Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT về bảo vệ NHÀ đầu tư TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 87 trang )

Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2009 – 2013

Đề tài:

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Giảng viên hƣớng dẫn:
TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Ngọc Hoa
MSSV: 5095327
Lớp: Luật Thƣơng mại 3

Cần Thơ, tháng 11 năm 2012

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 1

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa




Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước khi thị trường chứng khoán ra đời, nhu cầu vốn của nền kinh tế được
đáp ứng bởi các định chế tài chính trung gian, điển hình là ngân hàng. Tuy nhiên, do
bản thân các ngân hàng cũng là người vay vốn từ công chúng cho nên họ luôn đặt ra
những điều kiện rất chặt chẽ về việc sử dụng vốn và thời gian hoàn trả vốn để đảm
bảo thu hồi được nợ, thông thường các doanh nghiệp phải hoàn trả trong thời gian
ngắn. Khi nền kinh tế phát triển đến trình độ nhất định, nguồn vốn ngắn hạn từ ngân
hàng không đủ sức đáp ứng cho mục tiêu, kế hoạch phát triển dài hạn của doanh
nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung, trong bối cảnh đó thị trường
chứng khoán ra đời như là một tất yếu, tạo ra nơi gặp gỡ trực tiếp giữa người có vốn
nhưng thiếu cơ hội đầu tư và người có cơ hội đầu tư nhưng lại thiếu vốn. Thông qua
việc mua các loại chứng khoán những người có vốn nhàn rỗi trực tiếp đầu tư vốn
vào trong doanh nghiệp và thụ hưởng lợi ích nhất định, những chủ thể trên được gọi
là những nhà đầu tư. Từ đó có thể thấy, trên thị trường chứng khoán chính các nhà
đầu tư là những người giữ vai trò quan trọng, họ là nhân tố có ý nghĩa quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của thị trường, không có nhà đầu tư thì không thể có thị
trường, do đó muốn duy trì sự ổn định và phát triển thị trường thì phải bảo vệ được
nhà đầu tư. Trên thế giới, pháp luật về chứng khoán các nước có những cách thức
điều chỉnh và tên gọi có khác nhau, 1nhưng bao giờ cũng thống nhất quan điểm lấy
nhà đầu tư làm trọng tâm của thị trường và đặt mục tiêu bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư
lên hàng đầu.
Tại Việt Nam, thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động hơn mười
năm và với những thành công ban đầu đã tạo sức hút mạnh mẽ đối với công chúng
đầu tư. Một bộ phân dân cư thay vì đưa tiền vào các ngân hàng hoặc thực hiện tiết
kiệm theo những cách truyền thống thì dần dần chuyển nguồn vốn sang đầu tư

chứng khoán. Tuy nhiên, do đặc thù nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đang phát
triển, vốn tích lũy trong dân cư còn thấp so với một số nước khác trong khu vực và
trên thế giới nên đa số nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam là nhà đầu tư nhỏ lẻ, ít
vốn, thiếu kiến thức và kinh nghiệm thị trường. Tiềm lực tài chính yếu, thiếu
chuyên nghiệp trong đầu tư khiến cho phần lớn trong số họ chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ bởi yếu tố tâm lý “đám đông”, tức là mua bán chứng khoán theo kiểu tin đồn,
mách nước. Thực tế cho thấy đa số nhà đầu tư chứng khoán nước ta, đặc biệt là nhà
1

Ví dụ: tại Hoa Kỳ có Đạo luật về chứng khoán 1933, Đạo luật về giao dịch chứng khoán 1934 …Ở các bang
họ có Luật riêng về chứng khoán được gọi là Luật Trời xanh.

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 2

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

đầu tư cá nhân nhỏ lẻ ít có khả năng tự bảo vệ mình trước những biến động của thị
trường và trong việc giải quyết xung đột về lợi ích với các chủ thể khác. Chính vì
vậy, họ cần có sự bảo vệ từ pháp luật. Thế nhưng, do đang trong quá trình hình
thành và hoàn thiện nên pháp luật chứng khoán Việt Nam chưa thể bảo vệ nhà đầu
tư một cách hữu hiệu nhất, đôi khi có văn bản quy định nhưng việc triển khai áp
dụng không đạt được hiệu quả như mong muốn. Chính vì vậy, rất cần những công
trình nghiên cứu để tìm ra những giải pháp hiệu quả cho pháp luật chứng khoán
Việt Nam về lĩnh vực này. Xuất phát từ lý do trên, người viết chọn đề tài “Hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam” để

nghiên cứu trong luận văn của mình với mong muốn tìm ra giải pháp hiệu quả, thích
hợp để bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán trong giai đoạn hiện nay. Thông qua đó góp
phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán Việt Nam”, người viết mong muốn góp một phần sức mình vào việc
xây dựng cơ sở lý luận chung về pháp luật chứng khoán nói chung, pháp luật về bảo
vệ quyền lợi nhà đầu tư chứng khoán nói riêng, thông qua đó góp phần giữ vững sự
ổn định và phát triển của thị trường, làm cho thị trường chứng khoán trở thành kênh
huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả cho doanh nghiệp, cũng như cho nền kinh
tế.
3.

Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán là một phạm trù rất rộng,
muốn nghiên cứu một cách toàn diện phải mất rất nhiều thời gian. Trong giới hạn
thời gian cho phép thực hiện nghiên cứu ở trình độ cử nhân, người viết chỉ tập trung
nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán
trên thị trường chứng khoán tập trung. Song song đó tiến hành khảo sát việc triển
khai những quy định đó trên thực tế; tìm ra những khó khăn, bất cập (nếu có), nhận
diện nguyên nhân và từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện.

4.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết đã sử dụng kết hợp các phương pháp như:
Phương pháp so sánh: người viết sử dụng phương pháp này để so sánh, đối
chiếu những quy định của pháp luật có liên quan đến đề tài và giải thích nguyên
nhân tồn tại cũng như sự mất đi của chính những quy định đó.


GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 3

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Phương pháp phân tích luật viết: để có thể đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, người viết sẽ đi sâu phân tích
từng quy định, tìm hiểu nội dung cũng như tính hữu hiệu của từng điều luật có liên
quan do đó phương pháp phân tích luật viết được sử dụng chủ yếu.
5.

Kết cấu luận văn
Với những kiến thức đã học được cùng với những tài liệu sưu tập qua sách, báo,
tạp chí và trên Internet, người viết thực hiện đề tài nghiên cứu với các nội dung bao
gồm:
Chương 1. Khái quát về đầu tư chứng khoán và vấn đề bảo vệ nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán. Ở chương này người viết giới thiệu khái quát các khái niệm về
đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư chứng khoán, bên cạnh đó nêu ra đặc điểm của nhà
đầu tư, những lợi ích lẫn rủi ro do đầu tư chứng khoán mang lại. Đồng thời nhận
định tầm quan trọng của nhà đầu tư đối với sự vận hành và phát triển của thị trường
chứng khoán và sự cần thiết phải bảo vệ họ.
Chương 2. Những quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán Việt Nam. Cũng như nhà đầu tư chứng khoán trên thế giới, nhà
đầu tư chứng khoán Việt Nam rất cần sự bảo vệ từ luật pháp. Hiện tại, pháp luật
chứng khoán Viêt Nam ghi nhận một số quy định về bảo vệ nhà đầu tư, các quy
định này tập trung chủ yếu vào việc công khai thông tin của tổ chức phát hành và

các tổ chức, cá nhân có liên quan; kiểm soát chặt chẽ việc phát hành chứng khoán
để đảm bảo cho nhà đầu tư được tiếp cận những sản phẩm có chất lượng, quy định
nghĩa vụ của các tổ chức trung gian trên thị trường…Các quy định trên được người
viết phân tích cụ thể tại chương này.
Chương 3. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên
thị trường chứng khoán Việt Nam. Tính hiệu quả của các quy định pháp luật cần
được kiểm chứng thông qua việc áp dụng quy định đó trên thực tế. Nếu việc áp
dụng không mang lại hiệu quả hoặc hiệu quả đạt được không cao thì cần thiết phải
có sự sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng một quy định mới khả thi hơn. Trong
phạm vi chương này, người viết tập trung xem xét việc áp dụng quy định bảo vệ
nhà đầu tư chứng khoán, tìm ra vướng mắc, khó khăn, từ đó đề ra các giải pháp tháo
gỡ, đồng thời hoàn thiện các quy định.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 4

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN VÀ VẤN ĐỀ BẢO
VỆ NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 Khái quát về đầu tƣ chứng khoán
1.1.1 Khái niệm đầu tư chứng khoán
Trong những năm trở lại đây, chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt

