Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại địa vị PHÁP lý của đại DIỆN và NGƯỜI đại DIỆN PHẦN vốn góp của NHÀ nước tại các DOANH NGHIỆP KHÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.17 KB, 92 trang )

Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
Bộ Môn Luật Kinh doanh thương mại

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 31 (2005-2009)

Đề tài:
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐẠI DIỆN VÀ
NGƯỜI ĐẠI DIỆN PHẦN VỐN GÓP CỦA NHÀ NƯỚC
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KHÁC

Cán bộ hướng dẫn:
TS. Dư Ngọc Bích

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Nam Phương
MSSV: 5054880
Lớp: Luật Thương mại 2 -K31

Cần Thơ, tháng 4 năm 2009

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 1

SVTH: Nguyễn Nam Phương



Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
Bộ Môn Luật Kinh doanh thương mại

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 31 (2005-2009)

Đề tài:
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐẠI DIỆN VÀ
NGƯỜI ĐẠI DIỆN PHẦN VỐN GÓP CỦA NHÀ NƯỚC
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KHÁC

Cán bộ hướng dẫn:
TS. Dư Ngọc Bích

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Nam Phương
MSSV: 5054880
Lớp: Luật Thương mại 2 -K31

Cần Thơ, tháng 4 năm 2009

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 2

SVTH: Nguyễn Nam Phương



Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
--------oOo-------_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích


Trang 3

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
--------oOo-------_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________

_______________________________________________________
_______________________________________________________
_______________________________________________________

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 4

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

MỤC LỤC
---oOo--Nội dung
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ----------------------------------------------------------------------------- 08

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ SỞ HỮU, CƠ CHẾ, MÔ HÌNH QUẢN LÝ
SỬ DỤNG VỐN VÀ ĐẠI DIỆN, NGƯỜI ĐẠI DIỆN QUẢN LÝ
VỐN NHÀ NƯỚC
1.1 Khái quát chung về chính sách, cơ chế, nguyên tắc quản lý sử dụng vốn

Nhà nước và Đại diện, Người đại diện quản lý vốn Nhà nước -------------------- 12
1.1.1. Khái quát chung về chính sách, cơ chế quản lý sử dụng vốn Nhà nước và
Đại diện, Người đại diện quản lý vốn Nhà nước trong những năm qua---------- 12
1.1.1.1 Thời kỳ trước năm 1990 ---------------------------------------------- 12
1.1.1.2 Thời kỳ từ năm 1990 đến nay ----------------------------------------- 13
1.1.2. Mô hình và nguyên tắc quản lý vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp-- 16

1.1.2.1 Định hướng mô hình quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp--- 16
1.1.2.2. Nguyên tắc quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ------------- 18
1.2 Các mô hình quốc tế về tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu vốn

Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp ----------------------------------------------------- 21
1.2.1 Các mô hình quốc tế về tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu vốn
nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp ---------------------------------------------------- 21
1.2.1.1 Chế độ “ Bộ trưởng nắm vốn” --------------------------------------- 22
1.2.1.2 Hình thành các tổ chức kinh tế chuyên trách về đầu tư và
kinh doanh vốn sở hữu nhà nước---------------------------------------------- 24
1.2.1.3 Hình thành một cơ quan nhà nước chuyên trách thực hiện
chức năng quản lý vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp --------------- 26
1.2.2 Thực tiễn ở Việt Nam ----------------------------------------------------------- 27
1.3 Một số thuật ngữ chỉ khái niệm doanh nghiệp và các nhân sự có
trách nhiệm quản lý vốn nhà nước ----------------------------------------------------- 28
1.3.1 Doanh nghiệp khác -------------------------------------------------------------- 28

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 5

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

1.3.2 Đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp khác-- 28
1.3.3 Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp khác ------ 29
1.3.4 Vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác ------------------------------ 29
1.3.5 Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước ------------------------- 30

1.3.6 Doanh nghiệp có vốn đầu tư của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh
vốn Nhà nước (SCIC) ------------------------------------------------------------------- 30
1.3.7

Người đại diện của SCIC ------------------------------------------------------- 31

CHƯƠNG 2
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐẠI DIỆN, NGƯỜI ĐẠI DIỆN PHẦN VỐN GÓP
CỦA NHÀ NƯỚC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KHÁC
2.1 Địa vị pháp lý của đại diện và người đại diện phần vốn góp của Nhà nước
tại các doanh nghiệp khác ---------------------------------------------------------------- 33
2.1.1

Địa vị pháp lý của đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại các

doanh nghiệp khác --------------------------------------------------------------------- 34
2.1.2

Địa vị pháp lý của người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại

các doanh nghiệp khác ----------------------------------------------------------------- 36
2.1.2.1 Tiêu chuẩn của Người đại diện -------------------------------------- 36
2.1.2.2 Quyền và nghĩa vụ của Người đại diện ---------------------------- 38
2.1.2.3 Tiền lương, thưởng và quyền lợi của Người đại diện------------- 40
2.2 Địa vị pháp lý của SCIC và người đại diện của SCIC tại các doanh nghiệp

có phần vốn góp của SCIC---------------------------------------------------------------- 42
2.2.1 Địa vị pháp lý của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước
đối với phần vốn Tổng công ty đầu tư tại các doanh nghiệp----------------------- 42
2.2.1.1 Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ------------ 42

2.2.1.2 Đối với Công ty liên doanh, Công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên -------------------------------------------------- 43
2.2.1.3 Đối với Công ty cổ phần ---------------------------------------------- 43
2.2.2 Địa vị pháp lý của Người đại diện Tổng công ty đầu tư và kinh doanh
vốn Nhà nước đối với phần vốn công ty đầu tư vào doanh nghiệp khác --------- 44

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 6

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

2.2.2.1 Tiêu chuẩn và nguyên tắc cử Người đại diện ---------------------- 44
2.2.2.2 Quyền và nghĩa vụ của Người đại diện----------------------------- 45
2.2.2.3 Quan hệ giữa SCIC và Người đại diện ----------------------------- 46
2.2.2.4 Chế độ báo cáo của Người đại diện--------------------------------- 48
2.2.2.5 Cử, bãi miễn, thay thế, đánh giá Người đại diện ------------------ 49

CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI DIỆN, NGƯỜI ĐẠI DIỆN PHẦN
VỐN GÓP CỦA NHÀ NƯỚC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KHÁC
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1 Thực tiễn việc thực hiện hoạt động của đại diện, người đại diện phần
vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp khác trong thời gian qua --------- 52
3.1.1 Thực tiễn hoạt động của Đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại các
doanh nghiệp khác trong thời gian qua------------------------------------------------ 52
3.1.2 Thực tiễn hoạt động của Người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại

các doanh nghiệp trong thời gian qua và một số kiến nghị ------------------------ 54
3.2 Thực tiễn hoạt động của SCIC, người đại diện SCIC và một số
kiến nghị -------------------------------------------------------------------------------- 60
3.2.1 Thực tiễn hoạt động của SCIC-------------------------------------------------- 60
3.2.1.1 Một số kết quả đạt được ---------------------------------------------- 60
3.2.1.2 Những khó khăn, vướng mắc và hướng hoàn thiện --------------- 63
3.2.2 Thực tiễn hoạt động của Người đại diện SCIC ------------------------------- 68
3.2.2.1 Những kết quả đạt được ---------------------------------------------- 68
3.2.2.2 Khó khăn, hạn chế và hướng hoàn thiện --------------------------- 70

