Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại HIỆU lực của hợp ĐỒNG MUA bán HÀNG HOÁ QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.32 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

  

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
(Khoá 32, năm học 2006 – 2010)

HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ

Giảng viên hướng dẫn: Diệp Ngọc Dũng
Bộ môn : Luật Thương Mại
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Cẩm Hường
MSSV: 5062327
Lớp: Thương mại 1

Cần Thơ - 2010


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

CHƯƠNG 1 :TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ VÀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ

1.1 Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
1.1.1

Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Bắt đầu từ việc phục vụ những nhu cầu thiết yếu, con người tiến hành trao


đổi hàng hóa với nhau. Sau đó với mục đích lợi nhuận mua bán hàng hóa dần xuất
hiện. Mua bán là phương thức để chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản từ
chủ thể này sang chủ thể khác, mua bán hàng hóa là giao dịch theo đó, bên bán có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, bên
mua có nghĩ vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu tài sản hàng
hóa theo thỏa thuận 1. Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hóa là hợp đồng mua
bán hàng hóa.
Do nhu cầu và lợi nhuận thúc đẩy, việc mua bán hàng hóa được mở rộng ra
không trong phạm vi của một quốc gia mà liên quan đến nhiều quốc gia khác
nhau, gọi là mua bán hàng hóa quốc tế và cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng
hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Việc làm rõ khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có ý nghĩa
quan trọng trong lý luận và thực tiễn xét xử bởi nó gắn liền với việc xác định luật
nào được áp dụng để điều chỉnh quan hệ của các bên trong hợp đồng. Nếu là hợp
đồng mua bán hàng hóa trong nước thì sẽ được pháp luật trong nước điều chỉnh,
còn nếu là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì nó sẽ được hệ thống luật
thương mại quốc tế điều chỉnh, có thể là luật của các quốc gia liên quan, điều ước
quốc tế hoặc là tập quán quốc tế, khi đó sẽ áp dụng các phương thức chọn luật
theo nguyên tắc của tư pháp quốc tế để chọn ra luật áp dụng. Do đó, cần thiết phải
có khái niệm rõ về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay tính quốc tế của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Đối với pháp luật Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được biết
đến trong nhiều văn bản với các tên gọi khác nhau như với Luật thương mại Việt
Nam 1997, xuất hiện tên gọi “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
1

Khoản 8 điều 3 luật thương mại 2005

GVHD: Diệp Ngọc Dũng


4

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

ngoài” được định nghĩa là hợp đồng được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt
Nam và một bên là thương nhân nước ngoài. Như vậy, theo Luật thương mại Việt
Nam 1997 thì tiêu chí xác định yếu tố quốc tế cho hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế chỉ là yếu tố quốc tịch của chủ thể, theo đó có thể thấy nội hàm khái niệm
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hẹp hơn trên thực tế rất nhiều, với cách hiểu
này thì một loạt các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khác sẽ không thuộc vào
nội hàm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo như luật thương mại Việt
Nam 1997.
Khi Luật thương mại 2005 ra đời, có sự thay đổi nội hàm của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, điều 27 Luật thương mại Việt Nam 2005 quy định:
“ Mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.
Mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hoạt động bằng
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”
Qua đó ta thấy, Luật thương mại 2005 không quy định cụ thể khái niệm
mua bán hàng hóa quốc tế hay hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là gì, mà chỉ
quy định các dạng hình thức của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.
Một quan hệ không được quy định trong luật chuyên ngành thì cần tìm hiểu
trong đạo luật “mẹ”-Bộ luật dân sự. Thế nhưng, Bộ luật dân sự 2005 cũng không
có quy định về khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Như vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành chưa có quy định
cụ thể khái niệm của mua bán hàng hóa quốc tế hay khái niệm về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế.

Tuy nhiên ta có thể xem xét hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo góc
độ là hợp đồng mua bán hàng hóa trong lĩnh vực thương mại có yếu tố nước ngoài.
Và theo Bộ luật Dân sự 2005 quy định yếu tố nước ngoài của quan hệ dân sự gồm
các yếu tố:
-

Một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài,

người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là;
-

Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật

nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc là;
2

Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.2

Điều 758 Bộ luật dân sự 2005

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

5

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Theo điều này, thì việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế sẽ dựa vào:
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, không hạn chế chủ
thể là đối tượng nào nhưng phải ít nhất một bên là người nước ngoài- dấu hiệu
quốc tịch của chủ thể. Nhưng nếu hợp đồng được ký kết giữa người Việt Nam
định cư ở Việt Nam với người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng được xem là
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế- dấu hiệu lãnh thổ.
Sự kiện pháp lý làm phát sinh , thay đổi, chấm dứt hợp đồng theo
pháp luật nước ngoài, chịu sự điều chỉnh theo quy định của pháp luật nước ngoài
hoặc hợp đồng được phát sinh tại nước ngoài như chào hàng, chấp nhận chào hàng
hoặc ký kết hợp đồng tại nước ngoài thì được xem là hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.
-

Hoặc khi đối tượng của hợp đồng ở nước ngoài, ví dụ như hai

thương nhân Việt Nam có trụ sở thương mại tại Việt Nam ký kết hợp đồng mua
bán tài sản đang nằm trên lãnh thổ Lào thì cũng là hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.
Và khi sử dụng hai dấu hiệu sự kiện pháp lý hoặc đối tượng hợp đồng thì
dấu hiệu chủ thể không còn là điều kiện bắt buộc.
Đó là quy định liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo
pháp luật Việt Nam, còn đối với luật các nước cũng như luật quốc tế thì có sự khác
biệt nào không?
Trên thế giới, hầu hết pháp luật của các quốc gia đều có quy định điều
chỉnh về mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, không có khái niệm thống nhất do
đó để xác định thế nào là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì thường căn cứ
vào những dấu hiệu cơ bản nào đó để xác định tính quốc tế của hợp đồng này. Và
hiện nay tồn tại nhiều nhiều yếu tố xác định tính quốc tế với cách lý giải và áp
dụng khác nhau.
Một trong những yếu tố xác định tính quốc tế của hợp đồng là dựa trên dấu

hiệu quốc tịch của thương nhân. Nhưng một số tác giả cho rằng cách xác định này
sẽ gặp một số trở ngại do trong hoạt động thương mại quốc tế, vấn đề xác định
tính quốc gia là vấn đề phức tạp, bởi vì pháp luật mỗi quốc gia có quy định khác
nhau về quốc tịch của pháp nhân. Hiện nay có 3 cách xác định quốc tịch của pháp
nhân:

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

6

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

-

Thuyết đăng ký, theo cách này “ tính quốc gia ” được xác định theo

nơi đăng ký của pháp nhân.
Thuyết địa điểm thường trú của pháp nhân, “ tính quốc gia ” được
xác định là nơi có cơ quan quản lý thực tế của pháp nhân.
-

Thuyết giám sát, dựa trên cơ sở vốn của chủ thể thuộc quốc gia nào

ảnh hưởng đến việc giám sát của pháp nhân.3
Trên thực tế trong một vài trường hợp việc xác định tính quốc tế dựa trên
quốc tịch của pháp nhân gây khó khăn cho việc xác định luật áp dụng cho hợp
đồng.

