lấy vợ
thứ” (điều 80). Ngoài những qui định về điều kiện kết hôn cũng như cấm kết hôn,
tương tự như Bộ dân luật giản yếu 1883, hai bộ luật này còn có một số điểm riêng,
chẳng hạn về độ tuổi kết hôn:
+ Ở Bắc kì và Trung kì: con trai 18 tuổi tròn, con gái 15 tuổi tròn. Khi có lí do đặc biệt
như khi người con gái có thai thì Dân luật Bắc, Dân luật Trung đều có quy định thủ tục
xin miễn tuổi nhưng ít nhất con trai phải đủ 15 tuổi, con gái đủ 12 tuổi.
Cũng như bộ Dân luật giản yếu thì hai bộ luật cũng qui định:

+ Không được kết hôn thời kì để tang cha, mẹ hay tang chồng, vợ. Cụ thể là: Cấm kết
hôn khi để tang cha, mẹ (27 tháng), tang chồng (27 tháng), tang vợ (12 tháng) .
+ Người vợ chỉ được kết hôn với người khác sau 300 ngày kể từ ngày phán quyết li
hôn có hiệu lực.
+Về bàng hệ, những người sau đây bị cấm kết hôn với nhau:
Ở Bắc kì:
- Anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha, anh chị em nuôi.
- Chị dâu, em dâu với em chồng, anh chồng;
- Chú, bác, cậu với cháu gái;
- Cô, dì với cháu trai;
- Bác gái hay thím, mợ với cháu chồng;
- Anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì cả hai bên nội ngoại.

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

11

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

- Anh, chị, em, cháu, chú, bác, cháu cô về bên nội.
Ở Trung kì
Ngoài các đối tượng cấm như ở Bắc kì ở Trung kì còn cấm:
- Bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
- Cháu trai với vợ góa của ông chú, ông bác, ông cậu.
- Ông chú, ông bác, ông cậu với vợ goá của cháu trai mình.
Dân luật Trung kì qui định từ ngày làm lễ ước hôn đến ngày là lễ cưới không quá 6
tháng trừ khi có lí do chính đáng (như bị ốm đau hay tang chẳng hạn).

Hai bộ dân luật cũng qui định nếu không khai báo, đăng kí kết hôn quan hệ vợ
chồng sẽ không có giá trị pháp lí. Hôn lễ theo phong tục, tập quán, ngoài ra còn cần
phải khai báo với chính quyền nơi nhà trai, nhà gái cư trú để làm thư tục công bố trong
thời hạn 8 ngày và sau đó đăng kí vào sổ hộ tịch (bộ giá thú) của địa phương.
Như vậy, đăng kí kết hôn cũng như qui định cấm kết hôn trong ba bộ dân luật có
điểm khác biệt so với luật pháp của thời kì quân chủ phong kiến. Luật thời kì trước
không nói rõ cho phép hay ngăn cấm chế độ hôn nhân đa thê, mặc dù trên thực tế loại
hôn nhân này vẫn mặc nhiên công nhận. Luật của chính quyền thực dân thì qui định rõ
trật tự giữa vợ cả, vợ lẽ và nàng hầu (một dạng vừa là vợ lẽ vừa là kẻ tôi tớ trong nhà),
tức luật cho phép một người đàn ông được lấy nhiều vợ. Đó là do các văn bản pháp
luật về hôn nhân và gia đình do nhà nước thực dân ban hành trước Cách mạng tháng
8 – 1945, phần lớn dựa vào phong tục tập quán lạc hậu của xã hội phong kiến Việt
nam và bộ dân luật Pháp 1804 với các qui định thuần túy coi quan hệ hôn nhân gia
đình là một chế định do dân luật điều chỉnh, là công cụ pháp lí của nhà nước thực dân
phong kiến nhằm củng cố và bảo vệ quyền lợi của giai cấp địa chủ, phong kiến. Bởi
vậy, ngay sau khi thành lập tháng 2 năm 1930 Đảng cộng sản Việt nam đã đề ra nhiệm
vụ phải xóa bỏ chế độ hôn nhân gia đình phong kiến lạc hậu, coi đó là một yêu cầu cấp
thiết của cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ nói riêng và của sự nghiệp cách mạng nói
chung, bỏ hết thảy các pháp luật và tục lệ hủ bại làm cho đàn bà không được bình đẳng
với đàn ông, bỏ chế độ áp bức của cha, mẹ đối với con cái, của chồng đối với vợ
v.v…Cấm tục lấy nhiều vợ….
1.2.3. Luật hiện đại
Cách mạng tháng tám thành công đã giải phóng dân tộc Việt nam nói chung và
phụ nữ Việt nam nói riêng ra khỏi ách thống trị hết sức hà khắc và đối xử thậm tệ của
chế độ thực dân phong kiến, mở ra một kỉ nguyên mới của lịch sử hôn nhân và gia
đình. Ngay từ khi ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (ra đời 2-9-1945) đã rất