Nam đã và đang trở thành chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng.
Thuật ngữ đầu tư chứng khoán cũng dần trở nên quen thuộc với người dân. Tuy
nhiên hiện nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào, thậm chí là Luật Chứng khoán
năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) đưa ra khái niệm về đầu tư chứng khoán. Để
có thể hiểu thế nào là đầu tư chứng khoán trước hết cần hiểu khái niệm “đầu tư”.
Hiện nay có nhiều cách hiểu và giải thích khác nhau về thuật ngữ “đầu tư” này.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), đầu tư được hiểu là “hành động bỏ vốn
vào một doanh nghiệp, một công trình hay một sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như
cấp phát ngân sách, vốn tự có, liên doanh hoặc vay dài hạn để mua sắm thiết bị
mới, hoặc thực hiện việc hiện đại hóa, mở rộng xí nghiệp nhằm thu doanh lợi hay
phát triển phúc lợi công cộng”. 2 Cách định nghĩa này nhấn mạnh vào đầu tư phát
triển, vào hình thái biểu hiện và động lực của đầu tư, nhưng không làm rõ được bản
chất của đầu tư cũng như chưa phản ánh được nội dung của đầu tư.
Tiến sĩ Nguyễn Bạch Nguyệt và Tiến sĩ Từ Quang Phương có cách hiểu khác
về đầu tư như sau: “Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực
ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết
quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết
quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí
tuệ”.3 Định nghĩa này đã nêu được đặc tính khái quát của đầu tư là hành vi bỏ các
nguồn lực trong hiện tại để thu lợi trong tương lai. Tuy nhiên, cách tiếp cận này có
thể gây nhầm lẫn hành vi lao động bình thường (bỏ sức lao động) với hành vi của
nhà đầu tư.
Luật Đầu tư 2005 định nghĩa đầu tư là “ việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các
loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành các hoạt động đầu tư”.4 Cách định

2

Hội Đồng Quốc Gia Chỉ Đạo Biên Soạn Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, Từ Điển Bách khoa Việt Nam 1,
Trung Tâm Biên Soạn Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, Hà Nội, năm 1995
3

TS. Nguyễn Bạch Nguyệt – TS. Từ Quang Phương, Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nxb. Thống Kê, 2003, tr.16
4

Khoản 1 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 5

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

nghĩa này chưa rõ ràng khi sử dụng thuật ngữ “hoạt động đầu tư” để giải thích cho
thuật ngữ “đầu tư”.
Các quan điểm trên mặc dù có những điểm khác nhau nhất định nhưng về cơ
bản đã phần nào làm sáng tỏ được bản chất và nội dung của đầu tư. Qua đó, có thể
hiểu một cách khái quát đầu tư là việc sử dụng tài sản trong hiện tại nhằm mục đích
tạo ra giá trị tài sản lớn hơn trong tương lai. Vận dụng cách hiểu về đầu tư ở trên,
có thể hiểu rằng: Đầu tư chứng khoán là việc sử dụng tiền hoặc tài sản khác để mua
các loại chứng khoán trên thị trường nhằm thu về lợi nhuận trong tương lai. Đầu tư
chứng khoán là một dạng của đầu tư tài chính, đó là hình thức đầu tư chủ yếu thông
qua hình thức mua chứng khoán5 (công cụ của thị trường tài chính) để nhận cổ tức,
lãi suất hoặc bán lại thu lợi nhuận. Như chúng ta đã biết, chứng khoán là một chứng
chỉ quyền, là một loại giấy tờ có giá, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở
hữu, được nhìn nhận như một loại tài sản có giá trị lợi nhuận cao, việc đầu tư vào
chứng khoán đã trở thành một hình thức đầu tư không thể thiếu của tất cả các nền
kinh tế đã và đang phát triển trên thế giới.
Tuy nhiên, cần có sự phân biệt giữa khái niệm đầu tư và đầu cơ chứng

khoán. Trong lĩnh vực chứng khoán đầu cơ được hiểu như việc mua bán chứng
khoán bằng cách lợi dụng và thao túng những nhân tố ảnh hưởng đến giá cả, gây
nên những biến động giá cả để kiếm lời.6 Luật thị trường chứng khoán các nước
không cấm hoàn toàn hoạt động đầu cơ, nhưng các hành động như nâng giá, ép giá
một cách giả tạo, tích trữ quá mức, hoặc mọi sự câu kết đầu cơ lũng đoạn thị trường
đều sẽ bị trừng phạt theo luật định. 7 Luật Chứng khoán Việt Nam hiện hành không
thừa nhận hành vi đầu cơ, nó được xem là một trong những hành vi bị cấm thực
hiện trên thị trường chứng khoán. 8
1.1.2 Đặc điểm của đầu tư chứng khoán
1.1.2.1Đối tượng của đầu tư chứng khoán là các tài sản vô hình – chứng khoán.
Tài sản nói chung là bất cứ vật sở hữu nào mà có giá trị trong trao đổi. Căn
cứ vào đặc điểm cấu tạo của vật chất, tài sản được chia thành hai loại tài sản hữu
hình và tài sản vô hình. Tài sản hữu hình là những loại tài sản mà giá trị phụ thuộc

5

Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần
vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ
liệu điện tử, bao gồm các loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền
chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán, hợp đồng góp
vốn đầu tư và các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định
6
Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, năm 1999, trang 607
7
PGS.TS Lê Hoàng Nga (chủ biên), Thị Trường Chứng Khoán, Nxb. Tài Chính, năm 2009, tr.72
8
Điều 9 Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2010

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu


Trang 6

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

vào những thuộc tính tự nhiên của nó, ví dụ như máy móc thiết bị, nhà máy, phân
xưởng…Tài sản vô hình là những loại tài sản mà giá trị không liên quan gì đến hình
thức vật lý của nó mà dựa vào trái quyền hợp pháp trên một lợi ích tương lai nào
đó.9 Chứng khoán là một dạng điển hình của tài sản vô hình.
Theo pháp luật chứng khoán hiện hành, chứng khoán – công cụ chủ yếu của
thị trường chứng khoán được định nghĩa là “ bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích
hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành.”
Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức “chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu
điện tử”.10 Chứng khoán mang bản chất là một tài sản vô hình - một loại giấy tờ có
giá, giá trị của chứng khoán không phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngoài của
nó mà phụ thuộc vào hoạt động và các chính sách của tổ chức phát hành. Đối với
các loại tài sản thông thường khác, giá trị thường được thể hiện thông qua hình dáng
bên ngoài và người sở hữu có thể khai thác công dụng của chúng. Còn đối với
chứng khoán, bản thân nó chỉ là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích của nhà đầu
tư, giúp nhà đầu tư thực hiện quyền và hưởng lợi ích trong giới hạn quyền đó. Do
chỉ là một chứng nhận nên khi tổ chức phát hành không còn khả năng thanh toán thì
nhà đầu tư cũng không thể khai thác được công dụng. Tóm lại, nhà đầu tư chỉ có thể
khai thác giá trị của chứng khoán khi nó được vận hành một cách bình thường và tổ
chức phát hành có khả năng thanh toán.
1.1.2.2 Đầu tư chứng khoán có khả năng sinh lời cao
Lợi nhuận là mục tiêu mà bất kỳ nhà đầu tư nào cũng mong muốn đạt được
khi thực hiện hoạt động đầu tư. Đây là điểm mấu chốt thu hút người có vốn tích lũy
chuyển vốn từ mục đích tiết kiệm sang đầu tư. Mỗi một hoạt động đầu tư mang lại

một nguồn lợi nhuận khác nhau, đầu tư chứng khoán cũng không ngoại lệ.
Thông thường khi đầu tư vào một loại hàng hóa nào đó, nguồn lợi nhuận đầu
tiên và cơ bản nhất mà nhà đầu tư được hưởng chính là chênh lệch giữa giá tại thời
điểm bán và giá tại thời điểm mua hàng hóa. Mức độ chênh lệch càng cao lợi nhuận
nhà đầu tư thu về càng lớn. Tuy nhiên, với đầu tư chứng khoán, ngoài nguồn lợi
nhuận kể trên nhà đầu tư còn nhận được các nguồn lợi nhuận khác tùy thuộc vào
chứng khoán mà họ nắm giữ.
Đối với loại chứng khoán vốn như các loại cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, hợp
đồng góp vốn đầu tư…khi nắm giữ các chứng khoán này nhà đầu tư sẽ trở thành
chủ sở hữu của tổ chức phát hành. Họ sẽ được nhận cổ tức khi doanh nghiệp phát
9

PGS.TS Bùi Kim Yến – TS. Nguyễn Minh Kiều, Thị trường Tài chính, Nxb. Thống Kê, năm 2009, tr.15
Khoản 1, Điều 6, Luật Chứng khoán năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2010

10

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 7

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

hành làm ăn phát đạt và có quyết định chia cổ tức cho thành viên góp vốn. Mức cổ
tức này không cố định (trừ cổ phiếu ưu đãi), nó phụ thuộc vào mức độ thành công
và chính sách chia cổ tức của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhà đầu tư còn được hưởng
giá trị cổ phần gia tăng do công ty hoạt động tốt có lợi nhuận và có tích lũy nội bộ,

