Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại một số vấn đề PHÁP lý về QUYỀN của các bên TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 85 trang )

Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA 2009 – 2013

Đề tài:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA
CÁC BÊN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

TS. Cao Nhất Linh
Bộ môn Luật KD –TM

Lê Xuân Cường
Mssv: 5095407
Lớp: LK0964A2

Cần Thơ, 11/2012
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 1

SVTH: Lê Xuân Cường




Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI VÀ CHỦ
THỂ CỦA TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI ........................................................................ 4
1.1. Khái quát về tranh chấp thƣơng mại ......................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp thương mại …………………………………………4
1.1.2. Điều kiện để một tranh chấp là tranh chấp thương mại

…………………7

1.1.3. Nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp thương mại 8
1.2. Chủ thể của tranh chấp thƣơng mại ........................................................................... 9
1.2.1. Chủ thể là thương nhân ………………………………………………………9
1.2.1.1. Khái niệm thương nhân ................................................................................... 9
1.2.1.2. Những điểm đặc trưng của thương nhân ...................................................... 10
1.2.1.3. Các loại thương nhân ..................................................................................... 12
1.2.2. Chủ thể không phải là thương nhân

………………………………………14

1.2.2.1. Cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân .............................................. 14
1.2.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại …………………………17
1.2.3.1. Thương lượng và hòa giải .............................................................................. 17
1.2.3.2. Trọng tài thương mại...................................................................................... 20
1.2.3.3. Tòa án .............................................................................................................. 21
Chƣơng 2. QUYỀN CỦA CÁC BÊN TRONG CÁC HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI…………………………………. .................................... 24
2.1. Quyền của các bên trong giai đoạn chuẩn bị giải quyết tranh chấp ..................... 24
2.1.1. Quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng và
hòa giải …………………………………………………………………………….24
2.1.1.1. Quyền thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng thương lượng và hòa giải .. 24
2.1.1.2. Quyền yêu cầu trung gian hòa giải của các bên tranh chấp thương mại ... 26
2.1.2. Quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
thương mại
. ……………………………………………………………………28
2.1.2.1 Quyền của các bên khi khởi kiện và khởi kiện lại trong tranh chấp
thương mại ................................................................................................................... 28
2.1.2.2. Quyền nhận đơn kiện và gửi bản tự bảo vệ của bị đơn ................................ 30
2.1.2.3. Quyền thỏa thuận thời điểm bắt đầu tố tụng, chọn địa điểm, Trọng tài
viên giải quyết tranh chấp giữa các bên ..................................................................... 31
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 2

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

2.1.3. Quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án

…34

2.1.3.1 Quyền khởi kiện tại Tòa án của nguyên đơn ................................................. 34
2.1.3.2. Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn................................................................. 37
2.2. Quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thƣơng mại ................ 38

2.2.1. Quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng và
hòa giải ……………………………………………………………………………38
2.2.1.1. Quyền tự do thỏa thuận của các bên cử người đại diện tham gia phiên
họp giải quyết tranh chấp tại thương lượng và hòa giải ........................................... 38
2.2.1.2. Quyền trình bày quan điểm của các bên tranh chấp thương mại tại
thương lượng và hòa giải ............................................................................................ 40
2.2.2. Quyền của các bên khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương
mại
……………………………………………………………………………42
2.2.2.1. Quyền rút đơn khởi kiện, đơn kiện lại; sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện,
đơn kiện lại hoặc bản tự bảo vệ .................................................................................. 42
2.2.2.2. Quyền tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp của các bên ................... 43
2.2.2.3. Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của các bên tranh
chấp thương mại .......................................................................................................... 44
2.2.3. Quyền của các bên khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng Tòa án

…45

2.2.3.1. Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của các bên tranh chấp thương
mại tại Tòa án .............................................................................................................. 45
2.2.3.2. Quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của các bên
tranh chấp thương mại tại Tòa án .............................................................................. 48
2.2.3.3. Quyền lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các bên tranh chấp thương mại tại Tòa án ......................................................... 49
2.3. Quyền của các bên trong việc thi hành kết quả giải quyết tranh chấp thƣơng
mại ....................................................................................................................................... 50
2.3.1. Quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng và
hòa giải 51
2.3.1.1. Quyền yêu cầu thi hành kết quả thương lượng và hòa giải trong tranh
chấp thương mại .......................................................................................................... 51

2.3.2. Quyền của các bên tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại

…52

2.3.2.1. Quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài ............................................... 52
2.3.2.2. Quyền yêu cầu hủy quyết định và phán quyết trọng tài của các bên tranh
chấp thương mại .......................................................................................................... 53

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 3

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

2.3.3. Quyền của các bên trong việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án
55
2.3.3.1. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm của các
bên tranh chấp thương mại ......................................................................................... 55
2.3.3.2. Quyền yêu cầu đề nghị giám đốc thẩm và tái thẩm của các đương sự
trong tranh chấp thương mại ...................................................................................... 57
2.3.3.3. Quyền yêu cầu thi hành án dân sự của các bên tranh chấp thương mại
tại Tòa án...................................................................................................................... 59
Chƣơng 3. MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN VỀ QUYỀN ĐỊNH
ĐOẠT CỦA CÁC BÊN TRONG CÁC HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI ..................................................................................................................... 61
3.1. Hạn chế về quyền của các bên trong các hình thức giải quyết tranh chấp
thƣơng mại ....................................................................................................................... 61

3.1.1. Hạn chế về quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp thương
mại bằng thương lượng và hòa giải ……………………………………………61
3.1.2. Hạn chế về quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp thương
mại bằng Trọng tài
………………………………………………………….64
3.1.3. Hạn chế về quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp thương
mại bằng Tòa án
…………………………………………………………..67
3.2. Hƣớng hoàn thiện về quyền của các bên trong các hình thức giải quyết tranh
chấp thƣơng mại ................................................................................................................ 71
3.2.1. Hướng hoàn thiện về quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng thương lượng và hòa giải ………………………………………72
3.2.2. Hướng hoàn thiện về quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng Trọng tài ………………………………………………………73
3.2.3. Hướng hoàn thiện về quyền của các bên trong hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng Tòa án
………………………………………………………75
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 78

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 4

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

LỜI NÓI ĐẦU
----------


1. Lý do chọn đề tài
Các hoạt động kinh tế luôn có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định sự tồn
tại cũng như phát triển của xã hội. Để thực hiện chức năng kinh tế, ngày nay Nhà nước
nào cũng ban hành hệ thống các qui phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Trong hoạt động kinh doanh thường khó tránh khỏi các tranh chấp do nhiều nguyên
nhân khác nhau, do vậy, giải quyết các tranh chấp kinh tế cũng là yêu cầu tất yếu. Để bảo
vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, đảm bảo các quan hệ kinh doanh được ổn
định, lành mạnh và phát triển, Nhà nước thông qua các cơ quan chức năng hoặc các tổ
chức được pháp luật thừa nhận để giải quyết tranh chấp. Theo quy định của pháp luật
hiện nay, có bốn phương thức để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh
doanh - thương mại như: thương lượng, hòa giải, Trọng tài, Tòa án. Mỗi phương thức
giải quyết tranh chấp sẽ có những ưu, nhược điểm riêng của nó.
Thương lượng và hòa giải mang tính thỏa thuận và quyền tự quyết của các bên rất
cao. Các bên không bắt buộc phải tuân theo một hình thức luật định nào cả. Thể hiện sự
thuận tiện, linh hoạt nên rất được các doanh nghiệp lựa chọn khi có xảy ra tranh chấp.
Nhưng bên cạnh đó nó cũng tồn tại nhưng nhược điểm là tính thi hành kết quả thương
lượng và hòa giải là rất thấp chỉ dựa vào sự tự nguyện của các bên mà thôi.
Trọng tài thương mại đang là phương thức giải quyết tranh chấp mà các nhà kinh
doanh trên thế giới ưu tiên lựa chọn khi giải quyết các tranh chấp phát sinh. Nếu so sánh
với phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, thì các bên có thể tiết kiệm được thời
gian và rút ngắn được các trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp và uy tín của các bên trên
thương trường cũng ít bị ảnh hưởng hơn so với Tòa án. Trong khi đó, ở Việt Nam thì
phương thức này vẫn chưa được các bên lựa chọn khi có tranh chấp phát sinh. Khi có
tranh chấp phát sinh thì các bên vẫn có xu hướng kiện nhau ra tòa để giải quyết.
Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua cơ quan tài phán Nhà nước,
nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra các phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi
hành. Với hình thức này, Nhà nước đã đứng ra để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bên bị xâm phạm. Bên cạnh đó, Tòa án cũng thể hiện những hạn chế như tốn kém về thời
gian và tiền bạc, thủ tục tại Tòa án thiếu linh hoạt do được pháp luật quy định từ trước,

hạn chế quyền tự do định đoạt của các đương sự khi tham gia giải quyết tranh chấp
thương mại so với thương lượng, hòa giải và Trọng tài. Chính vì lý do này mà người viết