KẾT LUẬN -------------------------------------------------------------------------------- 76

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 7

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

LỜI NÓI ĐẦU
----oOo---1. Lý do chọn đề tài
Suốt một khoảng thời gian dài và cho đến nay, kinh tế nhà nước vẫn đóng vai
trò chủ đạo. Tuy nhiên, khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thật sự hoạt động không
hiệu quả, theo đánh giá của các chuyên gia “Tốc độ tăng trưởng của DNNN còn chậm,
hiệu quả sử dụng vốn và sức cạnh tranh của DNNN còn thấp, chưa tương xứng với

tiềm lực và lợi thế sẵn có. Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện tốt việc bảo toàn và phát
triển vốn, tình trạng ăn vào vốn, mất vốn vẫn còn…” yêu cầu phải cải cách, đổi mới
DNNN ngày càng trở nên cần thiết. Do đó, Nhà nước đã tiến hành một loạt các biện
pháp nhằm cải cách khối doanh nghiệp này như giao, bán, sáp nhập, giải thể, phá sản,
tổ chức lại, khoán kinh doanh, cho thuê… đến cổ phần hóa DNNN, cổ phần hóa là
phương án trọng tâm trong các phương án đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của
DNNN. Tuy nhiên, cùng với việc cổ phần hóa thì một vấn đề được đặt ra là việc quản
lý vốn nhà nước sau khi những doanh nghiệp này chuyển đổi còn chưa thống nhất. Cụ
thể, đối với Công ty cổ phần được chuyển đổi từ doanh nghiệp thành viên, công ty con
thuộc tổng công ty, tập đoàn kinh tế được giao cho công ty mẹ thực hiện chức năng đại
diện chủ sở hữu, phần vốn nhà nước tại Công ty cổ phần nằm trong vốn chủ sở hữu của
tổng công ty, công ty mẹ. Đối với các Công ty cổ phần được chuyển đổi từ DNNN độc
lập trực thuộc các bộ, ngành, địa phương thì do Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn
Nhà nước thực hiện chức năng chủ sở hữu (tính đến ngày 30/6/2008, SCIC đã nhận bàn
giao vốn tại 876 DN, với tổng số tiền lên đến trên 8.035 tỷ đồng)1.
Trong tiến trình cổ phần hóa, không ít doanh nghiệp - đặc biệt là những doanh
nghiệp Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối - sau cổ phần hoá vẫn còn một phần
vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Và như vậy, trong các doanh nghiệp này tất yếu phải
có người đại diện cho Nhà nước để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của một cổ đông –
cổ đông Nhà nước, và quản lý phần vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp. Mục đích
của cổ phần hóa là nhằm cải cách DNNN, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, đem lại lợi ích tốt nhất cho Nhà nước, nhân
dân, nếu cổ phần hóa nhưng lại để cho nguồn vốn Nhà nước bị thất thoát, lãng phí, góp
1

BTK – theo báo Đầu tư – “Nên có Luật về quản lý vốn Nhà nước” – cập nhật ngày 09/09/2008, 11:04 – tại

/>
GVHD: TS. Dư Ngọc Bích


Trang 8

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

phần tạo nên tình trạng tham nhũng… thì cần phải xem xét lại. Đại diện và Người đại
diện phần vốn góp của Nhà nước là những người thay mặt Nhà nước quản lý phần vốn
Nhà nước tại doanh nghiệp, có thể nói vai trò của họ thật sự rất quan trọng. Vấn đề là
họ là ai, do ai cử ra, vai trò và trách nhiệm của họ được thể hiện như thế nào trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp? Họ đã thực hiện đúng hay
chưa? Cần phải làm gì để nâng cao năng lực và trách nhiệm của những người này?...
Để trả lời cho những câu hỏi này người viết đã quyết định thực hiện luận văn tốt
nghiệp với đề tài “Địa vị pháp lý của đại diện và Người đại diện phần vốn góp của
Nhà nước tại các doanh nghiệp khác”.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu những quy định cụ thể của pháp luật về đại diện chủ sở hữu Nhà nước
và người đại diện quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp khác. Tìm
hiểu về cơ chế và nguyên tắc quản lý vốn Nhà nước trong thời gian qua, những mô
hình trên thế giới về vấn đề này, cùng với việc nghiên cứu quyền hạn và nghĩa vụ của
chủ sở hữu Nhà nước, của những người được chủ sở hữu phân công, phân cấp làm đại
diện, người đại diện cho phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp khác, thực tiễn hoạt
động của họ trong thời gian qua, từ đó người viết có những đề xuất, gợi mở… nhằm
hoàn thiện hơn nữa vai trò và trách nhiệm của đại diện, người đại diện phần vốn góp
của Nhà nước tại các doanh nghiệp khác và đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn
thiện mô hình quản lý vốn ở nước ta hiện nay phù hợp với yêu cầu đổi mới DNNN.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: chủ yếu là chế độ pháp lý của đại diện chủ sở hữu Nhà
nước và người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác.

 Phạm vi nghiên cứu: vì những vấn đề liên quan đến đối tượng này có thể nói rất
rộng. Do đó, trong phạm vi bài viết, người viết chỉ tập trung làm rõ về Địa vị
pháp lý của những đối tượng có liên quan đến việc thay mặt Nhà nước làm đại
diện tại các doanh nghiệp có phần vốn góp của Nhà nước (ngoài Công ty nhà
nước) như các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh
vốn Nhà nước, Tổng công ty, công ty nhà nước và đặc biệt là những người đại
diện trực tiếp thực hiện việc quản lý phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp
này.

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 9

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, trong quá trình làm bài người viết đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu như Phương pháp phân tích luật viết, phân tích câu chữ kết
hợp với Phương pháp thu thập thông tin, phương pháp so sánh, đối chiếu, tổng hợp
nhằm làm rõ một số quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động của đại diện và
người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp khác. Ngoài ra, người
viết cũng sử dụng một số bài viết của các chuyên gia về các vấn đề có liên quan nhằm
làm tăng tính khoa học và thuyết phục của đề tài.


5. Kết cấu : bài luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Khái quát chung về chủ sở hữu, mô hình quản lý sử dụng vốn
Nhà nước.
Trong chương này, người viết trình bày những cơ sở lý luận chung, khái quát
lịch sử hình thành, phát triển của cơ chế quản lý vốn của Nhà nước và chế định “Người
đại diện phần vốn góp của Nhà nước” trong thời gian qua. Sau đó là những định hướng
và nguyên tắc của mô hình quản lý vốn ở trong nước và trên thế giới nhằm làm cơ sở
để định hướng cho việc hoàn thiện ở chương 3. Kết thúc chương, người viết trình bày
một số khái niệm cơ bản và cần thiết trong bài luận văn.
CHƯƠNG 2: Địa vị pháp lý của đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại
các doanh nghiệp khác.
Người viết tập trung phân tích cơ sở pháp lý của vấn đề tại chương này. Cụ thể
là trình bày những điều khoản, quy định của pháp luật liên quan gồm có những quyền
và nghĩa vụ của đại diện và người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại các doanh
nghiệp khác nói chung và của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (một
trong những đại diện đặc biệt quản lý vốn Nhà nước)
CHƯƠNG 3: Thực tiễn hoạt động của đại diện và Người đại diện phần vốn
góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp khác và một số kiến nghị.
Dựa trên những cơ sở pháp lý ở Chương 2, người viết phân tích một số thực tiễn
hoạt động của đại diện và Người đại diện, từ đó rút ra một số kết luận của từng vụ việc.
Và để kết thúc chương, người viết trình bày một số đề xuất, gợi mở nhằm hoàn thiện
hoạt động của Đại diện, Người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại các doanh
nghiệp khác và mô hình quản lý vốn Nhà nước.
Cuối cùng là phần kết luận lại những vấn đề chung nhất của bài luận văn.

