Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại bảo hộ tên địa DANH THEO LUẬT sở hữu TRI ́ TUÊ ̣ VIÊ ̣ t NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.53 KB, 84 trang )

Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 34 (2008 – 2012)

Đề tài:

BẢO HỘ TÊN ĐỊA DANH
THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn:
Th.s Nguyễn Phan Khôi

Sinh viên thực hiện:
Lê Thúy Liễu
MSSV: 5085812
Lớp Thƣơng mại 1-K34

\

Cần Thơ, 05/2012

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

1

SVTH: Lê Thúy Liễu




Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1
CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HỘ TÊN ĐỊA DANH THEO
QUY ĐỊNH QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ......................................................5
1.1. Khái quát chung về quyền Sở hữu công nghiệp .......................................................5
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp .........................................................9
1.1.2. Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam...............10
1.2. Khái quát chung về bảo hộ tên địa danh trong sở hữu công nghiệp ......................17
1.2.1. Khái niệm tên địa danh ...............................................................................17
1.2.2. Trên Thế giới ...............................................................................................18
1.2.3. Tại Việt Nam ........................................................................................... 20
1.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ tên địa danh trong SHCN ...............................................21
CHƢƠNG II. BẢO HỘ TÊN ĐỊA DANH TRONG SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM ........................................... 24
2.1 Điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tƣợng có thể bảo
hộ dƣới góc độ tên địa danh ...................................................................................... 24
2.1.1. Chỉ dẫn địa lý .......................................................................................... 24
2.1.2 Nhãn hiệu ................................................................................................. 29
2.1.3 Tên thương mại ........................................................................................ 39
2.2. Xác lập quyền Sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu và tên
thƣơng mại ................................................................................................................ 43
2.2.1. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý 44
2.2.2. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại ................... 45
2.3. Nội dung quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, tên thƣơng mại ....... 46
2.4. Hành vi xâm phạm quyền và cạnh tranh không lành mạnh đối với chỉ dẫn địa
lý, nhãn hiệu, tên thƣơng mại .................................................................................... 49


GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

2

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

2.4.1. Hành vi xâm phạm quyền đối với các đối tượng quyền SHCN: Chỉ dẫn
địa lý, nhãn hiệu, tên thương mại.............................................................................. 49
2.4.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh đối với các đối tượng quyền
SHCN: Chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, tên thương mại ................................................... 51
CHƢƠNG III. THỰC TIỄN BẢO HỘ TÊN ĐỊA DANH TẠI VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ......................................................................................... 56
3.1. So sánh các hình thức bảo hộ tên địa danh trong sở hữu công nghiệp tại Việt
Nam.. ......................................................................................................................... 56
3.2. Sự lựa chọn của các chủ thể kinh doanh khi đăng kí bảo hộ tên địa danh
trong sở hữu công nghiệp.. ........................................................................................ 58
3.3 Thực tiễn một số tranh chấp về việc bảo hộ tên địa danh trong SHCN .............. 60
3.4. Những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tranh chấp về bảo hộ tên địa
danh trong SHCN ...................................................................................................... 66
3.5. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện hơn về vấn đề bảo hộ tên địa danh trong Sở
hữu công nghiệp ........................................................................................................ 70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 77

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi


3

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tên địa danh là một trong những yếu tố gắn liền với con ngƣời, với cuộc sống chúng ta
trong đời sống hàng ngày. Tên địa danh thƣờng do con ngƣời đặt ra dựa trên những đặc điểm
tự nhiên, văn hóa, xã hội cụ thể của từng vùng đất mang địa danh đó, có thể là địa danh hành
chính, lịch sử, tên gọi thông dụng hoặc tên gọi dân gian của một khu vực địa lý xác định, nó
có thể là tên một con sông, một ngọn núi, một vùng, một khu vực hay một quốc gia…Có
những địa danh đƣợc gọi tên và chỉ đƣợc biết đến trong phạm vi địa phƣơng, nhƣng cũng có
những địa danh nổi tiếng mang tầm thế giới mà khi nhắc đến ít nhiều ta cũng liên tƣởng đến
nó thuộc quốc gia nào, có những đặc điểm gì nổi bật hoặc có những đặc sản đƣợc nhiều nƣớc
trên thế giới biết đến nhƣ núi Phú Sĩ ở Nhật Bản quanh năm tuyết bao phủ tạo nên một vẻ đẹp
hùng vĩ nhƣ một biểu tƣợng của Nhật Bản, thành phố Alkmaar của đất nƣớc Hà Lan
đƣợc nhiều ngƣời biết đến là một trong số ít thành phố trên thế giới còn dùng cách
làm pho mát đặc sắc từ thuở trung cổ hay Bordeaux - thành phố cảng miền Tây Nam
nƣớc Pháp, đƣợc nhiều ngƣời biết đến nhƣ thủ đô của ngành công nghiệp rƣợu vang
thế giới…
Tên địa danh vốn không phải là sự sáng tạo của con ngƣời và cũng không nằm
trong các đối tƣợng đƣợc liệt kê trong quyền SHTT, nhƣng thông qua những quy
định về bảo hộ quyền SHTT có thể kết hợp việc bảo hộ tên địa danh nhƣ một tài sản
hữu hình thông qua các đối tƣợng bảo hộ: Quyền tác giả và quyền liên quan, quyền
SHCN và quyền đối với giống cây trồng. Nhƣng trong phạm vi đề tài, ngƣời viết chỉ
đề cập đến quyền SHCN, cụ thể là các đối tƣợng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, tên
thƣơng mại.

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập với sự phát triển của nền kinh tế thế giới . Điển
hình là việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới
(WTO) ngày 14/11/2006. Với xu hƣớng phát triển của nền kinh tế đất nƣớc nhƣ hiện nay thì
sự đổi mới, sáng tạo và tri thức đang trở thành các nhân tố chính của sức mạnh cạnh tranh.
Trong quá trình hội nhập các DN Việt Nam đã nắm bắt đƣợc những thời cơ vô cùng thuận lợi
nhƣng cũng gặp không ít khó khăn và thử thách. Do vậy, bên cạnh việc đòi hỏi họ phải không
ngừng sáng tạo và đổi mới để tạo nên sự đa dạng và phong phú về hàng hóa, dịch vụ của
mình trên thị trƣờng thì chữ tín cũng ngày càng đƣợc các doanh nghiệp quan tâm xây dựng
dựa vào thƣơng hiệu. Bởi, một trong những cơ sở để ngƣời tiêu dùng lựa chọn chính là
GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

4

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

những dấu hiệu thể hiện trên bao bì, nhãn mác, giấy tờ giao dịch, quảng cáo của sản phẩm,
dịch vụ. Có rất nhiều dấu hiệu để ngƣời tiêu dùng có thể nhận biết đƣợc hàng hóa sản phẩm
nhƣ: nhãn hiệu, tên thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý…Và những dấu hiệu này làm phát sinh trách
nhiệm của chính doanh nghiệp đối với ngƣời tiêu dùng, đối với xã hội, bởi chúng chính là
yếu tố quan trọng giúp ngƣời tiêu dùng xác định sản phẩm, dịch vụ mà họ mong muốn. Sẽ
càng có ý nghĩa hơn và góp phần đẩy mạnh việc xây dựng thƣơng hiệu của các chủ thể kinh
doanh khi mà những dấu hiệu để xác định chủ thể kinh doanh gắn liền với tên địa danh của
đất nƣớc Việt Nam.
Trên thực tế, các chủ thể kinh doanh đã bắt đầu biết đến việc khai thác những lợi ích
từ tên địa danh mang lại cho hàng hóa, dịch vụ của họ nói riêng, cũng nhƣ vấn đề tạo dựng
thƣơng hiệu nói chung. Cụ thể là sử dụng tên địa danh để bảo hộ trong các đối tƣợng quyền
SHCN nhƣ chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, tên thƣơng mại. Tuy nhiên, sự hiểu biết của các các

nhân, tổ chức, doanh nghiệp về lĩnh vực này còn nhiều hạn chế dẫn đến việc họ có sự chọn
lựa không phù hợp khi tiến hành đăng ký bảo hộ tên địa danh trong các đối tƣợng quyền
SHCN cho hàng hóa, dịch vụ của mình. Bên cạnh đó, nhiều thƣơng hiệu gắn liền với tên địa
danh của các doanh nghiệp Viêt Nam bị rơi vào tay các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài
nƣớc. Điển hình các thƣơng hiệu nổi tiếng của Việt Nam nhƣ cà phê Buôn Ma Thuột, nƣớc
mắm Phan Thiết, nƣớc mắm Phú Quốc, kẹo dừa Bến Tre… đã từng đứng trƣớc nguy cơ bị
mất thƣơng hiệu từ tay những công ty nƣớc ngoài. Trƣớc tình hình đó, đã đƣa các doanh
nghiệp Việt Nam cũng nhƣ nƣớc ta đứng trƣớc thử thách lớn trong quá trình hội nhập quốc tế
và phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, vấn đề bảo hộ tên địa danh trong SHCN cũng chƣa đƣợc Nhà nƣớc ta
quy định một cách cụ thể nên dẫn đến nhiều tình trạng tranh chấp về tên địa danh. Vẫn còn
nhiều ý kiến tranh cãi về vấn đề “tên địa danh” có thể và có nên đƣợc bảo hộ độc quyền hay
không? Bởi vì khi đƣợc bảo hộ trong các đối tƣợng quyền SHTT, cụ thể là quyền SHCN thì
chủ sở hữu tên địa danh đó, tùy từng trƣờng hợp sẽ có đƣợc độc quyền sử dụng tên địa danh
đó.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết nói trên, ngƣời viết quyết định chọn đề tài “Bảo hộ tên
địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp.
Ngoài ra, ngƣời viết cũng mong muốn qua đề tài này nhằm làm rõ hơn về việc bảo hộ tên địa
danh theo nhiều cách khác nhau tƣơng ứng với phạm vi bảo hộ của các đối tƣợng của quyền
SHCN (chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu và tên thƣơng mại), cũng nhƣ ƣu và nhƣợc điểm khi bảo hộ
tên địa danh trong từng đối tƣợng trên. Qua đó, nhằm đƣa ra cho các chủ thể kinh doanh có