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 5

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

chọn đề tài nguyên cứu: “Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình
giải quyết tranh chấp thương mại”.
2. Mục đích nguyên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, những vấn đề pháp lý và chỉ ra các hạn
chế về quyền của các bên trong tranh chấp thương mại. Sau đó đưa ra các đề xuất, những
ý kiến nhằm hoàn thiện về cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền của các bên trong quá trình giải
quyết tranh chấp thương mại.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay thì vấn đề tranh chấp giữa các bên kinh
doanh thương mại là không tránh khỏi. Nhưng vấn đề mà các doanh nghiệp quan tâm là
phải tìm được một phương thức giải quyết thật sự nhanh chóng và thật sự hiệu quả.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài thì người viết chỉ đưa ra một số vấn đề pháp lý về quyền
của các bên trong các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng,
hòa giải, Trọng tài, Tòa án qua quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, từ phân tích về các
quy định của pháp luật cho chúng ta thấy thực trạng giải quyết tranh chấp hiện nay và
đưa ra các đề xuất nhằm làm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thương lượng, hòa
giải, Trọng tài và Tòa án để bảo vệ được quyền của các bên khi xảy ra tranh chấp thương
mại.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu sâu hơn về nội dung của đề tài, tháo gở những vướng mắc cần thiết
trong hệ thống pháp luật nước ta, người viết dùng phương pháp phân tích, so sánh kết
hợp với đối chiếu. Bên cạnh đó, thì người viết còn dùng phương pháp của các ngành
khoa học khác như: Phân tích luật viết, liệt kê, bình luận và tổng hợp, siêu tầm các tài
liệu có liên quan. Nhằm chuyển tải hết những nội dung cơ bản của đề tài, tuy chỉ là một
khía cạnh của vấn đề nhưng những phương pháp này sẽ hữu ích trong việc tìm ra những
điểm cần khắc phục cũng như những vấn đề cơ bản nhất của đề tài.
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm những phần chính sau đây: Lời nói đầu, nội dung, kết luận.
Riêng phần nội dung gồm có ba chương:
Chƣơng 1. Khái quát chung về tranh chấp thƣơng mại và chủ thể của tranh chấp
thƣơng mại

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 6

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

Chương này gồm những nội dung chính như: Đưa ra các khái niệm về tranh chấp
thương mại, chủ thể của tranh chấp thương mại và các phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại.
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật về quyền của các bên trong các hình thức giải
quyết tranh chấp thƣơng mại
Chương này đi sâu nghiên cứu về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh
chấp thương mại thông qua quy định của pháp luật như: Quyền của các bên trong giai

đoạn chuẩn bị giải quyết tranh chấp, quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh
chấp, quyền của các bên trong việc thi hành kết quả giải quyết tranh chấp.
Chƣơng 3. Một số hạn chế và hƣớng hoàn thiện về quyền các bên trong các hình
thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại.
Chương này nêu lên các hạn chế của thực định về quyền của các bên trong quá trình
giải quyết tranh chấp và đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật
về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 7

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI VÀ CHỦ
THỂ CỦA TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
Trong hoạt động kinh doanh, vì lợi ích của mình, thương nhân có thể vi phạm vào
lợi ích của thương nhân khác. Tranh chấp tất yếu sẽ xảy ra, đòi hỏi phải được giải quyết
để bảo đảm quyền lợi chính đáng của bên bị vi phạm. Nếu chúng ta hiểu tranh chấp là
những mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm của các bên trong việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ giữa họ với nhau thì giải quyết tranh chấp là cách thức hay
phương pháp để loại trừ mâu thuẫn, bất đồng đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của các bên.
1.1. Khái quát về tranh chấp thƣơng mại
Tranh chấp thương mại là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh và vì
vậy giải quyết các tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự thân của các quan hệ kinh

tế. Theo hiểu biết chung, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh chính là sự lựa chọn các
hình thức, biện pháp thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích
giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được.
1.1.1 . Khái niệm về tranh chấp thƣơng mại
Trong đời sống kinh tế có lẽ ai cũng biết hoặc đã từng nghe nói về tranh chấp
thương mại, mà trước đây gọi là tranh chấp kinh tế. Hiểu theo nghĩa thông thường, tranh
chấp là sự bất đồng, mâu thuẫn về vấn đề gì đó, còn “thương mại”, khi hỏi về hoạt động
bao gồm những hoạt động nào, thì không ít người phải suy nghĩ, trong hệ thống pháp luật
Việt Nam cũng đã từng tồn tại những khái niệm khác nhau về hoạt động thương mại.
Theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và Nghị định
116/CP ngày 05/9/1994 thì các tranh chấp kinh tế bao gồm: “Tranh chấp về hợp đồng
kinh tế; Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
công ty liên quan đến việc thành lập hoạt động, giải thể công ty; Các tranh chấp liên
quan đến lĩnh vực mua bán cổ phiếu, trái phiếu”.1
Trong Luật thương mại ngày 10/5/1997, khái niệm này còn hạn hẹp hơn, tranh chấp
thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
hợp đồng trong hoạt động thương mại.2
Còn Pháp lệnh Trọng tài thương mại ngày 25/02/2003 không trực tiếp đưa ra định
nghĩa về tranh chấp thương mại mà là sự liệt kê các hoạt động thương mại: “Hoạt động
1
2

. Điều 1, Nghị định 116/CP/05/09/1994 của Chính Phủ (đã hết hiệu lực pháp luật).
. Điều 239, Luật thương mại 1997, (đã hết hiệu lực pháp luật).

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 8

SVTH: Lê Xuân Cường



Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao
gồm: Mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký
gởi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính;
ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường
không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định
của pháp luật”.3 Ở đây, Pháp lệnh quy định như vậy là rất thiết phục, bởi sau những liệt
kê pháp lệnh lại bổ sung một câu: “Các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp
luật”, với quy định như vậy, thì rõ ràng tất cả những hoạt động sinh lời là hoạt động
thương mại và đương nhiên với quy định đó đã mở rộng phạm vi áp dụng đối với Pháp
lệnh. Nếu trong các ngành luật khác có Điều khoản nào quy định có liên quan tới “hành
vi thương mại” thì có thể thuộc đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh trọng tài thương mại
trên.
Luật thương mại 2005 định nghĩa: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại
và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”.4 Theo như định nghĩa này thì chúng ta
có thể hiểu hoạt động thương mại phải là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, yếu tố sinh
lợi hay không sinh lợi là yếu tố quyết định cho hoạt động đó có phải là hoạt động thương
mại hay không. Nếu không có mục đích sinh lợi thì đó không phải là hoạt động thương
mại mà có thể là hoạt động trên những lĩnh vực khác như dân sự, lao động, hôn nhân gia
đình…Với định nghĩa như vậy sẽ bao quát được các hoạt động nào là hoạt động nhằm
mục đích sinh lời, bất cứ hoạt động nào nhằm mục đích sinh lời đều là hoạt động thương
mại.
Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 cũng liệt kê những tranh chấp thương mại thuộc quyền
xét xử của Tòa án: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký hoạt động kinh doanh với nhau và điều có mục đích lợi
nhuận bao gồm: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký

gửi; thuê, cho thuê,thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có
giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác. Tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và điều có
mục đích lợi nhuận. Tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Các tranh chấp khác về kinh doanh,
3

. Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, (đã hết hiệu lực và được thay thế bởi Luật Trọng tài
thượng mại năm 2010.)
4
. Khoản 1 Điều 3, Luật thương mại 2005.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 9

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

thương mại mà pháp luật có quy định”.5 Như vậy, trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004, quy
định các tranh chấp về hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng
ký kinh doanh, nhưng trên thực tế có nhiều trường hợp tổ chức hoạt động kinh doanh
trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 6 Trong trường hợp này vẫn
thuộc loại tranh chấp kinh doanh thương mại và thuộc thẩm quyền của tòa kinh tế.
Luật Trọng tài thương mại 2010 đưa ra những quy định rộng hơn về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của Trọng tài so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.

