Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG THỊ BÍCH HUỆ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG THỊ BÍCH HUỆ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành

: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số

:60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Đặng Thị Bích Huệ

2


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Vũ
Công Giao, người hướng dẫn khoa học giúp tôi thực hiện luận văn này. Sự hướng
dẫn, góp ý tận tình của thầy đã giúp tôi định hướng, quyết tâm và hoàn thành bản
luận văn tốt hơn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo lớp Cao học Luật về


Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật khóa 16 đã giúp tôi lĩnh hội những kiến
thức cơ bản về lĩnh vực quan trọng này.
Xin trân trọng cảm ơn Khoa Luật Đại học Quốc gia đã tiên phong tổ chức
khóa học bổ ích và lý thú, các thầy cô giáo Khoa Luật, Phòng Đào tạo và Bộ môn
Luật Hiến pháp-Hành chính đã tạo điều kiện giúp đỡ trong suốt thời gian khóa học
và thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn các bạn đồng môn đã trao đổi thảo luận và cung cấp những
thông tin tư liệu hữu ích liên quan đến đề tài luận văn.
Cuối cùng, xin đặc biệt cảm ơn gia đình và những người bạn đã ủng hộ, động
viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 8/2015

Đặng Thị Bích Huệ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH .............................................................................................................. 10
1.1. Nhận thức về giới và bình đẳng giới ....................................................... 10
1.1.1. Khái niệm giới và giới tính .................................................................. 10
1.1.2. Các đặc điểm và vai trò giới................................................................11
1.1.3. Bất bình đẳng giới và bình đẳng giới ................................................... 15
1.1.4. Bản chất và các yếu tố đánh giá bình đẳng giới .................................. 21
1.2. Quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình ........ 23
1.2.1. Các quan điểm về quyền bình đẳng giới .............................................. 23
1.2.2. Quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình .... 26

1.3. Vai trò và các tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện pháp luật trong việc bảo
đảm quyền bình đẳng giới trong các quan hệ dân sự, hôn nhân, gia đình ...... 29
1.3.1. Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền bình đẳng giới trong
các quan hệ dân sự, hôn nhân, gia đình ......................................................... 29
1.3.2 Tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh
vực dân sự, hôn nhân và gia đình ................................................................... 31
1.3.2.1. Đảm bảo tính thống nhất ................................................................... 32
1.3.2.2. Đảm bảo tình toàn diện, cụ thể .......................................................... 34
1.3.2.3 Đảm bảo tính đồng bộ ......................................................................... 35
1.3.2.4. Đảm bảo về kỹ thuật lập pháp ........................................................... 35
1.3.2.5. Đảm bảo phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế ......................... 36
1.3.2.6. Đảm bảo tính khả thi……………………………… ………………37
1.4. Quyền bình đẳng giới trong pháp luật quốc tế và pháp luật của một số
quốc gia. .......................................................................................................... 37
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 43


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH .............................................................................................................. 44
2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực
dân sự, hôn nhân và gia đình ở Việt Nam ....................................................... 44
2.1.1. Thời kỳ trước năm 1945 ........................................................................ 44
2.1.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954 ..................................................... 46
2.1.3. Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1980 ...................................................... 49
2.1.4. Thời kỳ từ năm 1980 đến nay ................................................................ 50
2.2. Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong pháp luật Việt Nam ...... 53
2.3. Các quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự ...... 56
2.4. Các quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực hôn nhân và
gia đình ............................................................................................................ 58

2.5. Hạn chế và bất cập của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự,
hôn nhân và gia đình hiện nay ........................................................................ 61
2.5.1. Hạn chế và bất cập của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân
sự ..................................................................................................................... 61
2.5.2. Hạn chế và bất cập của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình .............................................................................................. 66
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 78
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................... 80
3.1. Quan điểm về hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân
sự, hôn nhân và gia đình.................................................................................. 80
3.1.1. Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh
trong hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân
và gia đình ....................................................................................................... 80
3.1.2. Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, toàn diện và không ngừng nâng cao
năng lực, kỹ thuật lập pháp trong hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình .................................................. 84

2


3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân
và gia đình phải bảo đảm phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam đã
tham gia ........................................................................................................... 85
3.1.4. Phát huy dân chủ trong hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong
lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình ............................................................ 88
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân
sự, hôn nhân và gia đình.................................................................................. 89
3.2.1. Rà soát, hệ thống hoá các văn bản pháp luật hiện hành ...................... 89

3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định trong pháp luật hiện hành về bình
đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình .................................. 92
3.2.3. Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến quá
trình thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân
và gia đình ....................................................................................................... 99
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật .... 100
3.2.5. Tăng cường các biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật ................... 101
3.2.6. Lồng ghép giới trong xây dựng và thực thi pháp luật ........................ 102
3.2.7. Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo đảm quyền bình đẳng giới trong
lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình .......................................................... 104
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ............................................................................. 105
KẾT LUẬN .................................................................................................. 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 107

