Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.78 KB, 30 trang )

Đề tài
Bằng lý luận và thực tiễn, hãy chứng minh luận điểm: "Cách mạng
giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng dành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc" là 1
sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh
A.PHẦN MỞ ĐẦU:
I. Lời mở đầu:
Hồ Chí Minh là cái tên thân thuộc không những đối với dân tộc Việt Nam mà còn trên
toàn thế giới. Nhắc đến Hồ Chí Minh, người ta sẽ nghĩ ngay đến một con người vĩ đại,
thông minh, tài giỏi, một con người giản dị, chân chất. Người đã dành gần như cả cuộc
đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Bằng tài năng và sự miệt mài tìm hiểu,
Người đã có những tư tưởng sáng tạo và đúng đắn trên con đường giải phóng dân tộc và
"Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng dành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc" là một sáng tạo lớn của
Người. Nó là chìa khóa giúp dân tộc ta tiến gần hơn tới cánh cửa của tự do và độc lập.
Hiểu được tầm quan trọng của tư tưởng ấy, Nhóm 14 đã lựa chọn nghiên cứu đề tài
này nhằm giúp các bạn sinh viên nắm bắt và hiểu được tầm quan trọng và ý nghĩa của tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc.


B. NỘI DUNG:
I. Bằng lý luận và thực tiễn, hãy chứng minh luận điểm: "Cách mạng giải phóng
dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng dành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc" là 1 sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh
I.1. Lý luận:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, dân tộc là sản phẩm lâu dài của lịch sử. Trước
dân tộc là các hình thức cộng đồng như: thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản đã dẫn tới sự ra đời và phát triển của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ
nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các đế quốc thực hiện các chính
sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch. Vấn đề dân tộc trở nên gay gắt và từ đó xuất


hiện vấn đề dân tộc thuộc địa.
1.1 Vấn đề dân tộc thuộc địa:
a. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
Tư tưởng Hồ Chí Minh không đề cập đến các vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn
đề dân tộc thuộc địa. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa trong tư tưởng Hồ Chí Minh
là:


Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc.

Hồ Chí Minh giành sự quan tâm đến đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xoá bỏ
ách thống trị, áp bức, bóc lột của nước ngoài; giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc,
thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.
Nếu Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống Chủ nghĩa tư bản, Lênin bàn nhiều
về cuộc đấu tranh chống Chủ nghĩa đế quốc , thì Hồ Chí Minh tập trung bàn về cuộc đấu
tranh chống CN Thực dân. Mác và Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước
TBCN, thì Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.


Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc.

Từ thực tiễn của phong trào cứu nước của dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng
định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh mới của thời đại là CNXH.


Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một việc làm hết sức mới
mẻ: từ nước thuộc địa lên CNXCH phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau.
Con đường đó, như trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Người viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Thực chất là con đường ĐLDT gắn liền với CNXH.

Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh của các nước thuộc địa, nó hoàn toàn khác
biệt với các nước đã phát triển đi lên CNXH ở phương Tây. Đây là nét độc đáo trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
b. Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
• Hồ Chí Minh đã tiếp cận vấn đề độc lập dân tộc từ quyền con người.
Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp nhận
những nhân tố có giá trị trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi”.
Từ quyền con người ấy, Người đã khái quát nên chân lý về quyền cơ bản của các dân tộc:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.


Nội dung của độc lập dân tộc

Là người dân mất nước, nhiều lần được chứng kiến tội ác dã man của chủ nghĩa thực
dân đối với đồng bào mình và nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới, Hồ Chí Minh
thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng chủ yếu là do dân tộc đó mất độc lập. Vì
vậy, theo Người, các dân tộc thuộc địa muốn có quyền bình đẳng thực sự phải tự đứng lên
đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn cho dân tộc
mình.
Nền độc lập hoàn toàn, độc lập thật sự của một dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
phải được thể hiện đầy đủ ở những nội dung cơ bản sau đây:
- Độc lập tự do là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vô cùng quý giá và bất khả xâm phạm
của dân tộc. Độc lập của Tổ Quốc, tự do của nhân dân là thiêng liêng nhất. Người đã từng
khẳng định: Cái mà tôi cần nhất trên đời này là: đồng bào tôi được tự do, Tổ Quốc tôi

được độc lập.


Trong “Bản Yêu sách tám điểm” gửi Hội nghị Vec-xay năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đòi
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Nội dung cốt lõi trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 là: độc lập, tự do cho
dân tộc.
Trực tiếp chủ trì Hội nghị TW 8 (5/1941), Người viết thư Kính cáo đồng bào và chỉ rõ:
“Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng là cao hơn hết thảy”.
Tháng 8 năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Người khẳng định quyết tâm:
“Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho
được độc lập dân tộc”.
Trong “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Người long trọng
tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
v.v.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời gian
sau CMTT, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà
bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập
và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ Quốc và độc lập cho đất nước”.
Khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền
được thể hiện rõ: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Và khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh phá hoại
miền Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra một chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập tự
do”.
Chính bằng tinh thần, nghị lực này cả dân tộc ta đứng dậy đánh cho Mỹ cút, đánh cho
Ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc. Và chính phủ Mỹ phải cam kết:
“Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ

của nước Việt Nam như hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.
- Dân tộc độc lập trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Mọi vấn đề
thuộc chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Người khẳng định: Nước Việt
Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không
chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài.