Theo đó Luật Trọng tài thương mại 2010 không sử dụng phương pháp liệt kê như Pháp
lệnh trọng tài trước đó mà nêu ra những đặc điểm của tranh chấp thương mại: “Tranh
chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. Tranh chấp phát sinh giữa các
bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại. Tranh chấp khác giữa các bên mà
pháp luật có quy định được giải quyết bằng Trọng tài”.7 Như vậy, chúng ta sẽ lần lượt
phân tích các đặc điểm trên.
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. Với việc quy định như
vậy, thì việc xác định như thế nào là: “hoạt động thương mại” là rất quan trọng để xác
định thẩm quyền của trọng tài với vụ việc xảy ra. Với xu hướng phát triển của nền kinh tế
như hiện nay thì việc giải quyết bằng con đường trọng tài là rất cần thiết. Qua việc quy
định như thế các nhà làm luật đã dự liệu được xu thế thời đại. Chỉ cần có những tranh
chấp phát sinh từ hoạt động thương mại thì trọng tài thương mại có thể giải quyết.
Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại. Như vậy, chỉ cần khi xảy ra tranh chấp mà một bên có hoạt động kinh doanh thì khi
có yêu cầu của bên không hoạt động kinh doanh thì có thể yêu cầu trọng tài giải quyết. Ví
dụ trong tranh chấp về nhà ở một bên có đầu tư phát triển nhà thương mại thì đây là tranh
chấp có ít nhất một bên có hoạt động thương mại và có thể được giải quyết bằng phương
thức trọng tài.8 So sánh khoản 1 và khoản 2 Điều luật này có gì đó mâu thuẫn với nhau.
Nếu tại khoản 1 quy định: “Phát sinh giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại”,
nhưng tại khoản 2 lại quy định chỉ cần: “Một bên có hoạt động thương mại”. Như vậy,
chúng ta phải hiểu rằng mặc dù nó không có phát sinh từ hoạt động thương mại nhưng nó
bắt buộc phải có liên quan tới hoạt động thương mại.
Các tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật có quy định được giải quyết bằng
trọng tài. Với quy định này, nó như là một quy định luật mở cho các đối tượng khác khi
5

. Điều 29, Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
. Trương Thanh Hùng, Giáo trình Luật tố tụng dân sự 1, Khoa luật, Trường Đại học Cần Thơ, Năm 2009, trang
46.
7

. Điều 2, Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
8
. TS. Đỗ Văn Đại – TS. Trần Hoàng Hải, Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại, Nxb Chính trị quốc gia,
2011, Trang 43.
6

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 10

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

tham gia giao dịch không nhất thiết phải là “hoạt động thương mại” cũng có thể yêu cầu
trọng tài giải quyết. Các tranh chấp khác có thể là tranh chấp hàng hải, tranh chấp chứng
khoán, tranh chấp về đầu tư…Vì vậy, với việc quy định theo khoản 3 Điều 2 Luật trọng
tài thương mại chỉ ghi nhận những gì có thể xảy ra trong thực tế không làm ảnh hưởng
đến thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài.
Nhìn chung, mặc dù có sự biểu đạt khác nhau về từ ngữ nhưng hệ thống pháp luật
Việt Nam gần đây quy định tương đối giống nhau về tranh chấp thương mại. Từ những
khái niệm được liệt kê ở trên, ta có thể định nghĩa một cách khái quát nhất: Tranh chấp
thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
chủ thể trong một quan hệ pháp luật đã phát sinh.
1.1.2. Điều kiện để một tranh chấp là tranh chấp thƣơng mại
Từ những khái niệm đã nêu ở trên chúng ta có thể thấy rằng, một tranh chấp thương
mại phải hội tụ đủ các yếu tố sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn hay bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ pháp luật thương mại cụ thể. Nguyên

nhân của sự tranh chấp này là vì mục đích lợi nhuận dẫn đến các bên vi phạm quyền lợi
của chủ thể khác.
Thứ hai, những mâu thuẫn hay bất đồng đó phải phát sinh từ hoạt động thương mại
hoặc ít nhất có một bên hoạt động thương mại. Ví dụ, công ty A tham gia giao dịch mua
bán hàng hóa với công ty B. Nhưng đến hạn công ty B không giao hàng hóa cho công ty
A và cũng không có lý do nào giải thích cho công ty A biết về lý do không giao hàng
đúng hạn và giữa hai bên phát sinh tranh chấp. Như vậy, trong trường hợp này là một
tranh chấp thương mại vì cả hai bên tham gia hoạt động thương mại.
Thứ ba, những mâu thuẫn hay bất đồng đó phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân
hoặc ít nhất một bên vì mục đích sinh lời. Phần lớn các tranh chấp thương mại có chủ thể
là thương nhân với nhau. Tuy vậy, trong những trường hợp nhất định, tranh chấp thương
mại cũng có thể phát sinh giữa các cá nhân không phải là thương nhân như: “Tranh chấp
giữa các cá nhân hoạt động thường xuyên không có đăng ký kinh doanh, cá nhân hoạt
động đăng ký thường xuyên với người tiêu dùng, tranh chấp giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty”.9 Trong thực tế cuộc sống lại có
các quan hệ giữa một bên không không vì mục đích sinh lời với một bên vì mục đích sinh

9

. Khoản 3, Điều 29, Bộ luật tố tụng dân sự 2004.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 11

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại


lời đó cũng có thể là tranh chấp thương mại nếu chủ thể không vì mục đích sinh lời yêu
cầu giải quyết bằng con đường tranh chấp thương mại.
Ví dụ, như tranh chấp phát sinh giữa hai công ty A và công ty B về hợp đồng gia
công một lô hàng mà công ty A nhận gia công cho công ty B nhưng đến thời hạn giao
hàng như thỏa thuận thì công ty A vẫn chưa có hàng để giao cho công ty B thì lúc này
vấn đề tất yếu sẽ phát sinh tranh chấp giữa hai công ty vì lý do chậm giao hàng của công
ty A có thể gây thiệt hại cho công ty B và công ty A trong trường hợp này vì đã vi phạm
hợp đồng với công ty B. Tranh chấp này thỏa mãn điều kiện là tranh chấp thương mại vì
cả hai bên tranh chấp đều là thương nhân (công ty A và công ty B), tranh chấp này phát
sinh từ việc gia công hàng hóa và cả hai công ty A và B đều tham gia quan hệ hợp đồng
với mục đích lợi nhuận. Nên đây là một trong những điều kiện để nhận biết chúng là
tranh chấp thương mại.
1.1.3. Nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp thƣơng mại
Tranh chấp thương mại có thể xuất phát với nhiều lý do khác nhau. Có thể do bất
khả kháng, do lỗi không chủ định của một bên hoặc có thể do chủ định của một bên hoặc
nhiều bên vì những mục đích khác nhau. Nhưng trên thực tế của pháp luật điều chỉnh dựa
trên hai nguyên nhân chính đó là nguyên nhân do lỗi khách quan và nguyên nhân do lỗi
chủ quan.
Nguyên nhân do lỗi khách quan là nguyên nhân phát sinh từ thực tế của các giao
dịch thương mại mà các bên không thể biết trước được hoặc biết nhưng cho rằng nó
không quan trọng và có thể khắc phục được, cũng có thể những trở ngại đó nằm ngoài
phạm vi xử lý của các bên; cũng có thể hành vi vi phạm của bên này là hoàn toàn do lỗi
của bên kia, hay là do quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các
bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Chính vì vậy, đối với nguyên
nhân khách quan này nếu bên có lỗi chứng minh được mình đã thực hiện các biện pháp
khắc phục hoặc gặp các sự kiện bất khả kháng thì có thể được miễn trách nhiệm. Ví dụ,
như trong hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng giữa công ty A với công ty B và có điều
khoản quy định trong hợp đồng là công ty B sẽ nhận hàng tại cơ sở sản xuất của công ty
A vào ngày 10/10/2010. Nhưng tối ngày 09/10/2010 thì kho của công ty A bị cháy và