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian gần đây vấn đề bình đẳng giới đang được cả cộng đồng
quốc tế đặc biệt quan tâm. Bởi vì thực tế tình trạng bất bình đẳng giới đã và
đang diễn ra phổ biến, đây là một trong những nguyên nhân hạn chế quá trình
phát triển kinh tế- xã hội. Bất bình đẳng về giới là một dạng bất bình đẳng phổ
biến trong xã hội kể từ khi phân chia giai cấp và hình thành nên nhà nước cho
đến nay. Bất bình đẳng về giới là không công bằng vì một trong những quyền
tự nhiên của mỗi con người là bình đẳng với những người khác, trong đó bao
gồm bình đẳng với những người khác giới. Do đó, phải sử dụng quyền bình
đẳng về giới để đấu tranh chống bất bình đẳng giữa nam và nữ, bảo đảm công
bằng và tiến bộ xã hội. Đây là trách nhiệm của các nhà nước và của mỗi cá
nhân trong xã hội.

Đã có nhiều văn kiện quốc tế đề cập đến vấn đề quyền bình đẳng giới
như Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người
năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966…,
đặc biệt là Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ năm 1979, có hiệu lực từ ngày 03/9/1980 mà Việt Nam cũng là thành
viên. Công ước này gồm 30 điều, trong đó lên án sự phân biệt đối xử đối với
phụ nữ dưới mọi hình thức và yêu cầu các quốc gia áp dụng mọi biện pháp
thích hợp để loại trừ mọi sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ, trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá; bảo đảm sự phát triển và tiến bộ
đầy đủ của phụ nữ để họ có thể hưởng thụ các quyền con người và tự do cơ
bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định: “Nói đến phụ
nữ là nói đến phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải

1


phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ
nghĩa xã hội chỉ một nửa” [32, trang 432]. Người khẳng định: “phụ nữ chiếm
một nửa tổng số nhân dân. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải thực sự giải
phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ” [33, trang 225]. Trong Di
chúc trước lúc đi xa, Người còn căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế
hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ cho ngày càng thêm nhiều
phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ
thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình
đẳng thực sự cho phụ nữ” [34, trang 504].
Chính tinh thần dân chủ, tiến bộ đó của Hồ Chí Minh đã kêu gọi phụ nữ
ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã tập hợp được rộng rãi quần
chúng thông qua tuyên ngôn vị trí bình đẳng của phụ nữ với nam giới trong

các luận cương, cương lĩnh và đường lối, chính sách của mình. Xuất phát từ
quan điểm luôn tôn trọng phụ nữ và bảo vệ phụ nữ, Đảng ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách nhằm bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ. Đặc
biệt, Đảng đã có các Nghị quyết, Chỉ thị chuyên đề về công tác phụ nữ, trong
đó có đề cập đến vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia
đình. Chính sách bình đẳng giới là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của chính sách phụ
vận qua các thời kỳ phát triển của nhà nước ta. Quyền bình đẳng giới cũng đã
được hiến định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta năm 1946, và
trong các Hiến pháp sau này của Việt Nam cũng đều khẳng định quyền bình
đẳng giới trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực dân sự và hôn nhân, gia
đình.
Thực tế, pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình của nước ta đã quy
định cụ thể về vấn đề bình đẳng giới, trong đó ghi nhận quyền bình đẳng giới
giữa nam giới và nữ giới cũng như các biện pháp thi hành quyền này, các chế

2


tài và cơ chế bảo vệ quyền bình đẳng giới trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân
và gia đình mà pháp luật này điều chỉnh góp phần quan trọng vào việc cụ thể
hóa chủ trương, chính sách của Đảng, quy định của Hiến pháp, các luật có
liên quan về bình đẳng giới, chống phân biệt đối xử và loại bỏ những hủ tục,
tập tục lạc hậu trong hôn nhân và gia đình; đề cao vai trò của gia đình trong
đời sống xã hội; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của gia đình Việt Nam; tạo cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ và hợp lý về giới,
bình đẳng giới, đặc biệt quyền của phụ nữ, trẻ em trong lĩnh vực dân sự, hôn
nhân và gia đình. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành các quy định này đã làm bộc
lộ nhiều hạn chế dưới góc độ quyền bình đẳng giới như một số quy định liên
quan đến bình đẳng giới còn mang tính hình thức, không thực chất hoặc
không khả thi; một số quy định còn chưa bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với

các luật có liên quan về bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực trong gia đình,
bảo vệ quyền trẻ em... Mặc dù những vấn đề này đã được khắc phục cơ bản
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nhưng về mặt lý thuyết nhiều hạn
chế về quyền bình đẳng giới vẫn chưa được khắc phục triệt để. Hiện nay, Bộ
luật dân sự năm 2005 đang được chỉnh sửa, bổ sung để hoàn thiện, trong đó
có vấn đề về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự cần phải được
nghiên cứu, đóng góp ý kiến để hoàn thiện.
Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của thời đại, trong đó có hội nhập
pháp luật và đạt được các chuẩn mực quốc tế trong quá trình phát triển. Chuẩn
mực bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền bình đẳng giới là tiêu chí, là
tiêu chuẩn và cũng là mục tiêu trong hội nhập quốc tế. Lĩnh vực cơ bản và
then chốt của chuẩn mực này không thể không kể đến lĩnh vực dân sự, hôn
nhân và gia đình. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về bình
đẳng giới trong các lĩnh vực này của pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật
là cần thiết để đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế của nước ta trong