Ví dụ: công ty A được đăng ký thàng lập trên lãnh thổ Pháp nhưng lại hoạt
động thường xuyên trên lãnh thổ Anh, mà theo pháp luật Pháp thì công ty A có
quốc tịch Anh còn theo pháp luật của Anh thì công ty trên lại có quốc tịch của
Pháp. Giả thiết công ty A ký kết hợp đồng với công ty B và theo quy phạm xung
đột thì sẽ áp dụng luật quốc tịch người bán cho hợp đồng. Trong trường hợp này,
thật khó xác định được quốc tịch của công ty A, có thể sẽ xuất hiện tình trạng dẫn
chiếu đến nhiều luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Hoặc trong trường hợp, một thương nhân Trung Quốc ký kết hợp đồng với
thương nhân đặt trụ sở thương mại ở Việt Nam có quốc tịch Trung Quốc mua cà
phê ở Việt Nam, vậy hợp đồng này có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
không? Và sẽ áp dụng pháp luật quốc gia Trung Quốc như hợp đồng nội địa hay
sử dụng pháp luật thương mại quốc tế điều chỉnh?
Quả thật, việc xác định yếu tố quốc tế mà chỉ dựa trên quốc tịch của doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn, và không bao quát đầy đủ tất cả các dạng thực tế của
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, vậy có thể dựa vào dấu hiệu nào để có thể
đưa ra nội hàm tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chính xác
nhất từ đó có khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa.
Theo quan điểm Công ước Viên 1980 thì dấu hiệu quốc tế là trụ sở kinh
doanh của bên mua và bên bán ở các nước khác nhau4. Quốc tịch của các bên
không là dấu hiệu phân biệt, cho dù người mua, người bán có quốc tịch khác nhau
nhưng việc mua bán được thực hiện trên cùng lãnh thổ của cùng một quốc gia thì
hợp đồng mua bán hàng hóa đó cũng không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa
3
4

Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế- khoa Kinh Tế ĐHQGTPHCM- NXB ĐHQGTPHCM- 2005
Điều 1 – Công ước Viên 1980

GVHD: Diệp Ngọc Dũng


7

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

quốc tế.5 Mặc dù với cách xác định trên thì sẽ đơn giản hơn, nhưng nó không bao
hàm đầy đủ các trường hợp.
Qua phân tích ta nhận thấy, nếu xem xét hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế ở khía cạnh là hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có yếu tố nước ngoài thì có
phần chắc chắn và hoàn thiện hơn so với các cách nêu trên khi xác định khái niệm
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Theo ý kiến của tác giả tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế cần xây dựng dựa trên cơ sở các yếu tố nước ngoài của giao dịch dân sự quy
định tại Bộ luật dân sự, sẽ đầy đủ và chính xác hơn. Khi đó, ta sẽ có khái niệm
“hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa với một
trong các điều kiện sau:
-

Chủ thể của hợp đồng có quốc tịch khác nhau hoặc trụ sở thương

mại trên lãnh thổ quốc gia khác nhau;
-

Căn cứ phát sinh , thay đổi , chấm dứt hợp đồng theo pháp luật nước

ngoài hoặc tại nước ngoài;
Đối tượng của hợp đồng tồn tại ở nước ngoài”
Sau khi đã tìm hiểu, thế nào là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, ta cần

biết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có đặc điểm gì để phân biệt với các loại
hợp đồng khác của hợp đồng thương mại quốc tế như hợp đồng thuê tài chính
quốc tế, du lịch …cũng như với hợp đồng mua bán hàng hóa nội địa.
1.1.2

Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang đầy đủ những nét đặc trưng

của một hợp đồng mua bán hàng hóa, nó cũng là một hợp đồng song vụ và có đền
bù. Cũng là sự thỏa thuận giữa các chủ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy
nhiên, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có những nét riêng biệt so với hợp
đồng mua bán hàng hóa trong nước.
1.1.2.1 Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Theo pháp luật Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được coi là
hợp pháp khi chủ thể của hợp đồng hợp pháp, tức là có năng lực pháp luật, và
người ký kết có năng lực hành vi và thẩm quyền ký kết hợp đồng.

5

Diệp Ngọc Dũng, Cao Nhất Linh- Tập bài giảng tư pháp quốc tế- khoa luật trường ĐHCT- 2001

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

8

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế


Chủ thể bên Việt Nam ngoài những yêu cầu về mặt chủ thể như: năng lực
pháp luật, người ký kết có năng lực hành vi và thẩm quyền ký kết theo quy định
pháp luật Việt Nam cũng như đối với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, thì
thương nhân đó phải được phép hoạt động trực tiếp với nước ngoài, và khi tiến
hành hoạt động xuất nhập khẩu doanh nghiệp phải đăng ký mã số kinh doanh xuất
nhập khẩu tại cục hải quan tỉnh thành phố trực thuộc trung ương.
Chủ thể bên nước ngoài là thương nhân và tư cách pháp lý của họ được xác
định căn cứ theo pháp luật thương nhân đó mang quốc tịch6. Nhưng khi quy phạm
xung đột của quốc gia đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam hoặc hệ thống pháp
luật quốc gia khác hay điều ước quốc tế thì sẽ áp dụng hệ thống pháp luật đó để
điều chỉnh tư cách pháp lý của thương nhân nước ngoài.
Ví dụ chủ thể bên nước ngoài mang quốc tịch hoặc đặt trụ sở tại quốc gia là
thành viên của Công ước Viên 1980 thì chủ thể bên nước ngoài sẽ chịu sự điều
chỉnh của Công ước, mà theo tinh thần của Công ước thì bên xuất nhập khẩu phải
là các thương nhân có trụ sở kinh doanh đặt tại các quốc gia khác nhau. Nếu bên
không có trụ sở kinh doanh thì sẽ dựa vào nơi cư trú của họ, còn quốc tịch của cá
nhân người đại diện của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố quốc
tế của hợp đồng. Theo cách lý giải đó thì khi cả hai người trực tiếp ký vào hợp
đồng có thể đều mang quốc tịch Việt Nam, nhưng họ đại diện cho các bên có trụ
sở kinh doanh đặt tại các quốc gia khác nhau thì hợp đồng ký kết giữa các bên này
vẫn là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.7
Như vậy, đặc điểm của chủ thể chịu ảnh hưởng của nguồn luật điều chỉnh
hợp đồng mà có những yêu cầu khác nhau về chủ thể giao kết hợp đồng.
1.1.2.2 Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Đối tượng hợp đồng hay khách thể của hợp đồng là những gì các bên tham
gia mong muốn đạt được đó là hàng hóa, vậy như thế nào là hàng hóa?
Theo khoản 2 điều 3 luật thương mại Việt Nam 2005 “ hàng hóa bao gồm
tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật
gắn liền với đất đai”.
Như vậy, tiêu chí để xác định đó có phải là hàng hóa hay không là dựa trên

sự phân biệt động sản và bất động sản. Nên nhớ đây chỉ là khái niệm về hàng hóa
6
7