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 10


SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ SỞ HỮU VÀ CƠ CHẾ,
MÔ HÌNH QUẢN LÝ SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC
Để có thể tìm hiểu về “Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn
góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp khác” trước hết phải có cái nhìn khái quát về
cơ chế, chính sách, các nguyên tắc quản lý vốn nhà nước trong những năm qua, các mô
hình trên thế giới về việc tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước để từ đó có
thể thấy được vị trí và vai trò của đại diện chủ sở hữu nhà nước và người đại diện trong
toàn bộ bức tranh về quản lý vốn nhà nước.

1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH, NGUYÊN TẮC
QUẢN LÝ SỬ DỤNG VỐN VÀ ĐẠI DIỆN, NGƯỜI ĐẠI DIỆN QUẢN LÝ
VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái quát chính sách, cơ chế quản lý sử dụng vốn Nhà nước và Đại
diện, Người đại diện quản lý vốn Nhà nước trong những năm qua
1.1.1.1 Thời kỳ trước năm 1990
Thời kỳ này có thể khái quát chính sách và cơ chế quản lý, sử dụng vốn nhà
nước như sau: Nhà nước cấp 100% vốn tài sản cố định, 70% vốn lưu động theo yêu cầu
kinh doanh của doanh nghiệp, 30% vốn lưu động còn lại doanh nghiệp lập kế hoạch
vay ngân hàng. Kế hoạch thu chi do Bộ chủ quản duyệt; doanh nghiệp nộp khấu hao tài
sản cố định về Ngân sách nhà nước. Ở các bộ quản lý ngành có các Vụ tài vụ thực hiện
việc phân bổ vốn nhà nước, đồng thời giao nhiệm vụ thu chi cho mỗi doanh nghiệp. Ở
các cơ quan Tài chính (Bộ Tài chính) có các vụ theo dõi tài chính các bộ quản lý
ngành. Về hình thức, việc giao và cấp vốn; việc đổi mới trang thiết bị… cho doanh
nghiệp thuộc Bộ quản lý ngành, nhưng trên thực tế đó chỉ là cấp trung gian truyền tải

tới cơ quan tài chính để xử lý.
Từ những nét cơ bản trên đây có thể khẳng định, thời kỳ này, Nhà nước quản lý
trực tiếp vốn của mình tại các doanh nghiệp. Theo đó, dường như chỉ có duy nhất một
chủ sở hữu là Nhà nước, nhưng trên thực tế ai là chủ sở hữu lại không rõ ràng. Khái
niệm đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp thời kỳ này hầu như không
có, doanh nghiệp là người sử dụng vốn nhưng lại không có trách nhiệm gì với đồng
vốn sử dụng, với những rủi ro trong quá trình sử dụng, không quan tâm đến khả năng

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 11

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

sinh lời của đồng vốn, chính vì vậy nền kinh tế, chủ yếu dựa vào DNNN thời kỳ này
phát triển rất chậm chạp, yếu kém. Vì vậy, kể từ sau năm 1990, Nhà nước đã bắt đầu
tiến hành một loạt các biện pháp nhằm cải cách khối DNNN, thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, của cơ chế thị trường. Cụ thể là:

1.1.1.2 Thời kỳ từ 1990 đến nay
Nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường, Nhà nước không
thể quản lý trực tiếp mà phải đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng vốn của mình có tại các
doanh nghiệp. Căn cứ vào chính sách và cơ chế quản lý, sử dụng vốn, có thể chia thời
kỳ này thành hai giai đoạn:
Giai đoạn từ 1990 đến 2003
Năm 1990, bắt đầu từ Quyết định số 388/HĐBT, sau đó là Quyết định số
332/HĐBT ngày 23/10/1991 đã có một bước tiến mới đánh dấu việc chuyển từ cơ chế

cấp vốn sang giao nhận vốn đồng thời với trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp trong
quản lý, sử dụng vốn. Chính phủ giao vốn cho DNNN, đồng thời quy định doanh
nghiệp có trách nhiệm phải bảo toàn vốn được giao. Sau đó, trên cơ sở Luật doanh
nghiệp nhà nước năm 1995, Chính phủ đã ban hành một loạt các Nghị định nhằm xác
lập cơ chế quản lý vốn một cách rõ ràng hơn như: Nghị định 59/CP ngày 03/10/1996
và tiếp tục được sửa đổi, hoàn thiện bằng Nghị định 27/1999/NĐ-CP ngày 02/03/1999
bổ sung, sửa đổi Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DNNN;
Nghị định 73/2000/NĐ-CP ngày 06/12/2000 về Quy chế quản lý phần vốn Nhà nước ở
doanh nghiệp khác. Trong các văn bản này xác định:
Nhà nước giao quyền sử dụng vốn cho người đại diện trực tiếp quản lý, sử dụng
vốn tại doanh nghiệp (đây cũng là lần đầu tiên khái niệm “người trực tiếp quản lý phần
vốn nhà nước tại doanh nghiệp” xuất hiện trong văn bản luật tại Khoản 4 Điều 2 Nghị
định 73/2000/NĐ-CP ban hành Quy chế quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp). Đối
với DNNN thời kỳ này, người đại diện nhận vốn nhà nước tại doanh nghiệp là Chủ tịch
Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc hoặc Giám đốc (đối với doanh nghiệp không có
Hội đồng quản trị) có trách nhiệm bảo toàn vốn được giao và nộp ngân sách tiền sử
dụng vốn. Ngoài số vốn Nhà nước giao, doanh nghiệp được quyền huy động vốn từ các
nguồn khác để hoạt động kinh doanh với các hình thức được pháp luật cho phép.
Giai đoạn này, Chính phủ thống nhất quản lý, tổ chức thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu. Chính phủ trực tiếp thực hiện quyền chủ sở hữu đối với công
ty nhà nước do Chính phủ thành lập; ủy quyền cho Hội đồng quản trị thực hiện quyền

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 12

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác


chủ sở hữu đối với vốn kinh doanh của mình đầu tư vào doanh nghiệp khác. Bộ Tài
chính, ngoài việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp
trong cả nước, còn giúp Chính phủ giao vốn cho các DNNN do Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập; đại diện vốn nhà nước ở doanh nghiệp khác, nhưng việc cử và bãi
miễn, khen thưởng, kỷ luật người đại diện trực tiếp quản lý lại do Thủ trưởng Bộ ngành
quyết định sau khi thống nhất với Bộ Tài chính. Tuy nhiên, với chính sách và cơ chế
quản lý sử dụng vốn trên đây có thể thấy rõ những nhược điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, tuy đã chỉ rõ người chủ sở hữu, đại diện chủ sở hữu, trách nhiệm
người sử dụng vốn… nhưng vẫn còn nhiều đại diện chủ sở hữu. Thứ hai, chức năng
kinh tế và chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước vẫn còn chưa được tách
bạch rõ ràng, còn chồng chéo giữa các cơ quan nhà nước. Theo Nghị định thì cơ quan
tài chính là người đứng ra giao vốn, nhưng người nhận vốn lại là Bộ quản lý ngành.
Khi phát sinh sự việc, việc phối hợp xử lý các vấn đề rất khó khăn; còn người nhận
quyền sử dụng vốn vẫn nằm trong mối quan hệ với nhiều đại diện chủ sở hữu, điều đó
cũng là kẻ hở trong quản lý người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp khác.
Thứ ba, vốn của nhà nước là rất lớn nhưng đang bị phân tán, tản mạn trong các loại
hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Chính vì vậy, mặc dù đã có những
bước tiến mới trong việc quản lý nguồn vốn đầu tư tại doanh nghiệp nhưng nhìn chung
những vấn đề cơ bản vẫn chưa được giải quyết, sự chồng chéo chức năng giữa các Bộ,
ngành địa phương vẫn còn tồn tại, cơ chế quản lý người đại diện vẫn còn lỏng lẻo, do
đó Nhà nước lại tiếp tục đổi mới:
Giai đoạn từ 2003 đến nay
Cùng với việc ban hành của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 và trên cơ
sở của Luật này, Chính phủ đã ban hành Nghị định 132/2005/NĐ-CP quy định các
quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty nhà nước; Nghị định số
199/2004/NĐ-CP về Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn
nhà nước đầu tư ở doanh nghiệp khác. Và mới đây nhất đã ban hành Nghị định
09/2009/NĐ-CP ngày 05 tháng 02 năm 2009 về đổi mới Quy chế quản lý tài chính của
công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư ở doanh nghiệp khác. Theo các văn