3


bảo đảm và thực thi quyền này cũng như góp phần đẩy mạnh tiến trình hội
nhập quốc tế, phát triển đất nước của Việt Nam.
Về mặt lý luận, mặc dù là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học như xã hội học, pháp lý... nhưng hệ thống các quan điểm lý luận và việc
tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật về bình đẳng giới nói chung vẫn chưa
hoàn thiện và thống nhất. Đặc biệt là việc nghiên cứu quyền bình đẳng giới
đồng thời trong hai lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình vẫn còn chưa được
thực hiện đầy đủ, mặc dù hai lĩnh vực này rất gần gũi và có nhiều nét tương
đồng với nhau, cần thiết phải cùng nghiên cứu chung.
Trước tình hình trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài Hoàn thiện
pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình –

những vấn đề lý luận và thực tiễn để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học, với
mong muốn góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận và pháp luật về bình đẳng
giới, trong đó có quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia
đình; góp phần khắc phục những bất cập, tồn tại trong việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình
ở nước ta trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bình đẳng giới là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học,
trong đó có khoa học pháp lý. Không chỉ nghiên cứu về vấn đề bình đẳng giới
nói chung mà bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội cũng là
đối tượng nghiên cứu phổ biến trong khoa học xã hội và khoa học pháp lý. Vì
vậy, từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về giới và bình đẳng
giới ở Việt Nam, trong đó một số công trình tiêu biểu như:
- Lê Ngọc Hùng: “Xã hội học về giới và phát triển”, Nhà xuất bản Đại
học quốc gia Hà Nội, năm 2000;

4


- Ngô Bá Thành: “Sự bình đẳng về cơ hội kinh tế của phụ nữ trong
pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật ở Việt Nam”, xuất bản năm 2001;
“Đưa vấn đề giới vào phát triển: thông qua sự bình đẳng giới về quyền,
nguồn lực và tiếng nói”, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, năm 2001;
- Lương Phan Cừ: “Bình đẳng giới- hiện trạng chính sách và pháp luật
về bình đẳng giới”, xuất bản năm 2004;
- Lê Thi - Viện khoa học xã hội Việt Nam: “Gia đình, phụ nữ Việt Nam
với dân số, văn hóa và sự phát triển bền vững”, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, năm 2004;
- Đỗ Thị Thạch: “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm

2005;
- Lê Ngọc Văn (chủ biên) - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Gia
đình và giới: “Nghiên cứu gia đình lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới”, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, năm 2006;
- Viện Khoa học xã hội Việt Nam,Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ,
Trung tâm Nghiên cứu giới và gia đình: “Giới, việc làm và đời sống gia
đình”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2007;
- Đặng Thị Ánh Tuyết: “Bình đẳng giới ở nông thôn miền núi phía Bắc
hiện nay”, luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Xã hội học, mã số: 60.31.30,
bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2013;
- Trịnh Đình Thể: “Suy nghĩ về bình đẳng giới dưới góc nhìn pháp
luật”, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2007;
- Dương Thị Ngọc Lan: “Hoàn thiện pháp luật về quyền lao động nữ ở
Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch
sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, bảo vệ tại Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2000;

5


- Chu Thị Thoa: “Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng
sông Hồng hiện nay”, luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản
khoa học, mã số: 5.01.03, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh năm 2002;
- Đỗ Thị Thơm: “Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam
hiện nay”, luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà
nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh năm 2004;
- Cao Quốc Việt: “Hoàn thiện pháp luật phòng chống mua, bán phụ
nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ luật học, Chuyên ngành Lý

luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, bảo vệ tại Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006;
- Nguyễn Thanh Sơn: “Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tệ nạn xã
hội ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và
lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, bảo vệ tại Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006...
Mặc dù vậy, quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia
đình rất gần gũi với nhau và có nhiều điểm tương đồng, hỗ trợ nhau lại chưa
được nghiên cứu trong cùng một công trình nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu kể trên đã cung cấp một lượng kiến thức, thông
tin rất lớn về giới, bình đẳng giới trên thế giới và ở Việt Nam. Đây là những tài
liệu tham khảo rất hữu ích mà tác giả sử dụng trong khi viết luận văn này. Mặc
dù vậy, hiện nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào khảo sát chuyên sâu về
bình đẳng giới trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình. Đặc biệt là tiếp
cận nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ quyền bình đẳng giới trong các lĩnh vực
dân sự, hôn nhân và gia đình là một hướng nghiên cứu độc đáo như trong luận
văn này. Vì vậy, việc nghiên cứu về các vấn đề này là rất cần thiết và phù hợp.