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

12


SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

quan tâm và coi trọng việc soạn thảo, ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh
(trong đó có Luật hôn nhân và gia đình) nhằm củng cố và bảo vệ thành quả của cách
mạng, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình
cũng dần được hoàn chỉnh. Có thể thấy rằng, sự phát triển của Luật hôn nhân và gia
đình từ sau cách mạng tháng 8-1945 có thể khái quát thành 2 giai đoạn sau:
1.2.3.1. Pháp luật hôn nhân và gia đình do chính quyền thực dân Pháp và
Đế quốc Mỹ ban hành
Sau cách mạng tháng tám, ở vùng tạm chiếm tuy thực dân Pháp liên tiếp thay
đổi bộ máy cầm quyền nhưng về mặt pháp luật, nhất là luật Dân sự, trong đó có luật
Hôn nhân và gia đình vẫn không có gì thay đổi. Các bộ Dân luật giản yếu, Dân luật
Bắc kì, Dân luật Trung kì vẫn tiếp tục thi hành ở vùng tạm chiếm và ở miền Nam sau
ngày đất nước chia đôi cho tới 1972. Ở miền Nam, sự thống nhất dân luật chỉ được
thực hiện riêng đối với lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở miền Nam được qui định lần
lượt trong các đạo luật sau:
- Luật gia đình ( số 1/59 ) ngày 2/1/1959 (thời Ngô Đình Diệm).
- Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 (thời Nguyễn Khánh).
- Bộ Dân luật ban hành do Sắc luật số 028/TT/SLU ngày 20/12/1972 (thời Nguyễn
Văn Thiệu) qui định hôn nhân và gia đình chung với các chế định dân sự khác.
Luật Gia đình số 1/59 và sắc luật số 15/64 qui định về điều kiện kết hôn cũng như
qui định cấm kết hôn giống nhau, cụ thể như sau:
+ Tuổi: nam đủ 18 tuổi, nữ đủ 15 tuổi. Khi có lí do đặc biệt quan trọng, Tổng thống
có thể xét cho miễn tuổi;
+ Không đang có vợ, có chồng ;
+ Phải có sự ưng thuận giữa đôi nam, nữ và của cha, mẹ (nếu chưa đủ 21 tuổi). Nếu

không còn cha, mẹ thì phải có sự ưng thuận của ông bà nội, sau đó là ông bà ngoại,
sau đó nữa là người giám hộ;
+ Không có quan hệ huyết thống do hôn nhân hay do lập con nuôi (do đó cha ghẻ
không được kết hôn với con trai riêng của chồng);
Về bàng hệ, cấm kết hôn giữa:
+ Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em
nuôi;
+ Chú, bác, cậu với cháu gái, cô, dì với cháu trai do huyết tộc hay do hôn nhân;

