Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại PHÁP LUẬT CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH vực bán HÀNG đa cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 76 trang )

Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN THƯƠNG MẠI


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA 2007-2011
ĐỀ TÀI:

PHÁP LUẬT CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG LĨNH VỰC BÁN HÀNG ĐA CẤP

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Ths. Nguyễn Mai Hân

Phan Thị Diệp
MSSV: 5075250
Lớp: Thương Mại 3 – K33

GVHD: Nguyễn Mai Hân

1

SVTH: Phan Thị Diệp



Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp

MỤC LỤC
-----TRANG
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM ........... 3
1.1. Khái quát chung về cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........... 3
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............................. 3
1.1.1.1. Khái niệm ........................................................................................................... 3
1.1.1.2. Ý nghĩa của cạnh tranh...................................................................................... 4
1.1.2. Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh................................................. 6
1.1.2.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........................................ 7
1.1.2.2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh 2004 ........... 8
1.1.2.3. Mục đích và hậu quả của cạnh tranh không lành mạnh .................................. 9
1.1.2.3.1 Mục đích ............................................................................................. ........ 9
1.1.2.3.2 Hậu quả ...................................................................................................... 10
1.2. Khái quát về bán hàng đa cấp.................................................................................... 11
1.2.1. Khái niệm ................................................................................................................ 12
1.2.2. Đặc điểm........................................................................................................... ...... 13
1.2.2.1. Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa........................ 13
1.2.2.2. Doanh nghiệp bán hàng đa cấp tiếp thị hàng hóa thông qua những
người tham gia được tổ chức ở nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau ................................... 13
1.2.2.3. Người tham gia được nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, các lợi ích
kinh tế khác ............................................................................................................................ 14
1.2.3.Ý nghĩa...................................................................................................................... 15
1.3. Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp ........................................................................ 18
1.4. Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp..................................................................... 25
1.5. Nhận dạng hành vi bán hàng đa cấp bất chính ....................................................... 27
CHƯƠNG 2: ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH

TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA
CẤP........................................................................................................................................ 30
2.1. Các hành vi bán hàng đa cấp bất chính.................................................................... 30

GVHD: Nguyễn Mai Hân

2

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
2.1.1. Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng
hóa ban đầu hoặc phải trả một lượng tiền để được tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp........................................................................................................................................... 34
2.1.2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán
cho người tham gia để bán lại............................................................................................... 36
2.1.3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác
chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp ........................... 37
2.1.4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia bán hàng đa cấp,
thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham
gia ........................................................................................................................................... 39
2.2. Xử lý vi phạm trong lĩnh vực bán hàng đa cấp ....................................................... 43
2.2.1. Đối với doanh nghiệp.............................................................................................. 43
2.2.2. Đối với người tham gia........................................................................................... 47
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT
NAM....................................................................................................................................... 50
3.1. Một số bất cập trong quy định pháp luật về bán hàng đa cấp.............................. 51
3.1.1. Quy định về Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp ............................................ 51

3.1.2. Quy định về vấn đề ký quỹ của doanh nghiệp ...................................................... 54
3.1.3. Quy định quản lý hoạt động bán hàng đa cấp của doanh nghiệp và người
tham gia .................................................................................................................................. 56
3.1.4. Quy định về hàng hóa lưu thông trong mạng lưới bán hàng đa cấp .................... 57
3.1.5. Quy định về trách nhiệm mua lại hàng hóa của doanh nghiệp ............................ 59
3.1.6. Quy định về thẩm quyền và biện pháp xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt
động bán hàng đa cấp ............................................................................................................ 60
3.1.6.1. Thẩm quyền xử lý trong bán hàng đa cấp ...................................................... 60
3.1.6.2. Biện pháp xử lý vi phạm trong hoạt động bán hàng đa cấp.......................... 61
3.2. Giải pháp ....................................................................................................................... 63
3.2.1. Về các điều kiện để được cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp ................ 63
3.2.2. Về sản phẩm, hàng hóa lưu thông trong lĩnh vực bán hàng đa cấp ..................... 64
3.2.3. Nên mở rộng khái niệm “bán hàng đa cấp” thành “kinh doanh đa cấp” ............. 65
3.2.4. Về thẩm quyền xử phạt và có chế tài xử lý những doanh nghiệp, người
tham gia khi thực hiện hành vi bán hàng đa cấp bất chính ................................................. 65
3.2.5. Về đối tượng tham gia bán hàng đa cấp ................................................................ 66

GVHD: Nguyễn Mai Hân

3

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
3.2.6. Cần nâng cao năng lực quản lý, giám sát cho đội ngũ cán bộ công chức và
kiến thức cho người dân về bán hàng đa cấp ....................................................................... 67
KẾT LUẬN........................................................................................................................... 70