Điều 762- Bộ luật dân sự Việt Nam 2005
Phan Thị Thanh Hồng- trường Đại Học Kinh Tế- Đại Học Đà Nẵng

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

9

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

chứ không phải khái niệm về hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế. Vậy hàng hóa theo hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có gì khác
biệt so với khái niệm hàng hóa trong giao dịch dân sự thông thường?
Hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế thông qua các hoạt động xuất nhập
khẩu và theo điều 28 của Luật thương mại 2005 thì thuật ngữ xuất nhập khẩu được
sử dụng khi đưa hàng hóa ra hoặc vào lãnh thổ Việt Nam và khu vực đặc biệt nằm
trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng.
Như vậy hàng hóa của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hàng hóa gắn
liền với hoạt động xuất nhập khẩu. Vì lý do an ninh quốc gia cũng như trật tự xã
hội, mà không phải hàng hóa nào cũng được xuất nhập khẩu, nên đối tượng của
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải là hàng hóa được phép xuất nhập khẩu ra
vào lãnh thổ Việt Nam, nếu là hàng hóa xuất nhập khẩu có điều kiện thì phải có
giấy phép của cơ quan có thẩm quyền- Bộ Công Thương.
Nhưng trong một vài trường hợp, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng

hóa không dịch chuyển qua biên giới hải quan của quốc gia, đó là khi chủ thể của
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có quốc tịch khác nhau nhưng có trụ sở và
hàng hóa mua bán trên cùng một lãnh thổ nên không có sự chuyển dịch qua biên
giới quốc gia.
So sánh với quy định của Công ước Viên 1980, ta nhận thấy trong Công
ước Viên 1980 không có định nghĩa trực tiếp thế nào là hàng hóa nhưng có quy
định rằng CISG không áp dụng cho các trường hợp mua bán hàng hóa dùng cho cá
nhân, gia đình, nội trợ, mua cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán, tàu bay, máy bay,
điện năng.8 Như vậy, theo công ước thì ngoài những hàng hóa được loại trừ ra thì
tất cả các hàng hóa khác đều là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế.Và có sự căn cứ vào mục đích sử dụng hàng hóa để phân chia hàng hóa nào là
đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Theo quy định Công ước sẽ tồn tại một lượng hàng hóa không thuộc nội
hàm hàng hóa của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo luật Việt Nam, ví dụ
như vũ khí, đạn dược…như vậy quy định về hàng hóa theo luật Việt Nam được
quy định chặt chẽ hơn.
Tóm lại, nội hàm đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không
có sự thống nhất mà phù thuộc vào nguồn luật điều chỉnh hợp đồng đó, và nó cũng
8

Điều 2- CISG

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

10

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế


chịu sự tác động bởi luật của quốc gia mà hàng hóa đó xuất nhập khẩu, cũng như
các quy định về hàng hóa được phép lưu thông. Hàng hóa đó có thể có hoặc không
có sự chuyển dịch qua biên giới quốc gia và cũng có thể cùng hoặc không cùng
lãnh thổ với các bên chủ thể.
Ngoài ra còn một vài nét riêng biệt so với hợp đồng mua bán hàng hóa
trong nước như:
-

Đồng tiền tính giá hoặc thanh toán là đồng ngoại tệ đối với ít nhất

một bên ký kết. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, đồng tiền thanh
toán hoặc tính giá thường là đồng nội địa. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, các bên có thể thỏa thuận đồng tiền thanh toán là đồng tiền của nước người
mua, nước người bán, hoặc nước thứ ba…do đó đồng tiền thanh toán tính giá
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường là đồng ngoại tệ đối với một
hoặc cả hai bên ký kết hợp đồng. Ví dụ: doanh nghiệp Việt Nam ký kết hợp đồng
bán một số lượng lớn cà phê cho doanh nghiệp Mỹ, các bên chọn đồng tiền thanh
toán là đô la Mỹ, khi này thì đồng tiền thanh toán là ngoại tệ so với doanh nghiệp
Việt Nam.Giả sử, hai doanh nghiệp không chọn đồng đô la Mỹ mà chọn đồng
Euro là đồng tiền thanh toán thì lúc này đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với cả
hai doanh nghiệp.
Trên thực tế các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường
chọn các đồng tiền thanh toán là những đồng tiền mạnh như: đô la Mỹ, Euro..
nhằm tránh những rủi ro biến động tỷ giá.
Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi chấm dứt hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
Khác hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, mọi giai đoạn phát sinh,
thay đổi, chấm dứt hoàn toàn được diễn ra trong lãnh thổ của một quốc gia. Một
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được xác lập, thay đổi, chấm dứt theo

pháp luật nước ngoài hoặc ở nước ngoài. Sự kiện này ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, chỉ cần một trong các sự kiện
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt hợp đồng cũng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ
cấu trúc của hợp đồng. Chẳng hạn như, khi hợp đồng được phát sinh thì nó phải
tuân theo quy định của pháp luật nơi ký kết hợp đồng như việc xác định hình thức
của hợp đồng ( như hình thức bắt buộc ở dạng nào, văn bản hay hàng vi lời nói, có
công chứng chứng thật không? )

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

11

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

-

Cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng có thể là tòa án

hay trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là cơ quan nước
ngoài đối với ít nhất một bên chủ thể.Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, do
đó các bên có thể thỏa thuận cơ quan giải quyết tranh chấp khi có tranh chấp xảy
ra, và đó cũng là một trong những điều khoản của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với những đặc điểm nêu trên có vai
trò ý nghĩa gì trong xã hội, nền kinh tế ngày nay mà chúng ta cần phải tìm hiểu
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ?
1.1.3


Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Trước tiên ta tìm hiểu vai trò của mua bán hàng hóa quốc tế trong nền kinh

tế thị trường.
Đối với doanh nghiệp, mua bán hàng hóa quốc tế thực hiện mục tiêu lợi
nhuận của các doanh nghiệp. Thông qua mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh
nghiệp có thể nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh mở rộng quy mô và đa dạng
hóa các hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp đạt được sự tăng trưởng bền
vững. Nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước thông
qua hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, đồng thời nó điều tiết hướng dẫn sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế phục vụ đắc lực
cho công cuộc đổi mới kinh tế thông qua việc sử dụng tốt hơn nguồn vốn lao động
và tài nguyên của đất nước, tăng thu nhập quốc dân, tăng hiệu quả sản xuất cũng
như tạo vốn và kỹ thuật bên ngoài cho nền sản xuất kích thích sự phát triển của lực
lượng sản xuất và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Vì những lý do nêu trên ta cần đẩy mạnh hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế, mà hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở pháp lý của mua bán
hàng hóa quốc tế, là hình thức điều kiện để đảm bảo được pháp luật bảo vệ, Nhà
Nước bảo hộ. Pháp luật là công cụ pháp lý điều chỉnh mối quan hệ phát sinh trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hành lang pháp lý về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế càng hoàn thiện thì các thương nhân càng vững tin khi tham gia vào
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