đến một lúc nào đó công ty nhập quỹ tích lũy vào vốn điều lệ thì người đầu tư được
tăng thêm số lượng cổ phần.
Đối với loại chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu. Đây là loại chứng
khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn
nợ của tổ chức phát hành. Nói một cách đơn giản người nắm giữ trái phiếu được
xem là người cho vay và tổ chức phát hành là người vay. Theo các kỳ hạn cam kết
của tổ chức phát hành, các trái chủ được quyền nhận lãi suất. Không giống như cổ
tức từ cổ phiếu, lãi suất từ trái phiếu là mức cố định được ấn định ngay khi phát
hành (trừ trường hợp trái phiếu với lãi suất thả nổi) và không phụ thuộc vào kết quả
hoạt động của tổ chức phát hành. So với chứng khoán vốn thì trái phiếu có lợi
nhuận thấp hơn nhưng đổi lại chúng có độ an toàn cao. Người nắm giữ trái phiếu
với tư cách là chủ nợ của tổ chức phát hành sẽ được ưu tiên thanh toán trước cổ
đông (người sở hữu cổ phiếu) theo quy định của pháp luật trong trường hợp tổ chức
phát hành mất khả năng thanh toán.
Đối với các chứng khoán phái sinh bao gồm các công cụ có nguồn gốc từ
chứng khoán và có mối quan hệ chặt chẽ với chứng khoán như quyền chọn mua,
quyền chọn bán, chứng quyền…được hình thành do nhu cầu giao dịch của thị
trường. Đặc điểm chung của các công cụ phái sinh là bản thân chúng chỉ có giá trị
như một chứng khoán khi được phát hành trên cơ sở các chứng khoán gốc. Do vậy,
cũng giống như các loại chứng khoán mỗi loại công cụ phái sinh mang đến một lợi
ích khác nhau cho nhà đầu tư.
Như vậy, có thể nói đầu tư chứng khoán mang lại cho nhà đầu tư nguồn lợi
nhuận cao, ngoài nguồn thu do sự chênh lệch giá, nhà đầu tư còn nhận được các
khoản lợi khác (cổ tức, trái tức…). Tuy nhiên, lợi nhuận đó có đạt được hay không
phụ thuộc rất lớn vào quyết định của nhà đầu tư. Quyết định lựa chọn chứng khoán
nào để đầu tư, quyết định thời điểm nào nên mua vào và thời điểm nào nên bán
ra…đều là những quyết định có tính then chốt ảnh hưởng đến sự thành bại của đầu
tư chứng khoán.

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu


Trang 8

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

1.1.2.3 Đầu tư chứng khoán chịu rủi ro lớn
Rủi ro có thể hiểu là những hệ quả bất lợi ngoài sự kiểm soát của người chủ
sở hữu, là yếu tố khó tránh khỏi trong đầu tư và kinh doanh. Đó là việc không thu
được lãi và hoặc cả số vốn đã bỏ ra ban đầu. Trong đầu tư chứng khoán, có những
rủi ro chung cho tất cả các loại chứng khoán (rủi ro hệ thống),và cũng có những rủi
ro gắn liền với từng loại chứng khoán nhất định (rủi ro không hệ thống). Các chứng
khoán khác nhau, thì mức độ rủi ro sẽ khác nhau. Nhìn chung đầu tư chứng khoán
nhà đầu tư có thể gặp những rủi ro sau:
Thứ nhất, Rủi ro thị trường: Đây là những rủi ro do biến động trên thị trường
chứng khoán dẫn đến giảm giá chứng khoán. Sự sụt giảm trên thị trường chứng
khoán thường khiến nhà đầu tư rút vốn ra khỏi thị trường ồ ạt, kéo theo những phản
ứng dây chuyền làm tăng vọt số lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ rơi xuống thấp so
với giá trị cơ sở, dẫn đến việc cung cầu của bên mua và bên bán không cân đối,
giảm tính thanh khoản của chứng khoán.
Thứ hai, Rủi ro lạm phát: Trong đầu tư vào các công cụ tài chính, lạm phát
làm cho mức sinh lời danh nghĩa có sự khác biệt so với mức sinh lời thật. Khi mức
sinh lời danh nghĩa nhỏ hơn sự mất giá của đồng tiền thì chính là rủi ro lạm phát.
Thứ ba, Rủi ro vỡ nợ: Đây là rủi ro xảy ra khi nhà phát hành không thể thực
hiện thanh toán đúng hạn các khoản lãi và gốc cho người mua chứng khoán. Chẳng
hạn như cổ đông của công ty cổ phần có thể trắng tay khi công ty phá sản, bởi theo
quy định họ là những người được thanh toán sau cùng. Rủi ro vỡ nợ có thể do rủi ro
kinh doanh hay rủi ro tài chính của tổ chức phát hành.

Không ai phủ nhận mức sinh lời hấp dẫn do đầu tư chứng khoán mang lại.
Tuy nhiên bên cạnh lợi nhuận vẫn tiềm ẩn những rủi ro. Tính sinh lợi và tính rủi ro
của đầu tư chứng khoán có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Thông thường, các chứng
khoán có rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Đó là yếu tố kích thích nhà đầu tư
nắm giữ các chứng khoán có mức rủi ro cao. Mặc dù vậy không phải rủi ro nào
cũng nằm ngoài tầm kiểm soát của các nhà đầu tư (rủi ro hệ thống), cho nên để có
thể tận dụng hết khả năng sinh lời và giảm thiểu tác động của những rủi ro nhà đầu
tư cần hiểu rõ, tiên liệu và sẵn sàng các giải pháp ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro có
thể xảy ra với mình. Đây là điều rất quan trọng trong đầu tư chứng khoán.
1.2 Khái niệm và đặc điểm của nhà đầu tƣ chứng khoán
1.2.1 Khái niệm nhà đầu tư chứng khoán

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 9

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát
sinh từ những chủ thể khác nhau. Những người có cơ hội đầu tư thì thiếu vốn,
ngược lại những người có vốn lại thiếu cơ hội đầu tư. Từ đó, trong nền kinh tế cũng
hình thành nên một cơ chế chuyển vốn từ tiết kiệm sang đầu tư. 11 Ban đầu cơ chế
này được thực hiện thông qua hoạt động của ngân hàng với vai trò trung gian trong
quan hệ vay mượn giữa người thiếu vốn và người có vốn tích lũy. Khi kinh tế hàng
hóa phát triển cao, nhiều hình thức huy động vốn mới linh hoạt hơn nảy sinh và
phát triển, góp phần tốt hơn vào việc giải quyết cân đối giữa cung và cầu về các
nguồn lực tài chính trong xã hội, làm xuất hiện các công cụ huy động vốn như cổ

phiếu, trái phiếu (doanh nghiệp và nhà nước)… Người cần vốn sử dụng các loại
chứng khoán trên để thu hút một lượng vốn lớn từ những nhà đầu tư. Vậy nhà đầu
tư chứng khoán là ai?
Trong quyển “ Thị trường Chứng khoán” của tác giả Bùi Kim Yến và Thân
Thị Thu Thủy chủ biên đã đưa ra khái niệm về nhà đầu tư chứng khoán như sau:
“Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán”.12 Họ là những người có vốn nhàn rỗi và tham gia đầu tư với kỳ vọng
sẽ thu được một khoản lợi nhuận trong tương lai.
Trong Luật Chứng khoán hiện hành định nghĩa nhà đầu tư là “tổ chức, cá
nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên thị trường
chứng khoán”.13 Khái niệm trên cho thấy bất kỳ đối tượng nào trong xã hội cũng có
thể trở thành nhà đầu tư khi họ có tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán. Tuy
nhiên, khái niệm này còn quá chung chung, chưa nêu lên được bản chất thực sự của
một nhà đầu tư mà chỉ nhấn mạnh đến các đối tượng có thể trở thành nhà đầu tư
trên thị trường chứng khoán.
Trong cuộc sống, chúng ta thường hay nghe nhắc đến các khái niệm “nhà vật
lý học”, “nhà sinh vật học” hay “nhà làm luật”…Theo tư duy thông thường ta nghĩ
đó là những người có kinh nghiệm, kiến thức sâu rộng trong các lĩnh vực vật lý,
sinh vật hay pháp luật…Hay nói cách khác họ là những chuyên gia trong các lĩnh
vực đó. Vậy khái niệm “nhà đầu tư” có nằm ngoài tư duy này? Phải chăng tất cả
những người có hành vi đầu tư đều được gọi là nhà đầu tư? Hiện nay chúng ta hay
nghe đến một thuật ngữ gọi là “người chơi chứng khoán”, có lẽ đó là một ví dụ rõ
11

PGS.TS Lê Văn Tề, TS. Nguyễn Văn Hà, TS. Nguyễn Đắc Sinh, Thị trường chứng khoán tại Việt Nam,
Nxb. Thống Kê, năm 2007, Tr.2
12

PGS.TS Bùi Kim Yến – TS. Thân Thị Thu Thủy (chủ biên), Thị trường Chứng khoán, Nxb. Thống Kê,
năm 2009, tr.31