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

5

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam


thêm sự lựa chọn đúng đắn và phù hợp khi đăng ký bảo hộ tên địa danh trong Sở hữu công
nghiệp.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài tác giả tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt
Nam về bảo hộ Chỉ dẫn địa lý, Nhãn hiệu và Tên thƣơng mại trong SHCN: Về điều kiện
chung để đƣợc bảo hộ, quy trình cấp văn bằng bảo hộ, nội dung cũng nhƣ giới hạn quyền của
chủ sở hữu, những hành vi xâm phạm quyền và cạnh tranh không lành mạnh đối với Chỉ dẫn
địa lí, Nhãn hiệu và Tên thƣơng mại. Trên cơ sở phận tích các quy định pháp luật hiện hành
và nghiên cứu việc đƣa Tên địa danh kết hợp với đăng ký bảo hộ Chỉ dẫn địa lý, Tên thƣơng
Mại, Nhãn hiệu. Đối chiếu những quy định đó vào thực tiến tại Việt Nam để tìm ra những ƣu
điểm và nhƣợc điểm, từ đó đƣa ra một số đề xuất để hoàn thiện hơn về quy định cũng nhƣ
việc thực thi bảo hộ tên địa danh trong quyền SHCN tại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu những quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ Chỉ dẫn địa lý Nhãn
hiệu, Tên thƣơng mại;
- Tìm hiểu những quy định về Tên địa danh trong Sở hữu công nghiệp, kết hợp việc
bảo hộ Tên địa danh trong Chỉ dẫn địa lý, Nhãn hiệu, Tên thƣơng mại;
- Tìm hiểu thực trạng về sự lựa chọn của các doanh nghiệp trong việc bảo hộ Tên địa
danh trong Sở hữu công nghiệp tại Việt nam, một số tranh chấp về việc bảo hộ tên địa danh
và hƣớng giải quyết của các cơ quan hữu quan;
- Đƣa ra những kiến nghị bản thân với mong muốn hoàn thiện hơn quy định của pháp
luật về vấn đề bảo hộ tên địa danh trong Sở hữu công nghiệp, nâng cao nhận thức của các cá
nhân, tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp về bảo hộ tên địa danh trong quyền SHCN.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu là nền tảng cơ bản để xây dựng đề tài với nội dung và hình
thức một cách logic và khoa học, để giải quyết các vấn đề mà đề tài đặt ra.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt
Nam” tác giả chủ yếu sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách vở, phân


GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

6

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

tích, tổng hợp và so sánh những quy định của pháp luật có liên quan đến Tên địa danh và Sở
hữu công nghiệp mà chủ yếu là Chỉ dẫn địa lí, Nhãn hiệu và Tên thƣơng mại.
5. Kết cấu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và cụ
thể là về bảo hộ chỉ dẫn địa lí, nhãn hiệu và tên thƣơng mại, luận văn đƣợc xây dựng ngoài lời
mở đầu và kết luận, kết cấu gồm có 3 chƣơng:
Chương 1. Những vấn đề chung về bảo hộ tên địa danh theo quy định của quyền Sở
hữu công nghiệp
Chương 2. Bảo hộ tên địa danh trong Sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp
luật Việt Nam
Chương 3. Thực tiễn bảo hộ tên địa danh tại Việt Nam và một số đề xuất
Ngƣời viết xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến trƣớc hết là Thầy Th.s Nguyễn Phan Khôi
trong thời gian qua đã tận tình hƣớng dẫn, truyền đạt kiến thức để Ngƣời viết có thể hoàn
thiện Luận văn này. Sau nữa là gửi lời cảm ơn chân thành đến các Thầy, Cô Khoa Luật cùng
Gia đình và tập thể các bạn đã quan tâm, giúp đỡ. Vì thế Luận văn mới hoàn thành kịp thời
gian và đảm bảo tính chính xác. Tuy nhiên, do kiến thức của bản thân còn hạn hẹp nên không
tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý Thầy, Cô thông cảm và góp ý kiến để Luận văn
hoàn chỉnh hơn, cũng nhƣ giúp bản thân Ngƣời viết bổ sung thêm kiến thức.
Xin chân thành cảm ơn!

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi


7

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HỘ TÊN ĐỊA DANH THEO QUY ĐỊNH
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Trƣớc khi tim hiểu về vấn đề bảo hộ tên địa danh theo quy định quyền SHCN,
chúng ta nên tìm hiểu về khái niệm và một số vấn đề cơ bản về quyền SHCN. Một
câu hỏi đặt ra là: Tại sao phải có quyền SHCN? Trƣớc thập niên 90, khái niệm “tài
sản” đƣợc nhiều ngƣời biết đến chỉ bao gồm tiền tệ và vật chất. Trong nền kinh tế
hiện đại, nhiều quốc gia nhất là các quốc gia phát triển đang hƣớng tới một nền kinh
tế dựa trên tri thức (thông tin và công nghệ), do đó khái niệm này đƣợc thay đổi, “tài
sản” không chỉ là tiền, vàng, nhà xƣởng, xe cộ... mà nó bao gồm cả tài sản vô hình,
trong đó có tài sản trí tuệ.1
Tài sản trí tuệ là sản phẩm của óc con ngƣời, tri thức của nhân loại. Nếu nhƣ tài
sản hữu hình có thể bị bào mòn theo năm tháng, thì tài sản trí tuệ dƣờng nhƣ đƣợc
tích tụ nâng lên và phát huy mạnh mẽ khi đem ra sử dụng. Do đó, mỗi quốc gia cần
có trách nhiệm bảo hộ và phát huy tài sản trí tuệ của loài ngƣời. Nhu cầu bảo hộ
quyền SHCN xuất hiện cùng lúc với sự phát triển của giao lƣu thƣơng mại nhằm bảo
vệ quyền của chủ sở hữu đối với các đối tƣợng SHCN. Vấn đề bảo hộ quyền SHCN
vẫn không ngừng vận động và phát triển theo hƣớng mở rộng các quyền năng cho
chủ sở hữu , mở rộng phạm vi các đối tƣợng đƣợc bảo hộ. Vấn đề bảo hộ quyền
SHCN không chỉ là vấn đề riêng lẽ của từng quốc gia mà nó chính là vấn đề toàn cầu
trong bối cảnh tự do hóa, toàn cầu hóa thƣơng mại nhƣ hiện nay.
1.1. Khái quát chung về quyền Sở hữu công nghiệp

Pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các đối tƣợng dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ đã có trên thế giới từ rất lâu. Điều này xuất phát bởi vai trò đặc biệt
quan trọng của các đối tƣợng này đối với nền kinh tế.
Tại Pháp, năm 1857 Luật Nhãn hiệu đầu tiên đƣợc ban hành. Điều này dễ hiểu vì
Pháp là một trong những nƣớc đi đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp thời bấy giờ.
Các luật này chủ yếu nhằm vào việc bảo hộ việc khai thác các lợi ích kinh tế của thành
1

Mạng Thông tin Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Tài sản trí tuệ, công cụ hữu hiệu để
phát triển doanh nghiệp, Hoàng Tố Nhƣ (Phòng SHTT – Sở Khoa học & Công nghệ),
/>[ truy cập 10/02/2012]