toàn bộ số hàng vật liệu xây dựng của công ty A để trong kho đã thành một đống tro tàn.
Tới ngày 10/10/2010 công ty B lại cở sở công ty A để nhận hàng. Nhưng công ty A đã
không còn số hàng để giao cho công ty B (vì nó đã bị cháy). Công ty B đòi công ty A
phải bồi thường vì đã vi phạm hợp đồng. Như vậy trong trường hợp này công ty A phải

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 12

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

chứng minh được mình không thể thực hiện nghĩa vụ là do sự kiện bất khả kháng. Nếu
chứng minh được thì công ty A sẽ có thể được miễn trách nhiệm.10
Nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân phát sinh do lỗi của một bên hoặc các
bên nhưng có chủ định trước. Các loại nguyên nhân này rất phức tạp vì rất khó để xác
định bên nào gây ra lỗi đó. Cũng có thể do lỗi của một bên hoặc do lỗi của nhiều bên.
Trong quan hệ thương mại vì mục đích lợi nhuận mà các bên không có thành ý làm ăn
lâu dài có thể phá vở hợp đồng, chấp nhận mất chữ tín, mất lòng tin của đối tác để có thể
mang lại lợi nhuận cho mình và mặc nhiên không quan tâm đến quyền, nghĩa vụ của đối
tác. Vì lợi ích bản thân mà các thương nhân bất chấp pháp luật hoặc nhiều chủ thể trong
hoạt động kinh doanh thương mại do hạn chế về kiến thức pháp luật nên không biết thực
hiện hoặc cố tình không thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình theo quy định của hợp
đồng, nên điều tất yếu sẽ xảy ra đó chính là tranh chấp.
1.2. Chủ thể của tranh chấp thƣơng mại
Chủ thể là thuật ngữ để chỉ các cá nhân, tổ chức, theo quy định của pháp luật tham
gia vào các quan hệ pháp luật để thực hiện các nội dung của quy phạm pháp luật tương
ứng. Chủ thể của tranh chấp thương mại có thể là thương nhân và không phải là thương

nhân.
1.2.1. Chủ thể là thƣơng nhân
1.2.1.1 Khái niệm thương nhân
Qua tìm hiểu chúng ta điều thấy rằng ở một góc độ nào đó pháp luật thương mại là
luật riêng của thương nhân. Như vậy, việc xác định chủ thể nào là thương nhân là một nội
dung quan trọng của pháp luật thương mại.
Khái niện thương nhân lần đầu tiên đã được quy định tại Luật thương mại năm 1997
và hoàn thiện hơn trong khái niệm Luật thương mại năm 2005. Theo Luật thương mại
năm 1997, quy định: “Thương nhân gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có
đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên”. 11 Nếu theo
như quy định ở trên thì cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình phải có hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên thì mới được coi là thương nhân và thuộc
đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại 1997, khi các chủ thể này phải qua một thủ tục
hành chính bắt buộc đó là “đăng ký kinh doanh”. Từ quy định này đã dẫn đến nhiều
trường hợp các chủ thể tham gia hoat động thương mại một cách độc lập và thường
xuyên (thương nhân thực tế), không được coi là thương nhân vì họ không đăng ký kinh
10
11

. Điều 294, Luật thương mại 2005.
. Khoản 6 Điều 5, Luật thương mại 1997 (đã hết hiệu lực và được thay thế bởi Luật thương mại năm 2005.)

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 13

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại


doanh. Chính vì vậy những chủ thể này không chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại
này. Đó là một kẻ hở của luật pháp tạo điều kiện cho các chủ thể không đăng ký kinh
doanh lợi dụng khi tham gia giao dịch với các đối tác khác nhằm không thực hiện nghĩa
vụ của mình.
Qua một thời gian dài như thế, để khắc phục các hạn chế trên thì Luật thương mại
2005 ra đời và xác định: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp, cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.12
Không những vậy mà Luật thương mại 2005 còn mở rộng khái niệm về hoạt động thương
mại là: “Hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. 13 Đã
làm cho số lượng chủ thể của thương nhân tăng lên đáng kể so với trước kia. Bởi vì, Luật
thương mại 2005, chỉ quy định là “tổ chức” và “cá nhân”, chứ không giống như luật
thương mại năm 1997 quy định phải là “cá nhân” và “pháp nhân”. Trong nhiều trường
hợp là tổ chức chưa hẳn đã là pháp nhân nên chủ thể là tổ chức sẽ chiếm số lượng lớn
hơn pháp nhân. Bên cạnh đó, việc nền kinh tế càng phát triển thì có nhiều lĩnh vực trong
hoạt động thương mại xuất hiện nên số lượng sẽ tăng lên là điều tất yếu.
Thêm một điểm tiến bộ hơn là Luật thương mại 2005 đã không bắt buộc việc “đăng
ký kinh doanh” để đánh giá một chủ thể có phải là thương nhân hay không. Mà chỉ coi
“đăng ký kinh doanh” là một nghĩa vụ của thương nhân. Điều này cũng đồng nghĩa là
luật đã công nhận có thương nhân thực tế và chịu sự điều chỉnh của luật thương mại. Như
vậy thương nhân thực tế là chủ thể có hoạt động thương mại một cách độc lập, thương
xuyên nhưng chưa thực hiện việc đăng ký kinh doanh vẫn được coi là thương nhân.
1.2.1.2. Những điểm đặc trưng của thương nhân
Thứ nhất, thương nhân phải là người (cá nhân, tổ chức) thực hiện hoạt động thương
mại.
Thương nhân và hoạt động thương mại có mối quan hệ gắn bó và lôgic với nhau.
Bởi vì hoạt động thương mại là một tiêu chí không thể thiếu để phân biệt giữa một
thương nhân với các chủ thể khác không phải là thương nhân. Theo quy định của Luật
thương mại thì: “Thương nhân là chủ thể của hoạt động thương mại. Muốn xem chủ thể

đó có phải là thương nhân hay không, thì phải xem chủ thể đó có thực hiện hoạt động
thương mại hay không”.14 Điều này cũng cho thấy sự phụ thuộc vào quan niệm hoạt động

12

. Khoản 1, Điều 6, Luật thương mại năm 2005.
. Khoản 1, Điều 3, Luật thương mại năm 2005.
14
. Khoản 6, Điều 5, Luật thương mại năm 1997 (đã hết hiệu lực pháp luật)
13