LỜI NÓI ĐẦU

-----1. Lý do chọn đề tài
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, phương thức bán
hàng đa cấp đã du nhập vào Nước ta và phát triển một cách nhanh chóng. Sự xuất
hiện của kinh doanh đa cấp không chỉ làm phong phú môi trường kinh doanh mà
còn đem lại lợi ích nhất định cho xã hội, doanh nghiệp, người tham gia, người tiêu
dùng. Tuy nhiên, bên cạnh hoạt động kinh doanh đa cấp lành mạnh, đã có một số
doanh nghiệp cố tình lợi dụng võ bọc kinh doanh đa cấp để trục lợi bất chính từ
người tham gia, khách hàng. Vì thế, xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
hoạt động kinh doanh đa cấp là công việc hết sức cần thiết để tạo điều kiện thuận
lợi cho phương thức kinh doanh đa cấp chân chính phát triển; Đồng thời, ngăn
ngừa và xử lý nghiêm minh những chủ thể kinh doanh đa cấp bất chính.
Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh bán hàng đa cấp như Luật cạnh tranh năm 2004, Nghị định 110/2005/NĐCP, Thông tư 19/2005/TT-BTM. Thế nhưng, qua vài năm áp dụng, các văn bản
này đã xuất hiện nhiều mặt hạn chế, chỉ mới ghi nhận kinh doanh đa cấp dưới góc
độ hẹp là hoạt động bán hàng đa cấp; Đồng thời, chưa nêu được chi tiết cụ thể để
phân biệt bán hàng đa cấp bất chính và bán hàng đa cấp chân chính, chưa đề cập
đầy đủ việc bảo vệ quyền lợi tiêu dùng, người tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp. Do đó, các doanh nghiệp đã lợi dụng khe hở của pháp luật để trục lợi. Vì vậy,
vấn đề cấp thiết hiện nay là cần bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện các quy định của
pháp luật. Do đó, người viết chọn đề tài “Pháp luật cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp” để làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc đưa ra các lập luận để chứng minh sự tồn tại của hoạt động
kinh doanh đa cấp là một yếu tố khách quan cũng như khẳng định vai trò tiến bộ

GVHD: Nguyễn Mai Hân

4

SVTH: Phan Thị Diệp



Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
của hoạt động kinh doanh đa cấp; Đồng thời, nêu cao vai trò quản lý cần thiết của
Nhà nước phải quản lý hoạt động kinh doanh đa cấp theo khuôn khổ của pháp luật.
Trên cơ sở những quy định của pháp luật, đề tài tập trung phân biệt bán hàng đa
cấp bất chính với bán hàng đa cấp chân chính, hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động bán hàng đa cấp, đưa ra những tồn tại và giải pháp cần thực hiện đối với
hoạt động quản lý kinh doanh hiện đại này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Là các vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh, khái quát về bán
hàng đa cấp, bản chất, đặc điểm của bán hàng đa cấp, nhận biết bán hàng đa cấp,
các quy định của pháp luật, thực trạng của hoạt động bán hàng đa cấp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết đã sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp để làm rõ thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn
bán hàng đa cấp, chỉ ra những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật; Đồng
thời, sử dụng phương pháp so sánh để nghiên cứu, đối chiếu pháp luật kinh doanh
đa cấp Việt Nam với pháp luật kinh doanh đa cấp một số nước khác trên thế giới.
5. Kết cấu, bố cục của luận văn
Lời nói đầu
Lý do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
Kết cấu, bố cục.
Chương 1. Khái quát chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực bán hàng đa cấp tại Việt Nam. Trong chương này, người viết đề
cập đến các vấn đề về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán
hàng đa cấp ở Việt Nam như: Khái niệm về cạnh tranh, ý nghĩa của cạnh tranh;
Khái niệm, mục đích và hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh; Khái

niệm, đặc điểm, ý nghĩa của bán hàng đa cấp; Hợp đồng; Giấy đăng ký tổ chức bán
hàng đa cấp và nhận dạng hành vi bán hàng đa cấp bất chính.
Chương 2. Điều chỉnh của pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động bán hàng đa cấp. Trong chương này, tác giả tập
trung nghiên cứu các vấn đề theo quy định hiện hành liên quan đến hoạt động bán
hàng đa cấp bất chính và biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động bán hàng
đa cấp bất chính nhằm từng bước đưa bán hàng đa cấp vào khuôn khổ pháp luật.

GVHD: Nguyễn Mai Hân

5

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
Chương 3. Thực trạng về hoạt động kinh doanh đa cấp ở Việt Nam.
Đối với nội dung chương 3, người viết khái quát một số bất cập trong quy
định pháp luật về bán hàng đa cấp và giải pháp để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực bán hàng đa cấp.
Kết luận

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG LĨNH VỰC BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM
-----Để đi sâu vào tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp, cần xác định rõ những vấn đề lý
luận chung về cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và khái quát về bán
hàng đa cấp. Từ đó, tạo cơ sở, tiền đề cho việc nghiên cứu những vấn đề mang tính
pháp lý về hoạt động bán hàng đa cấp bất chính.