Trong hành trình tìm đường cứu nước, ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt
những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của
nhân dân An-Nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối
với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo chí,
hội họp, tự do cư trú...
Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng
thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc - làm cách mạng, muốn giải phóng dân tộc
chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng của bản thân mình.
- Trong nền độc lập đó, mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc lập
chẳng có nghĩa gì. Nghĩa là độc lập dân tộc phải gắn liền với hạnh phúc, cơm no, áo ấm
của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được
hoàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”
Người nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc
lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. => Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để
cách mạng của Hồ Chí Minh.
Tóm lại, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống,
là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm
nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam, đồng
thời là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới

c. Chủ nghĩa dân tộc - một động lực lớn của đất nước
Cùng với sự kết án chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng dậy đấu
tranh, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ
nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Vì thế, “người ta sẽ không làm gì được
cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã
hội của họ”. Người kiến nghị về cương lĩnh hành động của QTCS là: “Phát động chủ
nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng
lợi… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
Sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc là chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc
thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.


Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân
tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính.
Muốn cách mạng thành công thì người cộng sản phải biết nắm lấy và phát huy.
d. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của một giai
cấp nhất định. Theo quan điểm của CNML, chỉ trên lập trường của giai cấp công nhân,
cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen
không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết
trong cách mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp
Thời đại Lênin, khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, CM GPDT trở thành bộ
phận của CMVS, Lênin mới phát triển vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng
thuộc địa. Lênin cho rằng, CMVS ở chính quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên
minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác được
bổ sung: vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại. Lênin đã thực sự đặt
tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa.
HCM là người cộng sản sớm nhận thức mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp và vận
dụng nhuần nhuyễn mối quan hệ này trong cách mạng VN. Người chủ trương đại đoàn

kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công-nông và trí thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng
của kẻ thù; thiết lập nhà nước của dân, do dân, vì dân; gắn kết ĐLDT với CNXH
e. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
HCM khẳng định: các nước thuộc địa phương Đông không phải làm ngay cách mạng vô
sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng
XHCN.
Khác với các con đường cứu nước của cha ông, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
phong kiến cuối thế kỷ XIX, hoặc với chủ nghĩa tư bản đầu thế kỷ XX, con đường cứu
nước của HCM là ĐLDT gắn liền với CNXH.
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, HCM xác định con đường
của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.


Năm 1960, Hồ Chí Minh lại khẳng định rõ hơn: chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Nc được
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì
TTHCM về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ánh quy luật khách
quan của sự nghiệp GPDT trong thời đại CMVS, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu GODT vs các mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó
giành được độc lập rồi phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là làm sao cho dân
giàu, nước mạnh, là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. HCM nói: Yêu
Tổ Quốc, yêu nhân dân phải gắn với yêu CNXH, vì có tiến lên CNXH thì nhân dân mình
mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ Quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm
f. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
HCM giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề
giai cấp trong vấn đề dân tộc. GPDT khỏi ách thống trị thực dân là điều kiện để giải
phóng giai cấp, có độc lập rồi mới có địa bàn để làm CM XHCN. Vì thế, lợi ích của giai

cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc
5 - 1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp phải đặt trước sự sinh tử, tồn vong của quốc gia dân tộc. Trong lúc
này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do
cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.
g. Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc
khác
Ở HCM, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng. HCM không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho tất
cả các dân tộc bị áp bức. Người nói: Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các
dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy.
Người nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao
cả của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một số nước Đông Nam Á, ủng hộ
nhân dân Trung Quốc chống Nhật, ủng hộ Lào và Campuchia chống Pháp và khẳng định:
giúp bạn là tự giúp mình, bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng
lợi chung của cách mạng thế giới
→ Tóm lại, quan niệm của HCM về vấn đề dân tộc mang một nội dung toàn diện, sâu
sắc và triệt để; không chỉ bao hàm độc lập, tự do, thống nhất cho dân tộc, mà còn chứa
đựng cả con đường và điều kiện phát triển dân tộc. Đó là gắn độc lập dân tộc với dân chủ
của nhân dân, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Quan điểm đó trở thành mục tiêu, lý


tưởng, thành khẩu hiệu động viên, cổ vũ nhân dân VN làm nên kỳ tích oai hùng, đánh
thắng mọi kẻ thù, đưa đến độc lập, thống nhất cho đất nước; đồng thời cơ sở lý luận để
hoạch định chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
1.2 Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Đối với chủ tịch Hồ Chí Minh đấu tranh cho độc lập dân tộc, xác lập chủ quyền quốc
gia là một hành động nhất quán trước sau như một. Người khẳng định “Độc lập, tự do là

quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc”.Tư tưởng này của Hồ Chí
Minh thể hiện rõ trong hành động và trong rất nhiều bài nói, bài viết của mình :
- Năm 1919, gửi đến Hội nghị Versailess (Pháp) bản Yêu sách gồm 8 điểm, với nội dung
đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân An Nam;
- Sau khi dự Đại hội VIII Đảng Xã hội Pháp, thành lập Đảng Cộng sản Pháp: bác Hồ đã
khẳng định “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quôc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”;
- Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”;
- Chủ trì Hội nghị TW 8 Khoá I (5/1941), chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, viết
thư Kính cáo đồng bào; Bản Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2/9/1945, “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, ….”;
- Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến chống Pháp (đọc đêm 19/12/1946): “Không! Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, …”;
- Lời kêu gọi cả nước chống Mỹ (17/7/1966) được Người nêu ra như một chân lý:
“Không có gì qúy hơn độc lập, tự do”.
• Độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn :
- Dân tộc phải có đầy đủ chủ quyền quốc gia và quyền tự quyết về chính trị, kinh tế, an
ninh và toàn vẹn lãnh thổ.Gắn với bình đẳng dân tộc.
Giá trị và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc phải thể hiện ở quyền tự do hạnh phúc
của nhân dân. Theo người, quyền độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, là trên hết. dù có
phải hy sinh đến đâu cũng phải giành và giữ cho được độc lập.
Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính.
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế


I.1.