12

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường



Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

1.2 Tổng quan về hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế:
1.2.1 Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế:
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng rất quan trọng. Bởi kể từ
thời điểm hợp đồng có hiệu lực thì hợp đồng đó mới được công nhận hợp pháp và
được pháp luật bảo vệ.
Theo Bộ luật dân sự 2005, điều 405 “ hợp đồng được giao kết hợp pháp có
hiệu lực từ thời điểm giao kết trừ trường hợp có thỏa thuận khác ”, theo đó các
bên có thể thỏa thuận với nhau về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng, hoặc
nếu không có thỏa thuận thì hợp đồng có thể phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm các
bên giao kết hợp đồng hợp pháp.
Thời điểm nào là thời điểm hợp đồng được giao kết hợp pháp? Luật Việt
Nam quy định hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết vào thời điểm bên chào
hàng nhận được trả lời chấp nhận chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của bên
chào hàng9.Về việc xác định thời điểm ký kết hợp đồng thì quy định của Công ước
Viên 1980- điều 23 và quy định của luật Việt Nam có sự tương ứng đều quy định
về thời điểm ký kết hợp đồng theo thuyết tiếp thu.
Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về thời điểm phát sinh hiệu lực thì
sự thỏa thuận đó được tôn trọng bởi hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận và nguyên
tắc tự do thỏa thuận luôn được ưu tiên vì thế thỏa thuận của các bên liên quan đến
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cũng được xem là một điều khoản của hợp
đồng. Việc xem thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng giữa các bên
như một điều khoản của hợp đồng được dẫn đến nếu như thỏa thuận đó không trái
với pháp luật và đạo đức xã hội thì phải được pháp luật công nhận.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì thời điểm mà hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế phát sinh hiệu lực là thời điểm hợp đồng được giao kết hoặc vào
thời điểm do các bên thỏa thuận với nhau được ghi nhận trong hợp đồng.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế việc giao kết vắng mặt dường
như phổ biến về việc này theo luật Việt Nam thì thời điểm giao kết hợp đồng vắng
mặt được xác định theo pháp luật của nước của bên đề nghị giao kết hợp đồng - tại
khoản 2 điều 771 Luật dân sự Việt Nam 2005.
9

Khoản 1 điều 403 – Bộ luật dân sự 2005

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

13

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Khi đó tùy thuộc vào quy định của quốc gia bên đề nghị giao kết hợp đồng,
nếu pháp luật nước đó quy định thời điểm hợp đồng ký kết là thời điểm người
được chào hàng gửi đi chấp nhận chào hàng- thuyết tống phát; hay quy định xác
định thời điểm ký kết hợp đồng là thời điểm bên chào hàng nhận được chấp nhận
chào hàng từ người được chào hàng- thuyết tiếp thu thì sẽ theo đó mà xác định
thời điểm ký kết hợp đồng.
Tóm lại, việc thời điểm nào hợp đồng giao kết, thời điểm nào hợp đồng
phát sinh hiệu lực đều phù thuộc vào nguồn luật điều chỉnh hợp đồng, đó có thể là
nguồn luật điều chỉnh về mặt hình thức của hợp đồng, hay luật của nước đề nghị
giao kết hợp đồng, nước của người được đề nghị giao kết hợp đồng.


1.2.2
Ý nghĩa về việc xác định hiệu lực của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế:
Như đã trình bày ở trên, hợp đồng có hiệu lực là hợp đồng có khả năng làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết, và được pháp luật bảo
vệ.
Khi tham gia vào hợp đồng thì các bên chỉ vì điều mà họ mong muốn đạt
được, nhưng nếu như hợp đồng không phát sinh hiệu lực không được thực hiện thì
các bên tham gia không thể nào đạt được mục đích khi ký kết hợp đồng, hoặc hợp
đồng đã thực hiện nhưng hợp đồng lại bị tuyên vô hiệu thì các bên phải khôi phục
lại tình trạng ban đầu, trao trả cho nhau những gì đã nhận.
Khi đó, mọi giao dịch hoạt động bị ngưng trệ, ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp nói chung và các bên tham gia nói riêng, cũng như ảnh hưởng đến nền kinh
tế- như đã trình bày ở vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
1.2.3
Nguồn luật điều chỉnh về hiệu lực của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hình thức pháp lý của quan hệ
thương mại quốc tế. Vì vậy, việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh loại hợp đồng
này tương đối phức tạp, do đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là
một hợp đồng có yếu tố nước ngoài, nguồn luật điều chỉnh có thể là nguồn luật
khác nhau như: điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, pháp luật quốc gia…

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

14

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường



Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Nguồn luật điều chỉnh là tổng hợp các hình thức chứa đựng các quy phạm
pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Hiệu lực luôn gắn liền với hợp đồng, là một phần của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế nên cũng chịu sự điều chỉnh của các nguồn luật sau:
1.2.3.1 Điều ước quốc tế:
Điều ước quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các văn bản
pháp lý do các quốc gia, các tổ chức quốc tế hoặc các chủ thể khác của pháp luật
quốc tế trên cơ sở tự nguyện bình đẳng ký kết hoặc tham gia nhằm xác lập quyền
và nghĩa vụ của mình với nhau trong giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế.
So sánh giữa điều 2 Luật ký kết, gia nhập, thực hiện điều ước quốc tế 2005
của Việt Nam với định nghĩa của Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc
tế thì chủ thể của điều ước quốc tế theo luật Việt Nam rộng lớn hơn, nó bao gồm
quốc gia, tổ chức quốc tế và chủ thể khác còn theo Công ước Viên 1969 thì chủ
thể chỉ là quốc gia, có thể nói đó là sự vượt trội hơn của luật Việt Nam với quy
định đó sẽ bao hàm đầy đủ các dạng của điều ước quốc tế.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều điều ước quốc tế điều chỉnh các loại hợp
đồng thương mại khác nhau, ví dụ Công ước Viên điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, Công ước Ottawa 1988 điều chỉnh hợp đồng thuê tài chính và
hợp đồng chuyển nhượng quyền yêu cầu thanh toán; Công ước Hamburg 1978
điều chỉnh hợp đồng vận tải biển…
Xét về chủ thể ký kết hoặc gia nhập, điều ước quốc tế được chia thành:


Điều ước quốc tế song phương về mua bán hàng hóa quốc tế: là loại

điều ước quốc tế do hai bên chủ thể trong quan hệ quốc tế soạn thảo và ký kết với
mục đích xác lập mối quan hệ pháp lý giữa hai bên trong hoạt động mua bán hàng
hóa quốc tế, chẳng hạn như hiệp định thương mại Việt Mỹ…hai bên chủ thể trong

điều ước song phương có thể là quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc các chủ thể khác
của pháp luật quốc tế, và điều ước quốc tế này chỉ có giá trị điều chỉnh quan hệ
giữa các chủ thể ký kết, không có giá trị đối với bên thứ ba.