6


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận, pháp
lý và thực tiễn, từ đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình ở Việt Nam
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau
đây:

- Phân tích cơ sở lý luận về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự,
hôn nhân và gia đình.
- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về bình đẳng giới trong lĩnh
vực dân sự, hôn nhân và gia đình; trong đó nhận xét, đánh giá những thành
tựu; những hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế về
vấn đề này ở nước ta.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình ở Việt Nam trong thời
gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ chế pháp lý về bảo đảm quyền bình đẳng giới
trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Về nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận,
pháp lý cơ bản về quyền bình đẳng giới trong hai lĩnh vực là dân sự, hôn nhân
và gia đình. Luận văn không đi sâu phân tích tất cả các vấn đề lý luận và pháp
lý về bình đẳng giới nói chung cũng như trong các lĩnh vực khác.

7


Về không gian, thời gian, luận văn chủ yếu tập trung phân tích khuôn
khổ pháp luật hiện hành về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn
nhân và gia đình ở Việt Nam trong khoảng 10 năm gần đây. Luận văn chỉ
khái quát về pháp luật của quốc tế và một số quốc gia về cùng vấn đề. Luận
văn cũng không tập trung phân tích lịch sử pháp luật về bình đẳng giới ở Việt
Nam mà chỉ khái quát những điểm đặc thù, nổi bật của các giai đoạn lịch sử
gắn với pháp luật có điều chỉnh về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn
nhân và gia đình.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người và về bình đẳng giới.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như tổng hợp,
thống kê, phân tích, so sánh để làm rõ những vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn bao gồm:
- Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các quan điểm, tác giả đưa ra quan
điểm của mình về khái niệm giới, bình đẳng giới, khái niệm pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, cũng như tiêu chí đánh
giá sự hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân
và gia đình.
- Phân tích, nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình. Đặc biệt là
các quy định của pháp luật dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về
vấn đề này.

8


- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn
nhân và gia đình ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn hoàn thành có thể làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới nói chung, quyền
bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình nói riêng ở Việt
Nam. Ngoài ra, những kết quả của luận văn có thể được vận dụng làm tài liệu
nghiên cứu về bình đẳng giới và quyền bình đẳng giới, hoàn thiện pháp luật

về bình đẳng giới và quyền bình đẳng giới trong các giai đoạn phát triển tiếp
theo của đất nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn được kết cấu làm 3 chương như sau:
Chương 1 - Cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật bình đẳng giới trong
lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình.
Chương 2 - Thực trạng pháp luật Việt Nam về bình đẳng giới trong lĩnh
vực dân sự, hôn nhân và gia đình.
Chương 3 - Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình ở Việt Nam hiện nay.

9


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Nhận thức về giới và bình đẳng giới
1.1.1. Khái niệm giới và giới tính
Giới và giới tính là hai vấn đề luôn song hành cùng với nhau. Chính sự
song hành này mà nhiều khi không có sự phân biệt giữa hai khái niệm giới và
giới tính, khiến cho vấn đề trở nên phức tạp, không rành mạch. Chỉ riêng cụm
từ nam giới và nữ giới hay nam và nữ về mặt thực tế nhiều khi được sử dụng
lẫn lộn, không có sự phân biệt trong hoàn cảnh nào dùng thuật ngữ nào.
Theo SEAGEP [50], giới và giới tính được định nghĩa như sau:
Giới tính (sex) là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ.
Sự khác biệt này là không thể thay đổi được. Chỉ có một số khác biệt nhỏ về
vai trò của nam và nữ về mặt sinh học và sinh lý trên cơ sở giới tính, ví dụ
như việc mang thai, sinh nở và sự khác biệt về sinh lý.

Giới (gender) là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ,
thể hiện qua các yếu tố như vai trò, thái độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai
trò giới được biết đến thông qua quá trình học tập và có sự khác nhau theo
từng nền văn hóa và thời gian, do vậy giới là yếu tố có thể thay đổi được. Ví
dụ, trong truyền thống, nữ thường để tóc dài, nam thường để tóc ngắn, nhưng
hiện nay có nhiều phụ nữ cũng để tóc ngắn, còn một số nam giới lại thích để
tóc dài.
Khác với khái niệm giới tính vốn chỉ đề cập tới sự khác biệt sinh học
giữa nam giới và phụ nữ, khái niệm giới đề cập đến những khác biệt về mặt
xã hội do con người tạo ra. Những quan niệm về giới luôn nảy sinh từ tính
chất của các quan hệ xã hội và của những hình thái tổ chức xã hội khác nhau
[56]. Bản chất xã hội của giới được thể hiện rõ qua sự khác nhau giữa các đặc