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

8

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

quả sáng tạo mang lại. Sau Pháp, một loạt các nƣớc cũng ban hành luật nhãn hiệu
riêng của mình nhƣ: Italia (1868), Bỉ (1879). Nhu cầu bảo hộ các đối tƣợng SHCN
này, dƣới đòi hỏi do sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế và xu hƣớng hội nhập quốc tế
đã không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia, khu vực mà nó trở thành vấn đề toàn
cầu, thu hút sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới.2
Đến năm 1983, với sự ra đời của Công ƣớc Paris – một văn bản pháp luật quốc tế
đầu tiên về bảo hộ SHCN đánh dấu sự liên kết của các quốc gia trên thế giới cùng
quan tâm đến lĩnh vực này. Công ƣớc Paris đã tạo lập cơ sở chung nhất cho các thỏa
thuận đa phƣơng và song phƣơng khác về bảo hộ quyền SHCN. Tính đến tháng 10

năm 2011 đã có 173 quốc gia là thành viên của Công ƣớc này, trong đó Việt Nam
tham gia là thành viên từ năm 1949.
Theo công ƣớc Paris đối tƣợng quyền SHCN bao gồm sáng chế, nhãn hiệu hàng
hóa, kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn
nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Các quy
định của Công ƣớc Paris đề cập đến bốn vấn đề lớn là: Nguyên tắc đối xử quốc gia,
quyền ƣu tiên, một số nguyên tắc chung đối với hệ thống bảo hộ quyền SHCN mà các
nƣớc thành viên phải tuân thủ và các quy định về hành chính phục vụ cho việc thi
hành Công ƣớc.
Tiếp theo Công ƣớc Paris là Thỏa ƣớc Madrid năm 1891 về đăng ký quốc tế về
nhãn hiệu và Nghị định thƣ liên quan đến thỏa ƣớc năm 1989. Đến nay đã có khoảng
hơn bốn mƣơi nƣớc là thành viên của Thỏa ƣớc này. Năm 1981, Việt Nam cũng là
thành viên chính thức.
Ngày 27/10/1994, Hiệp ƣớc về Luật Nhãn hiệu (TLT) đƣợc thông qua. Hiệp
ƣớc TLT đƣợc ban hành để đơn giản hóa các thủ tục xin cấp phép, đăng ký và hài hòa
thủ tục đăng ký nhãn hiệu giữa các quốc gia khác nhau.
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thƣơng mại của quyền sở hữu trí tuệ
(gọi tắt là Hiệp định TRIPS) đã đƣợc ký kết ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực
ngày 01/01/1995 trong khuôn khổ các văn kiện của Tổ chức Thƣơng mại thế giới
(WTO).
Khác với các điều ƣớc đa phƣơng trƣớc đây về quyền sở hữu trí tuệ (SHTT),
mục đích chính của Hiệp định TRIPS là thông qua việc quy định những tiêu chuẩn,

2

TS. Lê Nết – Quyền sở hữu trí tuệ tài liệu bài giảng – Nxb Đại học quốc gia TPHCM – 2006.

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

9


SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

những biện pháp và thủ tục tối thiểu mà các nƣớc thành viên của Hiệp định phải có
nghĩa vụ tuân theo, từ đó thiết lập một khung pháp lý thống nhất, có hiệu quả trong
việc bảo hộ toàn diện trong việc bảo hộ quyền SHTT, trong đó có SHCN.
Cùng với sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nƣớc, hệ thống pháp luật về
bảo hộ SHCN của Việt Nam cũng có những bƣớc phát triển qua từng giai đoạn. Hệ
thống pháp luật SHCN ngày càng đƣợc hoàn thiện cả về chất lƣợng và số lƣợng.
Việt Nam đã gia nhập nhiều Công ƣớc quốc tế quan trọng về SHCN, cụ thể là: Năm
1976 tuyên bố thừa nhận Công ƣớc Paris về bảo hộ quyền SHCN và Thỏa ƣớc
Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa; Năm 1981 tuyên bố thừa nhận Công
ƣớc Stockholm về Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO); Năm 1993 chính thức
tham gia Hiệp ƣớc hợp tác sáng chế (PTC); Năm 1999 ký kết Hiệp định về bảo hộ sở
hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ với Liên bang Thụy Sĩ; Năm
2000, Hiệp định thƣơng mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã đƣợc ký kết, trong đó có một
chƣơng về sở hữu trí tuệ.3
* Giai đoạn trước 2005
Ngay từ những năm 1960, vấn đề bảo hộ quyền SHCN đã đƣợc Đảng và Nhà
nƣớc ta chú ý dƣới nhiều hình thức nhƣ động viện khuyến khích hoạt động sáng tạo,
phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật…Trong giai đoạn này, một số văn bản pháp luật
về khuyến khích sáng tạo đã đƣợc ban hành làm tiền đề cho hệ thống bảo hộ SHCN
của Việt Nam nhƣ: Thông tƣ 04/LĐTT ngày 8/3/1958 của Bộ Lao động quy định về
vấn đề khen thƣởng các tác giả sáng kiến cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh;
Nghị quyết số 175/TTg ngày 3/4/1958 của Thủ tƣớng Chính phủ quy định về nhãn
hiệu thƣơng phẩm. Tiếp theo đó là Nghị định số 31/NĐCP ngày 23/01/1981 đƣợc
sửa đổi bổ sung theo Nghị định số 84/HĐBT ngày 20/03/1990 của Hội đồng Bộ

trƣởng ban hành kèm theo Điều lệ và sáng kiến cải tiến kỹ thuật – hợp lý hóa sản
xuất và sáng chế; Nghị định 197/HĐBT ngày 14.12.1982 về bảo hộ nhãn hiệu hàng
hóa; Chỉ thị số 140/CT ngày 10/05/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng về việc
đẩy mạnh các hoạt động sáng kiến, sáng chế và sở hữu công nghiệp; Nghị định
85/HĐBT ngày 13/5/1988 về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp; Pháp lệnh về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp ngày 28/01/1989… Những văn bản nêu trên đã tạo đƣợc
một số cơ sở pháp lý nhất định cho sự phát triển của pháp luật SHCN nhằm đảm bảo
cho mỗi cá nhân, mỗi tổ chức cũng nhƣ toàn xã hội có thể sử dụng tốt hơn các thành
quả nghiên cứu, sáng tạo trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội.
3

TS. Lê Nết – Quyền sở hữu trí tuệ tài liệu bài giảng – Nxb Đại học quốc gia TPHCM – 2006.

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

10

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

Đồng thời để đáp ứng thực tiễn đặt ra trong thời kỳ đổi mới, ngày 28/10/1995,
Bộ luật Dân sự của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đƣợc Quốc hội
khóa IX, kỳ họp thứ 8 thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/1996. Bộ luật này đã
dành riêng hai chƣơng trong phần thứ sáu quy định về SHTT và nó trở thành cơ sở
pháp lý cao nhất, là nền tảng cho việc triển khai toàn diện hoạt động sở hữu trí tuệ,
trong đó có SHCN. Đây là mốc son quan trọng đánh dấu việc bắt đầu thiết lập một
hệ thống pháp luật hiện đại trong lĩnh vực này ở Việt Nam. Để cụ thể hóa các quy
định trên, cũng nhƣ nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các chủ thể tham gia

quá trình sáng tạo, tham gia hoạt động ứng dụng và khai thác các thành quả nghiên
cứu vào phát triển kinh tế - xã hội, hàng loạt các văn bản pháp luật đã đƣợc ban hành
để điều chỉnh các quan hệ SHCN. Những quy định về SHCN đƣợc quy định tại các
Điều 788 đến Điều 793 Bộ luật dân sự 1995, kèm theo đó là Nghị định số
12/1999/NĐ-CP ngày 06/3/1999 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực Sở hữu công nghiệp; Thông tƣ số 825/2000/TT-BKHCNMT ngày
03/5/2000 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng hƣớng dẫn thi hành Nghị
định số 12/1999/NĐ-CP ngày 06/3/1999 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp; Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 quy
định chi tiết về SHCN đƣợc sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 06/2001/CP ngày
1/2/2001; Luật Thƣơng mại năm 1997 (tại các Điều 135, 136 về chuyển giao công
nghệ trong gia công hàng hóa với thƣơng nhân nƣớc ngoài và trách nhiệm về sở hữu
công nghiệp đối với hàng hóa gia công) hƣớng dẫn chi tiết cụ thể hóa những quy
định này
* Giai đoạn sau 2005
Giai đoạn này đƣợc đánh giá là giai đoạn SHCN Việt Nam hƣớng tới một hệ
thống SHCN đầy đủ và hiệu quả. Đối với nƣớc ta, việc duy trì và xây dựng một hành
lang pháp lý hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế là việc làm cấp thiết, đồng
thời để đáp ứng đƣợc hai chuẩn mực lớn về nội dung bảo hộ (tính đầy đủ) và về hiệu
lực thực thi pháp luật (tính hiệu quả) là việc làm đòi hỏi một quá trình nghiên cứu và
làm việc lâu dài của các cơ quan Nhà nƣớc trong lĩnh vực SHTT.
Với việc Luật Sở hữu trí tuệ đƣợc Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006.
(Luật SHTT đƣợc thông qua bao gồm sáu phần, 18 chƣơng và 222 điều) đã giải
quyết đƣợc những thiếu sót mà những quy định trƣớc đây mắc phải, làm hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật bảo hộ của nƣớc ta, phù hợp với các thông lệ quốc tế, đáp

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

11


SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

ứng đƣợc nhu cầu phát triển của đất nƣớc. Và với vai trò quan trọng của mình, cùng
với sự cấp thiết của thực tiễn áp dụng, quy định chi tiết về quyền sở SHCN quy định
trong luật với năm chƣơng, từ chƣơng VII tới chƣơng XI với 99 Điều. Đây là phần
có khối lƣợng lớn các điều luật, điều chỉnh những nội dung quan trọng. Tiếp theo đó
là một loạt các văn bản dƣới luật nhƣ: Nghị định 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000
về bảo hộ SHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thƣơng mại và bảo hộ
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN; Nghị định
103/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số
điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp; Nghị định 106/2006/NĐ-CP ban
hành ngày 22/09/2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính về SHCN đƣợc thay thế
bởi NĐ 97/2010/NĐ-CP ban hành ngày 21/09/2010 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực SHCN; NĐ 122/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định
chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về SHCN.
Nhƣ vậy, với việc ban hành những quy định chi tiết, cụ thể, đƣợc điều chỉnh
bởi một luật chuyên ngành đã xác định đúng vị trí và vai trò của việc bảo hộ các
sáng tạo của con ngƣời, tạo điều kiện tốt nhất về mặt pháp lý để phát huy nguồn lực
chất xám của dân tộc. Ngoài ra, với việc bảo đảm hành lang pháp lý vững chắc phù
hợp với thông lệ và các quy định của quốc tế là tiền đề quan trọng cho quá trình hội
nhập kinh tế thế giới của nƣớc ta, giúp cho ta tiếp nhận những sáng chế công nghệ
hiện đại của các nƣớc tiên tiến trên thế giới, là điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng ta đã xác định.
1.1.3. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Khái niệm “Sở hữu công nghiệp” chỉ có ở các nƣớc theo hệ thống luật lục địa.