Điều ước quốc tế đa phương: là điều ước quốc tế do ba chủ thể trong

quan hệ quốc tế trở lên ký kết hoặc gia nhập.Ví dụ như : Công ước Viên về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế đước ký kết năm 1980..
Xét về tính chất của điều ước quốc tế, thì điều ước quốc tế phân thành các
loại:
GVHD: Diệp Ngọc Dũng

15

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế



Loại thứ nhất, là loại điều ước quốc tế đề ra những nguyên tắc pháp

lý chung làm cơ sở cho hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động mua
bán hàng hóa nói riêng. Loại điều ước quốc tế này không điều chỉnh trực tiếp
quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
mà nó chỉ định ra những nguyên tắc pháp lý có tính chất chỉ đạo, loại điều ước
quốc tế này chỉ điều chỉnh gián tiếp các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.



Loại thứ hai, là loại điều ước quốc tế trực tiếp điều chỉnh quyền và

nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Loại điều ước
này đóng vai trò quan trọng. giúp các bên có thể giải quyết tranh chấp cụ thể phát
sinh từ hợp đồng ký kết.
Khi nói đến điều ước quốc tế, một trong những vấn đề quan trọng là trong
trường hợp nào điều ước quốc tế được áp dụng.
Theo pháp luật Việt Nam, việc áp dụng điều ước quốc tế được ghi nhận tại
khoản 2 điều 759 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 “ trong trường hợp điều ước quốc
tế mà Cộng hòa chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định
của Bộ luật này thì áp dụng quy định của điều ước đó ”. Và khoản 1 điều 5 luật
thương mại Việt Nam 2005 quy định: “ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước
ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của điều
ước quốc tế đó thì áp dụng điều ước quốc tế đó ”. Như vậy, theo điều luật này thì
điều ước quốc tế sẽ được áp dụng khi Việt Nam là thành viên của điều ước quốc tế
và điều ước quốc tế có những quy định khác với những quy định của pháp luật
Việt Nam.
Theo điều 1 của CISG thì CISG được áp dụng trong các hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau
trong các trường hợp:
o
o

Khi các quốc gia này là thành viên của CISG.
Khi theo quy tắc của tư pháp quốc tế, luật được dẫn chiếu áp dụng là

luật của quốc gia thành viên của CISG .
Như vậy, những quy định của CISG sẽ thay thế cho luật bất kỳ nước nào là

thành viên của Công ước trong việc điều chỉnh các hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Tuy nhiên, đó chỉ là những giải pháp mang tính nguyên tắc, bởi cũng theo
quy định của điều 6 Công ước thì các bên tham gia hợp đồng có quyền loại bỏ việc

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

16

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

áp dụng một phần hoặc toàn bộ Công ước, nếu như các bên không mong muốn áp
dụng Công ước để điều chỉnh hợp đồng của mình. Điều này cũng xuất phát từ
nguyên tắc tôn trọng quyền tự do ý chí, tự do thỏa thuận của các bên trong việc lựa
chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Chính vì lý do đó, mà
tất cả những thỏa thuận hay mọi giải thích của các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế đều được xem là có giá trị cao nhất và được ưu tiên áp dụng
trước hết. Điều này có nghĩa là, nếu như trong hợp đồng các bên có thỏa thuận
chọn luật áp dụng và sự thỏa thuận này đã loại trừ việc áp dụng CISG thì tất nhiên
là CISG không được áp dụng, căn cứ theo thỏa thuận đó mặc dù có thể các bên
giao kết hợp đồng có trụ sở tại quốc gia là thành viên của CISG.
Theo nguyên tắc chung, điều ước quốc tế được áp dụng trong hai trường
hợp sau:


Thứ nhất, quốc gia của các chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng

hóa ký kết hay tham gia điều ước quốc tế tương ứng.


Thứ hai, mặc dù quốc gia của các bên chủ thể trong hợp đồng không
tham gia ký kết hay phê chuẩn điều ước quốc tế, nhưng các bên thỏa thuận áp
dụng điều ước quốc tế để điều chỉnh quan hệ của các bên theo hợp đồng. Trong
trường hợp này nếu quy định nào đó của điều ước quốc tế trái với luật Việt Nam
thì phải áp dụng quy định của luật Việt Nam.
Vai trò của điều ước quốc tế thể hiện ở chỗ, nó là công cụ pháp lý hữu hiệu
để giải quyết xung đột pháp luật và sự có mặt của điều ước quốc tế hạn chế việc áp
dụng các quy phạm của pháp luật nước ngoài. Bởi vì, những quy phạm pháp luật
của các điều ước quốc tế là những quy phạm thống nhất, khi phải giải quyết tranh
chấp của hợp đồng thì các cơ quan có thẩm quyền cũng như đương sự căn cứ vào
quy phạm đó để xem xét mà không cần tìm hiểu chọn luật quốc gia nào để áp
dụng, các tranh chấp sẽ được giải quyết nhanh chóng.
Mặc dù, điều ước quốc tế là nguồn cơ bản và hữu hiệu nhưng số lượng điều
ước quốc tế không nhiều nên không thể điều chỉnh tất cả mối quan hệ phát sinh
trong thực tế.
Do đó, để bảo vệ địa vị pháp lý của các bên trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, thúc đẩy hoạt động thương mại, thì cần xây dựng các điều ước quốc
tế với những quy phạm thống nhất đồng thời vẫn dựa vào nguồn luật chủ yếupháp luật quốc gia.