bản này, những khác biệt chủ yếu về quản lý sử dụng vốn nhà nước so với trước đó
nằm ở những điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, đại diện trực tiếp nhận vốn của Nhà nước tại công ty nhà nước là Chủ
tịch Hội đồng quản trị, trước đó có cả Giám đốc. Thứ hai, Nhà nước đã thành lập Tổng
công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC), vốn Nhà nước tại các doanh

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 13

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

nghiệp khác được chuyển về cho SCIC. Trong thời gian chờ chuyển giao, đại diện chủ
sở hữu vốn nhà nước là Bộ Tài chính đối với vốn nhà nước ở doanh nghiệp khác do
vốn ngân sách trung ương góp vốn thành lập, Bộ quản lý ngành, Ủy ban đối với phần
vốn tại Công ty do mình thành lập, Tổng công ty, công ty đối với phần vốn tại các
doanh nghiệp do công ty thành lập… Thứ ba, Chính phủ ủy quyền cho Bộ Tài chính
với đầy đủ quyền như các đại diện chủ sở hữu vốn khác. Thứ tư, tiền thu từ sử dụng
vốn được phân phối theo tỷ lệ giữa vốn nhà nước và vốn công ty tự huy động bình
quân trong năm, trước đó thu cố định 18%/ năm.
Nhìn chung, về cơ bản Nhà nước vẫn giữ nguyên tắc đầu tư cho DNNN. Doanh
nghiệp vẫn được trao quyền quản lý, sử dụng vốn và có nghĩa vụ bảo toàn vốn về mặt
giá trị. Đối với các tổng công ty, Nhà nước quản lý vốn qua tổng công ty, tổng công ty
lại giao vốn cho các đơn vị thành viên. Tuy nhiên, các đơn vị thành viên tổng công ty
cũng là các DNNN có tư cách pháp nhân đầy đủ nên ở đây có sự trùng lặp và khó xử
trong quản lý vốn. Các doanh nghiệp công ích (trên 700 doanh nghiệp) hoạt động theo
cơ chế riêng, cơ chế quản lý vốn nhà nước đối với các doanh nghiệp này gần giống như

thời bao cấp2.
Như vậy, cơ chế quản lý vốn cho đến nay đã có một bước đổi mới quan trọng
theo hướng thống nhất về cơ chế đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp. Trên cơ sở
giao vốn, Nhà nước đã giảm nhiều sự can thiệp trực tiếp vào công tác quản lý tài chính
của doanh nghiệp, đồng thời trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp
mang tính thiết thực hơn, hiệu quả hơn. Cơ chế đầu tư kinh doanh vốn đã bước đầu
hình thành và tìm được sự đồng thuận của các cơ quan quản lý và của xã hội. Tuy
nhiên, cơ chế quản lý vốn nhà nước như hiện nay vẫn còn chưa hoàn thiện, chưa nhất
quán và nhiều điểm thiếu cụ thể. Về phía Nhà nước, khi thực hiện quyền chủ sở hữu
đối với doanh nghiệp và triển khai cơ chế quản lý vốn, có quá nhiều cơ quan quản lý
nhà nước tham gia dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau, trách nhiệm các cơ quan
không rõ ràng, vừa sự vụ, vừa lỏng lẻo, kém hiệu quả. Đối với các doanh nghiệp trong
cơ cấu tổng công ty, sự chồng chéo hai cấp doanh nghiệp đều có pháp nhân và cơ chế
quản lý vốn không kết hợp với cơ chế quản lý về tổ chức – cán bộ đã tạo nên sự lúng
túng, tùy tiện ở các tổng công ty. Ngoài ra, cơ chế quản lý vốn cũng chưa thực sự dựa
trên nguyên tắc thị trường, đối với nhiều DNNN, Nhà nước vẫn bao cấp về tài chính.

2

Ngô Văn Khoa – “Quản lý sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp: Một số kiến nghị” – Thời báo Tài chính

số tháng 7 (521) 2006 – tr. 26

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 14

SVTH: Nguyễn Nam Phương



Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

Trách nhiệm bảo toàn hoặc kinh doanh vốn vẫn chưa gắn với chế độ đãi ngộ cán bộ
quản lý. Điều này đòi hỏi phải đổi mới triệt để hơn nữa cơ chế quản lý vốn nhà nước.

1.1.2 Mô hình và nguyên tắc quản lý vốn Nhà nước đầu tư tại doanh
nghiệp
1.1.2.1 Định hướng mô hình quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
Nhà nước Trung ương
(Chính phủ)

Tổng công ty đầu tư
và kinh doanh vốn NN

Các
công ty
con

Vốn góp hoặc sở hữu cổ phần
không khống chế vào các công
ty cổ phần, công ty TNHH

Nhà nước địa phương
(UBND tỉnh, thành phố)

Bộ Tài chính

Các tổng công ty, tập
đoàn do Thủ tướng
thành lập


Các
công ty
con

Vốn góp vào
các công ty
khác

Sở Tài chính

Các tổng công ty do địa
phương thành lập

Các
công ty
con

Vốn góp vào
các công ty
khác

Mô hình quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
Xét về mô hình quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp có thể định hướng một
cách khái quát theo mô hình trên. Tức là, các DNNN sẽ được sắp xếp, tổ chức lại, cổ
phần hóa DNNN theo hướng thu gom đầu mối, hình thành tổng cộng khoảng 20-30 tập
đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. Nhà nước sẽ chỉ giao vốn cho các đầu mối là

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích


Trang 15

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

các tập đoàn và tổng công ty này. Từ các tổng công ty này, theo mô hình công ty mẹ công ty con và mô hình đầu tư đối vốn, mua bán cổ phiếu, vốn sẽ được điều chuyển,
quản lý, đầu tư và kinh doanh vào các công ty con và công ty sở hữu hỗn hợp khác.
Các doanh nghiệp không thể sắp xếp vào cơ cấu tổng công ty, tập đoàn được thì phải
kiên quyết bán, giải thể, cho phá sản, hoặc cho chuyển sang sự nghiệp có thu. Thực
hiện chuyển giao toàn bộ các doanh nghiệp độc lập, các công ty TNHH một thành viên
không nằm trong cơ cấu các tổng công ty đã có về đầu mối Tổng công ty đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước. Tổng công ty này sẽ nhận bàn giao từ các bộ và chính quyền
địa phương tất cả các công ty TNHH nhà nước một thành viên, cổ phần của Nhà nước
ở các công ty cổ phần, phần vốn góp vào các doanh nghiệp liên doanh trước đây do
Cục tài chính, doanh nghiệp quản lý trực tiếp. Theo mô hình này sẽ không còn các
Tổng công ty 90 do các Bộ thành lập và quản lý. Các tổng công ty này sẽ phải giải thể
hoặc nhập vào các tập đoàn với tư cách là công ty con, hoặc tự đổi mới thành tổ chức
hiệp hội hoặc tổ chức sự nghiệp, các công ty thành viên sẽ chuyển thành công ty
TNHH nhà nước một thành viên do Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
quản lý vốn theo quan hệ công ty mẹ, công ty con. Như vậy, về mặt cơ chế, Bộ Tài
chính và các Sở Tài chính địa phương, cũng như các bộ quản lý ngành, không còn quản
lý trực tiếp với các doanh nghiệp nữa, thực sự chỉ thực hiện các chức năng quản lý nhà
nước của mình theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với tất cả các
loại hình doanh nghiệp3.
Mặt khác, do tại DNNN sau cổ phần hóa vẫn còn một phần vốn Nhà nước nên
phần vốn Nhà nước tại những doanh nghiệp này được quản lý thông qua đại diện chủ
sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp. Cụ thể là: đối với các công ty cổ phần được chuyển
đổi từ doanh nghiệp thành viên, công ty con thuộc Tổng công ty, công ty mẹ thì chính