10


tính và các hoạt động được coi là của nam và nữ trong các nền văn hoá khác
nhau, thậm chí giữa các tầng lớp xã hội và các nhóm dân tộc khác nhau trong
cùng một nền văn hoá [36].
Nói tóm lại, thuật ngữ giới tính chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt
sinh học. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất và duy
trì nòi giống. Còn thuật ngữ giới là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ
về mặt xã hội. Nói đến giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã
hội quan niệm hoặc quy định cho nam và nữ. Khi sinh ra, con người chưa có
trong bản thân những đặc tính giới mà họ tiếp thu được từ giáo dục, nề nếp
gia đình, quy ước của xã hội và chuẩn mực của nền văn hóa. Vì vậy, giới
phản ánh mặt xã hội của nam và nữ, thể hiện qua vai trò tham gia các quan hệ
xã hội của nam và nữ, còn giới tính chỉ tính sinh học của giống đực và giống
cái, là sự phân biệt giữa nam và nữ về góc độ sinh sản .
1.1.2.Các đặc điểm và vai trò giới

Những khác biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ là không thể thay đổi
được. Giới tính là bẩm sinh và đồng nhất, nam và nữ khắp nơi trên thế giới dù
ở nền văn hóa nào cũng đều có chức năng tự nhiên, cơ quan sinh sản giống
nhau, không thể thay đổi được và cũng không thể chuyển hóa cho nhau bởi
điều này do các yếu tố sinh học quyết định. Sinh ra là đàn ông hay đàn bà thì
chúng ta không thể lựa chọn và không thể thay đổi được điều đó.
Tuy nhiên, xét về mặt xã hội, có những đặc điểm có thể hoán đổi cho
nhau giữa nam và nữ, những đặc điểm này thuộc về khía cạnh giới, ví dụ như
phụ nữ cũng có thể mạnh mẽ và quyết đoán hay cũng có thể trở thành lãnh
đạo chính trị như nam giới; ngược lại, nam giới cũng có thể làm đầu bếp,
nhân viên đánh máy, thư ký như các công việc mà phụ nữ thường làm…
Những đặc điểm có thể hoán đổi đó là do những khái niệm, nếp nghĩ và tiêu
chuẩn mang tính chất xã hội mà thay đổi theo thời gian, không gian.

11


Giới phản ảnh sự khác biệt giữa nam và nữ về khía cạnh xã hội. Những
sự khác biệt này là do các quá trình xã hội mà thành, có tính đa dạng và có thể
thay đổi, trong khi các quá trình tự nhiên của giới tính vẫn bất biến. Sự khác
biệt về giới thay đổi theo thời gian và theo không gian, từ nước này sang nước
khác, từ nền văn hoá này sang nền văn hoá khác, phụ thuộc vào bối cảnh cụ
thể của các xã hội, do các yếu tố văn hoá, lịch sử, tôn giáo, kinh tế quyết định.
Minh chứng rõ nhất cho điều này là địa vị của người phụ nữ trong các xã hội
phương Đông, phương Tây là khác nhau; trong văn hóa Phật giáo, Hồi giáo,
Thiên chúa giáo... cũng khác nhau; trong xã hội phong kiến khác, trong xã hội
tư bản khác...
Quá trình thay đổi các đặc điểm về giới cần nhiều thời gian bởi nó đòi
hỏi một sự thay đổi trong tư tưởng, nhận thức, thói quen và cách cư xử vốn
được coi là mẫu mực của cả xã hội. Sự thay đổi về mặt xã hội này thường

diễn ra chậm, phụ thuộc vào mong muốn và quyết tâm thay đổi của con
người. Có những đặc điểm giới lạc hậu nhưng đã tồn tại từ rất lâu cho đến
ngày nay nên rất khó xoá bỏ.
Trong cuộc sống, nam và nữ đều tham gia vào các hoạt động của đời
sống xã hội; tuy nhiên, mức độ tham gia của nam và nữ trong các loại công
việc, các bối cảnh cụ thể của xã hội là khác nhau. Điều này do những quan
niệm, các chuẩn mực xã hội quy định. Những công việc mà mỗi giới đảm
nhận được gọi là vai trò giới. Đó là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội
mong đợi ở nam và nữ liên quan đến những đặc điểm giới tính và năng lực
mà xã hội coi là thuộc về nam giới hoặc thuộc về phụ nữ trong một nền văn
hoá. Các yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội là những yếu tố quyết định đến vai trò
của mỗi giới.
Xét quá trình vận động của xã hội, có thể khái quát vai trò của con
người được thể hiện thông qua hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động tái sản