Các nƣớc theo hệ thống luật chung (Luật Anh-Mỹ) không sử dụng thuật ngữ “Sở hữu
công nghiệp” mà trực tiếp đề cập đến các đối tƣợng nhƣ sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, quyền chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy
vậy, phần lớn các nƣớc đều thống nhất với nhau về khái niệm các đối tƣợng đƣợc bảo
hộ dƣới dạng SHCN đƣợc quy định ở nhiều công ƣớc quốc tế nhƣ Công ƣớc Berne về
bảo hộ quyền tác giả, Công ƣớc Paris về bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp.
Theo quy định của Việt Nam và các công ƣớc quốc tế có liên quan “Quyền sở hữu
công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật
kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành
GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

12

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

mạnh”. Quyền SHCN bảo hộ quyền sử dụng độc quyền vì mục đích kinh tế và quyền
định đoạt của các chủ sở hữu các đối tƣợng SHCN.
Luật về SHCN bảo hộ nội dung ý tƣởng sáng tạo và uy tín kinh doanh. SHCN
không phải là một loại sở hữu có liên quan đến tài sản hữu hình dùng trong công
nghiệp mà là sở hữu đối với tài sản vô hình. Đó là sáng chế, giải pháp hữu ích,…Kể cả
những đối tƣợng mà chúng ta có thể tƣởng là tài sản hữu hình nhƣ kiểu dáng công
nghiệp hay nhãn hiệu hàng hóa cũng không phải là tài sản hữu hình. Cái mà pháp luật
hƣớng tới bảo vệ (khách thể) trong quan hệ pháp luật về SHCN không phải là kiểu
dáng hay một dấu hiệu gắn trên hàng hóa, mà là những đối tƣợng vô hình đứng đằng
sau kiểu dáng hay nhãn hiệu, là thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của
chủ sở hữu đối tƣợng đó.4

1.1.2. Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật sở hữu trí tuệ thì các đối tƣợng Sở hữu
công nghiệp đƣợc pháp luật bảo hộ bao gồm: Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thƣơng mại và chỉ
dẫn địa lý. Do đề tài tập trung nghiên cứu vào ba đối tƣợng của quyền Sở hữu công
nghiệp có liên quan nhiều đến việc bảo hộ tên địa danh là chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu và
tên thƣơng mại nên ở đây ngƣời viết chỉ nêu lên khái niệm và phân tích về các loại đối
tƣợng này.
1.1.2.1. Chỉ dẫn địa lý
Khi coi chỉ dẫn địa lý là một phạm trù của SHCN, điều quan trọng là cần
phân biệt chúng với nhãn hiệu hàng hóa. Trong khi nhãn hiệu hàng hóa dùng để
nhận biết sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp thì chỉ dẫn địa lý dùng để nhận biết
một khu vực địa lý mà về cơ bản gắn liền với chất lƣợng danh tiếng và những đặc
tính khác của sản phẩm.
“Chỉ dẫn địa lý” là thuật ngữ đã đƣợc các nƣớc trên thế giới sử dụng từ lâu,
Pháp chính là nơi mà Luật đầu tiên về bảo hộ chỉ dẫn địa lý đƣợc thông qua. Luật
ngày 06/05/1919 của Pháp đã đƣợc thông qua, trong đó quy định về một hình thức sở
hữu đặc biệt, đó là tên gọi xuất xứ hàng hóa. Theo đó, một tên gọi xuất xứ hàng hóa
bao gồm tên một nƣớc, một vùng hoặc khu vực chỉ ra sản phẩm có nguồn gốc tại đó,

4

TS. Lê Nết – Quyền sở hữu trí tuệ tài liệu bài giảng – Nxb Đại học quốc gia TPHCM – 2006. tr 23

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

13

SVTH: Lê Thúy Liễu



Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

chất lƣợng và đặc điểm của sản phẩm phụ thuộc vào môi trƣờng địa lý, gồm cả nhân
tố tự nhiên lẫn yếu tố con ngƣời.5
Tƣơng tự nhƣ vậy, theo Hiệp định TRIPS, chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu đƣợc sử
dụng trên sản phẩm để chỉ ra thông tin về nguồn gốc sản phẩm đƣợc tạo ra.
Tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 định nghĩa “chỉ dẫn địa lý là
dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lảnh thổ
hay quốc gia cụ thể”. Nhƣ vậy, cách lý giải của pháp luật Việt Nam về chỉ dẫn địa lý
cũng không có sự khác biệt nhiều so với các nƣớc trên thế giới.
Xem xét định nghĩa ta thấy có ba yếu tố cấu thành nên chỉ dẫn địa lý: Thứ nhất,
tên gọi phải là tên địa lý của một nƣớc, một khu vực, một địa phƣơng; Thứ hai là tên
chỉ dẫn địa lý giúp xác định xuất xứ của sản phẩm từ một nƣớc, một khu vực, một địa
phƣơng đƣợc đề cập tới và cuối cùng là phải có sự liên kết giữa chất lƣợng sản phẩm
và khu vực địa lý, chất lƣợng và các đặc tính phải đặc thù và cơ bản nhờ vào điều kiện
địa lý. Chính vì chỉ dẫn địa lý mang tính thông tin, tính thƣơng mại cao xuất phát từ
sự khác biệt tạo nên đặc thù của sản phẩm ở mỗi vùng, mỗi địa phƣơng hoặc quốc
gia nên nó đòi hỏi phải đƣợc bảo hộ cả cấp độ quốc gia và quốc tế.
* Phân biệt chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hóa.
Theo pháp luật quốc tế, chỉ dẫn địa lý (Geographical Indication) đƣợc hiểu là
tên gọi hoặc dấu hiệu đƣợc sử dụng cho một sản phẩm riêng biệt tƣơng ứng với một
vùng hoặc có nguồn gốc địa lý cụ thể (ví dụ: một thành phố, một vùng hoặc một đất
nƣớc). Sản phẩm mang nhãn hiệu của chỉ dẫn địa lý phải đạt đƣợc một số chất lƣợng
hoặc có đƣợc những danh tiếng nhất định nào đó nhờ nguồn gốc xuất xứ địa lý này.
Mức độ cao hơn của chỉ dẫn địa lý là tên gọi theo nguồn gốc xuất xứ, đó là
một loại đặc biệt của chỉ dẫn địa lý, đƣợc sử dụng với những sản phẩm có chất lƣợng
đặc biệt mà chất lƣợng này là duy nhất do môi trƣờng địa lý đã sản xuất ra sản phẩm
đó tạo ra. Khái niệm chỉ dẫn địa lý bao hàm cả tên gọi theo nguồn gốc xuất xứ. Công
ƣớc Paris về bảo hộ SHCN không đƣa ra khái niệm rõ ràng nhƣ thế nào là chỉ dẫn

địa lý, mà tại Khoản 2 Điều 1 xác định “chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ” là
đối tƣợng của SHCN.
Trƣớc đây, Việt Nam không sử dụng thuật ngữ chỉ dẫn địa lý mà sử dụng “tên
gọi xuất xứ hàng hóa”, Theo Điều 786 Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 (đƣợc thay
5

WIPO – Cẩm nang sở hữu trí tuệ - 2005, trang 122

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

14

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

thế bằng BLDS 2005) thì "Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của nước, địa
phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện
những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa
lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người, hoặc kết hợp cả hai yếu
tố đó." Đến khi Luật SHTT Việt Nam 2005 ra đời, khái niệm về đối tƣợng bảo hộ
này đã mở rộng hơn với tên gọi “chỉ dẫn địa lý”. Theo định nghĩa tại Điều 4 Luật sở
hữu trí tuệ Việt Nam thì “chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn
gốc từ khu vực, địa phương, vùng lảnh thổ hay quốc gia cụ thể”.
Về nguyên tắc xác lập quyền SHCN, trƣớc khi có Luật SHTT 2005, pháp luật
Việt Nam có sự phân biệt về phƣơng thức bảo hộ và nguyên tắc xác lập quyền giữa
chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ: Quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý đƣợc xác lập
theo nguyên tắc tự động theo Nghị định 54/2000/NĐ-CP; Quyền SHCN đối với tên
gọi xuất xứ hàng hóa đƣợc xác lập theo nguyên tắc đăng ký dựa trên cơ sở pháp lý là