các Tổng công ty, công ty mẹ tiếp tục thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu tại
doanh nghiệp cổ phần hóa. Phần vốn Nhà nước tại các công ty cổ phần nằm trong vốn
chủ sở hữu của Tổng công ty, công ty mẹ. Các công ty hoạt động độc lập theo quy định
của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về phần vốn của mình. Các Tập
đoàn, Tổng công ty cử người đại diện sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, những
người đại diện này được cơ cấu trong Hội đồng quản trị, Ban giám đốc để đảm nhận
vai trò cổ đông nhà nước tham dự vào Đại hội cổ đông hoặc Hội đồng quản trị, quyết
định các vấn đề về kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu chi tài chính, phân phối lợi nhuận
3

Kim Văn Chính –“Đổi mới cơ chế quản lý vốn nhà nước khi thực hiện Luật doanh nghiệp thống nhất” - Thời

báo Tài chính số tháng 7 (521) 2006 – tr. 20

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 16

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

sau khi nộp thuế được chia cho các cổ đông góp vốn trong đó có cổ đông Nhà nước.
Đối với các Công ty cổ phần được chuyển đổi từ công ty Nhà nước độc lập trực thuộc
các Bộ ngành, địa phương thì do Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước
thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu. Phần vốn Nhà nước tại các Công ty cổ phần
do SCIC tổng hợp và theo dõi.4
Đây là những định hướng đổi mới về mô hình quản lý vốn của Nhà nước ta hiện
nay. Tuy nhiên, để quản lý vốn Nhà nước đạt hiệu quả, ta cần phải xác định được các

nguyên tắc và phương pháp quản lý vốn Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, trên cơ
sở đó xem xét các mô hình tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu quản lý vốn Nhà
nước trên thế giới để có sự lựa chọn tốt nhất.

1.1.2.2

Nguyên tắc quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp

Chúng ta đã xác định kinh tế thị trường với khu vực kinh tế nhà nước (trong đó
có DNNN) đóng vai trò chủ đạo, nhằm bảo đảm cho nền kinh tế phát triển một cách
hiệu quả, công bằng, ổn định và đúng hướng. Tuy nhiên, để vốn Nhà nước đầu tư vào
kinh doanh có hiệu quả, cần phải xác định các nguyên tắc quản lý vốn nhà nước đầu tư
vào kinh doanh 5. Nhìn chung, có bốn nguyên tắc cơ bản như sau:
Nguyên tắc 1: Phải có cơ chế để người dân kiểm tra được luồng luân chuyển
vốn, hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước
Đây là nguyên tắc đầu tiên trong việc quản lý vốn Nhà nước bởi vì Nhà nước là
chủ sở hữu duy nhất đối với tài sản toàn dân. Nhà nước thực hiện các quyền năng chủ
sở hữu đối với tài sản toàn dân thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà
thực chất là những nhà quản lý nhà nước các cấp. Các nhà quản lý này lấy danh nghĩa
Nhà nước để điều hành và sắp xếp tài sản toàn dân. Lúc này chủ sở hữu tài sản toàn
dân thực chất đã hai lần được chuyển dịch: từ toàn dân sang Nhà nước rồi từ Nhà nước
sang các nhà quản lý Nhà nước. Như vậy, tài sản toàn dân trước khi chính thức đi vào
sản xuất, kinh doanh đã qua hai lần phát sinh quan hệ đại diện, không phải đại diện
theo nghĩa thông thường mà là mối quan hệ đại diện hầu như không tự nguyện, chỉ một
chiều, cơ chế giám sát và ràng buộc trong mối quan hệ này không phát huy tác dụng.
Do vậy, cần phải có những điều kiện bảo đảm đặc biệt để kiềm chế các nhà quản lý lợi
4

Nguyễn Duy Long – “Doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa: Đẩy mạnh đổi mới cơ chế quản lý vốn Nhà


nước”– Thời báo Tài chính số 12 (530) 2008 – tr. 24
5

Lê Thị Thanh – “Nguyên tắc và phương pháp quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào họat động kinh doanh” – Thời
báo Tài chính số 7 (521) 2006 – tr. 23

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 17

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

dụng quyền lực, tìm cách trục lợi, liên kết giữa quyền lực và tiền bạc. Để chế độ sở hữu
nhà nước có thể vận hành hiệu quả, Nhà nước phải tạo cơ chế quản lý phù hợp vừa bảo
đảm tài sản phải có chủ sở hữu đích thực, quyền tài sản phải rõ ràng, vừa bảo đảm cho
người sở hữu cuối cùng (người dân) có thể kiểm tra được nguồn vốn của mình.
Nguyên tắc 2: Bảo đảm các quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu
Về nguyên tắc khi đầu tư vốn, chủ đầu tư phải đặt ra những mục tiêu nhất định.
Những mục tiêu quan trọng nhất của các nhà đầu tư trong kinh tế thị trường là: mục
tiêu lợi nhuận (bỏ vốn phải sinh lời); an toàn về mặt pháp lý trong quá trình đầu tư; bảo
đảm minh bạch luồng vận động của các nguồn tài chính. Ngay cả khi Nhà nước là
người đầu tư thì các mục tiêu trên cũng phải được tôn trọng. Bên cạnh mục tiêu kinh tế
- xã hội, an toàn về mặt pháp lý thì quan hệ tài sản giữa Nhà nước với doanh nghiệp
kinh doanh vốn Nhà nước phải được thể hiện một cách minh bạch và tính chất của
quan hệ ấy từ chỗ là quan hệ hành chính phải được chuyển sang quan hệ dân sự - kinh
tế trên cơ sở pháp luật. Khi đầu tư vốn vào doanh nghiệp (đầu tư trực tiếp), người đầu
tư trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp. Muốn là chủ sở hữu doanh nghiệp phải hội tụ đủ

các yếu tố sau: một là, có đủ vốn để đầu tư vào doanh nghiệp theo cam kết, tạo lập vốn
điều lệ của doanh nghiệp; Hai là, có quyền quyết định các vấn đề phát sinh trong hoạt
động của doanh nghiệp, muốn vậy phải nắm giữ một phần vốn góp hoặc cổ phần đạt
trên một tỷ lệ nào đó; Ba là, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của
doanh nghiệp, phải gánh chịu hậu quả pháp lý và hậu quả kinh tế khi doanh nghiệp có
hành vi vi phạm pháp luật hoặc kinh doanh không hiệu quả.
Khi là chủ sở hữu doanh nghiệp, Nhà nước cũng như các tổ chức, cá nhân khác
đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Song, Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ tư
pháp được hưởng quyền miễn trừ tư pháp, quyền miễn trừ tài sản. Vậy, nếu như
DNNN theo sự “chỉ đạo” của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (với tư cách chủ sở
hữu doanh nghiệp) đã có những hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho các chủ
thể khác liên quan và gây thiệt hại cho xã hội vượt quá phạm vi trách nhiệm của doanh
nghiệp thì lợi ích của các chủ thể khác này được bảo vệ như thế nào? Để người đầu tư
thực hiện được các mục tiêu đầu tư của mình, bảo đảm DNNN thực sự là chủ thể kinh
doanh độc lập trên thị trường, chủ sở hữu DNNN thực sự thực hiện được các nghĩa vụ
của mình, được hưởng quyền từ hoạt động đầu tư thì Nhà nước (cụ thể là cơ quan nhà
nước) như: Chính phủ, các bộ, ủy ban nhân dân… không nên thực hiện chức năng chủ
sở hữu trực tiếp đối với tất cả các DNNN.