13
Khoản 10, Điều 6 luật Chứng khoán 2006 sửa đổi, bổ sung 2010

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 10

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

ràng để phân biệt với nhà đầu tư chứng khoán – những người có kinh nghiệm, kiến
thức và sự hiểu biết nhất định về đầu tư chứng khoán, có hành vi mua bán chứng
khoán trong một thời gian nhất định. Một thuật ngữ nữa cũng cần nhắc đến, đó là
“nhà kinh doanh chứng khoán”. Luật Chứng khoán Việt Nam hiện hành ghi nhận
kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự
doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán,
lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán. Các hoạt động này thường được thực hiện bởi các tổ chức chuyên
nghiệp, hoạt động có tính chất thường xuyên và phải tuân theo những điều kiện nhất
định của pháp luật. Trong khi đó những người chơi chứng khoán thường là những
người mua bán chứng khoán trong một thời gian ngắn. Đôi khi họ bị gọi là nhà đầu
cơ hay “lướt sóng” chứng khoán.
1.2.2 Phân loại nhà đầu tư chứng khoán
Hiện nay trong các tài liệu, sách báo về chứng khoán và thị trường chứng
khoán đưa ra nhiều cách phân loại nhà đầu tư chứng khoán khác nhau dựa trên
những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên cách phân loại dựa trên cách thức đầu tư được
sử dụng phổ biến hơn. Theo đó nhà đầu tư được chia thành hai loại: nhà đầu tư cá
nhân và nhà đầu tư có tổ chức.14

1.2.2.1 Nhà đầu tư là cá nhân
Trên thị trường chứng khoán, đặc biệt thị trường ở các nước đang phát triển
như Việt Nam, đây là nhà đầu tư chiếm số lượng lớn. Họ là cá nhân và hộ gia đình
có vốn nhàn rỗi, muốn tham gia đầu tư vào chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi
nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư lợi nhuận và rủi ro luôn gắn liền với nhau. Kỳ vọng
lợi nhuận càng cao thì mức độ chấp nhận rủi ro phải lớn và ngược lại. Chính vì vậy,
các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với mức độ
chấp nhận rủi ro của mình. Nhìn chung có hai bộ phận nhà đầu tư cá nhân có thái độ
khác nhau với rủi ro, bao gồm những nhà đầu tư chấp nhận rủi ro và những nhà đầu
tư không thích rủi ro. 15 Các nhà đầu tư chấp nhận rủi ro thường là những người sở
hữu nguồn vốn lớn, họ luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận. Họ nắm giữ những loại
chứng khoán rủi ro cao nhưng mức sinh lời lớn trong ngắn hạn, không đầu tư lâu
dài vào một loại chứng khoán nào. Ngược lại các nhà đầu tư không thích rủi ro rất
bảo thủ trong các phương thức đầu tư, họ chọn những cổ phiếu có mức sinh lợi thấp
14

PGS.TS Bùi Kim Yến – TS. Thân Thị Thu Thủy (chủ biên), Thị trường Chứng khoán, Nxb. Thống Kê,
năm 2009, tr.31
15
Trường Đại học Tài chính Kế toán, Giáo trình thị trường chứng khoán, Nxb Tài Chính – Hà Nội, năm
2000, tr.30

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 11

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam


nhằm giảm thiểu những rủi ro có thể gặp phải. Họ thường là những nhà đầu tư nhỏ,
sở hữu nguồn vốn khiêm tốn.
1.2.2.2 Nhà đầu tư là tổ chức
Nhà đầu tư có tổ chức hay còn gọi là nhà đầu tư chuyên nghiệp là những
định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị
trường. Nhà đầu tư chuyên nghiệp thường là ngân hàng thương mại, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh
chứng khoán… Các tổ chức này có các bộ phận chức năng gồm nhiều chuyên gia có
kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông
qua các tổ chức này có ưu điểm là đa dạng hóa danh mục đầu tư, các quyết định đầu
tư được cân nhắc, xem xét cẩn thận bởi các chuyên gia nên có thể giảm thiểu được
rủi ro, mục đích lợi nhuận của nhà đầu tư có thể đạt được.
Tóm lai, khi đầu tư vào chứng khoán nhà đầu tư biết rõ mình đầu tư vào lĩnh
vực nào, biết rõ mình đưa tiền cho ai, nguồn vốn đó được sử dụng như thế nào.
Điều này hoàn toàn khác với hình thức trung gian tài chính, khi người đầu tư ký
thác cho các tổ chức tài chính, nhà đầu tư không biết đơn vị này sẽ đầu tư có hiệu
quả hay không, ai sẽ nhận được tiền của nhà đầu tư, nhưng bù lại hình thức đầu tư
này có mức độ rủi ro thấp hơn khi tham gia đầu tư trực tiếp vào thị trường chứng
khoán.
1.2.3 Đặc điểm của nhà đầu tư chứng khoán
1.2.3.1Nhà đầu tư chứng khoán có sự phân hóa
Như đã trình bày, nhà đầu tư chứng khoán bao gồm nhà đầu tư cá nhân và
nhà đầu tư có tổ chức. Các nhà đầu tư khác nhau có những đặc điểm khác nhau:
1.2.3.1.1 Đối với nhà đầu tư cá nhân
Thứ nhất, phần lớn nhà đầu tư cá nhân là nhà đầu tư nhỏ, thiếu kiến thức,
kinh nghiệm thị trường. Ngoài năng lực tài chính thì kiến thức là thứ mà bất kỳ nhà
đầu tư chứng khoán nào cũng cần được trang bị khi tham gia đầu tư chứng khoán.
Bởi lẽ, thị trường chứng khoán là thị trường nhạy cảm và luôn tiềm ẩn những rủi ro.
Nếu không có kiến thức nhà đầu tư khó mà tồn tại lâu dài được. Thế nhưng, đa số

nhà đầu tư chứng khoán nhỏ lẻ hiện nay lại thiếu đi điều cần thiết đó. Vì thiếu kiến
thức nên họ ít có khả năng tự phân tích, đánh giá các luồng thông tin, diễn biến
phức tạp của thị trường. Họ bắt đầu mua bán theo kiểu nghe tin đồn, mách nước,
chuyện kể và những lời khuyên thiếu căn cứ của các dịch vụ tư vấn. Về lý thuyết,
quyết định đầu tư nào cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định dù cho người đầu tư có
GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 12

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

nhiều kinh nghiệm, kiến thức hay không. Tuy nhiên, với những nhà đầu tư am hiểu
lĩnh vực mình đầu tư, có kiến thức nhất định về thị trường, khi gặp sự cố hay tình
huống xấu phát sinh ngoài dự tính họ vẫn có nhiều sự lựa chọn để giảm thiểu rủi ro.
Ngược lại, với những người thiếu kiến thức và kinh nghiệm đầu tư khi gặp khó
khăn họ sẽ rất lúng túng, hoang mang. Hậu quả của việc đó đôi khi còn làm tăng
thêm thiệt hại cho chính họ.
Thứ hai, nhà đầu tư cá nhân dễ bị chi phối bởi yếu tố tâm lý đám đông. Tâm
lý đám đông hay hiệu ứng bầy đàn xuất hiện trên tất cả các thị trường chứng khoá n
trên thế giới, chứ không riêng quốc gia nào. Thuật ngữ này dùng để chỉ hiện tượng
trong một nhóm các nhà đầu tư, các nhà đầu tư riêng, lẻ thường dựa vào hành động
của nhà đầu tư khác để hành động. Theo nguyên tắc, khi muốn đầu tư vào một loại
chứng khoán nào đó, nhà đầu tư cần phải xem xét đến tình hình tài chính, hiệu quả
hoạt động, bộ máy quản trị và cả phương hướng phát triển của tổ chức phát hành
loại chứng khoán đó trong tương lai. Bởi vì, doanh nghiệp phát hành làm ăn hiệu
quả, thị trường phát triển ổn định thì tính sinh lợi và tính thanh khoản của chứng
khoán mới được đảm bảo, qua đó mang đến lợi nhuận cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, đa

phần các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nhỏ, đã bỏ quên nguyên tắc này. Thay
vào đó, họ đưa ra quyết định đầu tư dựa theo số đông nhà đầu tư xung quanh. Nghĩa
là khi người ta mua vào mình cũng mua vào, khi người ta bán ra mình cũng bán ra
mà không biết hoặc không quan tâm đến nguyên nhân của những động thái đó.
Thông thường đặc điểm này của nhà đầu tư chứng khoán được biểu hiện trong hai
trường hợp: Một là, các nhà đầu tư quá hưng phấn; Hai là, các nhà đầu tư quá sợ
hãi. Trong cả hai trường hợp đều nguy hiểm như nhau. Quá hưng phấn sẽ dễ tạo ra
giá ảo, không thực chất, còn quá sợ hãi thì bán tháo tất cả để “cắt lỗ”. Có trường
hợp “cắt lỗ” cả những mã chứng khoán tốt, có khả năng phục hồi trong tương lai.
Hầu hết các chuyên gia cho rằng hoạt động đầu tư luôn tiềm ẩn rủi ro, do đó
các nhà đầu tư cần phải xem xét, cân nhắc cẩn thận trước khi ra quyết định đầu tư
vào một loại chứng khoán nào đó. Phạm vi xem xét trước hết là ở khả năng và mục
đích đầu tư của cá nhân nhà đầu tư, xem xét xem bản thân mình có vốn bao nhiêu?
Mức độ chấp nhận rủi ro của mình đến đâu? Từ đó đặt ra mục tiêu đầu tư phù hợp.
Với các nhà đầu tư vốn nhỏ, khả năng tích lũy vốn thấp thì nên chọn giải pháp đầu
tư an toàn với các ngành nghề, lĩnh vực đã ổn định, chấp nhận lợi nhuận thấp nhưng
an toàn. Ngược lại, với các nhà đầu tư có vốn lớn nên chọn giải pháp đầu tư phân
tán rủi ro, có nghĩa là chia vốn ra đầu tư, có thể mạo hiểm bỏ một số vốn vào hạng
mục đầu tư nhằm mục đích thặng dư vốn nhưng độ an toàn thấp, phần vốn còn lại
đầu tư vào những loại chứng khoán có độ an toàn cao nhưng lợi nhuận thấp hơn.
GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 13