Được hình thành từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về quan hệ biện chứng

giữa dân tộc với giai cấp, đôc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội,và chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế.




Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước,
nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc. Người đã đưa ra những luận điểm mới và sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển lý
luận chủ nghĩa Mác Lenin. Kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của
Hồ Chí Minh thể hiện : khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh
đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình Cách mạng Việt Nam ; chủ trương đại
đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công-nông và tầng lớp trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng ; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực
phản cách mạng của kẻ thù ; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân ; gắn
kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.


Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết ; độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội

Theo Người, ở các nước thuộc địa “ chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất
nước”.
Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong
kiến (cuối thế kỷ XIX) hoặc chủ nghĩa tư bản đầu thế kỷ XX), con đường cứu nước của
Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi tiếp cận Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, Hồ Chí Minh đã hình thành chủ nghĩa
yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển

thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Năm 1960,
Người nói :"Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục
tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ có
xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột ; thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân,
vì dân mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát
triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con
người. Hồ Chí Minh nói "Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do,
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Do đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người được sung sướng, tự do.
Người khẳng định : "Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã
hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc
mỗi ngày một giàu mạnh thêm"


Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp


Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt
vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng
lợi ích của dân tộc.
Tháng 5-1941. Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định : "Trong lúc này quyền
lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc.
Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc
lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được”.



Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc
khác

Là một chiến sĩ quốc tế chân chính. Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của
dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết,
nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật
của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc
Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu: "giúp bạn là tự giúp
mình" và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào
thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang
tính khoa học và cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và
giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
a. Mục tiêu cấp thiết hàng đầu của cách mạng giải phóng dân tộc:
Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng biệt
của mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là những mục tiêu của chiến
lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại cách mạng chống đế quốc, thời
đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, do những hạn chế trong nhận thức về thực tiễn của cách mạng thuộc địa, lại
chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo điều, "tà khuynh”, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai
cấp. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10-1930) đã phê
phán những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc Nhưng với bản lĩnh cách mạng kiên cường,


bám sát thực tiễn Việt Nam, kiên quyết chống giáo điều, tháng 5-1941. Nguyễn Ái Quốc

chu trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chủ trương "thay đổi
chiến lược", từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang nhấn mạnh cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Hội nghị khẳng định dứt khoát: "cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không
phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề:
phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp
"dân tộc giải phóng”. Vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là
một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng .Hội nghị chủ trương tiếp tục tạm gác khẩu hiệu
"cách mạng ruộng đất", chi chia lại còng điền và ruộng đất "tịch thu của Việt Nam phản
quốc" cho dân cày nghèo, tức là ruộng đất đang nằm trong tay kẻ thù của dân tộc, chứ
không phải là của giai cấp địa chủ nói chung, nhằm đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về
chính trị và kinh tế.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi trong 30
năm chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975) trước hết là thắng lợi của đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh.
b. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng
nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ
khí tư tưởng khác nhau.
Tất cả các phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mặc dù đã diễn ra
vô cùng anh dũng, với tinh thần "người trước ngã, người sau đứng dậy", nhưng rốt cuộc
đều bị thực dân Pháp dìm trong hiển máu. Đất nước lâm vào "tình hình đen tối tưởng như
không có đường ra". Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam
vào đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới.
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải
chịu cảnh lầm than. Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha.
Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước
beo cửa sau" : con đường của Phan Châu Trinh cững chẳng khác gì "xin giặc rủ lòng
thương" ; con đường cùa Hoàn Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng
cốt cách phong kiến.

Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí
Minh không tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con đường mới
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dưong, đến với nhân loại cần lao đang tranh
đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý
luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản phát triển : Anh. Pháp, Mỹ.


Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản
Mỹ ; đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng
tư sản Pháp. Người nhận thấy : "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì
nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa" Bởi lẽ đó, Người không đi theo con
đường cách mạng tư sản.
Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách
mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng
về sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và "mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc"[1].
Người "hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba" bởi vì V.I.Lênin và Quốc tế thứ
ba đã "bênh vực cho các dân tộc bị áp bức". Người thấy trong lý luận của V.I.Lênin một
phương hướng mới để giải phóng dân tộc : con đường cách mạng vô sản.
Trong bài Cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh viết : "Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản
thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"[2].
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu
hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa
Mác Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: "Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản"... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và nhưng người lao động khỏi ách nô lệ.
c. Các mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân

lãnh đạo.
Nguyễn ái Quốc đã khẳng định : "Đảng có vững cách mệnh mới thành
công,cũng như người cầm có lái có vững thì thuyền mới chạy... Đảng muốn vững phải có
chủ nghĩa làm cốt. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". - Thực tế đã chứng minh
Từ khi ra đời đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
d. Sức mạnh dân tộc là lực lượng cho cách mạng giải phóng dân tộc
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Người
cho rằng: "Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: - Phải có


tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi
nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng... ".
Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm
phương thức hành động. "hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tôr chức; hoặc làm
cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự cường” Người khẳng định "cách mệnh là việc chung
cả dân chúng chứ không phải việc một hai người".
Trong Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ,
Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm gốc" xuyên
suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. "Có dân là có tất cả", "Dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Khi còn hoạt động ở nước ngoài. Hồ Chí
Minh nói: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước đi vào quần chúng, thức tỉnh
họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"'.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ
trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là nhân tố
then chốt bảo đảm thắng lợi. Người khẳng định: "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng
ống nào cũng không chống lại nổi". "Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch
không thể nào tiêu diệt được". "Chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần

chúng, của dân tộc".
Dưới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư bản Pháp, từ một xã hội phong kiến thuần túy, Việt
Nam biến thành một xã hội thuộc địa với những tàn tích phong kiến nặng nề. Mặc dù
thực đảng Pháp còn duy trì một phần quan hệ kinh tế và giai cấp địa chủ phong kiến,
song khi đã thành một chế độ thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó. Ngoài
giai cấp công nhân và nông dân, giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa và
nhỏ mặc dù vẫn có mặt hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động, nhưng trong
quan hệ với thực dân Pháp thì họ cũng là những người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước.
Đó không phải là những giai cấp thống trị, mà trái lại, họ là những giai cấp bị trị và có
khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh phân tích: ".. dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông,
công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền"'.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Người xác định lực lượng, cách mạng
hao gồm cả dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ
phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng
ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp: đối với
phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải


lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phân cách mạng
(như Đảng Lập hiện) thì phải đánh đổ.
Trong lực lượng toàn dân tộc. Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách
mạng của công nhân và nông dân. Người phân tích: các giai cấp công nhân và nông dân
có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức bóc lột nặng nề nhất,
nên "lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết... công nông là tay không chân
rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ,
Nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc". Từ đó Người khẳng định: công
nông "là gốc cách mệnh". Khẳng định vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông
dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu nước trước đó.

Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trò của công nhân và nông dân, Hồ Chí Minh không
coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp
khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng
minh của cách mạng. Người chỉ rõ: "... học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư
bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh
của công nông thôi".
3. Sự sáng tạo và chủ động trong tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
- Cách mạng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường cách mạng vô sản.
- Cách mạng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân , trên cơ sở liên minh công
nông.
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động ,sáng tạo vfa có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc.
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực , kết hợp
với lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng nhân dân .
a. Tính sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
- Đến với chủ nghĩa Mác-Leenin xác định con đường cứu nước theo khuynh hướng chính
trị vô sản , nhưng con đường cách mạng giải phóng dân tộc do Hồ Chí Minh hoạch định
không tự khuôn mình trong những ngyên lí sắn có mà còn có sự kết hợp hài hòa vấn đề
dân tộc với vấn đề giai cấp , gắn độc lập dân tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa
.Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc đáo
và sáng tạo , thấm nhuần tính nhân văn.
- Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa , nhất là so sánh lực lượng quá chênh
lệch về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và CNĐQ , hồ Chí Minh đã xây
dựng nên lí luận về phương pháp khởi nghĩa toàm dân và chiến tranh nhân dân . Phát huy


và sử dụng sức mạnh toàn dân tộc để tiến hành khởi nghĩa vu trang và chiến tranh cách
mạng là đặc điểm độc đáo trong phuqoqng pháp giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh.

- Cách mạng giải phóng dân tộc được tiến hành chủ động , sáng tạo và có khả năng giành
tháng lợi trước CMVS ở chính quốc " là một trong những sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh.
+) Đại hội lần thứ IV quốc tế cho rằng : chỉ có thể thực hiện toàn công cuộc giải
phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành đượcthắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến .
+) Cuôc cách mạng tháng 10 Nga (19/7) của giai cấp vô sản Nga lãnh đạo đã lật đổ
giai cấp tư sản Nga lúc bấy giờ
Khi đã giành được chính quyền và nhà nước mới, giai cấp vô sản Nga đã giúp đỡ cho các
dân tộc thuộc địa của Nga làm cách mạng và giành được chiến thắng.
+) Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc: Đến với chủ nghĩa Mác Lê nin xác định
con đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô sản, nhưng con đường cách mạng
giải phóng dân tộc là do Hồ Chí Minh hoạch định, chứ không phải đã tồn tại từ trước. Hồ
Chí Minh không tự khuôn mình trong những nguyên lỹ đã có sẵn, không rập khuôn máy
móc lý luận đấu tranh giai cấp vào điều kiện lịch sử ở thuộc địa mà có sự kết hợp hài hòa
vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp và giải quyến vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc gắn
độc lập dân tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa. Sử dụng “phương pháp luận biện
chứng” Người đã phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa, phát triển chủ nghĩa Mác Lenin
trong điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Xây dựng trên lí luận cách mạng giải phóng
dân tộc và truyền bá vào Việt Nam lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh bao gồm một hệ thống những quan điểm sáng tạo, độc đáo. Những lí luận đó phải
trải qua những thử thách hết sức gay gắt. Trong những năm 1923 – 1924, 1927 – 1928 và
1934 – 1938, quốc tế cộng sản không ủng hộ mà coi đó là những tư tưởng”dân tộc chủ
nghĩa”. Những năm 1930 – 1935 tư tưởng đó bị phê phán trong Ban chấp hành trung
ương Đảng và có trên báo chí ở nước ngoài. Song thực tiễn đã chứng minh lí luận cách
mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là đúng đắn.
b. Sáng tạo trong phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc
đáo và sáng tạo thấm nhuần tính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa nhất là so sánh lực lượng quá chênh
lệch về kinh té và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ ngĩa đế quốc. Hồ Chí Minh
đã xâu dựng lí luận về phượng pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.

Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lê-nin về cách mạng
thuộc địa thành một hẹ thống luận điểm mới mẻ sáng tạo bao gồm cả đường lối chiên


lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Đó
là một di sản tư tưởng quân sự vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Làm chuyển hóa phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam.
Liên hệ thực tiễn CM nước ta: - CMT8 trước hết là hình mẫu tiêu biểu của sự vận dụng
sáng tạo của CN Mac-LeNin vào điều kiện cụ thể của CM nước ta.Đảng và Bác đã phát
huy và khơi dậy được tinh thần yêu nước tìm ẩn trong mỗi con người Việt Nam yêu nước,
từ già cho đến trẻ. Trên nền của phương pháp tư duy sáng tạo Đảng và Bác đã tập hợp
được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Quan điểm "dĩ bất biến, ứng vạn biến" là nền
tảng của phương pháp tư duy sáng tạo mới. Nhờ đó chúng ta đã cô lập được kẻ thù tập
hợp được sức mạnh của toàn dân không phân biệt Đảng phái hay tín ngưỡng.Từ đó giành
thắng lợi từng phần đến thắng lợi hoàn toàn là đỉnh cao củ sự sáng tạo trong cuộc CMT8.
Mà điển hình đó là trong suốt chín năm ròng rả chiến đấu với thực dân Pháp hung tàn
đỉnh cao đó là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Hay là, cuộc CMT8 ở VN giành win
trước cuộc CM of nhân dân Nhật...Chính tính sáng tạo đã làm nên sức mạnh của cách
mạng tháng Tám. Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Ðảng ta
luôn luôn quán triệt tinh thần sáng tạo của cách mạng tháng Tám. Nhờ tinh thần chủ động
sáng tạo, cách mạng Việt Nam đã vượt qua nhiều thử thách, giành được nhiều thắng lợi
trên con đường phát triển của mình. Trên thế giới: Nhân dân Trung Quốc tự mình đánh
đuổi phát xít Nhật (1945) trước khi cuộc CM của nhân dân Nhật nổ ra.
I.2. Thực tiễn:
1. Thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945
a) Nguyên nhân thắng lợi
Nguyên nhân chủ quan:
Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, từng trải qua những cuộc đấu tranh
kiên cường, bất khuất cho độc lập tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt

trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì toàn dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu
nhà.
Cách mạng tháng Tám do Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Hồ Chí Minh
lãnh đạo, đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn dựa trên cơ sở lí luận Mác-Lênin được
vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam.
Để giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám, Đảng ta đã có quá trình chuẩn bị trong
suốt 15 năm, qua các phong trào cách mạng 1930-1935, 1936-1939, đã đúc rút được


những bài học kinh nghiệm qua những thành công và thất bại, nhất là trong quá trình xây
dựng lực lượng vũ trang, căn cứ địa thời kì vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.
Trong những ngày khởi nghĩa, toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng, không sợ hi
sinh gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do. Các cấp bộ Đảng và Việt Minh từ Trung
ương đến địa phương đã linh hoạt sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát động
quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
Nguyên nhân khách quan:
Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô và quân Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống
phát xít, nhất là chiến thắng phát xít Đức và quân phiệt Nhật Bản, đã cổ vũ tinh thần,
củng cố niềm tin cho nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo thời
cơ để nhân dân ta đứng lên Tổng khởi nghĩa.
b) Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng tháng Tám mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta. Nó đã phá
tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm và ách thống trị của phát xít Nhật gần
5 năm, lật nhào ngai vàng phong kiến ngự trị ngót chục năm thế kỉ ở nước ta, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng
Việt Nam, mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do; kỉ nguyên nhân
dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc’ kỉ nguyên
giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành một

Đảng cầm quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho những thắng lợi tiếp theo.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã góp phần vào chiến thắng chủ nghĩa phát xít
trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đã chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm suy yếu chúng, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc
địa đấu tranh tự giải phóng, “có ảnh hưởng trực tiếp và rất to lớn đến hai dân tộc bạn là
Miên và Lào”.
c) Bài học kinh nghiệm
Đảng phải có đường lối đúng đắn, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; nắm bắt tình hình thế giới và trong nước để đề ra chủ
trương, biện pháp cách mạng phù hợp.
Từ thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng ta có thể khẳng định
rằng "Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả


năng dành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc" là 1 sáng tạo lớn của Hồ Chí
Minh.

2. Thắng lợi của 30 năm chiến tranh cách mạng 1945 - 1975
a) Quá trình xây dựng và bảo vệ chính quyền và tiến hành kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954)
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược là chính nghĩa, có
tính chất dân tộc và dân chủ. Đây là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu
dài, dựa vào sức mình là chính giành độc lập, tự do, thống nhất, thực hành dân chủ nhân
dân.
Kháng chiến toàn dân là dựa vào sức mạnh của nhân dân, tổ chức toàn dân kháng
chiến. Cả nước là một mặt trận, mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi người dân là một
chiến sĩ.
Kháng chiến toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để đánh bại chiến
tranh tổng lực của địch ta phải xây dựng lực lượng và chống địch trên tất cả các mặt
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao.