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 18

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

Nguyên tắc 3: Phân biệt quản lý hành chính về kinh tế với quản lý của chủ sở
hữu Nhà nước đối với DNNN.

Sở dĩ có nguyên tắc này là do quan hệ giữa Nhà nước với DNNN được thể hiện
trên hai phương diện cơ bản sau: Thứ nhất, với tư cách tổ chức quyền lực chính trị
công đặc biệt, Nhà nước quản lý DNNN phải bảo đảm DNNN hoạt động độc lập với
các cơ quan nhà nước, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ với mọi chủ thể kinh doanh
thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự chủ về tài
chính, quyền chủ động trong các hoạt động kinh doanh của DNNN, DNNN có nghĩa vụ
nộp thuế và các nghĩa vụ khác với Nhà nước theo quy định của pháp luật. Thứ hai, với
tư cách chủ sở hữu DNNN, cũng như các chủ sở hữu khác – Nhà nước quyết định nội
dung, sửa đổi, bổ sung điều lệ doanh nghiệp; quyết định cơ cấu tổ chức quản lý doanh
nghiệp, bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh quản lý doanh nghiệp; quyết định việc sử
dụng lợi nhuận; tổ chức lại doanh nghiệp.
Với tư cách chủ sở hữu, Nhà nước thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối
với doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế, khi đầu tư vốn vào kinh doanh tại các doanh
nghiệp, thì hầu hết các nhà nước đều không phân biệt được quản lý DNNN như thế nào
với tư cách tổ chức quyền lực chính trị công? Và như thế nào với tư cách chủ sở hữu?
Các cơ quan nhà nước hầu như vừa quản lý nhà nước về kinh tế vừa thực hiện chức
năng kinh doanh của chủ sở hữu doanh nghiệp, trong khi nhiều công chức nhà nước
trình độ quản lý kinh doanh không cao, cứng nhắc, quan liêu, đồng thời do sự can thiệp
quá sâu của các nhà chính trị vào việc kinh doanh của các doanh nghiệp nên mục tiêu
kinh tế của DNNN bị chệch hướng quá nhiều và quy luật cạnh tranh khó phát huy tác
dụng. Điều này cũng đã làm cho những người quản lý, điều hành DNNN bị hạn chế
quyền linh hoạt, đối phó với những điều kiện thay đổi của thị trường. Các DNNN
thường được Chính phủ bao cấp nên ỷ lại vào Nhà nước hoặc nhiều khi độc quyền Nhà
nước được chuyển thành độc quyền của doanh nghiệp, tạo ra sự cạnh tranh không bình
đẳng. Đồng thời, Chính phủ thường chỉ đạo, điều hành DNNN bằng các mệnh lệnh
hành chính, điều này nhiều khi làm tăng yếu tố “đầu vào”, khó đa dạng hóa sản phẩm
cho phù hợp với những đòi hỏi của thị trường…, từ đó, làm cho mục tiêu hoạt động
của DNNN không được thực hiện.
Chính vì vậy, cải cách cơ chế quản lý vốn nhà nước, về mặt pháp lý, phải xác
lập rõ mối quan hệ giữa Nhà nước với DNNN, xóa bỏ mối quan hệ hành chính và sự

can thiệp hành chính của Nhà nước đối với DNNN với tư cách chủ sở hữu doanh
nghiệp, bảo đảm doanh nghiệp kinh doanh vốn nhà nước là chủ thể kinh doanh bình

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 19

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

đẳng với các chủ thể kinh doanh khác, kinh doanh trong môi trường cạnh tranh theo
quy luật của kinh tế thị trường.
Nguyên tắc 4: Xác định rõ quan hệ sở hữu và quyền tài sản trong các DNNN
Để phát huy hiệu quả của DNNN, cần thiết phải xác định rõ mối quan hệ tài sản
giữa Nhà nước với DNNN. Hiện nay có một câu hỏi đặt ra là: đối với DNNN thì ai là
người kiểm soát đích thực các quyền tài sản? Ai là người thay mặt nhà nước sử dụng
quyền lực của người đầu tư vốn? Thực tế nhiều cơ quan nhà nước là người đại diện của
người sở hữu DNNN, có quyền tài sản, nhưng không có ai thực sự chịu trách nhiệm
trực tiếp đối với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là hậu quả
tất yếu của tình trạng trách nhiệm đối với tài sản không rõ ràng.6
Qua việc tìm hiểu các cơ chế chính sách quản lý vốn của Nhà nước trong những
năm qua và các nguyên tắc quản lý vốn chúng ta có thể thấy một điều rõ ràng rằng, cho
đến nay việc quản lý phần vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp thực tế chưa đi đến
đâu, các nguyên tắc quản lý vốn vẫn chưa được đảm bảo. Và để xác định cho được
cách thức quản lý nào là thích hợp nhất cho Việt Nam có thể xem xét các mô hình quốc
tế về tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và
thực tiễn việc áp dụng của nước ta trong thời gian qua.


1.2 CÁC MÔ HÌNH QUỐC TẾ VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHỨC
NĂNG CHỦ SỞ HỮU VỐN NHÀ NƯỚC ĐẦU TƯ TẠI DOANH NGHIỆP
VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM
1.3.8 Các mô hình quốc tế về tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu
vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp
Hình thành tổ chức chỉ là một khâu của quá trình thực hiện chức năng chủ sở
hữu vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp, bao gồm: xác định nội dung chức năng,
chủ thể thực hiện các chức năng, phương pháp thực hiện và cơ chế kiểm tra, giám sát
quá trình thực hiện chức năng chủ sở hữu vốn nhà nước.
Hình thành tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại
doanh nghiệp là đặc thù của chủ sở hữu vốn nhà nước. Các tổ chức này có chức năng
quản lý và kinh doanh nhằm bảo toàn và phát triển vốn nhà nước đầu tư vào các doanh

6

Lê Thị Thanh – “Nguyên tắc và phương pháp quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào họat động kinh doanh” – Thời
báo Tài chính số tháng 7 (521) 2006 – tr. 23

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 20

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

nghiệp. Thông thường, một chủ thể sở hữu cá nhân hoặc pháp nhân là người thực hiện
hoặc ủy quyền thực hiện các quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu đối với tài sản của mình.
Tuy nhiên, Nhà nước thì lại khác, Nhà nước là một chủ thể trừu tượng, trong

điều kiện đó, việc quy định bộ máy hành chính thay mặt Nhà nước tổ chức thực hiện
chức năng chủ sở hữu là phương thức phổ biến nhất và được chấp nhận ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Về phương diện pháp luật, các nước thường quy định cơ quan
hành pháp (Chính phủ) thực hiện chức năng chủ sở hữu vốn Nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp dưới sự giám sát của cơ quan lập pháp (Quốc hội). Trong khi đó, bản
thân Chính phủ cũng không thể trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở
hữu tại các doanh nghiệp, đặc biệt khi đó là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn (TNHH). Từ lý do này, đã phát sinh quan hệ ủy quyền. Mặt khác, trong quan
hệ với doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước và các bên có lợi ích liên quan như
các đồng sở hữu (nếu có), chủ nợ, khách hàng… đòi hỏi phải có một đầu mối được coi
là “chủ sở hữu” vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Tổng quan kinh nghiệm quốc tế về
vấn đề này cho thấy, trong kinh tế thị trường hiện nay tồn tại ba hình thức chủ yếu để
hình thành đầu mối chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp là: Thứ nhất, hình thành
cơ chế “ Bộ trưởng nắm vốn”; Thứ hai, hình thành các tổ chức kinh tế chuyên hoạt
động đầu tư và kinh doanh vốn của chủ sở hữu; Thứ ba, hình thành cơ quan nhà nước
chuyên trách thực hiện chức năng chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp.