12


xuất ra con người và các hoạt động cộng đồng. Tương ứng với đó, vai trò của
mỗi giới cũng sẽ là vai trò sản xuất vật chất, vai trò tái sản xuất, vai trò cộng
đồng và quản lý xã hội.
Vai trò sản xuất vật chất là các hoạt động làm ra sản phẩm, hàng hoá
hoặc dịch vụ để tiêu dùng và trao đổi thương mại. Đây là những hoạt động tạo
ra thu nhập, được trả công. Cả phụ nữ và nam giới đều có thể tham gia vào
các hoạt động sản xuất, tuy nhiên do những định kiến trong xã hội nên mức
độ tham gia của họ đôi khi không như nhau và giá trị công việc họ làm cũng
không được nhìn nhận như nhau. Vì vậy, thường thì trong hoạt động sản xuất
vật chất, nam giới làm các công việc nặng nhọc và được hưởng mức thù lao
cao hơn, phụ nữ thường làm các hoạt động đơn giản với mức thù lao thấp
hơn. Điều này đã tạo ra định kiến xã hội là công sức lao động của phụ nữ

không được coi trọng và được trả với mức thù lao rẻ mạt. Dần dần phụ nữ
cũng đảm nhận được các hoạt động sản xuất vật chất như nam giới nhưng
chính các định kiến xã hội đã làm cho việc trả thù lao của họ so với nam giới
ở cùng công việc tương ứng là thấp hơn và rẻ mạt hơn. Mặt khác, do vai trò
giới tính là nam giới thực hiện vai trò thụ tinh để nữ giới sinh con, tức là nam
chỉ tham gia vào một giai đoạn của quá trình sinh sản, các giai đoạn còn lại do
nữ đảm nhiệm. Về mặt tự nhiên, sức khỏe của nam thường là cao hơn nữ.
Chính những điều này đã dẫn đến tình trạng phổ biến sử dụng sức lao động
nam trong hoạt động sản xuất vật chất, tức là nam giới tham gia trực tiếp vào
hoạt động sản xuất vật chất và sự tham gia này là phổ biến. Hoạt động sản
xuất vật chất rất được xã hội đánh giá cao và thường được nhìn nhận do nam
giới thực hiện, ít có sự đóng góp của phụ nữ.
Vai trò tái sản xuất là các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục...
giúp tái sản xuất dân số và sức lao động bao gồm sinh con, các công việc
chăm sóc gia đình, nuôi dạy và chăm sóc trẻ, nấu ăn, dọn dẹp, giặt giũ, chăm

13


sóc sức khoẻ gia đình… Những hoạt động này là thiết yếu đối với cuộc sống
con người, đảm bảo sự phát triển bền vững của dân số và lực lượng lao động.
Tuy nhiên, hoạt động này tiêu tốn nhiều thời gian nhưng không trực tiếp tạo
ra thu nhập. Do đó, hoạt động này thường không được xem là một công việc
chính, mà có chăng chỉ là công việc phụ trợ, được làm miễn phí. Trong quan
niệm xã hội, các hoạt động như vậy thường không được coi trọng và đánh giá
cao. Đặc biệt, vai trò này thường do hầu hết phụ nữ và trẻ gái đảm nhiệm.
Điều này dẫn đến vai trò của nữ giới, tức phụ nữ và trẻ em gái không được
nhìn nhận một cách công bằng với nam giới, và là nguyên nhân chính dẫn đến
bất công bằng, bất bình đẳng về giới.
Vai trò cộng đồng và quản lý xã hội là tổ hợp các hoạt động mang tính

cộng đồng của xã hội từ những hoạt động tham gia với tính chất tình nguyện,
tự nguyện như cứu trợ, phòng chống thiên tai... cho đến các hoạt động quản lý
xã hội mang tính chất bắt buộc như quản lý nhà nước, xử lý vi phạm... Các
hoạt động này có hoạt động tham gia tình nguyện không được trả công nhưng
cũng có những hoạt động được trả công như công chức làm nhiệm vụ quản lý
nhà nước... Trong xã hội hiện đại, hoạt động này rất quan trọng, đặc biệt là
trong lĩnh vực chính trị, với sự huy động tham gia của toàn xã hội không phân
biệt giới tính trong vấn đề quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, về sự tham gia của
mỗi giới, cũng cần nhấn mạnh, do nhu cầu bảo vệ lãnh thổ cũng như về sức
khỏe, thời gian làm việc mà công việc này hiện vẫn chủ yếu do nam giới thực
hiện. Nữ giới ngày càng được tạo điều kiện tham gia các hoạt động này, cho
dù tỉ lệ còn ít nhưng ngày càng được quan tâm, mở rộng và có cơ cấu hợp lý
trong các hoạt động chính trị, tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước.
Như vậy, cả nam và nữ đều có khả năng tham gia vào cả ba loại vai trò
trên. Tuy nhiên, trong mỗi loại vai trò, sự tham gia của nam giới và nữ giới là
không như nhau, có thể trong vai trò sản xuất vật chất sự tham gia của nam