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 14

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

thương mại được hiểu theo nghĩa rộng hay hẹp mà việc xác định số lượng chủ thể được
coi là thương nhân cũng khác nhau.
Thứ hai, thương nhân phải là người (cá nhân, tổ chức) thực hiện hoạt động thương
mại một cách độc lập: Có nghĩa là thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại cho
chính mình, dưới danh nghĩa của mình và vì lợi ích của bản thân mình, không phụ thuộc
vào một người nào khác, tự mình quyết định nội dung hoạt động và thời gian làm việc, tự
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh. Trong hoạt động thương mại thường
có nhiều người tham gia vào như người làm công ăn lương, các nhân viên quản lí điều
hành. Do vậy, cần phải dựa vào tính độc lập trong thực hiện hành vi của chủ thể để xác
định người đó có tư cách thương nhân. Ví dụ, đối với một cửa hàng buôn bán vật liệu xây

dựng thì chủ của cửa hàng mới là thương nhân còn người bán hàng, nhân viên kế toán và
người được thuê quản lý không phải là thương nhân. Vì khi tham gia các giao dịch
thương mại thì chủ cửa hàng là người chịu trách nhiệm trực tiếp, chứ không phải là các
nhân viên của họ. Chính vì vậy mà khi muốn xem một chủ thể có phải là thương nhân
hay không, thì phải xem chủ thể đó có thực hiện hoạt động thương mại một cách độc lập
hay không.
Thứ ba, thương nhân phải là người (cá nhân, tổ chức) thực hiện hoạt động thương
mại một cách thường xuyên.
Tại khoản 1 Điều 6 của Luật thương mại 2005 nêu lên điều kiện này, nhưng lại
không định nghĩa thế nào là “thường xuyên”. Qua tìm hiểu chúng ta có thể nêu một vài
dấu hiệu để nhận biết tính thường xuyên như: Thương nhân phải thực hiện hoạt động
thương mại trên cơ sở có kế hoạch lâu dài, lấy việc thực hiện hoạt động thương mại làm
nghề nghiệp chính của mình. Để trở thành thương nhân thì chủ thể phải thường xuyên
thực hiện những hoạt động thương mại một cách thực tế, lặp đi lặp lại, kế tiếp nhau, liên
tục mang tính chuyên nghiệp. Nếu thương nhân dừng hoạt động trong một thời gian nhất
định mà không thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh, thì có thể bị mất tư cách
thương nhân, vì theo pháp luật thương mại Việt Nam, thương nhân phải có nghĩa vụ đăng
ký kinh doanh để có được giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nếu thương nhân dừng
hoạt động thì có thể bị thu hồi giấy phép đăng ký kinh doanh hoặc đối với doanh nghiệp
thì có thể bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Như vậy việc thực hiện hoạt
động thương mại một cách thường xuyên, liên tục là một trong những dấu hiệu pháp lý
để xác định chủ thể có tư cách thương nhân.
Thứ tư, thương nhân phải là người (cá nhân, tổ chức) có nghĩa vụ đăng ký kinh
doanh

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 15

SVTH: Lê Xuân Cường



Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

Đăng ký kinh doanh là nghĩa vụ pháp lý đối với thương nhân theo quy định của
pháp luật thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó, thương nhân thực tế Luật thương mại vẫn
không công nhận một cách trực tiếp thương nhân thực tế như luật pháp của nhiều nước
trên thế giới. Tuy nhiên, với việc tách biệt nghĩa vụ đăng ký kinh doanh và việc quy định
rõ: “Trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về
mọi mặt hoạt động của mình theo quy định của luật này”.15 Với quy định như vậy, Luật
thương mại 2005 đã giải quyết được bất cập này của luật thương mại 1997.
Mục đích chính của thủ tục này là để cơ quan nhà nước nắm bắt các thông tin về các
hoạt động thương mại của thương nhân đó như: Ngành nghề kinh doanh, vốn kinh doanh,
địa chỉ kinh doanh, tên người đứng ra kinh doanh. Để thực hiện chức năng quản lý của
mình, đây cũng là thủ tục đã tồn tại lâu đời trong lịch sử thương mại. Các chủ thể khác
muốn biết thông tin cụ thể về một thương nhân nào đó, có thể đến nơi thương nhân đó
đăng ký kinh doanh để được cung cấp các thông tin cần thiết về thương nhân này.
1.2.1.3. Các loại thương nhân
Chủ thể pháp luật nói chung và chủ thể của Luật thương mại nói riêng được chia
thành: Pháp nhân và thể nhân. Pháp nhân là thuật ngữ dùng để chỉ chủ thể pháp luật là
một tổ chức còn thể nhân dùng để chỉ một con người cụ thể. Trong pháp luật thực định
của Việt Nam, thuật ngữ cá nhân thường được sử dụng thay cho thuật ngữ thể nhân, mặc
dù hai thuật ngữ này thường không hoàn toàn đồng nhất với nhau (theo quan niệm
chung).
Thứ nhất, thương nhân là cá nhân nhằm chỉ một con người cụ thể và chủ thể này có
đầy đủ dấu hiệu pháp lý của thương nhân. Họ có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực
hành vi để thực hiện các hoạt động thương mại. Theo quy định của Luật thương mại thì:
“Cá nhân phải đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không thuộc các
trường hợp pháp luật cấm kinh doanh thì có quyền đăng ký kinh doanh và khi đáp ứng
đầy đủ các điều kiện của luật định thì trở thành thương nhân”.16

Hiện nay, trong nền kinh tế của nước ta theo pháp luật quy định thì thương nhân là
cá nhân tồn tại dưới hai hình thức là hộ kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân.
Đối với hộ kinh doanh thì có một số lượng khá lớn người kinh doanh trực tiếp tham
gia các hoạt động mua bán hàng hóa là các cá nhân có cửa hàng, cửa hiệu, các sạp hàng,
quầy hàng trong các trung tâm thương mại, các chợ, buôn chuyến có mức vốn kinh doanh
thấp, hình thức tổ chức kinh doanh đơn giản tại một địa điểm cố định. Chính vì thế, mà
15
16

. Điều 7, Luật thương mại 2005.
. Theo Điều 17, Luật thương mại 1997 (Đã hết hiệu lực pháp luật).

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 16

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

pháp luật Việt Nam không dùng khái niệm doanh nghiệp với những đối tượng này, mà
dùng khái niệm hộ kinh doanh, chủ hộ kinh doanh cũng được coi là thương nhân.
Trong trường hợp cá nhân tham gia các hoạt động thương mại với quy mô lớn hơn
(doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Góp vốn với các
chủ thể khác để thành lập công ty kinh doanh). Khi cá nhân thành lập công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên, thì công ty này sẽ là chủ thể kinh doanh và có tư cách thương
nhân vì công ty này có đầy đủ điều kiện của một pháp nhân, cá nhân này là chủ sở hữu
công ty và là người đầu tư. Nhưng khi cá nhân này thành lập doanh nghiệp tư nhân thì cá
nhân này là người kinh doanh trực tiếp nên cá nhân này là thương nhân. Bên cạnh một số

điểm khác biệt giữa hai hình thức hộ kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân, các thương
nhân này đều có điểm chung là phải chịu trách nhiệm vô hạn về mọi nghĩa vụ phát sinh
từ hoạt động thương mại và không có tư cách pháp nhân.
Thứ hai, thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp
Tổ chức kinh tế là một tập thể cùng tham gia hoạt động trong cùng một lĩnh vực và
chung mục tiêu là lợi nhuận. Như vậy đây là một hình thức mà nhiều người cùng góp vốn
để kinh doanh và thành lập nên công ty thì công ty đó được xác định là thương nhân khi
nó hội đủ các điều kiện của pháp nhân sau đây: “Được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập” 17.Từ quy
định trên, chúng ta có thể thấy không phải mọi tổ chức có tư cách pháp nhân đều có thể
trở thành thương nhân mà một tổ chức chỉ được coi là thương nhân hoặc pháp nhân khi
hội đủ các điều kiện ở trên.
Xét từ các khía cạnh của thương nhân và tiêu chuẩn luật định của pháp nhân, hiện
nay ở nước ta các thương nhân là pháp nhân chủ yếu bao gồm các loại hình sau đây:
“Doanh nghiệp nhà nước; Hợp tác xã; Tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội nghề nghiệp; Công ty trách nhiệm hữu hạn; Công ty cổ phần; Công ty hợp danh;
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có đủ các điều kiện tại Điều 84, của Bộ luật
dân sự 2005”.18 Như vậy, chỉ cần các tổ chức kinh tế này tham gia hoạt động thương mại
và tự chịu trách nhiệm về tài sản của mình và đáp ứng các yêu cầu của luật định thì sẽ trở
thành thương nhân.
Ngoài các đặc điểm của thương nhân nói chung, các thương nhân là pháp nhân đều
phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động thương mại trong phạm vi số
vốn, tài sản của pháp nhân. Pháp nhân là nguyên đơn hoặc bị đơn trong quan hệ tố tụng.
17
18

. Điều 84, Bộ Luật dân sự năm 2005.
. Khoản 1, Điều 103, Bộ Luật dân sự 2005.


GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 17

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

Ngoài ra, còn có các tổ chức có tư cách pháp nhân khác như: Các cơ quan nhà nước, các
tổ chức chính trị, xã hội không được coi là thương nhân vì các tổ chức này hoạt động
không vì mục đích lợi nhuận và cũng không có đăng ký kinh doanh thương mại.
1.2.2. Chủ thể không phải là thƣơng nhân
Chủ thể không phải là thương nhân có thể là cá nhân hay tổ chức tham gia vì mục
đích của bản thân hay mục đích công việc.
1.2.2.1. Cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân
Cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân được tồn tài trong cuộc sống là rất
nhiều. Vì những mục đích công việc hay phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mà họ tham
gia giao dịch với các nhà cung cấp dịch vụ để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cho sinh
hoạt và tiêu dùng.
Đối với cá nhân, tổ chức là người tiêu dùng thì trước khi Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng 2010 chưa ra đời quyền lợi của người tiêu dùng bị xâm phạm rất nhiều
như bị ép giá, hoặc bị những chiêu thức lừa đảo vô cùng tinh vi của các nhà sản xuất như:
Khuyến mại, quảng cáo, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Từ những thực trạng trên,
đòi hỏi nhà nước phải có chính sách pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đồng bộ
và có hiệu quả. Theo đó, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã ra đời nhằm
giải quyết những bất cập đang còn tồn tại.
Với quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì: “Người tiêu dùng là
người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân,
gia đình và tổ chức”.19 Nhưng vấn đề mà chúng ta đề cập ở đây, không phải là quan tâm

tới việc người tiêu dùng mua những gì? Mua như thế nào? Mà vấn đề ở đây là đề cập tới
việc khi người tiêu dùng bị xâm phạm tới những lợi ích chính đáng của mình, thì có thể
làm gì và làm như thế nào. Theo quy định tại Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng:
“Khi có tranh chấp xảy ra giữa người tiêu dùng và người cung cấp hành hóa, dịch vụ
được giải quyết thông qua: Thương lượng, hòa giải, Trọng tài, Tòa án.20 Với việc quy
định như vậy, thì quyền lợi của người tiêu dùng đã được quan tâm khá tốt, khi xảy ra
tranh chấp người tiêu dùng có thể đề nghị được tiến hành bằng các hình thức nêu trên.
Với quy định trên thì có một hình thức mới được đưa ra để cho người tiêu dùng lựa chọn
đó là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nhưng với hình thức trọng tài
pháp luật không bắt buộc người tiêu dùng phải giải quyết bằng phương thức này mà chỉ
tùy ý lựa chọn mà thôi. Do trọng tài là một tổ chức phi chính phủ và là đơn vị sự nghiệp

19
20

. Khoản 1, Điều 3, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.
. Điều 30, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 18

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

có thu, nên khi người tiêu dùng muốn giải quyết bằng phương thức này sẽ rất tốn kém,
nên cho dù trong hợp đồng của nhà sản xuất kinh doanh có đưa ra điều khoản nếu khi xảy
ra tranh chấp các bên sẽ giải quyết bằng Trọng tài, thì khi đó người tiêu dùng vẫn được

quyền lựa chọn một hình thức khác.
Luật Trọng tài thương mại có quy định: “Người cung cấp dịch vụ không có quyền được
khởi kiện ra Trọng tài với người tiêu dùng, họ chỉ được khởi kiện khi người tiêu dùng
đồng ý”.21 Ngược lại người tiêu dùng được quyền khởi kiện ra trọng tài mà không cần sự
đồng ý của phí bên kia. Quy định như vậy, vì người tiêu dùng thường ở một vị trí nhiều
nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in sẵn của người
bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ.22 Từ quy định đó cho chúng ta thấy, Nhà nước đã
có những chính sách ưu đãi nhằm để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi có tranh chấp
xảy ra.
Bên cạnh đó, còn một loại chủ thể nữa không phải là thương nhân những cũng
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại đó là: Cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh (sau
đây gọi tắt là cá nhân hoạt động thương mại); Tổ chức, cá nhân khác liên quan đến hoạt
động thương mại của cá nhân hoạt động thuong mại. Như vậy, Cá nhân hoạt động thương
mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được
pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là thương nhân theo quy định của Luật
Thương mại là: “Cụ thể bao gồm những cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau
đây: Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không có địa điểm cố
định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc nhận sách
báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh doanh các sản phẩm
này theo quy định của pháp luật để bán rong; Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những
vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có địa điểm cố định; Bán quà vặt là hoạt động bán quà
bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có hoặc không có địa điểm cố định; Buôn chuyến là
hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để bán cho người mua buôn
hoặc người bán lẻ; Thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe,
trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc không có
địa điểm cố định; Các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải


21

. Điều 17, Luật trọng tài thương mại 2010.
. TS. Đỗ Văn Đại – TS. Trần Hoàng Hải, Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại, Nxb Chính trị quốc gia,
2011, trang 46.
22

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 19

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

đăng ký kinh doanh khác.23 Từ các hình thức buôn bán trên, đều có điểm chung là các
hoạt động thương mại này là không có địa điểm cố định. Nhìn chung, những người buôn
bán rong, bán quà vặt là những người tham gia hoạt động thương mại với quy mô nhỏ lẻ,
có thu nhập thấp, nhằm mục đích dân sinh là chủ yếu, về thực chất là lấy công làm lãi,
vốn kinh doanh không nhiều. Theo như quy định trên, thì đây là một quy định rất hợp lý
đã đánh giá đúng được những đối tượng nào không phải đăng ký kinh doanh để bảo vệ
quyền lợi cho những chủ thể này khi tham gia các hoạt động thương mại. Nếu quy định
họ là thương nhân thì sẽ gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh
vực này, không những thế còn gây những phiền hà không đáng có đối với các chủ thể đó.
Nhưng theo quy định thì: “Hoạt động thương mại của cá nhân vẫn chịu sự điều
chỉnh của Luật thương mại áp dụng đối với thương nhân và pháp luật có liên quan”. 24
Như vậy, khi có sự biến pháp lý nào đó thì các chủ thể này cũng sẽ được Luật thương mại
điều chỉnh hoặc một ngành luật khác điều chỉnh khi có liên quan. Vì vậy, nếu có tranh
chấp xảy ra thì chủ thể này cũng có quyền lợi và nghĩa vụ như thương nhân.