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

13

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

+ Ông chú, ông bác, ông cậu với cháu gái; bà cô, bà dì với cháu trai do huyết tộc
hay do hôn nhân (do đó chú, bác, cậu không được kết hôn với cháu gái, cháu dâu,
cô dì không được kết hôn với cháu trai, cháu rể);
+ Bác gái, thím hay mợ, cháu chồng; ông dượng với cháu vợ; bà bác, bà thím, bà
mợ với cháu chồng; ông dượng với cháu vợ;
+ Anh, chị, em, cháu chú, cháu bác, cháu cậu, con cô, con dì cả hai bên nội, ngoại;
+ Anh, chị, em, cháu chú, cháu bác, cháu cô, cháu dì về bên nội cũng như bên
ngoại;
+ Chị dâu, em dâu với em chồng, anh chồng, anh rể, em rể với em vợ, chị vợ.
Lễ kết hôn được tiến hành qua thủ tục niêm yết, bố cáo trong thời hạn 10 ngày.
Hôn lễ chỉ có thể cử hành sau thời hạn niêm yết luật định, tổ chức tại công sở trước
viên chức hộ tịch nơi thường trú hay tạm trú của bên nam hay bên nữ. Pháp luật

cũng nghiêm cấm đôi nam nữ chung sống như vợ, chồng mà không đăng kí kết
hôn. Quan hệ vợ, chồng phải được xác lập bằng hôn thú.
Bộ dân luật ngày 20/12/1972 qui định về điều kiện kết hôn và cấm hôn như sau:
+ Tuổi: nam đủ 18 tuổi, nữ đủ 16 tuổi. Nếu có lí do trọng đại, Nguyên thủ quốc gia
có thể xét cho miễn tuổi;
+ Phải có sự ưng thuận của 2 bên nam, nữ, nếu còn vị thành niên (dưới 21 tuổi) thì
phải có sự ưng thuận của cha, mẹ, không có cha, mẹ thì tuần tự tới ông, bà nội, ông
bà ngoại, người giám hộ, hội đồng dân tộc;
+ Không đang có vợ, có chồng. Người đàn bà chỉ được tái hôn sau 300 ngày kể từ
ngày có án li hôn.
+ Không được kết hôn giữa những người có quan hệ bà con sau đây:
* Thân thuộc trực hệ, không kể chính thức hay ngoại hôn, bất kì thứ bậc nào;
* Về bàng hệ, cấm kết hôn giữa:
• Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha;
• Chú, bác, cậu, ông chú, ông bác, ông cậu với cháu gái, cô, dì, bà cô, bà dì với
cháu trai;
• Anh, chị, em con chú, con bác ,con cô, con cậu, con dì;
• Anh, chị, em, cháu chú, cháu bác;
• Giữa những người tôn thuộc hay ty thuộc trực hệ của chồng hay vợ mình;
• Chị dâu, em dâu với em chồng, anh chồng;


Bác gái, thím, mợ, bà bác, bà thím, bà mợ với cháu chồng;

• Bác, chú, cậu, ông chú, ông bác, ông cậu với vợ của cháu trai;
GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

14

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền



Luận văn tốt nghiệp

• Cha, mẹ nuôi với con nuôi cũng như với ty thuộc trực hệ của người này; cha,
mẹ nuôi với vợ hay chồng của con nuôi;
• Giữa các con nuôi của một người với nhau;
• Giữa con nuôi với con của người đứng nuôi (quan hệ anh, chị, em nuôi)
1.2.3.2. Pháp luật hôn nhân và gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở Hiến pháp 1946, nhà nước đã ban hành hai sắc lệnh số 97/SL ngày
22-5-1950 và sắc lệnh số 159 ngày 11-7-1950 thừa nhận địa vị bình đẳng giữa nam và
nữ, xóa bỏ hủ tục phong kiến trong hôn nhân và gia đình. Chín năm sau, Luật hôn
nhân và gia đình đầu tiên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ra đời, đây là bước ngoặc của
pháp luật Việt nam trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Qua quá trình hình thành và
phát triển, lấy đạo luật ra đời trước làm nền tảng, đạo luật ra đời sau luôn có sự sửa đổi
bổ sung cho phù hợp với yêu cầu cấp thiết của xã hội lúc bấy giờ. Điều kiện kết hôn
trong ba văn bản luật năm 1959, 1986, và năm 2000 cũng có sự thay đổi. Cụ thể như
sau:
Luật hôn nhân và gia đình năm 1959
- Tuổi tối thiểu kết hôn: nam từ 20 tuổi, nữ từ 18 tuổi trở lên (Điều 4)
- Không đang có vợ, có chồng (Điều 5)
- Việc kết hôn do hai bên nam, nữ hoàn toàn tự nguyện quyết định (Điều 6)
- Việc để tang không cản trở việc kết hôn (Điều 7)
- Đàn bà góa có quyền tái giá (Điều 8)
- Trường hợp cấm kết hôn (Điều 9 và 10)
+ Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa cha, mẹ nuôi với con
nuôi;
+ Đối với người có họ trong phạm vi năm đời hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ
thì việc kết hôn giải quyết theo phong tục, tập quán;
+ Cấm kết hôn đối với người bất lực hoàn toàn về sinh lí; mắc một trong các bệnh hủi,