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

1.2.3.1.2 Đối với nhà đầu tư có tổ chức

Nếu như các nhà đầu tư cá nhân phần lớn thiếu vốn, kiến thức thị trường thì
ngược lại nhà đầu tư có tổ chức là những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính lớn, được
sự trợ giúp bởi đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm thị trường. Những nhà đầu tư
này thường không chịu ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý đám đông, thay vào đó mỗi
quyết định đầu tư đều được cân nhắc, xem xét cẩn thận, danh mục đầu tư được đa
dạng hóa, từ đó làm giảm đáng kể rủi ro có thể gặp phải trong quá trình đầu tư
chứng khoán.
1.2.3.2 Đa số nhà đầu tư thích đầu tư vào cổ phiếu hơn các loại chứng khoán khác
Khi phát hành cổ phiếu huy động vốn từ công chúng, doanh nghiệp vừa có
vốn trung và dài hạn phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh doanh lâu dài vừa có thể
san sẻ rủi ro với nhà đầu tư nên đa số công ty đều chọn phát hành cổ phiếu thay vì
trái phiếu để thu hút vốn. Chính vì vậy, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán rất đa
dạng và phong phú, mở ra nhiều cơ hội lựa chọn cho nhà đầu tư. Hơn nữa, cổ phiếu
là loại chứng khoán có thể mang đến nguồn cổ tức cao, không bị giới hạn, thêm vào
đó cổ phiếu thường có tính thanh khoản ổn định, lợi nhuận do mua đi bán lại cao.
Vì vậy, cổ phiếu là lựa chọn hàng đầu của phần lớn nhà đầu tư chứng khoán. Trên
các sàn giao dịch chứng khoán, cổ phiếu là loại chứng khoán luôn đạt khối lượng
giao dịch cao hơn so với các loại chứng khoán khác.
Ngoài những đặc điểm nêu trên của các nhà đầu tư chứng khoán nói chung,
nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam còn có thêm đặc điểm đặc thù là phần lớn trong
số họ là những nhà đầu tư nhỏ lẻ. Điều này không quá khó hiểu khi Việt Nam vẫn là
một quốc gia đang phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp hơn so với nhiều
nước khác trong khu vực và trên thế giới. Trước khi thị trường chứng khoán ra đời,
phần lớn người dân tích lũy tiền bằng cách cho các tổ chức trung gian tài chính vay
(ngân hàng) nhằm hưởng lãi suất định kỳ hoặc dự trữ tài sản có giá trị như vàng để
hưởng lời. Khi thị trường chứng khoán ra đời và với những thành công ban đầu đã
tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với công chúng, nguồn vốn bắt đầu dịch chuyển từ các
hình thức đầu tư khác sang đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, do vốn tích lũy thấp nên
số tiền họ dành cho đầu tư chứng khoán còn hạn chế. Ngoài ra, do thị trường chứng
khoán Việt Nam còn khá non trẻ, thiếu tính ổn định, niềm tin vào thị trường chưa

cao nên công chúng không dám mạo hiểm với hình thức đầu tư này. Họ chỉ dành
một phần nhỏ vốn tích lũy vào đầu tư chứng khoán với mục đích thăm dò thị trường
nhiều hơn là muốn tham gia thị trường lâu dài. Thêm vào đó, giá trị đồng tiền Việt

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 14

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Nam thấp hơn các nước nên số vốn đầu tư vào chứng khoán trong nước thấp hơn
nước ngoài.

1.3 Vai trò của nhà đầu tƣ
Tham gia thị trường chứng khoán bao gồm nhiều chủ thể khác nhau như tổ
chức phát hành chứng khoán, các tổ chức trung gian như công ty chứng khoán, tổ
chức bảo lãnh phát hành chứng khoán, nhà đầu tư… Trong đó nhà đầu tư giữ vai trò
vô cùng quan trọng vì thị trường chứng khoán cũng là một thị trường mua bán hàng
hóa – chứng khoán, thị trường không thể phát triển nếu không có người mua. Vai
trò của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán thể hiện qua những điểm sau:
1.3.1 Nhà đầu tư cung cấp vốn cho thị trường chứng khoán
Mục đích của doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán là huy động
vốn để mở rộng hoạt động bằng cách phát hành chứng khoán ra thị trường. Khi các
nhà đầu tư mua chứng khoán do các doanh nghiệp phát hành, số tiền nhãn rỗi của
họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây, khi thị trường chứng
khoán chưa hình thành, các đơn vị kinh tế đều lệ thuộc vào ngân hàng, để có vốn
hoạt động họ phải đi vay với lãi suất biến đổi theo từng thời kỳ và phải tuân theo

những điều kiện sử dụng, hoàn trả vốn nghiêm ngặt. Thực chất, ngân hàng cũng là
người vay vốn từ công chúng sau đó đem số vốn đó cho các doanh nghiệp vay lại để
hưởng lãi suất chênh lệch. Điều đó có nghĩa là quan hệ cung – cầu vốn từ công
chúng – người có vốn và doanh nghiệp – người cần vốn đã hình thành từ lâu bằng
phương thức huy động gián tiếp thông qua một định chế tài chính làm trung gian ngân hàng. Hiện nay, khi có thị trường chứng khoán, thông qua cách phát hành cổ
phiếu hay trái phiếu hoặc các loại chứng khoán khác hầu hết các doanh nghiệp đã
huy động được vốn trực tiếp từ công chúng.
1.3.2 Góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và minh bạch hơn
Các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng nhằm thu hút nguồn
vốn từ nhà đầu tư. Bản thân những nhà đầu tư khi quyết định bỏ vốn vào một loại
chứng khoán nào đó cũng luôn kỳ vọng nó sẽ mang đến cho họ lợi nhuận. Giá trị
hay nói đúng hơn là nguồn lợi nhuận của chứng khoán lại phụ thuộc vào hiệu quả
hoạt động, tình hình phát triển của doanh nghiệp phát hành. Thị trường chứng
khoán với sự đa dạng và phong phú mang đến cho nhà đầu tư rất nhiều sự lựa chọn,
họ đương nhiên không đổ nguồn vốn mình cố công tích lũy vào một doanh nghiệp
hoạt động kém hiệu quả để phải chấp nhận rủi ro. Thương trường là một nơi cạnh
tranh khốc liệt, một doanh nghiệp với nguồn vốn ít ỏi rất dễ dàng bị đào thải. Chính
GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 15

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

vì lẽ đó để bán được chứng khoán, huy động được vốn phục vụ việc mở rộng hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp không còn cách nào
khác là phải nâng cao trình độ quản lý, tính toán, làm ăn minh bạch và có hiệu quả
kinh tế để tạo niềm tin đối với nhà đầu tư. Thêm vào đó, theo quy định của pháp

luật về chứng khoán bắt buộc các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán
phải công bố công khai các báo cáo cân đối tài chính, kết quả kinh doanh định kỳ và
cả phương hướng phát triển trước công chúng… qua đó công chúng có cơ hội, nhận
định và đánh giá được công ty để đưa ra quyết định đầu tư hợp lý. Vì vậy chính thái
độ của nhà đầu tư đối với chứng khoán của doanh nghiệp là đòn bẩy thúc đẩy doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Ngoài ra, khi nắm giữ cổ phiếu của doanh nghiệp
nhà đầu tư sẽ trở thành đồng sở hữu của doanh nghiệp đó, họ có thể kiểm soát nó
thông qua các cơ quan quản lý và nhận biết được khả năng hoạt động của doanh
nghiệp qua sự chấp nhận của thị trường chứng khoán.
1.3.3 Đẩy mạnh tính thanh khoản cho chứng khoán
Khả năng thanh khoản của chứng khoán là khả năng chuyển đổi thành tiền
mặt của chứng khoán. Nó được xem là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng
khoán (bên cạnh tính sinh lời). Hoạt động giao dịch chứng khoán qua lại của nhà
đầu tư làm thị trường chứng khoán hoạt động năng động và có hiệu quả do đó tính
thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường được nâng cao.
1.4 Vấn đề bảo vệ nhà đầu tƣ trên thị trƣờng chứng khoán
1.4.1 Sự cần thiết phải bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
Nhà đầu tư giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của thị trường
chứng khoán, họ là chủ thể cung cấp nguồn vốn lớn đảm bảo cho sự vận hành của
thị trường. Có thể nói không có nhà đầu tư thì không thể có thị trường chứng khoán,
nhu cầu về vốn của doanh nghiệp phát hành không được đáp ứng. Đầu tư vốn thông
qua thị trường chứng khoán có ưu điểm là nhà đầu tư có thể kiểm soát được nguồn
vốn của mình, đa dạng hóa được rủi ro và đặc biệt thu về nguồn lợi nhuận lớ n. Tuy
nhiên thị trường chứng khoán không phải là nơi người ta có thể dễ dàng thu được
lợi nhuận, nó luôn tìm ẩn những rủi ro mà nếu không có đủ bản lĩnh thị trường nhà
đầu tư hoàn toàn có thể trắng tay. Vì vậy, một câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để
nhà đầu tư có thể yên tâm đổ vốn vào thị trường chứng khoán mà không chọn cách
cho các định chế tài chính vay với độ an toàn cao hơn? Câu trả lời duy nhất là pháp
luật cần phải có những biện pháp bảo vệ họ trước những rủi ro mà thị trường chứng
khoán mang lại.