14


giới là phổ biến thì trong vai trò tái sản xuất sự tham gia của nữ giới lại là phổ
biến. Đó là xét trên bình diện chung. Còn trong phạm vi hẹp, ở những vùng,
những lãnh thổ nhất định, và trong xã hội như hiện nay, ngoài việc phải đảm
nhiệm vai trò tái sản xuất thì nữ giới đồng thời cũng phải tham gia tương đối
nhiều vào các hoạt động sản xuất. Gánh nặng công việc gia đình của phụ nữ
cản trở họ tham gia một cách tích cực và thường xuyên vào các hoạt động
cộng đồng và quản lý xã hội.
Thực tế cho thấy sự phân công lao động trong một xã hội nhất định
thường có xu hướng dựa vào đặc điểm giới tính. Công việc đảm nhiệm có tác
động tới vị thế của mỗi người, cơ hội và chất lượng sống của họ. Chính vì

vậy, sự tham gia của nữ giới vào các vai trò vừa nêu có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc so sánh bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trong các vấn đề xã
hội.
1.1.3. Bất bình đẳng giới và bình đẳng giới
Sự khác biệt về giới chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến vấn đề bất
bình đẳng giới. Những khác biệt đó bao gồm:
Thứ nhất, về vai trò, cả nam giới và nữ giới đóng nhiều vai trò trong xã
hội và các vai trò này là khác nhau theo giới. Các vai trò giới là tập hợp các
hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở phụ nữ và nam giới liên quan đến
những đặc điểm và năng lực được coi là thuộc về nam giới hoặc thuộc về phụ
nữ trong một xã hội hay một nền văn hóa cụ thể. Đó cũng là các mối quan hệ
giữa phụ nữ và nam giới: ai nên làm gì, ai là người ra quyết định, khả năng
tiếp cận nguồn lực và các lợi ích [26]. Chẳng hạn, trong chế độ phụ quyền,
tiếng nói của nam giới có tính quyết định và nữ giới là những người phục
tùng, nhưng trong chế độ mẫu quyền, nữ giới lại là người có tiếng nói quyết
định và mặc dù nam giới có sức khỏe hơn vẫn phải phục tùng nữ giới.

15


Nữ giới và nam giới thực hiện các vai trò giới khác nhau nên họ cũng
có những nhu cầu giới khác nhau. Thế giới đã từng chứng kiến cả hai loại chế
độ phụ quyền và mẫu quyền, và hiện nay, các loại chế độ này vẫn đang cùng
tồn tại, tuy chế độ phụ quyền có phần lấn át. Từ góc độ bình đẳng giới, cả hai
chế độ phụ quyền và mẫu quyền đều có vấn đề. Chúng ta đang từng bước xóa
bỏ các chế độ này để tiến đến một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phụ
nữ ngày càng có vị thế và vai trò quan trọng trong xã hội hơn. Ở những xã hội
văn minh, tiến bộ thì nữ giới ngày càng được coi trọng và được tạo điều kiện
phát huy vai trò giới của mình, song ở những xã hội đang phát triển hoặc kém
phát triển, vai trò và sự đối xử với nữ giới vẫn là một vấn đề nóng bỏng cần

phải bàn thảo, xem xét và từng bước khắc phục những hạn chế.
Thứ hai, về sự phân công lao động, trong xã hội có một sự phân công
lao động công khai hoặc mặc định giữa nam giới và phụ nữ. Sự phân công lao
động theo giới đề cập đến công việc khác nhau của nam giới và phụ nữ trong
gia đình, trong sản xuất và trong cộng đồng. Sự khác nhau này có liên quan
đến vị trí quyền lực của mỗi giới và che giấu sự tồn tại của tình trạng bất bình
đẳng giữa nam giới và phụ nữ, thông thường nó ảnh hưởng và cho thấy vị trí
phụ thuộc của phụ nữ vào đàn ông. Một số nhiệm vụ về mặt truyền thống
được xem là “công việc của phụ nữ”, trong khi các công việc khác được tin là
“công việc của nam giới”. Công việc của phụ nữ thường được trả lương thấp
và bị coi thường, trong khi nam giới được giao công việc có tầm quan trọng
về mặt xã hội tương đối cao hơn [36].
Cũng có sự khác biệt về thời gian làm việc giữa phụ nữ và nam giới.
Tuy thời gian giành cho công việc tạo thu nhập là như nhau, nhưng so với
nam giới, phụ nữ phải mất thời gian gấp hai lần cho việc nhà mà thường
không được thù lao. Vì vậy, phụ nữ thường phải làm việc nhiều hơn đáng kể
so với nam giới, cho nên thời giờ nghỉ ngơi của họ ít hơn khá nhiều so với