hoa liễu, loạn óc mà chưa chữa khỏi.
Nội dung về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình năm
1959 thể hiện quan điểm của Đảng và nhà nước về quan hệ hôn nhân: đó là cấm nạn
tảo hôn, hôn nhân không tự nguyện, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, xóa bỏ các
hủ tục phong kiến lạc hậu. Riêng, những qui định về những cản trở đối với hôn nhân,
phạm vi luật hôn nhân 1959 qui định khá hẹp.

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

15

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
- Kế thừa và phát huy luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật hôn nhân và gia đình
năm 1986 vẫn giữ nguyên qui định về độ tuổi kết hôn, vẫn là chế độ hôn nhân tự
nguyện, hôn nhân một vợ một chồng .
- Các điều kiện về sức khỏe, luật Hôn nhân và gia đình 1986 vẫn giữ nguyên qui định
cấm kết hôn với người bị bệnh hoa liễu, người bị bệnh tâm thần vẫn bị cấm kết hôn
nhưng đã được sửa chữa lại câu chữ cho phù hợp hơn là: “người đang mắc bệnh tâm
thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình”
- Người bị bất lực hoặc bệnh hủi không còn thuộc trường hợp bị cấm kết hôn.Tuy
nhiên, Luật hôn nhân và gia đình 1986 bổ sung thêm phạm vi cấm kết hôn giữa những
người thân thuộc, đó là những người có họ trong phạm vi ba đời..
Ngoài ra, Luật hôn nhân và gia đình 1986 còn điều chỉnh quan hệ hôn nhân
giữa công dân Việt nam với người nước ngoài: người nước ngoài bị nhiễm HIV không
được kết hôn với công dân Việt nam (được qui định trong Pháp lệnh hôn nhân và gia

đình giữa công dân Việt nam và người nước ngoài năm 1993).
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
- Luật hôn nhân và gia đình Việt nam năm 2000 kế thừa Luật hôn nhân và gia đình
Việt nam năm 1986 về các qui định về độ tuổi tối thiểu được kết hôn, hôn nhân tự
nguyện, hôn nhân một vợ một chồng. Điều kiện về sức khỏe, luật chỉ cấm kết hôn đối
với người bị mất năng lực hành vi dân sự, người bị bệnh hoa liễu không còn bị cấm kết
hôn. Phạm vi cấm kết hôn giữa những người thân thuộc tiếp tục được mở rộng, đặc
biệt, lần đầu tiên trong Luật hôn nhân và gia đình có qui định về việc cấm kết hôn giữa
những người cùng giới tính, đó là điều mà trước đây khi chưa có Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000, các văn bản luật khác không có qui định nên gây khó khăn cho cán bộ
hộ tịch khi đưa ra lí do từ chối đăng kí kết hôn cho họ (truyền thống văn hóa, phong
tục tập quán thường được viện dẫn trong trường hợp này). Cụ thể là, theo Điều 9 và 10
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, qui định về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn
như sau:
+ Về điều kiện kết hôn
• Độ tuổi kết hôn: nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên;
• Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quết định, không bên nào được ép buộc, lừa
dối bên nào, không ai được cưỡng ép, cản trở;
• Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn qui định tại
Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

16

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp


+ Những trường hợp cấm kết hôn
• Người đang có vợ có chồng;
• Người mất năng lực hành vi dân sự;
• Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ,giữa những người có họ trong
phạm vi ba đời;
• Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con
nuôi; bố chồng với con dâu; mẹ vợ với con rể; bố dượng với con riêng của vợ
,mẹ kế với con riêng của chồng;
• Giữa những người cùng giới tính.
Tóm lại, theo Luật hôn nhân và gia đình 2000 Nhà nước ta đã chính thức thừa nhận
chủ trương khuyến khích sự nhân rộng mô hình gia đình nhiều thế hệ. Đồng thời, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc duy trì và phát triển mô hình đó: “Nhà nước khuyến khích
và tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm gìn giữ và
phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt nam”7.