Kháng chiến lâu dài và dựa vào sức mình là chính, tranh thủ thời gian chuyển hoá lực
lượng của ta từ yếu thành mạnh. Cuộc kháng chiên chống thực dân Pháp xâm lược lâu
dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.


Nguyên nhân thắng lợi:

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Đảng đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Công tác tư tưởng, công tác tổ
chức của Đảng đã động viên toàn dân vì “Tổ quốc trên hết”, quyết tâm đánh giặc. Đảng
có phương pháp kháng chiến đúng đắn.
Toàn dân đoàn kết trong mặt trận Liên Việt; chính quyền dân chủ nhân dân là công cụ
sắc bén để tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
Lực lượng vũ trang anh hùng do Đảng lãnh đạo, có nghệ thuật quân sự tài giỏi, ý chí
cách mạng kiên cường. Những tấm gương hy sinh anh dũng của Bế Văn Đàn, Phan Đình
Giót, Tô Vĩnh Diện... và nhiều cán bộ, chiến sĩ khác đã tô thắm truyền thống vẻ vang của
dân tộc.


Tình đoàn kết chiến đấu giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia và sự ủng hộ, giúp
đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và nhân dân thế giới, cả nhân dân Pháp.


Ý nghĩa lịch sử:

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ buộc
thực dân Pháp phải thừa nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba
nước Đông Dương. Chúng ta đã bảo vệ được thành quả cách mạng tháng Tám 1945,
chính quyền nhân dân được củng cố, lực lượng vũ trang nhân dân trưởng thành. Miền

Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi kháng chiến của nhân dân Việt Nam góp phần đánh bại chủ nghĩa thực dân
cũ, là tấm gương cổ vũ các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc trong cuộc đấu tranh giành độc
lập. Thắng lợi đó đã chứng minh chân lý "Một dân tộc dù đất không rộng, người không
đông, nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, có đường lối chính trị, quân sự đúng
đắn, được sự ủng hộ quốc tế thì hoàn toàn có thể giành thắng lợi”.
b) Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954 - 1975)


Nguyên nhân thắng lợi:

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả tổng hợp của nhiều
nhân tố, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng
đầu. Đảng có đường lối chính trị, quân sự và phương pháp cách mạng độc lập, tự chủ,
đúng đắn, sáng tạo, tổng hợp.
Nhân dân cả nước ta chiến đấu gian khổ hy sinh vì có chính nghĩa. Thắng lợi đó là kết
quả đấu tranh anh dũng của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở
miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng của Tổ
quốc”.
Đó là kết quả của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa xây dựng, vừa chống chiến tranh
phá hoại, vừa hoàn thành nghĩa vụ hậu phương lớn, chi viện tiền tuyến lớn đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược.
Đó là kết quả của đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia; sự ủng
hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa; sự ủng hộ của nhân dân
tiến bộ trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.


Ý nghĩa lịch sử:



Nhân dân ta đã quét sạch bọn đế quốc xâm lược, chấm dứt ách thống trị tàn bạo hon
một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; mở ra kỷ nguyên mới: cả
nước hoà bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất
của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, làm suy yếu, phá vỡ một
phòng tuyến quan trọng của chủ nghĩa đế quốc ở Đông Nam Á, mở đầu sự sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân mới, góp phần tăng cường lực lượng xã hội chủ nghĩa, phong trào độc
lập dân tộc, dân chủ và hoà bình thế giới.
Báo cáo chính trị tại Đại hội IV của Đảng (12/1976) khẳng định: "Năm tháng sẽ trôi
qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một
biểu tượng sáng ngời về toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con
người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có
tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc"
Qua thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và 30 năm đấu tranh giành độc lập dân tộc,
ta có thế một lần nữa khẳng đinh ,một cách chắc chắn hơn tính chính xác mà luận điểm
đã khảng định, đồng thời cho thấy công lao to lớn trong sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng và sự vận dụng
tư tưởng đó vào việc xây dựng đạo đức, lối sống của sinh viên trong giai đoạn hiện
nay:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng:
a. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng:
Người coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như
ngọn nguồn của sông suối. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Người từng nói “Cũng như sông thì
có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài

người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình
đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”.
Theo Hồ Chí Minh, có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần, thì sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình cũng
không tiếc. Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm
vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu,


không kiêu ngạo, không hủ hóa. Hồ Chí Minh chỉ rõ "tuy năng lực và công việc của mỗi
người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều
là người cao thượng".
Đạo đức là một đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa, là sức mạnh trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Xác định
được vai trò to lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh
cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn
của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách
của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, vì Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một tài sản tinh thần vô giá, đó là tư
tưởng của Người. Trong đó, nổi bật là tư tưởng đạo đức cách mạng. Bản thân Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã là một tấm gương mẫu mực, sáng ngời về thực hành đạo đức cách mạng
để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Lãnh tụ
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và
tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm
hàng đầu của Bác trong sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn
từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt

quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo đạo đức
cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin; là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những
tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại cả phương Đông lẫn phương Tây mà Người đã
tiếp cận được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách vì mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng. Bắt nguồn từ chức năng điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người, đạo đức
cách mạng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm
vụ của con người. Từ đó Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là gốc của người
cách mạng. Người viết: cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng
cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức
có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang; có đạo đức cách
mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước, khi gặp thuận lợi, thành


công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, mới lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không
công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa.