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

17

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

1.2.3.2 Pháp luật quốc gia:

Các quy phạm pháp luật quốc gia trong điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, được chia thành hai nhóm:
Các quy phạm bắt buộc, ví dụ các quy phạm về chủ thể ký kết, hình
thức của hợp đồng, đối tượng của hợp đồng…Các quy phạm loại này có hiệu lực
pháp lý trong mọi trường hợp, không phụ thuộc vào việc luật áp dụng cho hợp
đồng là luật quốc gia nào, điều ước quốc tế hay tập quán thương mại quốc tế.
-

Các quy phạm nội dung, tức là những quy phạm quy định quyền và

nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
Theo pháp luật Việt Nam, việc áp dụng pháp luật quốc gia được quy định
tại khoản 1 điều 759, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 : “ các quy định của pháp luật
dân sự của nươc Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam được áp dụng đối với các quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài trừ trường hợp bộ luật này có quy định khác ”.
Còn trường hợp pháp luật nước ngoài áp dụng thì được quy định tại khoản
3 điều 759 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 theo đó pháp luật nước ngoài đó được
áp dụng khi pháp luật Việt Nam có sự dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước
ngoài mà hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Cộng hòa chủ nghĩa Việt Nam hoặc được các bên thỏa thuận lựa chọn và sự
lựa chọn này được pháp luật Việt Nam công nhận.
Theo luật dân sự 2005 Việt Nam, về nguyên tắc có một số cách xác định
việc áp dụng pháp luật quốc gia :
+ Luật của nước mà các bên mang quốc tịch hay nơi cư trú hoặc nơi có
trụ sở sẽ điều chỉnh về tu cách chủ thể của các bên.(từ điều 760 đến điều 765 )
+ Pháp luật nơi giao kết hợp đồng sẽ điều chỉnh về hình thức của hợp đồng
(điều 770 )
+ Pháp luật do các bên chọn sẽ điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên,
trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật áp dụng thì luật được áp
dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các bên là luật nơi thực hiện hợp đồng.(điều

769 )
Tuy nhiên, đối với những hợp đồng được giao kết và thực hiện hoàn toàn
tại Việt Nam hoặc hợp đồng có liên quan đến bất động sản ở Việt Nam thì phải
tuân theo pháp luật Việt Nam.( điều 769)
Về nguyên tắc, luật quốc gia được áp dụng trong các trường hợp sau:

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

18

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Luật quốc gia được áp dụng khi có sự lựa chọn của các bên tham gia hợp
đồng. Các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thỏa thuận
chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của mình là luật quốc
gia. Và thỏa thuận này phải có giá trị pháp lý, đúng hơn là phải trong khuôn khổ
pháp luật cho phép, thông thường luật mà các bên lựa chọn phải là luật của nước
có mối liên hệ với hợp đồng, không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước
mình đồng thời sự thỏa thuận đó phải là sự tự nguyện của các bên. Quyền lựa chọn
luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một trong những quyền
được pháp luật quốc gia cũng như các điều ước quốc tế ghi nhận và được ưu tiên
áp dụng.
Trong việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, quyền lựa chọn luật
áp dụng cho hợp đồng của các bên, theo nguyên tắc chung, thể hiện ý chí của các
bên, tự do ý chí của các bên được coi như là khả năng của các bên tự thiết lập nội
dung của hợp đồng và những điều kiện của nó. Đó có thể là luật của nước người
bán, luật nước người mua, hoặc luật của nước thứ ba nào đó.

Luật quốc gia quy định phải áp dụng luật của nước mình để điều
chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Đó là những quy phạm xung đột mệnh
lệnh quy định trong một số trường hợp ngoại lệ mà khi hợp đồng rơi vào những
trường hợp này các bên trong hợp đồng phải chọn luật quốc gia để điều chỉnh hợp
đồng của mình mà không có quyền lựa chọn hệ thống pháp luật nào khác để áp
dụng.
-

Căn cứ vào nguyên tắc xác định luật áp dụng trong tư pháp quốc tế

để xác định luật được áp dụng trong trường hợp các bên không thỏa thuận chọn
luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của mình.
Có thể là nguyên tắc luật của nước người bán, luật của nước người mua.
Hoặc luật nơi thực hiện hành vi, trong đó có luật nơi ký kết hợp đồng- điều chỉnh
về hình thức của hợp đồng và quyền và nghĩa vụ các bên; luật nơi thực hiện hợp
đồng, luật nơi vi phạm pháp luật.
-

Khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật

quốc gia.
Hiện nay, luật quốc gia là nguồn luật chủ yếu trong việc điều chỉnh hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhưng pháp luật của các quốc gia không thể thống
nhất với nhau, và không thể dự liệu được các vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Nên

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

19

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường



Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp xảy ra không ít khó khăn, do vậy ngoài
hai nguồn luật trên, còn thêm nguồn luật khác giúp phần nào giải quyết được triệt
để những vấn đề của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
1.2.3.3 Tập quán quốc tế:
Khỏan 3, điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: thói quen trong hoạt động
thương mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành và lặp lại nhiều
lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên mặc nhiên thừa nhận để xác
định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại.
Hiện nay có các tập quán điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, hiệu lực của hợp đồng như: Incoterm, Bộ nguyên tắc Unidroit.
Điểm khác biệt giữa tập quán quốc tế với luật pháp đó chính là quá trình
hình thành lâu, áp dụng có hệ thống và tính thừa nhận rộng tãi nhưng lại không
được ghi nhận ở đâu.
Có thể chia tập quán quốc tế thành ba loại theo tiêu chí tính chất và giá trị:
Tập quán mang tính chất nguyên tắc là tập quán về các vấn đề chung
được hình thành trên cơ sở nguyên tắc chủ quyền quốc gia hoặc những nguyên tắc
pháp luật được áp dụng phổ biến trong thực tiễn. Ví dụ: tập quán “ luật nhân thân”
căn cứ vào luật quốc tịch của pháp nhân.
-

Tập quán mang tính chất chung là tập quán thương mại được công

nhận và áp dụng rộng rãi ở nhiều nước.Ví dụ như : Incotern là bộ điều kiện thương
mại.
-


Tập quán mang tính chất khu vực là tập quán thương mại quốc tế có

phạm vi áp dụng nhỏ hẹp trong khu vực, vùng nhất định.
Một thói quen xử sự chỉ được thừa nhận là tập quán quốc tế khi và chỉ khi:
-

Tập quán thương mại quốc tế là thói quen thương mại được hình

thành lâu đời và phải được áp dụng liên tục.
Tính lâu đời và liên tục trong việc áp dụng tập quán thương mại quốc tế là
cơ sở pháp lý đầu tiên để xác định một tập quán thương mại là nguồn của luật
thương mại quốc tế. Nếu một tập quán thương mại quốc tế có sự hình thành lâu
đời nhưng chỉ được áp dụng cách quãng trong khoảng thời gian nhất định thì tập
quán này không thể là nguồn của thương mại quốc tế10.Tuy nhiên, không có quy
10

Diệp Ngọc Dũng- Tập bài giảng thương mại quốc tế- khoa luật trường ĐHCT- 2002

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

20

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

định nào về việc thời gian hình thành tập quán thương mại đó bao nhiêu lâu mới
được gọi là lâu đời, sự xác định tính lâu đời này hoàn toàn phù thuộc vào cơ quan
có thẩm quyền xét xử.

-

Tập quán thương mại phải có nội dung rõ ràng.