Nghị định 63/1996/NĐ-CP. Việc quy định hai nguyên tắc khác nhau cho hai đối
tƣợng có nội hàm gần nhƣ giống nhau nhƣ vậy là không hợp lý. Luật SHTT 2005 ra
đời đã đƣa ra những quy định mới có sự thay đổi về nguyên tắc xác lập quyền đối
với chỉ dẫn địa lý nhằm khắc phục những bất cập trên, theo đó, chỉ dẫn địa lý đƣợc
bảo hộ trên nguyên tắc đăng ký, và cũng quy định thống nhất một hình thức đăng ký
là chỉ dẫn địa lý, không nhắc đến tên gọi xuất xứ hàng hóa.
Theo đó, chủ sở hữu của chỉ dẫn địa lý là Nhà nƣớc. Cá nhân, tổ chức đƣợc
Nhà nƣớc trao quyền thực hiện việc đăng ký chỉ dẫn địa lý không trở thành chủ sở hữu
chỉ dẫn địa lý đó. Chủ thể có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý là mọi tổ chức, các nhân
sản xuất hàng hóa mang chỉ dẫn đó tại địa điểm đƣợc chỉ dẫn, với điều kiện hàng hóa
do ngƣời đó sản xuất phải bảo đảm uy tín hoặc danh tiếng vốn có của địa phƣơng của
mình. Họ có quyền thể hiện chỉ dẫn địa lý đó trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, giấy tờ
giao dịch nhằm mua bán hàng hóa và quảng cáo cho hàng hóa tƣơng ứng. Quyền sử
dụng chỉ dẫn địa lý không đƣợc chuyển giao.
Bên cạnh những đối tƣợng chỉ dẫn địa lý đƣợc Nhà nƣớc ta bảo hộ thì cũng có
những đối tƣợng không đƣợc bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý. Cụ thể tại Điều 80
Luật sở hữu trí tuệ 2005 là: Tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa
Việt Nam; Chỉ dẫn địa lý của nƣớc ngoài mà tại nƣớc đó chỉ dẫn địa lý không đƣợc
bảo hộ, đã bị chấm dứt bảo hộ hoặc không còn sử dụng; Chỉ dẫn địa lý trùng hoặc
tƣơng tự với một nhãn hiệu đang đƣợc bảo hộ, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó
đƣợc thực hiện thì sẽ gây nhầm lẫn về nguồn gốc của sản phẩm; Chỉ dẫn địa lý gây

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

15

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam


hiểu sai lệch cho ngƣời tiêu dùng về nguồn gốc địa lý thực của sản phẩm mang chỉ
dẫn địa lý đó.
1.1.2.2. Nhãn hiệu hàng hóa
Nhãn hiệu hàng hóa là một thuật ngữ đã có từ lâu, nhƣng khái niệm về nó lại
chỉ mới đƣợc đƣa ra tại Khoản 1 Điều 15 Hiệp định TRIPS: “Bất kỳ một dấu hiệu
hoặc tổ hợp dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các
doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là
các từ kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình và sự kết hợp các sắc
màu cũng như tổ hợp của bất kỳ các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là
nhãn hiệu hàng hóa.”
Có thể thấy khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong Hiệp định TRIPS là tƣơng
đối khái quát và mang tính quy chuẩn. Theo đó, bất kỳ một dấu hiệu nào (kể cả màu
sắc, mùi vị…) miễn có thể là dấu hiệu để phân biệt đƣợc hàng hóa đều có thể coi là
nhãn hiệu hàng hóa. Đây cũng là cơ sở để các nƣớc tham khảo, trên cơ sở đó, theo
đặc thù của từng quốc gia có thể đƣa ra những khái niệm riêng trong pháp luật của
quốc gia mình. Bởi vậy, trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, chúng ta có
thể bắt gặp các khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa khác nhau.
Theo Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng
để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, các nhân khác nhau”. Ngoài nhãn
hiệu hàng hóa, dịch vụ, còn có các loại nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn
hiệu liên kết, nhãn hiệu nổi tiếng. Đây cũng là cách tiếp cận đƣợc lựa chọn tại Mục 1
(1) (a) của Luật Mẫu WIPO về nhãn hiệu hàng hóa, tên thƣơng mại, cạnh tranh không
lành mạnh cho các nƣớc phát triển năm 1967.
Cần lƣu ý phân biệt giữa nhãn hiệu và thƣơng hiệu: "Thƣơng hiệu - theo định
nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) - là một dấu hiệu (hữu hình và vô
hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm hàng hoá hay một dịch vụ nào đó đƣợc sản
xuất hay đƣợc cung cấp bởi một cá nhân hay một tổ chức."
Hiện nay, tại Việt Nam chƣa có định nghĩa về thƣơng hiệu mà chỉ đƣa ra
định nghĩa về nhãn hiệu, do đó chỉ có nhãn hiệu mới là đối tƣợng đƣợc bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Trong khi đó, theo hệ thống luật Anh Mỹ, thƣơng
hiệu có thể đƣợc bảo hộ và ngƣời chủ sở nhãn hiệu đã đăng kí sẽ có quyền kiện bất
cứ ai xâm phạm đến thƣơng hiệu của mình.

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

16

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

Thời gian qua, mặc dù đã có rất nhiều những trao đổi và tranh luận trên các
diễn đàn khác nhau về thuật ngữ “thƣơng hiệu”, nhƣng xem ra dƣờng nhƣ vẫn chƣa
có đƣợc một cách hiểu thống nhất về thuật ngữ này. Nhiều ngƣời vẫn cho rằng việc
sử dụng thuật ngữ thƣơng hiệu chỉ là cách nói "dân dã", còn chính thức phải gọi là
nhãn hiệu hàng hóa.6 Thực ra, có thể nói thƣơng hiệu rộng hơn nhãn hiệu , đó không
chỉ đơn thuần là các dấu hiệu phân biệt hàng hoá, dịch vụ mà cao hơn nhiều đó là
hình ảnh về hàng hoá hoặc hình tƣợng về doanh nghiệp trong tâm trí của khách
hàng, gắn liền với chất lƣợng hàng hoá và phong cách kinh doanh, phục vụ của
doanh nghiệp. Một nhà sản xuất thƣờng đƣợc đặc trƣng bởi một thƣơng hiệu, nhƣng
ông ta có thể có nhiều nhãn hiệu hàng hóa khác nhau. Ví dụ, Toyota là một thƣơng
hiệu, nhƣng đi kèm theo có rất nhiều nhãn hiệu hàng hóa nhƣ Innova, Camry…7
Một thuật ngữ khác mà nhiều ngƣời vẫn nhầm lẫn với “nhãn hiệu hàng hóa”
là “nhãn hàng hóa”. Thật ra đây là hai đối tƣợng hoàn toàn khác nhau.
“Nhãn hàng hóa”, theo Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm
2006 của Thủ tƣớng Chính phủ thì nhãn hàng hóa không phải là đối tƣợng của
SHCN, không đƣợc bảo hộ, không phải đăng ký mà chỉ công bố. Cũng theo giải
thích tại Nghị định này thì “nhãn hàng hóa là bản viết, bản in, bản vẽ, bản chụp của

chữ, hình vẽ, hình ảnh được dán, in, đính, đúc, chạm, khắc trực tiếp trên hàng hoá,
bao bì thương phẩm của hàng hoá hoặc trên các chất liệu khác được gắn trên hàng
hoá, bao bì thương phẩm của hàng hoá.” Nhãn hàng hóa dùng cho từng loại hàng
hoá, lô, loạt hàng hoá khác nhau thì cũng khác nhau. Tức là, mỗi một sản phẩm đều
có nhãn hàng hoá riêng của mình. Về thực chất, nhãn hàng hoá cũng chính là nhãn
sản phẩm vẫn đƣợc dùng trong đăng ký chất lƣợng sản phẩm.8
Nhƣ vậy, về bản chất “nhãn hàng hoá” chỉ thực hiện chức năng thông tin về
hàng hoá cho ngƣời tiêu dùng; còn “nhãn hiệu hàng hoá” hay dịch vụ nhƣ đã giải
thích ở phần trên, lại thực hiện chức năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại từ
các nhà sản xuất khác nhau và có giá trị nhƣ một tài sản nếu đƣợc đăng ký bảo hộ.
Ngoài nhãn hiệu hàng hóa và dịch vụ, nhãn hiệu còn đƣợc phân biệt thành nhiều
loại.
6

Chìa khóa lƣu trữ và ứng dụng, Phân biệt “Thƣơng hiệu (Brand)” và “Nhãn hiệu ( Trademake)”,
[truy cập ngày 01/02/2012]
7
Thông tin pháp luật dân sự, Thương hiệu và Nhãn hiệu, Hoàng Trang (sƣu tầm),
Ngày truy cập: [15/04/2012]
8
Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk, Liên kết doanh nhân Việt, Kim Ca,
/>C3%ADKHCN/T%E1%BA%ADpsans%E1%BB%91022007/tabid/150/ctl/Details/mid/595/ItemID/238/
Default.aspx, [Ngày truy cập 17/04/2012]