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 16

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Tại Việt Nam, ý thức được vai trò quan trọng của nhà đầu tư và sự cần thiết
phải bảo vệ họ nên ngay từ văn bản luật đầu tiên về chứng khoán, các nhà làm luật
đã ghi nhận việc “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư” thành một trong
những nguyên tắc cơ bản nhất. 16 Và đến nay nó vẫn được xem là nguyên tắc chủ
đạo chi phối hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo người viết, sự
cần thiết phải bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán được thể hiện dưới hai nội dung cơ
bản sau:
Thứ nhất, Thị trường chứng khoán là một thị trường thuộc thị trường tài
chính, một trong những chức năng quan trọng của thị trường này là cung cấp vốn
trung và dài hạn cho nền kinh tế. Nó được xem là nơi huy động nguồn vốn hiệu quả
bằng cách thu hút đầu tư từ những người có nguồn vốn nhàn rỗi, tạo ra kênh đầu tư
có khả năng sinh lợi cao cho các đối tượng trong xã hội. Qua đó, đẩy mạnh phát
triển kinh tế, nâng cao mức sống cho người dân. Để thị trường chứng khoán có thể
tồn tại và phát triển lâu dài thì cần phải có những biện pháp tích cực tạo niềm tin từ
nhà đầu tư đối với thị trường. Nếu nhà đầu tư không được bảo vệ họ sẽ quay lưng
lại với thị trường và mục tiêu huy động vốn của thị trường không đạt được. Ngoài
ra, nếu không thực hiện tốt vấn đề bảo vệ nhà đầu tư sẽ tạo ra một trị trường hỗn
loạn, mất cân bằng.
Thứ hai, Mọi đối tượng trong xã hội đều có thể trở thành nhà đầu tư chứng
khoán, trong đó có những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính lớn, mức độ chuyên
nghiệp cao và cũng có những nhà đầu tư nhỏ, lẻ, thiếu kiến thức, kinh nghiệm thị

trường. Ở vị thế yếu hơn, các nhà đầu tư nhỏ rất dễ chịu thua thiệt trước nhà đầu tư
lớn, do đó pháp luật cần phải tạo ra cơ chế bảo vệ nhà đầu tư này để họ được tham
gia vào một thị trường công bằng, minh bạch, như cách nói đơn giản nhưng sâu sắc
của Chủ tịch Hiệp hội chứng khoán Hoa Kỳ (NASD), Robert R.Glauber tại Hội
thảo “ Đào tạo nhà đầu tư và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam”, do
Trung tâm Doanh nghiệp tư nhân Quốc tế (CIPE) thuộc Phòng Thương mại Hoa Kỳ
tổ chức ngày 3/7/2007 “…quyền lợi của nhà đầu tư là quyền được bảo vệ”. “Họ đặt
những đồng tiền khó nhọc tích cóp vào thị trường chứng khoán để mong tìm kiếm
lợi nhuận khi hưu trí, để mong mua được nhà hay có thể nuôi con cái ăn học; vậy
thì họ đáng được tham gia vào một hệ thống công bằng và tin cậy”.17 Trong bối
cảnh này, nếu nhà đầu tư nhỏ không được bảo vệ họ sẽ càng trở nên cô độc, khi xảy
ra rủi ro họ có thể mất tất cả mà không nhận được một sự bù đắp nào; để có lại một
16

Khoản 3 Điều 4 Luật Chứng khoán 2006 và Luật Chứng khoán sửa đổi, bổ sung 2010
Hoàng Đạt, VnEconomy, Bảo vệ nhà đầu tư để bảo vệ thị trường, , [truy cập ngày 07-10-2012]
17

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 17

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

khối lượng tiền như ban đầu sẽ phải mất rất nhiều thời gian, thậm chí là không thể
tích lũy lại được. Hơn nữa, nếu vấn đề bảo vệ những nhà đầu tư này không thực
hiện tốt sẽ đẩy nhiều nhà đầu tư vào cảnh vở nợ, làm cho một bộ phận dân cư trở

nên nghèo khó, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn làm cho mục tiêu kinh tế-xã
hội của đất nước không đạt được
1.4.2 Các công cụ bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán hiện nay
Như đã trình bày, trong đầu tư chứng khoán lợi nhuận và rủi ro luôn song
hành cùng nhau. Có những nhà đầu tư nhanh chóng trở nên giàu có nhờ chứng
khoán, nhưng cũng không ít người “trắng tay”, thậm chí lâm vào tình cảnh nợ nần.
Trên thực tế, không phải nhà đầu tư nào cũng có đủ khả năng để tự bảo vệ
mình trước những rủi ro mà thị trường chứng khoán đem lại. Do đó, để có thể giữ
chân được nhà đầu tư, đồng thời đảm bảo duy trì sự hoạt động và phát triển của thị
trường chứng khoán đòi hỏi các nhà quản lý thị trường cần phải có những biện
pháp, công cụ nhằm bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Đó được xem
là nhiệm vụ hàng đầu của các nhà quản lý thị trường chứng khoán nói chung và thị
trường chứng khoán Việt Nam nói riêng. Hiện nay, mỗi thị trường chứng khoán trên
thế giới đều có những công cụ riêng để bảo vệ nhà đầu tư, tùy thuộc vào đặc điểm
thị trường bản địa, nhìn chung có các công cụ cơ bản sau:
Một là, Thành lập các tổ chức bảo vệ nhà đầu tư
Trong mối quan hệ với các chủ thể khác trên thị trường chứng khoán, nhà
đầu tư là những người luôn ở thế bị động. Họ xuất thân từ rất nhiều tầng lớp khác
nhau trong xã hội với trình độ hiểu biết và nhận thức về thị trường chứng khoán
khác nhau. Tiền đầu tư thường có nguồn gốc từ nguồn tiết kiệm trong cuộc sống
hằng ngày. Ngược lại, Các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới hay
các chủ thể phát hành có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, được sự giúp sức từ các đội ngũ
chuyên gia. Do đó để bảo vệ quyền lợi cho bên yếu thế hơn và đảm bảo sự công
bằng trong mối quan hệ giữa các chủ thể này với nhau rất cần sự có mặt của các tổ
chức trung gian, các tổ chức này có chức năng chính là giúp đỡ nhà đầu tư trong
trường hợp quyền lợi của họ bị xâm phạm. Trên thực tế có nhiều tổ chức được
thành lập và hoạt động tương đối hiệu quả ở một số nước trên thế giới, điển hình
như Công ty bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán (SIPC). SIPC là một tổ chức phi lợi
nhuận, được thành lập năm 1970 của Mỹ, với nhiệm vụ là hoàn trả chứng khoán,
tiền hoặc các loại chứng khoán khác cho nhà đầu tư trong trường hợp công ty môi

giới và kinh doanh chứng khoán bị phá sản, gặp khó khăn về tài chính và tài sản của
nhà đầu tư bị mất và không bảo hiểm cho lỗ trong đầu tư.
GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 18