Do đặc thù của tập quán là không được ghi nhận một cách cụ thể, nên đòi
hỏi tập quán phải có nội dung cụ thể, bởi vì tính rõ ràng và cụ thể của tập quán
thương mại quốc tế không chỉ là cơ sở pháp lý để các bên chủ thể thực hiện quyền
nghĩa vụ của mình mà nó còn là cơ sở pháp lý để các cơ quan xét xử áp dụng để
giải quyết tranh chấp các bên.
-

Tập quán thương mại phải là thói quen duy nhất trong giao dịch

thương mại quốc tế.
Tính duy nhất của một tập quán thương mại quốc tế là cơ sở để loại trừ
những trường hợp trong một thời điểm có nhiều thói quen thương mại có nội dung
tương tự cùng điều chỉnh một quan hệ pháp luật trong thương mại quốc tế, nếu xảy
ra như vậy sẽ không thể xác định chính xác quyền và nghĩa vụ của các bên khi tập
quán thương mại quốc tế được thỏa thuận chọn làm luật áp dụng hay có sự dẫn
chiếu đến tập quán thương mại quốc tế.
-

Tập quán thương mại phải được đại đa số các chủ thể trong giao dịch

thương mại quốc tế hiểu biết và chấp nhận.
Một tập quán thương mại quốc tế mà không được hầu hết chủ thể trong
giao dịch mua bán quốc tế biết đến và chấp nhận thì không được coi là nguồn luật
điều chỉnh các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều này thể hiện tính phổ
biến và tính pháp lý của tập quán thương mại khi nó là nguồn của luật thương mại
quốc tế. Dựa vào tính chất này mà trên thực tế, cơ quan xét xử có thể giải quyết

tranh chấp trong thương mại quốc tế một cách thuận lợi và hợp lý. Trong trường
hợp tranh chấp hợp đồng phát sinh nhưng hợp đồng do các bên ký kết không có
điều khoản cụ thể về việc giải quyết tranh chấp, luật trong nước và điều ước quốc
tế liên quan cũng không có quy phạm điều chỉnh, thì cơ quan xét xử có thể áp
dụng tập quán thương mại quốc tế giải quyết. Trong trường hợp này cơ quan xét
xử đã vận dụng nguyên tắc suy đoán rằng các bên chủ thể đã biết và buộc phải biết
tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng đối với quyền và nghĩa vụ của họ.
Nói cách khác, vì các tập quán thương mại quốc tế đã được đại đa số các chủ thể
trong giao dịch thương mại quốc tế hiểu biết và chấp nhận cho nên mặc dù các bên

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

21

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

không công khai thỏa thuận trong hợp đồng về việc áp dụng tập quán thương mại
quốc tế, nhưng trong quá trình giao kết các bên đã mặc nhiên chấp thuận sự điều
chỉnh của tập quán thương mại quốc tế đối với quyền và nghĩa vụ của mình.11
Theo nguyên tắc, bản thân của tập quán thương mại quốc tế không có hiệu
lực pháp lí như một quy phạm pháp luật, nó chỉ có hiệu lực trong những trường
hợp cụ thể do luật định. Trong thực tiễn, tập quán thương mại quốc tế được áp
dụng trong những trường hợp sau đây:
Căn cứ vào ý chí của các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế, tức là tập quán quốc tế được áp dụng khi các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế thỏa thuận chọn áp dụng ghi trong hợp đồng. Tuy nhiên, việc lựa
chọn phải tuân theo một số nguyên tắc do luật quốc gia mỗi nước quy định, như

khoản 4 điều 759 Bộ luật Việt Nam 2005 quy định : luật được chọn áp dụng không
được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Khi các bên đã
thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các
bên thì tập quán thương mại quốc tế có giá trị ràng buộc các bên.
Tập quán thương mại được các điều ước thương mại quốc tế liên
quan quy định áp dụng.
Khi một điều ước quốc tế về thương mại có quy định áp dụng một hoặc
một số tập quán thương mại quốc tế thì các tập quán thương mại quốc tế đó đương
nhiên được áp dụng cho quan hệ của các chủ thể mang quốc tịch hoặc trụ sở ở các
nước thành viên của điều ước quốc tế đó. Khoản 1 điều 5 luật thương mại Việt
Nam 2005 “ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc
tế hoặc có quy định khác với luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế
đó ”. Như vậy kể cả trong trường hợp các bên không thỏa thuận chọn tập quán
thương mại quốc tế làm luật áp dụng, thì tập quán thương mại quốc tế đó vẫn được
áp dụng nếu nó được quy định trong điều ước quốc tế về thương mại có liên quan.
Luật quốc gia của nước các chủ thể công nhận bằng văn bản hiệu lực
của tập quán thương mại quốc tế như là của quy phạm pháp luật.
Trong trường hợp luật trong nước điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các
bên quy định áp dụng tập quán thương mại quốc tế thì tập quán thương mại quốc
tế được áp dụng.
11

Diệp Ngọc Dũng- Tập bài giảng thương mại quốc tế- khoa luật trường ĐHCT- 2002

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

22

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường



Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

-

Cơ quan xét xử cho rằng các bên chủ thể đã mặc nhiên áp dụng tập

quán thương mại quốc tế trong giao dịch thương mại của họ.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận cụ thể về việc áp dụng tập
quán thương mại quốc tế, đồng thời các điều ước quốc tế và luật trong nước có
liên quan cũng không có quy định cụ thể về vấn đề này thì cơ quan xét xử có thể
áp dụng tập quán thương mại quốc tế để giải quyết tranh chấp.Việc cơ quan xét xử
sẽ áp dụng tập quán thương mại quốc tế để giải quyết tranh chấp khi có đủ cơ sở
pháp lý để khẳng định rằng trong khi giao kết hợp đồng, các bên chủ thể đã ngầm
hiểu các bên phải hành động theo tập quán thương mại quốc tế mà bất cứ nhà kinh
doanh thương mại nào cũng hành động như vậy trong hoàn cảnh tương tự.12 Luật
thương mại Việt Nam cũng quy định tại điều 12 trừ trường hợp có thỏa thuận
khác, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói quen trong hoạt động thương
mại đã được thiết lập giữa các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không được trái
với quy định của pháp luật.
1.2.3.4 Án lệ:
Quy tắc xét xử hình thành từ thực tiễn xét xử của Tòa án gọi là án lệ hay tiền
lệ pháp, được hiểu là bản án hoặc quyết định trong thể hiện các quan điểm của các
thẩm phán đối với các vấn đề pháp lý có tính chất quyết định trong việc giải quyết
các vụ việc nhất định và mang ý nghĩa giải quyết các vấn đề tương tự trong tương
lai.
Thông thường, án lệ được sử dụng trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng thương mại quốc tế mà chủ thể của hợp đồng là các bên thuộc hệ
thống pháp luật Anh- Hoa Kỳ, do ở Anh- Mỹ thì án lệ là nguồn cơ bản của pháp

luật. Còn ở Việt Nam, chỉ thừa nhận những văn bản pháp quy mới là nguồn của
pháp luật, và thể hiện quan điểm của Việt Nam là Tòa án chỉ là cơ quan xét xử
không có quyền ban hành quy phạm pháp luật, chỉ có nhiệm vụ xét xử tuân theo
pháp luật mà thôi. Nhưng trên thực tế, trong quá trình giải thích luật và hướng dẫn
áp dụng pháp luật thì án lệ có giá trị pháp lý nhất định mà không thể phủ nhận, Ví
dụ nếu có hai vụ án có tính chất tương tự, nhưng phán quyết của tòa án cấp dưới
lại khác so với phán quyết của tòa án cấp trên thì khả năng bản án đó bị hủy rất
cao.
12