Một chủ thể của tranh chấp thương mại nữa không phải là thương nhân đó là:
“Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công
ty với nhau liên quan đến việc thành lập, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình
thức tổ chức của các công ty”.25 Chủ thể được nói tới ở đây là các thành viên của công
ty. Họ không phải là thương nhân mà chỉ những người làm công ăn lương, những người
được mướn làm thuê hoặc các cổ đông của công ty, khi quyền lợi hay nghĩa vụ của họ bị
vi phạm liên quan tới các vấn đề trên thì chủ thể này sẽ được khởi kiện ra Tòa kinh tế để
được bảo vệ những quyền lợi chính đáng của mình. Bên cạnh đó, các hình thức giải quyết
tranh chấp giữa công ty với thành viên của công ty hay tranh chấp giữa các thành viên
của công ty với nhau đều do luật chuyên ngành điều chỉnh hoặc luật thương mại điều
chỉnh chung.
Nhìn chung, các chủ thể là người tiêu dùng hay cá nhân là người có hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên nhưng không phải đăng ký kinh doanh và
các thành viên của công ty không phải là thương nhân nhưng khi xảy ra tranh chấp đều
thuộc sự điều chỉnh của luật chuyên ngành nếu có quy định hoặc theo quy định chung của
luật thương mại.
23

. Điều 2, Điều 3, NĐ Số 39/2007/NĐ-CP ngày 05 tháng 09 năm 2007 hướng dẫn chi tiết thi hành một số Điều của
Luật doanh nghiệp.
24

. Điều 4, NĐ Số 39/2007/NĐ-CP ngày 05 tháng 09 năm 2007 hướng dẫn chi tiết thi hành một số Điều của Luật
doanh nghiệp.
25

. Khoản 3, Điều 29, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh


Trang 20

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

1.2.3. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại
Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và tùy theo vào mức độ của
các loại tranh chấp mà các bên có thể lựa chọn các phương thức khác nhau để giải quyết
các tranh chấp khi phát sinh, nhưng trên thực tế hiện nay các tranh chấp thương mại có
bốn hình thức để các bên lựa chọn là thương lượng và hòa giải, Trọng tài thương mại,
Tòa án. Mỗi phương thức giải quyết sẽ có những ưu và nhược điểm riêng và tùy theo
những mối quan hệ phát sinh mà các bên sẽ lựa chọn những phương thức phù hợp nhất.
1.2.3.1. Thương lượng và hòa giải
Hiện nay thương lượng được tồn tại dưới hai hình thức đó là thương lượng ngoài tố
tụng và thương lượng trong tố tụng (trọng tài hay tòa án).
Thương lượng ngoài tố tụng là hình thức mà các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc
và đi đến thỏa thuận một cách thức tranh chấp mà không cần sự tác động hay giúp đở của
bên thứ ba. Phương thức này đơn giản, gọn nhẹ, hiệu quả lại ít tốn kém về tiền bạc,
không mất nhiều thời gian của các bên và ít gây ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác vốn
có giữa các bên. Các bên có thể tự mình đứng ra giải quyết hoặc ủy quyền cho người đại
diện hợp pháp của mình đứng ra giải quyết mà không cần phải trực tiếp tham gia. Trong
quá trình giải quyết thì các bên có thể tự đưa ra ý kiến, quan điểm của mình để giải quyết
các tranh chấp hoặc có thể thỏa thuận lại những nội dung đang phát sinh tranh chấp theo
hướng phù hợp và có lợi nhất cho các bên tranh chấp và không làm mất hòa khí giữa các
bên, thậm chí còn tăng cường sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau khi thương lượng thành
công. Thỏa thuận được lập thành giữa các bên có giá trị như một hợp đồng, có hiệu lực
thi hành tự nguyện giữa các bên. Thế nhưng phương thức giải quyết này chỉ thích hợp khi
cả hai bên cùng có thiện chí để giải quyết các tranh chấp đang xảy ra mà thôi.

Trong trường hợp các bên hoặc ít nhất một trong các bên tỏa ra mất thiện chí hay có
sự bất đồng quan điểm thì phương thức giải quyết này sẽ không đi đến kết quả mà đôi khi
còn ảnh hưởng đến quan hệ không tốt giữa các bên. Thỏa thuận được tạo lập giữa các bên
không có tính thi hành bắt buộc hay không có gì đảm bảo các bên phải thi hành. Do đó
ngay cả khi các bên đạt được kết quả thương lượng nhưng nếu bên có nghĩa vụ phải thi
hành theo sự thỏa thuận lại không tự giác thực hiện thì kết quả đó cũng trở thành vô
nghĩa, vì kết quả thương lượng của các bên không được đảm bảo bằng cưỡng chế mà
phải phụ thuộc vào sự tự nguyện của bên có nghĩa vụ.
Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại, không ít những trường hợp vì
thiếu sự thiện chí, hợp tác trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp mà một bên đã tìm
mọi cách trì hoãn quá trình thương lượng nhằm kéo dài vụ tranh chấp nhất là khi thời

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 21

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

hiệu khởi kiện không còn nhiều. Cũng chính vì vậy mà từ hình thức giải quyết tranh chấp
bằng thương lượng này có thể phát sinh các cách thức giải quyết khác bằng con đường
hòa giải hoặc tố tụng.
Đối với thương lượng trong tố tụng tại Trọng tài thương mại được quy định như
sau: “Kể từ thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài, các bên vẫn có quyền tự mình thương
lượng, thỏa thuận chấp dứt việc giải quyết tranh chấp; Trong trường hợp các bên tự thỏa
thuận được với nhau chấm dứt việc giải quyết tranh chấp thì có quyền yêu cầu Chủ tịch
trung tâm trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp”.26 Như vậy, khi các bên
đã thương lượng được với nhau về các vấn đề cần giải quyết thì có quyền yêu cầu Chủ

tịch trung tâm trọng tài quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp và quyết định thương
lượng của các bên sẽ có hiệu lực thi hành ngay đối với các bên. Nhưng trong trường hợp
các bên chỉ thương lượng một phần nào của tranh chấp thì Hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục
tiến hành tố tụng trọng tài để giải quyết tiếp vấn đề mà các bên vẫn đang còn tranh chấp.
Đối với thương lượng trong tố tụng tại Tòa án thì: “Các đương sự có quyền thỏa
thuận giải quyết vụ án thì thẩm phán chỉ công nhận thỏa thuận này, nếu đương sự thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án”.27 Mặc dù vụ án đã được đưa ra
trước cơ quan tư pháp của nhà nước, nhưng các đương sự vẫn có quyền tự thỏa thuận các
tranh chấp đang được giải quyết. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì: “Quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được
ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm”.28 Với quy định
như vậy, nhằm hạn chế tối đa những thay đổi của đương sự sau khi thỏa thuận được với
nhau tại tòa án, tránh trường hợp do sự thay đổi của đương sự làm ảnh hưởng tới thời
gian và chi phí của các đương sự. Hạn chế được trường hợp tòa án phải xử đi xử lại một
vụ án thành nhiều lần.
Nhưng bên cạnh đó, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có
thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là
do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Như vậy, vì
một lý do khách quan hay chủ quan nào đó dẫn tới chuyện các đương sự tiến hành thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án, thì vẫn còn một thủ tục để xem xét
lại đó là “giám đốc thẩm”, khi phát hiện ra những căn cứ đó là không thật sự khách quan,
thì nguyên đơn có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm.

26

. Điều 38, Luật trọng tài thương mại 2010.
. Khoản 2, Điều 187, Bộ Luật tố tụng dân sự 2004.
28
. Điều 188, Bộ luật tố tụng dân sự 2004.

27

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 22

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

Sau khi thỏa thuận được với nhau thì quyền và nghĩa vụ thi hành như quyết định
của tòa án. Các bên có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án án dân sự thi hành quyết định
của mình khi một trong các bên không thi hành nghĩa vụ của mình.
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên do một cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải (hòa giải viên). Hòa
giải viên được các đương sự chọn đóng vai trò “trung lập” tạo điều kiện giúp đở các bên
tranh chấp đạt được một giải pháp để điều hòa lợi ích nhằm khắc phục mâu thuẫn, bất
đồng đã phát sinh.
Hòa giải viên đưa ra những lý giải, phân tích cho các bên thấy rõ lợi ích của mình
và của bên kia để cùng tìm ra một giải pháp thống nhất giải quyết tranh chấp hợp tình
hợp lý nhất. Hòa giải viên không có quyền hạn gì để đưa ra quyết định hoặc áp đặt một
giải pháp nào đối với các bên, mà chỉ đưa ra đề xuất và tất cả mọi việc đều do các bên tự
quyết định.
Hòa giải là một biện pháp giải quyết không mang tính chất nghi thức, hòa giải một
mặt được xem là cánh tay nối dài của thẩm quyền Tòa án, mặt khác thì nó thoát khỏi các
phương pháp chặt chẽ của pháp luật. Nếu hòa giải thành công sẽ đạt được giải pháp là sự
tự thỏa thuận giữa các bên để giải quyết tranh chấp. So với hình thức giải quyết tranh
chấp bằng thương lượng thì hòa giải có điểm khác là sự có mặt của bên thứ ba với tư
cách là người trung gian để tư vấn cho các bên tìm ra giải pháp tốt nhất.