Từ những quan niệm nêu trên, cho thấy quan niệm chung của Chủ tich Hồ Chí Minh
về đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm cơ bản sau đây:


Một là, trung với nước, hiếu với dân.


Theo Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các
phẩm chất khác.Từ quan niệm cũ “ trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền
thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới,
cao rộng hơn là “ trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: Trung với nước, hiếu
với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Câu nói của Bác vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho
mỗi người Việt Nam, không phải chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn
lâu dài mãi về sau.


Hai là, yêu thương con người.

Quan niêm này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về lòng yêu thương con người rất
toàn diện và độc đáo. Bởi vậy, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là
một trong những phẩm chất cao đẹp nhất. Người luôn luôn dành tình yêu thương rộng lớn
cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Bác viết: tôi chỉ có
một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Ở
Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng bào, đồng chí của Người rất bao la, rộng lớn và toàn
diện, không phân biệt vùng, miền, trẻ, già, trai, gái...hễ là người Việt Nam yêu nước thì
đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương của Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn thể hiện tấm lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc biệt, đối với những
người phạm sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: mỗi con người đều có thiện và ác ở
trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân
và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có
thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ
bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không
phải đập cho tơi bời. Chính vì vậy, trong Di chúc để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn
Đảng: phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý

đến phẩm chất yêu thương con người.


Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.


Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch, sáng tạo,
có năng suất cao, với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm; Kiệm tức là tiết kệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân
mình, phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to, không xa
xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình thức, không liên hoan chè
chén lu bù; Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc nào của Nhà nước, của nhân dân, phải trong sạch, không
tham lam, không tham địa vị, không tam tiền tài, không tham sung sướng, không ham
người tâng bốc mình, vì vậy mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa; Chính
nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn, đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu
khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản
thân mình, đối với người thì không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, đối với
việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà; Chí công vô tư là đem lòng chí
công vô tư mà đối với người, với việc, khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình
trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải “ lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.


Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.

Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một mệnh đề “
bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với
nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách
mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc, là tinh

thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới vì hòa
bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và chủ ngĩa xã hội,
là tinh thần hợp tác và hữu nghị. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà
nước ta tiếp tục cổ động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương
các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “ người tốt, việc tốt”, nêu
ngương sáng đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh vànoi theo.Để học tập tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta, mỗi cán bộ, đảng viên càng phải ra sức hưởng ứng, học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người bằng cuộc vận động “ học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà Đảng ta đã phát động là điều hết sức cần thiết. Đặc
biệt, càng cần thiết và quan trọng hơn, khi chúng ta là những cán bộ, đảng viên, giảng
viên của Trường Chính trị Lê Duẩn. Vì vậy, chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh cần phải
được cụ thể hóa để cán bộ, đảng viên, giảng viên Nhà trường lấy đó làm tiêu chí để tu
dưỡng, rèn luyện bản thân mình.Trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức của Bác Hồ, Đảng
bộ Trường Chính trị Lê Duẩn đã cụ thể hóa thành những chuẩn mực đạo đức của cán bộ,
đảng
viên,
giảng
viên
Nhà
trường.
Cụ
thể
là:
1. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; thực hiện nghiêm Quy định những điều đảng viên không được làm và Quy định 10
không
của
Đảng
ủy

Trường
Chính
trị

Duẩn.


2. Không ngừng nêu cao tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, trình độ và năng
lực chuyên môn, phong cách sư phạm; là tấm gương đạo đức, tự học, sáng tạo; phong
cách làm việc khoa học, dân chủ; đấu tranh kiên quyết với các biểu hiện vi phạm đạo đức
nghề nghiệp. Học viên phải chấp hành nghiêm túc quy chế của Nhà trường, có ý thức học
tập, rèn luyện để trở thành người cán bộ tốt; có trách nhiệm xây dựng trường, lớp vững
mạnh
3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu, nói đi đôi với làm; tận tâm, tận lực
với sự nghiệp, với công việc, lao động hết mình; kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí
và các biểu hiện tiêu cực khác trong giáo dục và thi cử.
4. Phát huy tinh thần đoàn kết quốc tế, đoàn kết nội bộ; xây dựng tình thương yêu đồng
chí, đồng nghiệp; hợp tác, chia sẻ, giúp nhau cùng tiến bộ; đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội, hẹp hòi, đố kỵ, thực dụng; xây dựng các tổ chức đảng, nhà trường, đoàn thể
trong
sạch,
vững
mạnh
toàn
diện.
5. Tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghĩa vụ công dân nơi cư trú, góp phần xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đạo đức, lối sống của sinh viên
trong giai đoạn hiện nay.