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Hoặc là, Trung tâm bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán (SFIPC) Đài Loan, được
thành lập năm 2002. SFIPC có nhiệm vụ đại diện nhà đầu tư tham gia tranh tụng với
công ty chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán, trung tâm thanh toán bù trừ; chất
vấn tình hình hoạt động tài chính của các tổ chức phát hành, các công ty chứng
khoán, các công ty dịch vụ chứng khoán và các công ty kinh doanh sản phẩm tương
lai; cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư, kinh doanh chứng khoán và các sản phẩm tương
lai. Ngoài ra, SFIPC còn có các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo sự ủy nhiệm của
Ủy ban Chứng khoán. Với vai trò là một tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi nhà đầu
tư, SFIPC được trao các đặc quyền yêu cầu trợ giúp và cung cấp tài liệu cần thiết,
quyền kiến nghị Ủy ban Chứng khoán xử lý các vi phạm, quyền làm cơ quan hòa
giải tranh chấp trên cơ sở yêu cầu của nhà đầu tư chứng khoán, quyền khởi kiện, tố
tụng nhân danh nhà đầu tư khi được ủy quyền từ tối thiểu hai mươi nhà đầu tư có
quyền lợi bị xâm phạm và quyền sử dụng quỹ bảo vệ nhà đầu tư để chi trả thiệt hại
khi các công ty chứng khoán gặp khó khăn về tài chính. 18
Cho đến thời điểm này, Việt Nam vẫn chưa có một tổ chức trung gian nào
giữ vai trò chuyên biệt về bảo vệ nhà đầu tư như hai tổ chức vừa kể trên. Tuy nhiên,
trước tình hình quyền lợi nhà đầu tư không được bảo vệ một cách triệt để trong
những năm trở lại đây, thiết nghĩ Ủy Ban chứng khoán nhà nước cần sớm cân nhắc
đề xuất của Hiệp hội nhà đầu tư Tài chính Việt Nam về việc thành lập tổ chức bảo

vệ quyền lợi của nhà đầu tư chứng khoán.
Hai là, kiểm soát thông tin trên thị trường chứng khoán
Việc kiểm soát thông tin trên thị trường chứng khoán được thể hiện trên hai
nội dung cơ bản: (1) Nghĩa vụ cung cấp thông tin của các chủ thể trên thị trường;(2)
quản lý việc sử dụng thông tin liên quan đến thị trường. Theo đó để nhà đầu tư có
thể thẩm định được chất lượng chứng khoán và giám sát các nhân tố có khả năng
ảnh hưởng đến khoản đầu tư của mình, các chủ thể mà thông tin của họ có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến thị trường, đến giá chứng khoán đều phải công
bố một cách công khai, chính xác, kịp thời. Pháp luật nghiêm cấm hành vi trốn
tránh công bố thông tin hoặc công bố thông tin không chính xác hoặc sử dụng thông
tin một cách bất hợp pháp gây thiệt hại cho nhà đầu tư.
Ba là,quy định về bảo vệ cổ đông nhỏ của doanh nghiệp
18

Linh Chi, Vietnam+, VAFI đề xuất thành lập tổ chức bảo vệ nhà đầu tư,

/>[truy cập ngày 15/9/2012]

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 19

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Cổ đông nhỏ thường chiếm đa số trên thị trường chứng khoán (đặc biệt là thị
trường ở các nước đang phát triển như Viêt Nam), vốn ít nên họ có rất ích quyền và
tiếng nói có trọng lượng thấp trong hoạt động điều hành công ty. Họ bị chèn ép và

buộc phải cuốn theo những kế hoạch kinh doanh đã được sắp đặt trước của các cổ
đông lớn. Nhà đầu tư nhỏ vì thế luôn ở thế yếu, họ là những đối tượng được pháp
luật doanh nghiệp ưu tiên bảo vệ. Luật pháp thường đưa ra các cơ chế bảo vệ các cổ
đông nhỏ như sau: (i) quy định trách nhiệm của các cán bộ quản lý như chủ tịch
hoặc thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng Giám đốc) và các chức danh
quản lý khác; (ii) yêu cầu công khai lợi ích của cán bộ quản lý; (iii) thiết lập thủ tục
phê chuẩn hợp đồng giữa công ty và các bên liên quan (đặc biệt là giữa cổ đông,
người quản lý với doanh nghiệp mà họ điều hành); (iv) trao quyền cho cổ đông khởi
kiện cán bộ quản lý khi những người này gây thiệt hại cho cổ đông hoặc công ty.
Tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn hiện hành cũng
có cơ chế như vậy để bảo vệ nhà đầu tư nhỏ, bước đầu đã đạt được những hiệu quả
nhất định. Tuy nhiên, việc trao quyền cho cổ đông khởi kiện cán bộ quản lý ở các
công ty cổ phần Luật Doanh nghiệp lại không ghi nhận mà chỉ được quy định tại
nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Doanh nghiệp. Đặc biệt là quy định tại nghị
định này lại tồn tại một số bất cập, mong rằng trong tương lai gần các nhà làm luật
nhanh chóng khắc phục để các công cụ bảo vệ nhà đầu tư này phát huy hiệu quả cao
nhất (những bất cập sẽ được người viết phân tích cụ thể ở các chương sau).
Ngoài những cách thức nói trên, tùy vào đặc điểm của từng thị trường chứng
khoán, cơ cấu nhà đầu tư ở mỗi thị trường mà các nhà quản lý, nhà hoạch định
chính sách sẽ có những cách thức, công cụ khác nhau để bảo vệ nhà đầu tư cho phù
hợp. Chẳng hạn như đối với thị trường còn non trẻ như Việt Nam hành vi đầu cơ bị
pháp luật cấm để bảo vệ những nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu kiến thức, nhưng cũng có
thị trường chứng khoán không cấm đầu cơ thay vào đó họ quy định những điều kiện
rất chặt chẽ với loại hành vi này…
Tóm lại, khi tham gia đầu tư vào bất kỳ một lĩnh vực, một loại hàng hóa nào
đó nhà đầu tư đều mong muốn nguồn vốn của mình sinh lợi. Bởi vì, bản chất của
đầu tư là hành vi mang tính tích lũy. Trong số các hình thức đầu tư thì đầu tư chứng
khoán có khả năng sinh lời rất cao. Chính vì lẽ đó nó đã tạo nên sức hút mãnh liệt
đối với công chúng đầu tư, kể cả nhà đầu tư chuyên nghiệp (đầu tư theo tổ chức) và
những nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán không phải là

một nơi dễ dàng tìm kiếm lợi nhuận, xung quanh đó tìm ẩn rất nhiều rủi ro mà nếu
không bản lĩnh, không có kiến thức, kinh nghiệm vững vàng và không nhận được sự
GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 20

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

bảo vệ từ pháp luật nhà đầu tư hoàn toàn có thể mất tất cả. Do đó, để tạo niềm tin
của nhà đầu tư đối với thị trường, đồng thời duy trì sự tồn tại và phát triển của thị
trường chứng khoán, pháp luật chứng khoán của các nước đều dành những sự quan
tâm nhất định đến vấn đề bảo vệ nhà đầu tư. Ở mỗi thị trường chứng khoán khác
nhau có những cách thức, công cụ bảo vệ nhà đầu tư khác nhau. Tại Việt Nam, mặc
dù thị trường chứng khoán ra đời muộn hơn nhiều so với các nước khác trên thế
giới, nhưng vấn đề bảo vệ nhà đầu tư được quan tâm từ rất sớm.

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 21

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

CHƢƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO

VỆ NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
2.1 Quy định về chào bán chứng khoán
Theo quy định của pháp luật chứng khoán Việt Nam hiện hành, chào bán
chứng khoán bao gồm chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng
khoán riêng lẻ. Tùy đặc điểm của từng hình thức chào bán chứng khoán mà pháp
luật đặt ra yêu cầu bảo vệ nhà đầu tư khác nhau.
Đối với chào bán chứng khoán riêng lẻ, chỉ được tiến hành trên phạm vi hẹp,
nhằm phân phối chứng khoán cho số ít nhà đầu tư, thường là những đối tượng có
quan hệ đặc biệt đối với tổ chức phát hành chẳng hạn như nhân viên công ty, đối tác
làm ăn có quan hệ gần gũi với công ty trong quá trình kinh doanh…Đại đa số các
nhà đầu tư mua chứng khoán trong trường hợp này đều là những người có kiến thức
chuyên sâu về đầu tư chứng khoán, có khả năng tự phân tích, đánh giá tình hình sản
xuất kinh doanh và tình hình tài chính của tổ chức phát hành, cũng chính là tự đánh
giá được giá trị của chứng khoán đang được phát hành.
Khác với hình thức chào bán chứng khoán riêng lẻ, chào bán chứng khoán ra
công chúng được tiến hành trên phạm vi rộng, phân phối chứng khoán cho một
lượng lớn các nhà đầu tư. Luật Chứng khoán hiện hành quy định chào bán chứng
khoán ra công chúng là việc phát hành chứng khoán theo một trong các phương
thức: Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet; Chào bán chứng
khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp; Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.19. Như vậy có thể
thấy trong đợt phát hành chứng khoán ra công chúng phạm vi những nhà đầu tư có
khả năng trở thành cổ đông (trong phát hành cổ phiếu) hoặc chủ nợ (trong phát hành
trái phiếu) của tổ chức phát hành hết sức rộng rãi. Trong số những nhà đầu tư đó,
hiển nhiên có rất nhiều nhà đầu tư nhỏ, không chuyên nghiệp (không có kiến thức
chuyên sâu về chứng khoán và thị trường chứng khoán), cần có đầy đủ thông tin về
tổ chức phát hành để có được quyết định đầu tư đúng đắn, thậm chí cần có sự tư vấn
của công ty chứng khoán trước khi có quyết định đầu tư. Do đó yêu cầu bảo vệ bằng
pháp luật đối với nhóm đầu tư này có bức xúc hơn so với các nhà đầu tư sở hữu