7

Khoản 2 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

17

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

CHƯƠNG 2
NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CẤM

KẾT HÔN VÀ HẬU QUẢ CỦA VIỆC HỦY KẾT HÔN TRÁI
PHÁP LUẬT
2.1.Các trường hợp cấm kết hôn theo pháp luật hiện hành
2.1.1. Các qui định về điều kiện kết hôn nói chung
2.1.1.1. Phải đủ tuổi kết hôn
- Cấm tảo hôn .
Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 : “Nam từ 20 tuổi trở lên và nữ từ 18
tuổi trở lên” mới được kết hôn8. Như vậy, những hành vi kết hôn dưới độ tuổi này là
hành vi tảo hôn nên bị pháp luật cấm .
Tảo hôn nghĩa là việc lấy vợ, lấy chồng khi một hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết
hôn theo qui định của pháp luật.
Luật hôn nhân và gia đình qui định tuổi kết hôn là xuất phát từ những cơ sở
khoa học: đó là sự phát triển tâm sinh lí của con người cùng với sức khỏe con người và
các điều kiện kinh tế-xã hội của nước ta.Việc pháp luật qui định độ tuổi như vậy là
nhằm đảm bảo sự phát triển đầy đủ về mặt thể chất, đảm bảo con cái sinh ra được khỏe
mạnh, đảm bảo cho đôi nam, nữ thực hiện được các chức năng sinh đẻ, giáo dục con
cái và nhận thức đủ trách nhiệm của mình đối với gia đình.
Theo kết quả nghiên cứu khoa học, đây là độ tuổi phát triển đầy đủ về thể chất
và nhận thức được vấn đề giới tính, mới có thể suy xét chín chắn về việc kết hôn của
mình. Như vậy, mới thể hiện được ý chí tự nguyện của mình trong việc kết hôn, có thể
tham gia lao động sản xuất để đảm bảo cuộc sống gia đình. Đây là qui định thể hiện sự
quan tâm của Nhà nước đối với sức khỏe của cộng đồng và đảm bảo thực hiện tốt chức
năng gia đình.
- Về cách tính độ tuổi kết hôn
Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, và 2000 đều qui định như nhau:
“nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên” mới được kết hôn, theo tập quán hành
chính lâu nay ở nước ta thì có hai cách tính tuổi:
+ Một là: tính theo tuổi tròn (từ khi đủ 12 tháng) mới được tính là một tuổi và phải căn
cứ vào ngày tháng, năm sinh được ghi trong giấy tờ hộ tịch để tính.
+ Hai là: Tính tuổi theo ngày đầu dương lịch (theo cách tính này chỉ căn cứ vào năm

sinh), cứ bước qua ngày 1/1 đầu năm dương lịch là tính thêm một tuổi.
8

Điều 9 khoản 1 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

18

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Lâu nay, các cơ quan hộ tịch ở nước ta áp dụng cách thứ nhất, tức khi xác định
tuổi kết hôn phải đủ năm, đủ tháng.
Ví dụ: Người con trai sinh ngày 15/11/1981 thì phải đến ngày 15/11/2001 mới được
coi là đủ 20 tuổi, khi đó mới được kết hôn.
Trong khi đó theo Điều 3 nghị định số 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày
3/10/2001 qui định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: “nam
đang ở tuổi 20 trở lên, nữ đang ở tuổi 18 thì đủ điều kiện về tuổi kết hôn theo qui định
tại Khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình”.
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số qui định của luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 như sau: “nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên không buộc nam
phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn, mà nam đã
bước sang tuổi 20, nữ bước sang tuổi 18 mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về
tuổi kết hôn”.
Đồng thời công văn số 268/TP-HTND ngày 19/4/2001 của Bộ tư pháp cũng qui
định độ tuổi kết hôn được hiểu: “ Nam bước sang ngày hôm sau của ngày sinh nhật lần