Hòa giải cũng là giải pháp mang tính hiệu quả và được các nhà kinh doanh ưa
chuộng để giải quyết tranh chấp nhưng hạn chế là đến nay vẫn còn thiếu văn bản pháp
luật điều chỉnh về lĩnh vực hòa giải ngoài tố tụng. Cụ thể là quy định về vai trò và trách
nhiệm của người hòa giải, thủ tục, hình thức hòa giải, quyền và nghĩa vụ của các bên khi
tham gia quá trình hòa giải. Trên thực tế có hai hình thức hòa giải chủ yếu là hòa giải
ngoài thủ tục tố tụng và hòa giải trong thủ tục tố tụng (tiến hành tại Tòa án hay Trọng tài
thương mại).
Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng là hòa giải qua trung gian được các bên tiến hành
trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ quan tài phán. Khi thống nhất được các hình thức giải
quyết tranh chấp, các bên phải tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các phương án đã thỏa
thuận. Đối với hòa giải ngoài tố tụng, nhiều quốc gia cho đây là công việc riêng tư giữa
các bên nên không điều chỉnh trực tiếp và chi tiết.29
Hòa giải trong tố tụng là hòa giải được tiến hành tại Tòa án hay Trọng tài khi các cơ
quan này giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên. Người trung gian hòa giải trong
29

. Tiến sĩ: Lê Minh Toàn, Sách luật kinh doanh Việt Nam (Tập 2), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2009, trang 190.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 23

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

trường hợp này có thể là Thẩm phán hoặc Trọng tài viên phụ trách vụ việc. Hòa giải
trong tố tụng được coi là một giai đoạn trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
hay Trọng tài và chỉ có thể được tiến hành khi có một trong các bên gửi đơn kiện đến Tòa

án hay Trọng tài thương mại và đơn này đã được thụ lý. Trong quá trình hòa giải thì
Thẩm phán và Trọng tài viên phải tôn trọng tính tự nguyện, tự do ý chí của các bên. Khi
các bên đạt được sự thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp thì Thẩm phán hoặc Trọng
tài viên lập biên bản hòa giải thành và quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên.
Quyết định hòa giải trong tố tụng có giá trị pháp lý như bản án của Tòa án hay phán
quyết của trọng tài.
1.2.3.2. Trọng tài thương mại
Tranh chấp thương mại có thể được giải quyết thông qua phương thức trọng tài.
Đây là một phương thức giải quyết tranh chấp do các bên cùng thỏa thuận trao quyền cho
Trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết dứt điểm các vụ tranh
chấp. Trọng tài thương mại đã ra đời rất sớm và phát triển mạnh mẽ trên thế giới như
ngày nay vì nó là một hình thức mang lại rất nhiều quyền lợi cho các doanh nghiệp. Khác
với các phương thức giải quyết bằng con đường hòa giải hay thương lượng chỉ mang tính
mềm dẻo, không có hiệu lực bắt buộc thi hành trong thực tế vì thiếu các cơ sở pháp lý
điều chỉnh. Phương thức này mang tính bắt buộc các bên tham gia phải thi hành phán
quyết của trọng tài.
Do đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội, tập quán và pháp luật của mỗi quốc gia khác
nhau nên quy mô và mô hình tổ chức trọng tài của các nước trên thế giới khá đa dạng về
hình thức hoạt động cũng như tên gọi của trọng tài30. Tuy nhiên, căn cứ vào quy chế và
thời gian hoạt động, Trọng tài được tồn tại dưới hai hình thức là Trọng tài theo vụ việc
(Trọng tài ad – hoc), Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế).
Trọng tài vụ việc (Trọng tài ad – hoc), là hình thức trọng tài do các bên thỏa thuận
thành lập để giải quyết những tranh chấp cụ thể của các bên và tự giải tán khi giải quyết
xong các tranh chấp có liên quan. Đặc điểm cơ bản của Trọng tài vụ việc là không có trụ
sở, không hình thành bộ máy ổn định và không lệ thuộc vào một quy tắc nhất định nào
cả. Trọng tài vụ việc là hình thức tổ chức đơn giản, khá linh hoạt và mềm dẻo về phương
thức hoạt động nên rất được các các chủ thể có tranh chấp sử dụng vì nó có thể giải quyết
rất nhanh chóng các vụ việc đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp không bị gián
đoạn như các hình thức tố tụng khác.


30

. Tiến sĩ: Cao Nhất linh, Tập bài giảng Luật thương mại (phần 3), Khoa Luật Trường Đại học Cần Thơ, năm 2012
trang 19.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 24

SVTH: Lê Xuân Cường


Một số vấn đề pháp lý về quyền của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại

Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế) là tổ chức phi chính phủ (không nằm
trong hệ thống cơ quan nhà nước), với quy định thì: “Trung tâm trọng tài có tư cách
pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định, có danh
sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng.31 Ở nước ta Trọng tài thường trực
được tổ chức dưới dạng các Trung tâm trọng tài. Đặc điểm của tố tụng trọng tài là quy
chế tố tụng trọng tài rất chặt chẽ. Bởi vì mỗi tổ chức Trọng tài thường trực đều có điều lệ
hoạt động riêng của mình nên dễ dàng thay đổi,điều chỉnh, hoàn thiện cho phù hợp thực
tế của thời đại.
Do vậy, Trọng tài viên hay Trung tâm trọng tài được các bên lựa chọn để giải quyết
các tranh chấp theo phương thức này thường là những người có kiến thức chuyên môn và
có kinh nghiệm về lĩnh vực cần giải quyết. Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát
triển và các mối quan hệ của các bên cũng đã vượt ra ngoài phạm vi của một quốc gia
mang tính chất quốc tế nên việc áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp này là phù
hợp với tình hình chung của thế giới.
Tuy nhiên, phương thức giải quyết này vẫn còn những hạn chế nhất định như:
“Phán quyết của trọng tài vẫn có thể bị hủy bỏ nếu một trong các bên có đủ căn cứ để

chứng minh được rằng hội đồng trọng tài đã phán quyết không đúng theo luật định thì
phán quyết đó sẽ bị tòa án hủy bỏ”.32 Bên cạnh đó thì quyền hạn của các Trọng tài viên
khi giải quyết tranh chấp còn có những hạn chế nhất định. Các Trọng tài viên vẫn chưa
thể độc lập trong việc sử dụng quyền lực của mình để giải quyết các tranh chấp mà đôi
khi còn phải lệ thuộc vào Tòa án hoặc quyền tự do định đoạt của các đương sự. Hiệu lực
phán quyết trọng tài chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên chứ không có giá trị bắt buộc
đối với những người thứ ba, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thi hành.
1.2.3.3. Tòa án
Khi áp dụng các phương pháp thương lượng, hòa giải để giải quyết tranh chấp
không có hiệu quả và các bên tranh chấp không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải
quyết tại Trọng tài thương mại hoặc có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài bị
vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Thẩm phán quyết định
hủy. Khi đó, Tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là hình thức tranh chấp do
cơ quan tài phán của nhà nước thực hiện.
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, bên cạnh tổ chức Trọng tài phi Chính phủ thì
Tòa án thương mại cũng góp phần đáng kể trong việc giải quyết tranh chấp thương mại.
Theo pháp luật của một số nước, Tòa thương mại có thể tồn tại một cách độc lập như một
31
32

. Điều 27, Luật trọng tài thương mại 2010.
. Điều 68, Luật trọng tài thương mại 2010.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

Trang 25

SVTH: Lê Xuân Cường



×