1.3.8.1

Chế độ “ Bộ trưởng nắm vốn”

Xuất phát điểm của cơ chế này là chế độ “cơ quan chủ quản” thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ sở hữu nhà nước đối với các DNNN truyền thống ở
Pháp, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan… và nhiều nước Châu Âu khác. Việc
giao bộ chủ quản thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp có điểm
mạnh là phát huy được năng lực chuyên môn và thực hiện các chính sách định hướng
của Nhà nước một cách chủ động; thực hiện các quyền trực tiếp bổ nhiệm cán bộ quản
lý, đánh giá kết quả hoạt động của bộ máy quản lý doanh nghiệp… Tuy nhiên, điểm
yếu của phương thức này là không tách được chức năng sở hữu ra khỏi chức năng quản
lý nhà nước, đồng thời, bộ chủ quản thường can thiệp vào các công việc hàng ngày của

doanh nghiệp.
Trong bối cảnh các DNNN ngày càng chuyển sang hoạt động theo chế độ công
ty và để khắc phục tương đối những nhược điểm nêu trên, cơ chế “Bộ trưởng nắm vốn”
thực hiện quyền sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đã xuất hiện. Các nước đều có

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 21

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

cách làm gần giống nhau là giao một Bộ trưởng đảm nhận trách nhiệm đứng tên phần
vốn nhà nước tại doanh nghiệp (gọi tắt là Bộ trưởng đứng tên hay Bộ trưởng nắm vốn).
Trong đa số trường hợp, Bộ trưởng bộ quản lý ngành hay bộ quản lý lĩnh vực có liên
quan của doanh nghiệp thực hiện chức năng này. Cũng có một số nước như New
Zealand áp dụng cơ chế “hai Bộ trưởng đồng nắm vốn” là Bộ trưởng Bộ Tài chính và
Bộ trưởng Bộ quản lý ngành.
Đối với DNNN được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty
TNHH, các Bộ trưởng này trở thành cổ đông – thành viên Nhà nước. Nhìn từ góc độ
của doanh nghiệp, chỉ những người đứng tên cổ phần, vốn góp mới là chủ sở hữu của
các cổ phần, vốn góp đó và cũng chỉ có những người này mới có quyền thực hiện
những quyền và nghĩa vụ của cổ đông, thành viên góp vốn trong công ty theo quy định
của pháp luật và điều lệ doanh nghiệp. Đối với các DNNN một chủ sở hữu và không tổ
chức dưới hình thức công ty cổ phần hay công ty TNHH, Bộ trưởng quản lý ngành (Bộ
chủ quản) là đầu mối đại diện cho chủ sở hữu nhà nước trong mối quan hệ giữa bộ máy
quản lý, điều hành doanh nghiệp với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước khác trong
thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy, mối

quan hệ về quyền và nghĩa vụ của đại diện chủ sở hữu nhà nước (Bộ trưởng Bộ chủ
quản) với DNNN dạng này không rõ ràng bằng các quan hệ giữa Bộ trưởng đứng tên
cổ phần hoặc vốn góp tại các DNNN dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần bởi vì khi đã tồn tại dưới một hình thức pháp lý riêng, DNNN còn bị
điều chỉnh bởi hàng loạt các cơ chế đặc thù khác. Để khắc phục nhược điểm này, xu
thế chung là chuyển DNNN hoạt động theo khung khổ pháp lý riêng thành công ty
TNHH hoặc công ty cổ phần.
Đồng thời, các nước đều thành lập một hoặc một số tổ chức chuyên trách để tư
vấn, hỗ trợ việc quản lý, giám sát DNNN, xử lý các vụ việc và đề xuất những vấn đề cụ
thể liên quan đến sở hữu nhà nước. Trong thực tế, các tổ chức này hoạt động gần như
là người đại diện thay mặt chủ sở hữu nhà nước tiến hành các hoạt động quản lý, giám
sát việc sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, đó chỉ là các
hoạt động được ủy quyền để tư vấn, hỗ trợ cho chức năng chủ sở hữu của Bộ trưởng
nắm vốn. Quyền quyết định cuối cùng vẫn phải thuộc về các Bộ trưởng nắm vốn. Về
mặt tổ chức, đơn vị này nằm trong cơ cấu hành chính trực thuộc bộ của Bộ trưởng nắm
vốn nhưng độc lập với các bộ phận quản lý nhà nước khác của Bộ. Mô hình này có
nhược điểm là đòi hỏi tất cả các bộ chủ quản có DNNN đều phải thành lập một đơn vị
chuyên trách, ví dụ trong cơ cấu Bộ Công nghiệp Thụy Điển có Cục quản lý DNNN

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 22

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

(The Division for State-owned companies), được thành lập từ năm 1998 nhằm tư vấn
giúp Bộ trưởng Bộ Công nghiệp thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với 31 DNNN

trực thuộc Bộ. Để khắc phục nhược điểm mỗi Bộ phải có một bộ phận chuyên trách
quản lý DNNN, một số nước như New Zealand đã thành lập Cơ quan tư vấn giám sát
vốn và tài sản nhà nước (CCMAU) để tư vấn, hỗ trợ chung cho các Bộ trưởng nắm vốn
trong thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước.
Tóm lại, vấn đề không chỉ hình thành đầu mối chủ sở hữu nhà nước trong quan
hệ pháp luật với doanh nghiệp và người thứ ba, mà đầu mối đó phải được đảm nhiệm
với nghĩa vụ và quyền hạn cá nhân. Trong quá trình thực hiện, có thể có sự ủy quyền,
phân cấp hoặc có một bộ máy hành chính chuyên trách để hỗ trợ, tư vấn và xử lý vụ
việc, song trách nhiệm cuối cùng vẫn mang tính cá nhân của Bộ trưởng nắm vốn. Do
cơ chế trách nhiệm như vậy nên phương thức hình thành cơ chế “Bộ trưởng nắm vốn”
chỉ phù hợp với hoàn cảnh không có nhiều DNNN và thật sự cũng thích hợp hơn với
loại doanh nghiệp mà trong đó có yếu tố chính trị, xã hội đan xen vào mục tiêu hoạt
động. Vì vậy, có thêm một phương thức thứ hai để thực hiện chức năng chủ sở hữu
Nhà nước là:

1.2.1.2 Hình thành các tổ chức kinh tế chuyên trách về đầu tư và kinh
doanh vốn sở hữu nhà nước
Theo phương thức này, Chính phủ thành lập một tổ chức kinh tế dưới hình thức
của công ty nắm vốn (công ty holding), công ty đầu tư tài chính… (gọi chung là công
ty đầu tư – kinh doanh vốn Nhà nước) để kinh doanh thông qua đầu tư trực tiếp vốn
nhà nước vào các doanh nghiệp khác nhau trong nền kinh tế. Công ty đầu tư – kinh
doanh vốn Nhà nước xuất hiện từ những năm 1970 ở Singapore và những năm 1990 từ
công cuộc cải cách khu vực DNNN ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Đông
Âu và Trung Quốc, nơi mà có một số lượng lớn DNNN còn tồn tại từ cơ chế cũ nên
các bộ chủ quản và cơ quan hành chính nhà nước không thể thực hiện một cách có hiệu
quả chức năng đại diện chủ sở hữu của mình.
Tại Trung Quốc, Chính phủ đã thành lập công ty kinh doanh tài sản của Nhà
nước với nhiệm vụ giúp Chính phủ trực tiếp quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp, bảo đảm số vốn này được bảo toàn và phát triển. Công ty có 5 chức năng chủ
yếu: Thứ nhất là thay mặt Chính phủ nắm giữ quyền sở hữu tài sản Nhà nước trong

doanh nghiệp; Thứ hai, thông qua việc thực hiện quyền sở hữu tài sản để kiểm tra xem
xét lại tài sản Nhà nước, bố trí tài sản một cách tối ưu; Thứ ba, bổ nhiệm và bãi miễn

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 23

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

cán bộ lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp và thông qua những người này để tham gia
vào những giải pháp quan trọng của doanh nghiệp; Thứ tư, quản lý khoản thu từ phần
vốn đầu tư, vốn góp của Nhà nước. Và chức năng cuối cùng là giám sát hiệu quả kinh
doanh và tình hình tài chính doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước. Hiện nay các
tỉnh, thành phố lớn ở Trung Quốc như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Đông, nhất là
các đặc khu kinh tế đều đã thành lập Công ty kinh doanh tài sản để kinh doanh vốn
Nhà nước tại doanh nghiệp.
Tại Singapore, năm 1974 Chính phủ đã thành lập Tập đoàn Temasek như một
công ty đầu tư của Nhà nước với chức năng đại diện sở hữu và quyền lợi của Nhà nước
và đóng vai trò cổ đông đặc biệt trong các doanh nghiệp có vốn tham gia của Nhà
nước. Đây là một quyết định chiến lược quan trọng để tách biệt vai trò của Chính phủ
với tư cách là cơ quan hoạch định chính sách và quản lý vĩ mô ra khỏi các hoạt động
kinh doanh và đầu tư thương mại. Temasek trực thuộc Bộ Tài chính Singapore với
100% vốn là của Nhà nước. Khi thành lập Temasek, Chính phủ chuyển phần vốn Nhà
nước đã đầu tư vào các công ty của Singapore sang Temasek quản lý cùng với việc cấp
vốn hoạt động ban đầu cho Tamasek. Trong quá trình hoạt động, Chính phủ tiếp tục
chuyển phần vốn Nhà nước trong các công ty được cổ phần hoá hoặc đăng ký trên thị
trường chứng khoán sang Temasek quản lý.

Temasek tham gia tích cực vào định hướng chiến lược và là động lực quan trọng
cho các hoạt động kinh doanh và phát triển của các công ty nhưng không can thiệp trực
tiếp vào các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các công việc quản lý kinh
doanh hàng ngày do ban lãnh đạo các doanh nghiệp chịu trách nhiệm thực hiện. Với tư
cách đại diện quyền lợi của Chính phủ. Temasek thực hiện vai trò là cổ đông của mình
để tham gia vào việc xem xét, lựa chọn và bầu hoặc bổ nhiệm các chức vụ Chủ tịch và
thành viên Hội đồng quản trị của các công ty Temasek đầu tư theo tỷ lệ góp vốn của
Temasek. Mục đích quan trọng hàng đầu của Temasek là bảo tồn vốn và đạt được lợi
ích kinh tế cao nhất cho tất cả các cổ đông của công ty, trong đó có cổ đông Nhà nước
do Temasek làm đại diện. Đến năm 2004, sau 30 năm hình thành và hoạt động, nếu
tính theo giá trị tăng trưởng các cổ phần Temasek đã đầu tư vào các công ty thì tỷ suất
lợi nhuận trung bình hàng năm của Temasek tăng là 18% và cổ tức trung bình hàng
năm Temasek được nhận từ phần đầu tư có tỷ suất là 7%. Temasek đã trở thành công
ty đầu tư lớn nhất của Singapore và là công ty đầu tư hàng đầu trên thế giới7.
7

Phạm Phan Dũng – “ Đổi mới phương thức quản lý phần vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp” – Hội

nghị quốc tế quản trị doanh nghiệp – Hà Nội – 2004

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 24

SVTH: Nguyễn Nam Phương


Địa vị pháp lý của Đại diện và Người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp khác

Tuy nhiên, tại rất nhiều quốc gia (trừ Singapore), mô hình công ty đầu tư kinh

doanh vốn nhà nước là giải pháp bổ sung, cùng tồn tại với “chế độ chủ quản” trong
thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhưng ở các nước đó đều có sự
phân biệt rõ ràng về đối tượng quản lý giữa hai mô hình đại diện cùng tồn tại này. Mặt
khác, bản thân công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước cũng là doanh nghiệp, vì vậy,
vẫn cần và phải có cơ chế điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với công
ty này.
Ưu điểm của phương thức này là thay vì Nhà nước phải trực tiếp đầu tư và thực
hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước tại nhiều doanh nghiệp rải rác trong các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế thì Nhà nước chỉ còn tập trung đầu tư vào một hoặc một số
ít công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước và để cho các công ty này đầu tư tiếp vào
các doanh nghiệp khác. Như vậy, sẽ giảm thiểu những vướng mắt có tính bản chất khi
một cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện chức năng chủ sở hữu đồng thời ở
nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng vì vậy mà phương thức này có nhược điểm là chỉ
thích hợp đối với việc quản lý phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp tổ chức dưới
hình thức công ty cổ phần, công ty TNHH và thuần túy hoạt động với mục tiêu kinh
doanh; không thích hợp với doanh nghiệp mà mục tiêu đầu tư của Nhà nước là đảm
bảo cung ứng sản phẩm, dịch vụ phục vụ lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội, lợi ích quốc
gia hoặc điều tiết vĩ mô hay các lĩnh vực mà cơ chế thị trường chưa có điều kiện để vận
hành. Có thể thấy phương thức thứ hai này tuy có những ưu điểm nhất định nhưng vẫn
còn có những nhược điểm riêng của nó, vì vậy một số nước đã áp dụng phương thức
thứ ba để thực hiện chức năng chủ sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp. Đó là:
1.2.1.3 Hình thành một cơ quan nhà nước chuyên trách thực hiện chức
năng quản lý vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp
Tương tự như các công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước, mô hình này chủ
yếu xuất hiện ở các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu từ đầu những năm 1990 như Cơ
quan Thác quản ở CHLB Đức. Đây là cơ quan trong bộ máy nhà nước chuyên trách
thực hiện chức năng quản lý vốn nhà nước trong quá trình cải cách kinh tế. Tuy nhiên,
thực tiễn cho thấy các cơ quan này sau đó đã chuyển đổi hẳn sang cơ chế hoạt động
như một công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Tại Trung Quốc, từ tháng 3/2003 đã thành lập các Ủy ban giám sát quản lý tài

sản Nhà nước ở cấp Trung ương và ở các cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
khu tự trị, khu kinh tế mở, châu tự trị thực hiện chức năng người đầu tư vốn, giám sát,

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

Trang 25

SVTH: Nguyễn Nam Phương


×