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

17

SVTH: Lê Thúy Liễu



Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu đƣợc tập thể các cá nhân, pháp nhân hoặc các
chủ thể khác nhau cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử dụng một cách độc lập
theo quy chế do tập thể đó quy định. Ví dụ nhãn hiệu tập thể “Rƣợu Bàu Đá” Bình
Định đƣợc cấp cho Hiệp hội Sản xuất và Kinh doanh rƣợu Bàu Đá tỉnh Bình Định.
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu để chỉ hàng hóa hoặc dịch vụ đặc biệt đáp
ứng một số tiêu chuẩn nhất định. Cụ thể là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho
phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của cá nhân đó để chứng
nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách
thức cung cấp dịch vụ, chất lƣợng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác
của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.9 Nó có thể đƣợc cấp cho bất cứ ai bảo đảm
rằng sản phẩm của họ đáp ứng đƣợc những tiêu chuẩn đó. Tiêu chuẩn chất lƣợng ISO
9000 đƣợc công nhận trên toàn thế giới là một ví dụ cho loại nhãn hiệu này.
Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc
tƣơng tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tƣơng tự nhau hoặc có liên
quan với nhau.
Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu đƣợc ngƣời tiêu dùng biết đến rộng rãi trên
toàn lảnh thổ Việt Nam. Ví dụ nhãn hiệu P/S cho kem đánh răng P/S, nhãn hiệu G7
cho cà phê G7.
Theo mục đích của nhãn hiệu hàng hóa, hầu nhƣ bất kỳ dấu hiệu nào có khả
năng phân biệt hàng hóa này với hàng hóa khác đều có thể dùng làm nhãn hiệu hàng
hóa. Bởi vậy, tại Điều 72 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam không đƣa ra một danh sách
đầy đủ nhất về các dấu hiệu có thể đăng ký, nếu ta tuân thủ một cách chặt chẽ nguyên
tắc phân biệt hàng hóa của doanh nghiệp này với sản phẩm của doanh nghiệp khác thì
các kiểu và loại sau đây đƣợc xem xét. Cụ thể là:
+ Từ ngữ: Nhóm này bao gồm tên công ty, họ, tên gọi, tên địa lý và các từ bất
kỳ hoặc chuỗi từ và các khẩu hiệu;10
+ Chữ cái và số: Ví dụ nhƣ một chữ cái hoặc nhiều chữ cái, một số hoặc nhiều

con số, hoặc sự kết hợp của cả chữ cái và số;
+ Các yếu tố hình họa: Bao gồm các hình không tả thực, các hình vẽ, các biểu
tƣợng và cả sự thể hiện trong không gian hai chiều của hàng hóa và bao bì;
9

Khoản 18 Điều 4 Luật SHTT 2005
Điều 4, Điều 72 Luật SHTT 2005, sửa đổi bổ sung 2009.

10

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

18

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

Một dấu hiệu muốn đƣợc coi là nhãn hiệu hàng hóa phải đáp ứng đƣợc các điều
kiện cụ thể về mặt hình thức và nội dung. Để có thể đƣợc đăng ký bảo hộ, nhãn hiệu
đó phải có chức năng cơ bản là phải có khả năng phân biệt với các loại hàng hóa khác
– Tức là nhãn hiệu đƣợc tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ.
Nhãn hiệu sẽ không đƣợc bảo hộ nếu có dấu hiệu trùng hoặc tƣơng tự gây nhầm lẫn,
làm ảnh hƣởng đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội. Thƣờng thì ngƣời nộp đơn
không cần chứng minh khả năng phận biệt, cơ quan đăng ký sẽ chứng minh việc này
và trong trƣờng hợp có lƣỡng lự thì nhãn hiệu đó vẫn đƣợc đăng ký bảo hộ nếu sau
khi đã thẩm định hình thức và nội dung cùng với việc tra cứu của cơ quan có thẩm
quyền.
1.1.2.3. Tên thương mại

“Tên thƣơng mại” là khái niệm đƣợc sử dụng chính thức lần đầu tiên trong
Luật Thƣơng mại Việt Nam, nhƣng chƣa có định nghĩa rõ ràng. Từ các quy định tại
Điều 24 Luật Thƣơng mại năm 1997 (đƣợc thay thế bằng Luật Thƣơng mại 2005 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006) có thể hiểu một cách chung nhất: Tên thƣơng
mại là tên giao dịch của chủ thể hoạt động trong lĩnh vực thƣơng mại, tức là thực
hiện các hành vi nhƣ: Mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thƣơng mại, hoạt động
xúc tiến thƣơng mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách
kinh tế xã hội. Đến khi Luật SHTT 2005 ra đời đã đƣa ra định nghĩa “Tên thương
mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ
thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và
khu vực kinh doanh.” (Khoản 21 Điều 4 Luật SHTT 2005). Nhƣ vậy, tên thƣơng mại
dùng để chỉ doanh nghiệp chứ không phải sản phẩm hay dịch vụ mà doanh nghiệp đó
cung cấp.
Khả năng phân biệt của tên thƣơng mại đƣợc hiểu là tên thƣơng mại đó phải:
Chứa thành phần tên riêng, trừ trƣờng hợp đã đƣợc biết đến rộng rãi qua sử dụng;
Không trùng hoặc tƣơng tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thƣơng mại mà ngƣời khác
đã sử dụng trƣớc trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh; Không trùng hoặc tƣơng
tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của ngƣời khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã
đƣợc bảo hộ trƣớc ngày tên thƣơng mại đó đƣợc sử dụng. Nhƣ vậy, tên riêng đó có thể
là tên một địa danh nhƣ Cà Mau, Long An, Bến Tre...miễn là nó đáp ứng đƣợc những
điều kiện mà pháp luật quy định
Khả năng phân biệt trong ngữ cảnh này nghĩa là công chúng tiêu dùng công
nhận tên thƣơng mại đó nhƣ một dẫn chiếu tới một nguồn gốc kinh doanh đặc biệt.
GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

19

SVTH: Lê Thúy Liễu



Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

Quyền sở hữu công nghiệp với tên thƣơng mại thuộc về ngƣời sử dụng tên thƣơng mại
và đƣợc pháp luật bảo hộ mà không cần phải đăng ký.
Bên cạnh đó, theo Điều 77 Luật sở hữu trí tuệ 2005 có những đối tƣợng không
đƣợc bảo hộ với danh nghĩa tên thƣơng mại, đó là: Tên của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp hoặc chủ thể khác không liên quan tới hoạt động kinh
doanh. Tên thƣơng mại chủ yếu sử dụng trong lĩnh vực kinh doanh. Nó đƣợc bảo hộ
nhằm tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Tên của các cơ quan Nhà nƣớc
không thể lấy đặt cho tên thƣơng mại. Hơn nữa, trong những đối tƣợng không đƣợc
bảo hộ nêu trên lại không hề đề cập đến tên địa danh, nhƣ vậy càng khẳng định doanh
nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng tên địa danh để dùng cho tên thƣơng mại của mình.
Chủ sở hữu quyền SHCN đối với tên thƣơng mại có quyền sử dụng tên thƣơng
mại vào mục đích kinh doanh bằng cách dùng tên thƣơng mại để xƣng danh trong các
hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thƣơng mại đó trong các giấy tờ giao dịch, hàng
hóa, bao bì hàng hóa và quảng cáo. Chủ sở hữu quyền SHCN đối với tên thƣơng mại
có quyền chuyển giao tên thƣơng mại theo hợp đồng hoặc thừa kế cho ngƣời khác với
điều kiện việc chuyển giao phải đƣợc tiến hành cùng với toàn bộ cơ sở kinh doanh và
hoạt động kinh doanh dƣới tên thƣơng mại đó.
1.2. Khái quát chung về bảo hộ tên địa danh trong sở hữu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm tên địa danh
Địa danh hay Tên địa lý (geographical name) đƣợc hiểu là tên gọi các đối
tƣợng địa hình khác nhau đƣợc con ngƣời đặt ra nhƣ tên vùng, tên sông, tên núi, tên
đảo, tên một quốc gia, một châu lục, một đại dƣơng… Địa danh chứa những thông tin
về tinh thần, văn hóa, xã hội, lịch sử, ngôn ngữ và chính trị. Qua những thông tin đó
có thể nhận ra những đặc trƣng về thiên nhiên, xã hội trong quá khứ và hiện tại của
những nơi có ngƣời cƣ trú và cả những sa mạc, biển khơi không có ngƣời cƣ trú. Địa
danh của dân tộc, quốc gia nào thông thƣờng đƣợc đặt tên bằng ngôn ngữ của dân tộc,
quốc gia đó. Vì mục đích định danh nên thƣờng các tên địa danh không trùng nhau để

dễ dàng phân biệt các đối tƣợng địa hình, sông này với sông kia, khu vực này với khu
vực nọ. Nƣớc Việt Nam có 54 dân tộc cùng chung sống, vì thế địa danh khắp nơi
trong nƣớc thể hiện đa dạng về ngôn ngữ của chừng ấy dân tộc.11
11