19

Khoản 12 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2010

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 22

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

chứng khoán từ đợt chào bán chứng khoán riêng lẻ. Chính vì vậy, trong phạm vi
nghiên cứu của mình người viết chỉ tập trung phân tích những quy định về bảo vệ
nhà đầu tư chứng khoán trong chào bán chứng khoán ra công chúng.
2.1.1 Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng 20
Sau khi thực hiện việc chào bán chứng khoán ra công chúng, chứng khoán
của chủ thể chào bán sẽ được sở hữu rộng rãi bởi các nhà đầu tư. Sự thành, bại của
chủ thể chào bán có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lợi của nhà đầu tư (gồm cổ
đông, chủ sở hữu trái phiếu, chủ sở hữu chứng chỉ quỹ) có được từ cổ tức, từ lãi
suất của trái phiếu hoặc từ lãi chứng chỉ quỹ. Để bảo vệ lợi ích thỏa đáng của các
nhà đầu tư và cũng là để củng cố lòng tin của họ vào thị trường chứng khoán, Pháp
luật Chứng khoán đã đề ra những điều kiện mà tổ chức chào bán phải thỏa mãn để
được chào bán chứng khoán ra công chúng. Tùy từng loại chứng khoán khác nhau
mà pháp luật quy định những điều kiện được chào bán khác nhau:
2.1.1.1Đối với cổ phiếu và trái phiếu
Đầu tiên, để được chào bán cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng, tổ chức
chào bán phải thỏa mãn điều kiện liên quan về vốn. Theo đó, doanh nghiệp muốn
chào bán cổ phiếu và trái phiếu phải có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng

ký chào bán đạt từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.
Vốn điều lệ là số vốn do cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất
định và được ghi vào điều lệ công ty21. Vốn điều lệ là cơ sở quan trọng hàng đầu
hình thành nên doanh nghiệp, nó thể hiện quy mô tổ chức và là minh chứng cho
tiềm lực tài chính của doanh nghiệp đó. Trước đây khi thị trường chứng khoán mới
bắt đầu đi vào hoạt động do số lượng hàng hóa (chứng khoán) lưu thông trên thị
trường còn nhỏ bé cả về số lượng và chủng loại nên mức vốn điều lệ tối thiểu để
doanh nghiệp được phép chào bán chứng khoán ra công chúng là 5 tỷ đồng (quy
định tại Nghị định 144/2003/NĐ - CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ về
chứng khoán và thị trường chứng khoán, sau đây gọi là Nghị định 144/2003/NĐ CP). Hiện nay, một mặt do các doanh nghiệp Việt Nam đã lớn mạnh về cả số lượng
và năng lực tài chính; Mặt khác, chủng loại hàng hóa trên thị trường chứng khoán
cũng đã phong phú hơn trước, quy định về mức vốn điều lệ thỏa mãn điều kiện
được chào bán chứng khoán đã tăng lên so với trước.
Sở dĩ, Luật yêu cầu các tổ chức muốn chào bán cổ phiếu và trái phiếu ra công
chúng phải đáp ứng điều kiện về quy mô vốn nhằm mục đích hạn chế các doanh
20
21

Điều 12 Luật Chứng khoán năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2010
Khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009

GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 23

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam


nghiệp không có năng lực tài chính nhất định lợi dụng việc chào bán chứng khoán
để huy động vốn, gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Riêng đối với người sở hữu trái
phiếu, quy định này đảm bảo khả năng thanh toán của chủ thể phát hành. Như
chúng ta đã biết, khi sở hữu trái phiếu nhà đầu tư sẽ trở thành chủ nợ của tổ chức
phát hành. Nếu tổ chức đó không có tiềm lực tài chính sẵn có mà chỉ hoạt động dựa
trên vốn vay thì khi mất khả năng thanh toán, nhà đầu tư khó mà thu hồi được nợ,
khi đó họ là những người phải gánh chịu toàn bộ tổn thất.
Thứ hai, tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp
muốn thực hiện chào bán cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng để huy động vốn
ngoài việc thỏa mãn yêu cầu về mức vốn điều lệ do luật định còn phải thể hiện được
tính hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện cụ thể ở kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp đó vào năm liền kề trước năm đăng ký chào bán
chứng khoán ra công chúng. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện trên cả
hai phương diện: Một là, năm liền kề trước đó doanh nghiệp phải có lãi; hai là,
doanh nghiệp không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán chứng khoán.
Riêng đối với doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu còn phải đáp ứng yêu cầu
không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm. So với Nghị định
144/2003/NĐ - CP, quy định của Luật Chứng khoán hiện hành đã khắt khe hơn khi
đưa thêm điều kiện doanh nghiệp phải không có lỗ lũy kế vào để xét tính hiệu quả
trong hoạt động. Điểm mới này của Luật Chứng khoán thể hiện sự quan tâm đặc
biệt của các nhà làm luật đối với sự an toàn của nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán. Quy định này sẽ góp phần đảm bảo rằng doanh nghiệp phát hành có khả
năng đem lại thu nhập thỏa đáng cho nhà đầu tư trong tương lai. Việc bảo đảm hiệu
quả đồng vốn cho nhà đầu tư cũng sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào
thị trường chứng khoán, từ đó ngày càng thu hút đông đảo nhà đầu tư bỏ vốn vào thị
trường này.
Thứ ba, tính khả thi trong việc sử dụng vốn huy động. Khi phát hành chứng
khoán ra công chúng, doanh nghiệp sẽ huy động được nguồn vốn từ các nhà đầu tư,
tính hiệu quả trong việc sử dụng đồng vốn đó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
của nhà đầu tư. Do vậy để đảm bảo doanh nghiệp không lạm dụng nguồn vốn trên,

đồng thời bảo vệ nhà đầu tư tránh khỏi những rủi ro, luật quy định doanh nghiệp
phải có phương án phát hành, phương án sử dụng vốn huy động được thông qua bởi
Đại hội đồng cổ đông (đối với phát hành cổ phiếu), Hội đồng quản trị hoặc Hội
đồng thành viên hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp (đối với phát hành trái phiếu).
Ngoài ra các doanh nghiệp phát hành trái phiếu còn phải có phương án trả nợ vốn
thu được từ đợt chào bán.
GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 24

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

2.1.1.2Đối với chủ thể phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư
Khác với chủ thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu, chủ thể phát hành chứng
chỉ quỹ không nhằm mục đích huy động vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ mà nhằm tái đầu tư bằng vốn huy động và lĩnh vực đầu tư chủ yếu là
chứng khoán. Do có điểm đặc thù như vậy, nên pháp luật quy định điều kiện chào
bán chứng chỉ quỹ ra công chúng khác biệt với hai loại chứng khoán kể trên. Theo
đó, để phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng chủ thể này phải đăng ký phát hành
lượng chứng chỉ quỹ với tổng giá trị tối thiểu là năm mươi tỷ đồng Việt Nam; Đồng
thời, phải có phương án phát hành và phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt chào
bán phù hợp với quy định của pháp luật. Trước đây, tại nghị định 144/2003/NĐ CP mặc dù thừa nhận việc phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng nhưng hầu như
không quy định về điều kiện chào bán loại chứng khoán này. Vì vậy có thể thấy
Luật Chứng khoán hiện hành đã chú trọng hơn đến việc bảo vệ quyền lợi của nhà
đầu tư chứng chỉ quỹ bằng cách quy định những điều kiện được chào bán nhằm mục
đích đảm bảo chất lượng của chứng chỉ quỹ được chào bán rộng rãi ra công chúng,
góp phần giúp nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro. Người viết cho rằng đầu tư chứng

khoán thông qua quỹ đầu tư giống như việc góp vốn để cùng đầu tư chứng khoán,
đầu tư theo kiểu này có ưu điểm là đa dạng hóa danh mục đầu tư, hạn chế được rủi
ro cho nên nếu như quỹ đầu tư phát hành chứng chỉ với giá trị thấp sẽ rất khó trong
việc hoạch định và đa dạng hóa danh mục đầu tư, từ đó có thể làm tăng rủi ro cho
nhà đầu tư.
Các quy định về điều kiện chào bán chứng khoán trên đã được thể hiện một
cách chặt chẽ nhằm đảm bảo chất lượng chứng khoán được chào bán. Tuy nhiên,
nếu chỉ chú ý đến các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị chứng khoán thì vẫn chưa đủ mà
phải quan tâm đến tính thanh khoản của chứng khoán sau khi được phát hành, bởi vì
cùng với tính sinh lợi, tính thanh khoản là một trong những yếu tố thu hút nhà đầu
tư và là yếu tố đảm bảo sự an toàn vốn đầu tư. Trước khi được sửa đổi , bổ sung
Luật Chứng khoán năm 2006 và các văn bản hướng dẫn không đề cập đến vấn đề
ràng buộc công ty đại chúng đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường có tổ
chức, do vậy các giao dịch chứng khoán được thực hiện ở cả thị trường có tổ chức
và thị trường tự do. Có những doanh nghiệp đã chào bán chứng khoán ra công
chúng nhưng không thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch trên Sở giao dịch chứng
khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán. Điều này làm cho chứng khoán tính thanh
khoản của chứng khoán thấp, ảnh hưởng đến quyền lợi cổ đông, bởi vì các giao dịch
trên thị trường tự do thường thiếu tính minh bạch, nhà đầu tư không có đủ thông tin
một cách chính thống; mặt khác các giao dịch kiểu này không chịu sự quản lý chặt
GVHD: TS Lê Thị nguyệt Châu

Trang 25

SVTH: Nguyễn Ngọc Hoa


×