thứ 19, nữ bước sang ngày hôm sau của ngày sinh nhật lần thứ 17”.
- Sau khi Luật hôn nhân và gia đình 2000 có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn, giải
thích trên ra đời đã có nhiều ý kiến khác nhau bàn về cách tính tuổi kết hôn của luật
mới:
+ Ý kiến thứ nhất cho rằng: Theo qui định của Bộ luật dân sự (Điều 20), nữ chưa đủ
18 tuổi là người chưa thành niên. Đây là hai vấn đề khác nhau nhưng lại có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Người vợ 17 tuổi 1 ngày theo Luật hôn nhân và gia đình mới có
quyền và nghĩa vụ về tài sản như quyền có tài sản riêng, quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản riêng nhưng theo Bộ luật dân sự thì người vợ này vẫn là người chưa
thành niên khi thực hiện các quyền về tài sản của mình. Khi họ xác lập, thực hiện các
giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của cha, mẹ là người đại diện theo pháp luật
(Điều 22 Bộ luật dân sự).
Như vậy, pháp luật chỉ mới đề cập năng lực hành vi của người vợ 17 tuổi 1
ngày mà chưa đề cập năng lực hành vi dân sự của người đó. Mặt khác, qui định trên sẽ
mâu thuẫn với Bộ luật hình sự năm 1999 về tội tảo hôn (Điều 148). Việc văn bản
hướng dẫn độ tuổi như vậy là giảm một năm so với qui định trước đây, không đúng
theo tinh thần của nhà nước ta không thay đổi độ tuổi kết hôn so với trước đây.

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

19

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

+ Ý kiến thứ hai cho rằng: Pháp luật qui định như vậy là chặt chẽ, cách hiểu của chúng
ta lâu nay là chưa thấu đáo.
Theo từ điển tiếng việt “từ” là biểu thị điểm xuất phát, điểm khởi đầu hay

nguồn gốc của việc được nói đến. Còn từ “đủ” có số lượng hoặc mức độ đáp ứng được
yêu cầu, không ít hơn cũng không nhiều hơn. Như vậy, theo cách hiểu thuật ngữ “từ
18 tuổi đối với nữ” có nghĩa là từ ngày đầu tiên bước vào tuổi 18. Qui định về độ tuổi
như vậy là tạo khoảng không gian rộng cho nam, nữ lựa chọn thời điểm kết hôn mà
không phải đợi đến tròn 20 tuổi và tròn 18 tuổi.
Một số nước trên thế giới cũng qui định độ tuổi kết hôn thấp hơn tuổi thành
niên, đặc biệt là độ tuổi phía nữ do thể trạng của người Châu Âu to lớn và phát triển
hơn so với người Việt nam. Thể trạng của người Châu âu ở nhiều nước khác nhau
không khác nhau nhiều lắm, nhưng qui định tuổi kết hôn tối thiểu lại không giống
nhau tùy theo nước.
Ví dụ: Ở Pháp độ tuổi kết hôn là 18 không phân biệt nam, nữ. Ở Ý là 16 tuổi và 14
tuổi, Đức là 21 tuổi và 16 tuổi, ở Thụy sĩ là 20 và 18 tuổi v.v…
Như vậy, theo các văn bản hiện hành hướng dẫn áp dụng Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 thì nam từ 20 tuổi trở lên không bắt buộc phải đủ 20 tuổi, nữ từ 18 tuổi trở
lên không bắt buộc phải đủ 18 tuổi có quyền kết hôn. Bởi vậy, các cơ quan hộ tịch có
trách nhiệm tuân thủ đúng pháp luật thực hiện việc đăng kí kết hôn và cần nâng cao
trình độ của các cán bộ hộ tịch để có cách hiểu và áp dụng pháp luật thống nhất.
2.1.1.2. Phải có sự tự nguyện của hai bên nam, nữ khi kết hôn.
- Theo Khoản 2 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định: “Việc kết hôn
do nam và nữ tự nguyện quyết định không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào,
không được cưỡng ép hoặc cản trở”.
Điều luật chủ yếu nhắm vào việc đấu tranh chống tệ nạn cưới ép, gả ép trong
các gia đình Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của các hủ tục phong kiến trong hôn nhân,
cũng như của chế độ hôn nhân xếp đặt. Theo mục 1 Điểm b NQ số 02/2002/NQHĐTP thì các thuật ngữ ép buộc, lừa dối, cưỡng ép được hiểu là:
+ Một bên đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất… để ép buộc
bên kia đồng ý kết hôn.
+ Một bên hoặc cả hai bên nam, nữ bị người khác cưỡng ép nên phải kết hôn trái với
nguyện vọng của họ
Ví dụ: Bố mẹ của người nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người
nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ, hoặc do bố mẹ của hai bên có hứa hẹn với


GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

20

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau… buộc người bị cưỡng ép kết
hôn trái với nguyện vọng của họ.
+ Lừa dối thì luật hiện hành chỉ có định nghĩa chung về sự lừa dối ghi nhận tại Bộ luật
dân sự Điều 142 khoản 1 và được áp dụng cho tất cả các giao dịch dân sự không có
định nghĩa riêng về sự lừa dối trong hôn nhân. Ta nói rằng lừa dối trong hôn nhân là
việc một bên cố ý làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng
hoặc nội dung của giao dịch để bên kia chấp nhận xác lập giao dịch kết hôn
Ví dụ như: A muốn kết hôn với B; C cố ý làm cho A nhầm tưởng mình là B cuối cùng
A kết hôn với C mà cứ ngỡ là mình kết hôn với B.
Trong giả thiết vừa nêu, A có thể yêu cầu hủy hôn nhân do có sự lừa dối, cũng có thể
xin hủy hôn nhân do có sự lừa dối.
Thế nhưng, nếu A muốn kết hôn với B vì tin rằng B giàu có và B cũng cố ý làm
ra vẻ giàu có (dù thực ra rất nghèo) để A chấp nhận kết hôn với mình thì khó có thể
nói rằng A có quyền yêu cầu hủy hôn nhân do có sự lừa dối. Càng không thể xin hủy
hôn nhân do có sự lừa dối, nếu A tin rằng B là một chàng trai tơ và B cũng cố tình làm
ra vẻ như vậy dù trên thực tế B đã có một thậm chí nhiều đời vợ.
Tòa án nhân dân tối cao về phần mình cũng không xây dựng khái niệm lừa dối
trong hôn nhân mà chỉ cho một số ví dụ như lừa dối là nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù
hợp hoặc nếu kết hôn sẽ bảo lãnh ra nước ngoài, không có khả năng sinh lí nhưng cố
tình giấu, biết mình nhiễm HIV nhưng cố tình giấu…

Tuy nhiên, cần phân biệt hành vi lừa dối để kết hôn với sự nhầm lẫn, nếu một
người chỉ nhầm lẫm về một số yếu tố về người kia như: nhầm lẫn về nghề nghiệp, về
địa vị công tác, về hoàn cảnh gia đình… thì không coi là thiếu sự tự nguyện khi kết
hôn.
+ Về nhầm lẫn thì về nguyên tắc không có sự nhầm lẫn trong hôn nhân. Khác với luật
của nhiều nước, luật Việt Nam hiện hành không coi sự nhầm lẫn như là một trong
những lí do để yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Nếu do nhầm lẫn mà chấp nhận kết
hôn thì người nhầm lẫn có thể xin li hôn. Nếu sự nhầm lẫn là do hệ quả của sự lừa dối
thì có thể yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật do có sự lừa dối.
* Nhầm lẫn về giới tính: tất nhiên xác lập quan hệ xác thịt không phải mục đích chính
của hôn nhân. Song, hôn nhân mang tính chất của cam kết chung sống và cam kết xây
dựng gia đình: làm thế nào một người có thể chung sống và xây dựng gia đình theo
nghĩa lành mạnh với một người thực ra có cùng giới tính với mình hoặc không rõ
thuộc giới tính nào?

GVHD: Th.S.Đoàn Thị Phương Diệp

21

SVTH: Trần Thị Ngọc Tuyền


×