a. Thực trạng đạo dức lối sống trong sinh viên hiện nay:
• Tích Cực:
Điểm nổi bật đầu tiên khi ta nghĩ về sinh viên, đó là những con người năng động và
sáng tạo. là những người tiên phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi mới về kinh tế,
giáo dục…Trong đầu họ luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi
cơ hội để biến các ý tưởng ấy thành hiện thực. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng
phát minh, sáng chế; và không ít trong số những phát minh ấy được áp dụng, được biến
thành những sản phẩm hữu ích trong thực tiễn. Trong học tập, sinh viên không ngừng tự
đổi mới phương phấp học sao cho lượng kiến thức họ thu được là tối đa (đọc sách, nghiên
cứu, lấy thông tin, tài liệu từ nhiều nguồn…). Phần lớn sinh viên đều có khả năng thích
nghi cao với mọi môi trường asinh sống và học tập. Họ không chỉ học tập trong một
phạm vi hẹp ở trường, lớp; giới trẻ ngày nay luôn phát huy tinh thần họctập ở mọi nơi,
mọi lúc. Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân loại,sinh viên ViệtNam còn tiếp thu những
cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác như văn hóa, nghệ thuật… Sự năng động của
sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham gia các hoạt động xã hội như y tế, từ
thiện…Ngoài giờ học, những sinh viên tuyên truyền hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi
lại mang kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi nhà… Bằng sự năng động, sinh viên
luôn tự cập nhật thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự thay đổi và phát triển


của xã hội.- Thứ hai, sinh viên Việt Nam là những con người táo bạo và tự tin.Sinh viên
dám nghĩ , dám làm, dám chịu thử thách. Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm trong suy
nghĩ mà luôn được thử nghiệm trong thực tế. Có thể thành công hoặc thất bại, song họ
không hề chùn bước. Với họ, mỗi lần thất bại lại làm họ tự tin hơn với nhiều kinh nghiệm
hơn. Tự tin nhưng không kiêu- đó chính là sinh viên Việt Nam. Khi quyết định một điều
gì, sinh viên không bao giờ quên tham khảo ý kiến của những người xung quanh. Và khi
đã nhận được sự ủng hộ, họ thêm tự tin thực hiện ý định của mình. Táo bạo song sinh
viên không hề liều lĩnh. Trước khi thực hiện một việc gì, họ luôn tính toán, xem xét vấn
đề một cách thận trọng. Nói rằng táo bạo, nghĩa là trước đó chưa có ai dám làm, dám thử
nghiệm, họ làn gười đầu tiên thực hiện, chứ không phải họ đâm đầu thực hiện một việc

mà họ không biết tỉ lệ thành công của mình. Và quan trọng là họ dám nhìn thẳng vào thất
bại và vượt qua nó. - Thứ ba, phong cách độc lập trong cuộc sống cũng như trong học tập
cũng góp phần xây dựng một hình tượng đẹp về sinh viên Việt Nam.Sinh viên ngày nay
đã biết thân tự lập thân, không chỉ riêng việc học tập, mà mọi vấn đề khác trong cuộc
sống đều được sinh viên giải quyết trong sự chủ động. Ngoài giờ học, họ tìm việc làm
kiếm thêm tiền mua sách vở hay phục vụ cho những chi tiêu thường ngày khác. Nhiều
người không chỉ lo được cho bản thân mà còn có thể giúp đỡ những người bạn khác thiệt
thòi hơn mình, hay giúp đỡ gia đình ngay cả khi họ vẫn còn ngồi trong giảng đường đại
học. Ngoài ra, sinh viên Việt Nam còn được thừa hưởng một truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, đó là truyền thống hiếu học. Sinh viênViệt Nam mọi thời đại luôn ham học, ham hiểu
biết. Họ khao khá ttìm tòi, khám phá chân trời tri thức. Họ say mê với những điều mới lạ.
Ham học, ham hiểu biết chính là động lực cho việc lĩnh hội tri thức của sinh viên. Thêm
vào đó, siêng năng cần cù, chịu thương chịu khó của sinh viênViệt Nam cũng là một đức
tính cần được nói đến. Bạn bè quốc tế luôn nói về đức tính siêng năng cần cù của sinh
viên Việt Nam với sự khen ngợi và khâm phục chân thành. Với bạn bè thế giới họ luôn
thân thiện, chân thành, cởi mở với tinh thần quốc tế trong sáng. Đức tính ấy cũng bắt
nguồn từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ngày càng được giữ vững và phát huy bởi
thanh niên ViệtNam.- Một biểu hiện tích cực nữa trong lối sống của sinh viên Việt Nam
là phong cách tự khẳng định mình. Phải thực sự có tri thức và đủ tự tin thì mới dám tự
khẳng định mình. Sánh ngang vai cùng các tầng giớikhác, sinh viên ViệtNam luôn tạo ra
được thế đứng cho mình. Dù trong bất cứ lĩnh vực nào sinh viên cũng tự tin vào tiếng nói
củamình. Họ đã chứng minh cho chúng ta thấy được sức mạnh của họ,vai trò to lớn của
họ trong công cuộc xây dựng đất nước và pháttriển xã hội.


Tiêu Cực:

Nét tiêu cực lớn nhất, đáng báo động nhất trong giới sinh viên hiện nay chính là về vấn
đề tư tưởng. Có thể nói chưa bao giờ sinh viênViệt Nam lại sống thiếu lý tưởng như hiện
nay. Nếu như ngày trước lý tưởng xã hội chủ nghĩa luôn sục sôi trong mỗi thanh niên Việt

Nam, thì ngày nay để tìm được một sinh viên như thế quả là không dễ. Thậm chí có
những người không hiểu lý tưởng ấy là gì! Họ sống và học tập chỉ để đạt được mục đích
cá nhân nào đó. Hoặc thậm chí có người chẳng có mục đích gì. Sống thiếu niềm tin,
mụcđích là một điểm yếu cúa giới trẻ ngày nay. - Hiện nay có một bộ phận không nhỏ


×