Sông Thơ – songtho.net, Hồn cốt địa danh Việt, Phan Thanh Minh, [Ngày truy cập 16/04/2012]

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

20

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

1.2.2. Trên Thế giới
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chƣa có quy định riêng biệt
đặc thù về bảo hộ tên địa danh, mà chúng chủ yếu đƣợc bảo hộ chung trong bảo hộ chỉ
dẫn địa lý (tên gọi xuất xứ hàng hóa). Chỉ dẫn địa lý đƣợc bảo hộ trong phạm vi quốc
gia hoặc quốc tế dƣới nhiều hình thức khác nhau mang đặc thù riêng tùy theo quy
định của từng quốc gia. Một số nguyên tắc bảo hộ phổ biến nhƣ : Bảo hộ theo nguyên
tắc đặc thù, bảo hộ theo nguyên tắc đăng ký chỉ dẫn địa lý theo quy định của Luật
nhãn hiệu hàng hóa. Một số nƣớc thực hiện việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo quy định
của Luật nhãn hiệu hàng hóa nhƣ Hoa Kỳ, Nhật…
Công ƣớc Paris về bảo hộ SHCN quy định tại Điều 1 các đối tƣợng bảo hộ
SHCN bao gồm patent, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa,
nhãn hiệu dịch vụ, tên thƣơng mại, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ, và chống
cạnh tranh không lành mạnh. Bên cạnh đó công ƣớc cũng quy định rõ SHCN phải
đƣợc hiểu theo nghĩa rộng nhất, không chỉ áp dụng cho công nghiệp và thƣơng mại

theo đúng nghĩa của chúng mà cho cả các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp
khai thác và tất cả các sản phẩm chế biến hoặc sản phẩm tự nhiên nhƣ rƣợu vang , ngũ
cốc, lá thuốc lá, hoa quả, gia súc, khoáng sản, nƣớc khoáng, bia, hoa và bột. Nhƣ vậy,
Công ƣớc không liệt kê rõ tên địa danh là đối tƣợng đƣợc bảo hộ quyền SHCN nhƣng
nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất thì những sản phẩm hành hóa và dịch vụ đƣợc nhắc đến
trên đây đa phần đều liên quan đến tên địa danh khi đƣợc tiến hành bảo hộ.
Hiệp định TRIPS – Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thƣơng mại của
quyền SHTT là một trong những Điều ƣớc quốc tế đƣợc xem là có những tiến bộ
trong việc quy định những tiểu chuẩn bảo hộ cụ thể đối với các đối tƣợng của quyền
SHCN và đƣợc xem là mở rộng nhất so với quy định của các Điều ƣớc quốc tế khác,
nhƣng vẫn phù hợp với quy định bảo hộ của Công ƣớc Paris và các Điều ƣớc quốc tế
khác. Theo Hiệp định, ngoài việc ghi nhận tên địa danh đƣợc đăng ký trong chỉ dẫn
địa lý, còn quy định thêm “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả
năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch
vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hoá”. Theo đó, dấu
hiệu có thể là tên riêng (tên địa danh) đều có thể đƣợc bảo hộ miễn là có khả năng có
thể đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa.
Trong khuôn khổ thực thi nghĩa vụ pháp lý quốc tế theo Hiệp định TRIPS, Hoa
Kỳ đã lựa chọn mô hình bảo hộ chỉ dẫn địa lý cũng nhƣ tên địa danh thông qua hệ

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

21

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

thống pháp luật hiện hành về nhãn hiệu với các sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với

các quy định tối thiểu của Hiệp định này.
Theo đó, tên địa danh có thể đƣợc bảo hộ theo ba cách: bảo hộ dƣới dạng
nhãn hiệu thông thƣờng, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể, trong đó nhãn
hiệu chứng nhận là hình thức pháp lý đƣợc xem là phù hợp nhất với tên địa danh. Một
yêu cầu chung đối với nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc xuất xứ là khi đăng ký phải
xác định rõ khu vực sản xuất. Ví dụ, nhãn hiệu chứng nhận Parmigiano Reggiano để
chỉ loại pho mát “có nguồn gốc từ khu vực Parma Reggio của Italy, bao gồm các vùng
Parma, Reggio Emilia, Modena và Mantua bên phải dòng sông Po và Bologne, bên
trái sông Reno”. Hay Swiss là nhãn hiệu chứng nhận sử dụng cho sô cô la và các sản
phẩm làm từ sô cô la đƣợc sản xuất tại Thụy Sĩ. Tuy nhiên, bên cạnh việc chứng nhận
nguồn gốc xuất xứ, nhãn hiệu chứng nhận còn xác nhận chất lƣợng hoặc đặc tính của
sản phẩm. Ví dụ Roquefort là nhãn hiệu chứng nhận cho các sản phẩm pho mát làm
duy nhất từ sữa cừu và đƣợc lên men tự nhiên trong các hầm của làng Roquefort, quận
Aveyron, Pháp.12 Các dấu hiệu đăng ký làm nhãn hiệu chứng nhận không giới hạn chỉ
ở các tên địa lý. Một tên không chính thức của địa danh, tên viết tắt, thậm chí những
dấu hiệu gián tiếp đều có thể đƣợc sử dụng nhƣ hoặc trong một nhãn hiệu chứng nhận
nguồn gốc địa lý. “Idaho”, “Idaho Prefered Idaho”, “Idaho Potatoes Grown in
Idaho”, “Grown in Idaho” là những ví dụ về nhãn hiệu chứng nhận đƣợc đăng ký bảo
hộ cho táo và các sản phẩm từ táo đƣợc trồng ở vùng Idaho, Hoa Kỳ. Nhƣ vậy, với
quy định nhƣ Hoa Kỳ thì tên địa danh có thể đƣợc bảo hộ trong hệ thống luật nhãn
hiệu hàng hóa. Nếu tên địa danh đó đƣợc đăng ký trong nhãn hiệu chứng nhận để xác
định rõ khu vực sản xuất thì bắt buộc đó phải là tên địa danh đƣợc xác định trên bản
đồ; Nhƣng nếu việc đăng ký bảo hộ tên địa danh thông qua nhãn hiệu thông thƣờng
thì không nhất thiết đó phải là một tên địa danh chính thức có tên trên bản đồ thế giới,
mà có thể là tên một vùng, miền đƣợc biết đến ở phạm vi địa phƣơng hoặc những địa
danh đã đƣợc thay đổi với những cái tên mới nhƣng những cái tên trƣớc đó vẫn đƣợc
nhiều ngƣời biết và nhắc đến.
Bảo hộ tên địa danh theo các nguyên tắc của luật Nhãn hiệu ít đòi hỏi sự tham
gia của các tổ chức công, các cơ quan hành chính trong quá trình thiết lập, quản lý mà
chủ yếu là xuất phát từ các tổ chức tƣ nhân.

12

Diễn đàn Luật học, Bảo hộ chỉ dẫn địa lý dưới hình thức nhãn hiệu chứng nhận của Hoa Kỳ,
[Ngày truy
cập 04/02/2011]

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

22

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

Một số nƣớc bảo hộ chỉ chỉ dẫn địa lý dựa trên những quy định riêng biệt về
ranh giới địa lý, tiêu chuẩn chất lƣợng, cơ chế kiểm soát dành cho đối tƣợng này nhƣ
Pháp, Bồ Đào Nha, Thụy Sĩ, Ý… Pháp là nơi đầu tiên có Luật về bảo hộ chỉ dẫn địa
lý, trong đó có những quy định riêng, đặc thù dành cho tên gọi xuất xứ hàng hóa. Nhƣ
vậy, nếu thực hiện bảo hộ tên địa danh theo hình thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý này thì sẽ
có phạm vi quyền rộng hơn, yêu cầu điều kiện bảo hộ khắc khe hơn các hình thức bảo
hộ khác. Chính vì vậy mà việc thực thi cũng đạt hiệu quả hơn.
Ngoài ra, một số nƣớc cũng áp dụng hình thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong đó
có tên địa danh theo quy định của luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Đây là hình
thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý đầu tiên, nó là hình thức bảo hộ rất phát triển trƣớc đây và
đƣợc quốc tế chấp nhận nhiều nhất. Bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo hình thức này là ngăn
cấm việc sử dụng các chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm hàng hóa không có nguồn gốc từ
khu vực địa lý tƣơng ứng hoặc sử dụng các chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm gây nhầm lẫn
về nguồn gốc, xuất xứ. Nếu bảo hộ theo hình thức này thì sẽ có nhiều tên địa danh
đƣợc bảo hộ, tuy nhiên nó không đảm bảo thực thi hiệu quả vì nó không có các quy