16


nam giới và cũng không có thời gian cho các hoạt động xã hội và học tập trao
đổi kinh nghiệm [57].
Sự phân công lao động xã hội mang tính kế thừa. Vai trò của mỗi giới
trong cơ cấu phân công lao động xã hội ở mỗi thời kỳ lịch sử là khác nhau.
Trong xã hội nguyên thủy, nam giới có nhiệm vụ săn bắt còn công việc của
nữ giới là hái lượm. Trong xã hội chủ nô, nô lệ sản xuất chính là nam giới, nữ
giới là nô lệ làm các công việc giúp việc gia đình. Trong xã hội phong kiến,
nhân lực sản xuất chính vẫn là nam giới, nữ giới cũng thường làm các công
việc gia đình. Tuy nhiên, đến xã hội tư bản, giới tư bản bóc lột cả nam giới và

nữ giới. Cả trong các ngành nghề lao động nặng nhọc thì ngoài lực lượng
chính là nam giới vẫn có nữ giới tham gia, còn đối với các ngành dệt, may
mặc thì dù có cơ cấu nam giới tham gia nhưng lực lượng chính lại là nữ giới.
Tuy nhiên, xét trên bình diện chung, do vai trò của nam giới là nguồn tạo ra
thu nhập chính cho gia đình và có sức khỏe tốt nên trong xã hội tư bản, nam
giới vẫn là lực lượng sản xuất chính của xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày
nay, mặc dù nữ giới tham gia ngày càng phổ biến trong cơ cấu lao động
nhưng nam giới vẫn đóng vai trò chính trong phân công lao động xã hội.
Thứ ba, về sức khỏe, giữa nam giới và nữ giới có những sự khác biệt
nhau. Sức khỏe của nam giới thường tốt hơn nữ giới ở khía cạnh sức mạnh, sự
bền bỉ và khả năng phục hồi. Sức khỏe của con người nói chung được hình
thành từ chính con người và quy định bởi các yếu tố môi trường, nuôi dưỡng,
tập quán xã hội… và đặc biệt là yếu tố bẩm sinh, di truyền. Các yếu tố thuộc
về bẩm sinh, di truyền của nam giới là có hệ xương lớn, thích hợp cho những
cộng việc nặng nhọc, trong khi với nữ giới, do có hệ xương nhỏ hơn nên thích
hợp với nhiệm vụ tái sản xuất xã hội, bao gồm trách nhiệm sinh đẻ và chăm
sóc con trẻ là của phụ nữ. Ở đây tính di truyền về thể chất chính là một trong
yếu tố tác động đến việc giữ vai trò của mỗi giới trong xã hội.

17


Trong các yếu tố nêu trên, cũng cần so sánh mỗi giới về mặt thời gian
sử dụng sức và việc tái sản xuất sức khỏe. Đối với nữ giới tham gia lao động
như nam giới, ngoài thời gian làm việc như nam giới, họ phải cáng đáng thêm
các công việc gia đình dẫn đến việc vắt kiệt sức của họ trong các hoạt động
lao động và sinh hoạt hàng ngày. Không chỉ vậy, các công việc gia đình
thường rất vất vả, ngay cả những phụ nữ không tham gia lao động sản xuất
mà chỉ thực hiện các công việc gia đình cũng đã tương đối vất vả do thời gian
lao động kéo dài từ sáng sớm cho đến đêm khuya chứ không phải là chỉ tám

giờ làm việc như các hoạt động lao động sản xuất. Không chỉ vậy, về vấn đề
dinh dưỡng, mỗi giới có chế độ dinh dưỡng khác nhau nhưng việc phải cùng
sinh hoạt, ăn uống với chế độ như nhau dẫn đến việc tái sản xuất sức khỏe và
sức lao động của nữ giới thường chậm và có sự chênh lệch rõ rệt so với nam
giới.
Thứ tư, về mặt tâm lý, mặc dù vẫn có quan điểm cho rằng nam giới và
nữ giới có tâm lý như nhau, tuy nhiên, lý thuyết cho rằng nam giới và phụ nữ
có sự tiến hóa khác nhau về tác phong và tư duy đã được chấp nhận rộng rãi
[6]. Nam giới có tâm lý cứng cỏi, mạnh mẽ, hành động dựa vào lý trí, trong
khi phụ nữ thì dịu dàng, hành động thường mang tính tình cảm. Những sự
khác nhau cơ bản này là một sự tiến hóa lâu dài, và nó được hình thành trên
cơ sở sự tác động của nhiều yếu tố mà theo tác giả, yếu tố đóng vai trò chủ
yếu trong sự hình thành này chính là vai trò mỗi giới trong các giai đoạn khác
nhau của lịch sử.
Thứ năm, về quan niệm xã hội, khi sinh ra con người không mang
những đặc tính giới. Những đặc tính giới chỉ được hình thành trong quá trình
hoạt động ở gia đình và ngoài xã hội. Khi sinh ra, mỗi người tùy theo giới tính
của mình mà được đối xử theo những cách khác nhau. Nam giới thường được
rèn luyện để trở nên cứng cỏi, nữ giới thì được dạy dỗ để trở nên dịu dàng,

18


×