Diệp Ngọc Dũng- Tập bài giảng thương mại quốc tế- khoa luật trường ĐHCT- 2002

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

23

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Ở một số quốc gia, họ có thể xem thuyết của các nhà luật học cũng là nguồn
của luật.
Như vậy do đặc thù của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là giao dịch dân
sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài nên ngoài hệ thống pháp luật trong nước
còn có nhiều hệ thống pháp luật có thể đước áp dụng để điều chỉnh hợp đồng. Mà
mỗi hệ thống pháp luật có quy định khác nhau không tránh khỏi sự xung đột, do
đó mà hầu như quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của chủ thể được ưu tiên trong
việc xem xét pháp luật nào được áp dụng cho hợp đồng.


GVHD: Diệp Ngọc Dũng

24

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

CHƯƠNG 2:
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN HIỆU LỰC CỦA HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
Để hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có hiệu lực thì cần phải thỏa
mãn một số điều kiện theo luật định, và những điều kiện đó phù thuộc vào
nguồn luật được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
nói chung và hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng.
2.1 Điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có hiệu
lực:
Mua bán hàng hóa quốc tế là giao dịch dân sự trong lĩnh vực thương
mại có yếu tố nước ngoài, do đó những điều kiện để một giao dịch dân sự có
hiệu lực được áp dụng cho hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam – Bộ luật dân sự 2005 quy định giao dịch dân
sự chỉ có hiệu lực khi và chỉ khi thỏa mãn các điều kiện về chủ thể, mục đích
nội dung của giao dịch, ý chí của chủ thể và hình thức giao dịch.13
2.1.1 Điều kiện về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được coi là hợp pháp khi chủ
thể của hợp đồng hợp pháp, nghĩa là chủ thể đó phải có năng lực pháp luật,
năng lực hành vi, và thẩm quyền ký kết hợp đồng.
Năng lực pháp luật của chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

thể hiện rõ nhất đó là quyền kinh doanh xuất nhập khẩu.
Theo pháp luật Việt Nam quy định về quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu, cụ thể là Nghị định 12/2006/NĐ-CP có hiệu lực ngày 01/5/2006,
thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thành lập theo
quy định của pháp luật chỉ cần đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu tại Cục hải quan Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung Ương thì được
kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề đăng
ký kinh doanh trừ hàng hóa thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất

13

Điều 122- Bộ luật dân sự 2005

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

25

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu. Chi
nhánh của thương nhân Việt Nam không có vốn đầu tư nước ngoài cũng
được xuất nhập khẩu theo sự ủy quyền của thương nhân.14
Đối với thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài thì có hai trường hợp
mua bán hàng hóa quốc tế:
Trường hợp thứ nhất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
trực tiếp nhập khẩu, ủy thác nhập khẩu, tạm nhập cũng như trực tiếp xuất
khẩu, ủy thác xuất khẩu, tạm xuất các loại hàng hóa để triển khai hoạt động

đầu tư phù hợp với mục tiêu của dự án đầu tư quy định tại Giấy phép đầu tư
hoặc Giấy chứng nhận đầu tư.
Trường hợp thứ hai, đối với việc mua bán hàng hóa quốc tế mà đối
tượng không phải là các hàng hóa nói trên thì doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài phải được cấp giấy phép kinh doanh hoạt động mua bán hàng
hóa và các hoạt động liên quan đến mua bán hàng hóa tại Việt Nam.
Pháp luật Việt Nam cũng cho phép chi nhánh thương nhân nước
ngoài đặt tại Việt Nam có quyền ký kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế. 15
Theo dõi qua các giai đoạn luật Việt Nam đã có những thay đổi cơ
bản trong việc quy định về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh
nghiệp, từ việc phải xin giấy phép của Bộ Thương Mại và chỉ được kinh
doanh hàng hóa theo ngành nghề ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh thì nay quyền kinh doanh xuất nhập khẩu được mở rộng cho hầu hết
các doanh nghiệp16. Có thể lý giải do nhu cầu kinh doanh xuất nhập khẩu của
doanh nghiệp tăng cao cũng như tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế phát
triển, giao lưu thương mại với các quốc gia khác.
Đồng thời chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng phải
đáp ứng điều kiện về năng lực hành vi.
Đối với chủ thể là thương nhân bên nước ngoài tư cách pháp lý của
họ sẽ được xác định căn cứ theo pháp luật mà thương nhân đó mang quốc
tịch.17
14

Điều 3 – Nghị Định 12/2006/NĐ-CP
Điều 4 – Nghị định 23/2007/NĐ- CP
16
Nghị định 33/1994/NĐ- CP
17
Khoản 1 điều 762- Bộ luật dân sự 2005

15

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

26

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Chủ thể bên Việt Nam phải là thương nhân và sẽ áp dụng pháp luật
Việt Nam điều chỉnh năng lực hành vi của họ, ta có thể hiểu nếu thương
nhân này có đủ năng lực hành vi để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
trong nước thì có năng lực hành vi thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Những quy định về năng lực hành vi của thương nhân Việt Nam
được điều chỉnh trong Bộ luật dân sự, cụ thể như quy định về độ tuổi, tình
trạng tinh thần cũng như tình trạng sức khỏe của chủ thể.
Ngoài ra, vấn đề người ký kết có thẩm quyền ký kết hay không cũng
rất quan trọng, khi người ký kết không đủ thẩm quyền thì hợp đồng sẽ bị
tuyên vô hiệu.
Theo pháp luật Việt Nam, người ký kết là người đại diện cho thương
nhân theo luật hoặc theo ủy quyền .
 Đại diện theo luật là đại diện do pháp luật quy định, là người đứng
đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
Hiện nay, theo pháp luật Việt Nam người đại diện theo pháp luật của
thương nhân với từng loại hình doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân là chủ doanh
nghiệp tư nhân.

Người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên là chủ tịch hội đồng thành viên hay chủ tịch công ty hoặc Giám
đốc (tổng giám đốc) theo điều lệ công ty.
Người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên là chủ tịch hội đồng thành viên hoặc Giám đốc (tổng giám
đốc) theo điều lệ công ty.
Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần là chủ tịch hội
đồng quản trị hoặc Giám đốc (tổng giám đốc) theo điều lệ công ty.
Người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh là các thành viên
hợp danh.
Người đại diện theo pháp luật của công ty Nhà nước không có hội
đồng quản trị là giám đốc; có hội đồng quản trị là tổng giám đốc.

GVHD: Diệp Ngọc Dũng

27

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Hường


×