định riêng về yêu cầu tiêu chuẩn, chất lƣợng của hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý.
Các hình thức có thể bảo hộ tên địa danh nói trên đều có những ƣu điểm và
hạn chế riêng. Tùy theo đặc điểm của từng quốc gia mà có cách tiếp cận theo các
hình thức khác nhau. Xu hƣớng chung ngày nay là hầu hết các nƣớc đều xây dựng,
thiết lập hình thức bảo hộ đặc thù để đảm bảo khai thác tốt nhất lợi ích, hiệu quả của
hệ thống bảo hộ chỉ dẫn địa lý, trong đó phần lớn là tên địa danh. Có nhiều nƣớc tiếp
cận bảo hộ tên địa danh theo hƣớng tổng hợp hoặc dung hòa cả ba hình thức nói
trên.
1.2.3. Tại Việt Nam
Cũng tƣơng tự nhƣ các nƣớc trên thế giới, tại Việt Nam hiện nay pháp luật
vẫn chƣa có quy định riêng biệt về bảo hộ tên địa danh, mà chỉ có quy định về bảo
hộ chỉ dẫn địa lý, trong đó có nguồn gốc xuất xứ có thể hiểu nhƣ một cách để bảo hộ
tên địa danh, ngoài ra tên địa danh còn có thể bảo hộ thông qua các đối tƣợng bảo hộ
khác trong SHCN nhƣ nhãn hiệu, tên thƣơng mại. Ngoài ra, theo những quy định
đặc thù của Việt Nam thì hình thức bảo hộ tên địa danh trong chỉ dẫn địa lý, nhãn
hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận thƣờng đƣợc lựa chọn hơn các đối tƣợng khác,
bởi nó có vẻ phù hợp và gần gũi hơn. Bởi vì đối tƣợng bảo hộ của nhãn hiệu tập thể
thƣờng là những nông sản, đặc sản ở địa phƣơng; Nhãn hiệu chứng nhận thì bắt buộc
phải có yếu tố “đặc tính về xuất xứ” và chỉ dẫn địa lý là để chỉ nguồn gốc xuất xứ
GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

23

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

của sản phẩm từ địa phƣơng, khu vực hay một quốc gia. Nhìn chung, khi tiến hành
bảo hộ dƣới các hình thức này luôn gắn liền với yếu tố địa danh. Nƣớc ta hiện nay có

rất nhiều thƣơng hiệu, sản phẩm gắn liền với những địa danh nổi tiếng (trong đó có
cả địa danh hành chính và những địa danh không phải địa giới hành chính nhƣng có
tên gọi quen thuộc từ lâu đời) nhƣ: Rƣợu bia Bến Thủy (Vinh); Trà đen Cầu Đất (Đà
Lạt); Xi măng Hà Tiên; Nƣớc mắm Phú Quốc; Xi măng Tây Đô…Nhƣng số lƣợng
sản phẩm đƣợc bảo hộ quyền SHCN trong số đó lại không nhiều, đặc biệt là bảo hộ
tên địa danh dƣới dạng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý hay tên thƣơng mại. Nguyên nhân
chủ yếu là do những quy định về bảo hộ quyền SHCN chỉ đƣợc chú trọng ở nƣớc ta
vào những năm gần đây nên việc thực thi vẫn còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, sự
hiểu biết của các doanh nghiệp về tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền SHCN vẫn
chƣa cao cũng nhƣ chƣa có sự hiểu biết nhất định về các đối tƣợng có thể đƣợc bảo
hộ quyền SHCN để đƣa ra cho mình sự lựa chọn đúng đắn. Vì thế, mặc dù có nhiều
doanh nghiệp tạo đƣợc danh tiếng trên thị trƣờng, đƣợc nhiều ngƣời biết đến rộng rãi
nhƣng việc bảo hộ cho sản phẩm hay dịch vụ của họ vẫn chƣa đƣợc thực hiện sát
sao. Điều đó dẫn đến hệ quả là có những doanh nghiệp nhiều lần phải điêu đứng vì
đứng trƣớc nguy cơ bị mất thƣơng hiệu cả trong và ngoài nƣớc do bị các doanh
nghiệp khác đăng ký bảo hộ những sản phẩm tƣơng tự.
1.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ tên địa danh trong SHCN
Với vai trò quan trọng không chỉ đối với nhà sản xuất, kinh doanh, ngƣời tiêu
dùng, mà còn cả với sự phát triển của nền kinh tế, của đất nƣớc ta, việc bảo hộ quyền
SHCN đối với các đối tƣợng nhãn hiệu, tên thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý có ý nghĩa vô
cùng to lớn, đặc biệt khi đƣợc đánh giá từ góc độ bảo hộ tên địa danh. Cụ thể nhƣ sau:
- Trƣớc hết, việc bảo hộ tên địa danh trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn
hiệu, tên thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý sẽ dễ dàng tạo đƣợc danh tiếng của các cá nhân,
các nhà sản xuất, doanh nghiệp trên thị trƣờng hoạt động bởi các tên địa danh vốn đã
đƣợc nhiều ngƣời biết đến rộng rãi từ lâu đời, dễ đi sâu vào tiềm thức của ngƣời tiêu
dùng. Từ đó, đòi hỏi họ phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu sáng tạo và áp dụng các
kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới, thu hút đƣợc ngƣời tiêu
dùng bằng con đƣờng cạnh tranh lành mạnh hợp pháp. Đồng thời, đó cũng là cách để
buộc các nhà sản xuất, kinh doanh thực hiện những cam kết về uy tính, chất lƣợng sản
phẩm, dịch vụ của mình đối với ngƣời tiêu dùng và với toàn xã hội.

- Bảo hộ tên địa danh trong SHCN, đặc biệt là chỉ dẫn địa lý liên quan đến lợi ích
quốc gia và có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển sản xuất đặc sản mà chẳng nơi nào
GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

24

SVTH: Lê Thúy Liễu


Bảo hộ tên địa danh theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

có đƣợc, nhiều địa danh của Việt Nam sẽ đƣợc bạn bè nhiều nơi trên thế giới biết đến
với những đặc sản nổi tiếng, mang tính đặc thù riêng biệt mà không một nơi nào khác
trên thế giới có thể có đƣợc, góp phần nâng cao giá trị tài sản quốc gia, ví dụ bƣởi
Năm roi Vĩnh Long, nƣớc mắm Phú Quốc…Bên cạnh đó, việc bảo hộ còn giúp phát
triển các ngành nghề truyền thống, phát triển nông nghiệp, nông thôn, giúp giải quyết
việc làm, hạn chế những lao động rỗi nghề ở địa phƣơng, là một trong những yếu tố
ổn định và phát triển nền kinh tế. Hơn nữa, bản sắc dân tộc của Việt Nam ta cũng
đƣợc giữ gìn và khẳng định thông qua các địa danh nổi tiếng với những sản phẩm
mang đậm giá trị truyền thống nhƣ nón lá Huế, gốm Bát Tràng…
- Nƣớc ta đang trong quá tình hòa nhập với xu thế toàn cầu hóa tiến tới thƣơng
mại tự do hơn, và để khuyến khích đầu tƣ chuyển giao công nghệ, việc bảo hộ quyền
SHCN cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong đó, có thể thấy việc bảo hộ tên địa
danh trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu, tên thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý là
biện pháp tích cực khuyến khích đầu tƣ nƣớc ngoài. Các nhà đầu tƣ sẽ yên tâm hơn
nếu họ đƣợc tạo điều kiện thuận lợi và có cơ sở pháp lý vững chắc, an toàn khi đầu tƣ
vào Việt Nam dƣới một tên thƣơng mại đƣợc bảo hộ hay hàng hóa, dịch vụ dƣới một
nhãn hiệu , một chỉ dẫn địa lý đƣợc công nhận. Đặc biệt là khi những dịch vụ, hàng
hóa đó mang những nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý dƣới tên một địa danh của Việt Nam thì
sẽ càng tạo đƣợc sự riêng biệt của những hàng hóa đó và dễ dàng nhận biết hơn khi

hàng hóa Việt Nam đƣợc xuất ra nƣớc ngoài hoặc các dịch vụ đƣợc giới thiệu đến bạn
bè quốc tế.
- Bảo hộ tên địa danh trong SHCN đối với các đối tƣợng này còn có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời tiêu dùng, bởi vai trò của các đối tƣợng
này chính là giúp cho ngƣời tiêu dùng chọn lựa sản phẩm, dịch vụ phù hợp giữa các
nhóm sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Chúng là những yếu tố giúp ngƣời tiêu dùng có
đƣợc tâm lý an tâm, tránh bị lừa dối hoặc nhầm lẫn khi lựa chọn sản phẩm, dịch vụ,
nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà hàng nhái, hàng giả tràn lan trên thị trƣờng và
ngay cả các cơ quan chức năng cũng khó mà phát hiện ra.
Tuy rằng mang những ý nghĩa hết sức quan trọng nhƣ vậy, nhƣng việc bảo hộ tên
địa danh trong SHCN vẫn còn mơ hồ đối với đối với các cơ sở sản xuất và doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ, hàng hóa có nhu cầu bảo hộ quyền SHCN. Bên cạnh đó,
Nhà nƣớc ta cũng chƣa có những quy định riêng biệt dành cho đối tƣợng này nên việc
thực thi vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Để làm rõ về việc bảo hộ tên địa danh trong
SHCN nhƣ thế nào cũng nhƣ cách thức bảo hộ và những ƣu, khuyết điểm của chúng

GVHD: Th.s. Nguyễn Phan Khôi

25

SVTH: Lê Thúy Liễu


×