1.1. Khái quát chung về cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và ý nghĩa của cạnh tranh
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986,
nền kinh tế Nước ta đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ
chế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Khuôn khổ pháp lí và thiết chế cần
thiết để vận hành nền kinh tế mới đã được xây dựng và từng bước hoàn thiện.
Ngày 3 tháng 12 năm 2004 Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam đã thông qua Luật cạnh tranh và Luật này có hiệu lực ngày 1 tháng 7 năm
2005 là một trong những nỗ lực quan trọng nhằm xây dựng môi trường cạnh tranh
lành mạnh, khuyến khích và bảo vệ cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử
dựa trên nền tảng của nguyên tắc chung là tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp
luật.
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ “cạnh tranh” là khái niệm khá mới mẽ và chỉ biết đến ở Việt
Nam trên chục năm trở lại đây vì khái niệm này chỉ gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường nên trong suốt thời kì kế hoạch hóa tập trung trước đây cạnh
tranh dường như không được tồn tại và thừa nhận. Các công trình nghiên cứu về
cạnh tranh cũng như Luật cạnh tranh ở nước ta cho thấy là khá hạn chế so với các

GVHD: Nguyễn Mai Hân

6

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
ngành luật khác, chủ yếu mới dừng lại ở việc đề cập sự cần thiết ban hành Luật
cạnh tranh hoặc phân tích một vài chế định hay khía cạnh của Luật cạnh tranh.
Muốn hiểu được Luật cạnh tranh trước hết cần phải hiểu được cạnh tranh là gì, nó

được cấu thành từ các yếu tố nào. Có rất nhiều quan điểm về cạnh tranh:
 Cuốn Black’law Dictionary diễn tả, cạnh tranh là sự nỗ lực hoặc hành vi
của hai hoặc nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ
thể thứ ba1.
 Theo từ điển kinh doanh của Anh, cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua,
kình địch giữa các nhà đầu tư trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài
nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình2.
 Theo từ điển Cornu của Pháp, thì cạnh tranh được hiểu là chạy đua trong
kinh tế, hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau,
cung ứng hàng hóa- dịch vụ, nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may
rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo được hoặc để bị mất đi một lượng khách
hàng thường xuyên3.
Từ những khái niệm trên, cho thấy có nhiều quan điểm diễn đạt khác nhau
về khái niệm cạnh tranh nhưng phạm trù cạnh tranh được hiểu là quan hệ kinh tế, ở
đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn
để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy
khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường kinh doanh có lợi nhất.
Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa
lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là
lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
1.1.1.2. Ý nghĩa của cạnh tranh
Được thừa nhận là môi trường vận động của cơ chế kinh tế thị trường, cạnh
tranh thực sự tồn tại như một quy luật khách quan, là động lực thúc đẩy và điều tiết
mọi hoạt động kinh tế4. Các lợi ích mà nền kinh tế- xã hội có được do sự tồn tại
của cạnh tranh như đã phản ánh phần nào chức năng của nó đối với nền kinh tế,
cạnh tranh đảm nhận những chức năng sau đây:

1

Ts.Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc và Ths. Nguyễn Ngọc Sơn: Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nhà xuất bản Tư

pháp, Hà Nội, 2006, tr.9.
2
Ts.Đặng Vũ Huân: Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, 2004, tr.19.
3
Pgs.Ts Dương Đăng Huệ và Ths Nguyễn Hữu Huyên: Những vấn đề lý luận cơ bản của Luật cạnh tranh- Tạp chí Nhà
Nước và pháp luật số 9/2004.
4
Ts.Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc và Ths. Nguyễn Ngọc Sơn: Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nhà xuất bản Tư
pháp, Hà Nội, 2006, tr.18.

GVHD: Nguyễn Mai Hân

7

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
 Cạnh tranh giúp cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên một cách
tối ưu nhất.
Do tính hiệu quả và mục đích tối đa hóa lợi nhuận, các chủ thể kinh doanh
khi tham gia thị trường có tính cạnh tranh, không thể không cân nhắc khi quyết
định sử dụng các nguồn lực về vật chất và nhân lực của mình vào hoạt động sản
xuất và kinh doanh. Họ luôn sử dụng một cách tối ưu và hợp lý nhất các nguồn tài
nguyên này sao cho chi phí sản xuất là thấp nhất nhưng lại phải đạt được hiệu quả
cao nhất. Chính từ đặc điểm này, mà các nguồn tài nguyên được vận động, luân
chuyển hợp lý về mọi mặt để phát huy khả năng vốn có đưa lại năng suất cao.
 Cạnh tranh khuyến khích việc áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật
mới vào sản xuất, kinh doanh.

Khi một doanh nghiệp đưa ra sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của thị
trường, sản phẩm đó nhanh chóng chiếm được ưu thế và tạo điều kiện để doanh
nghiệp thu lợi nhuận cao. Điều này, khiến các đối thủ cạnh tranh về sản phẩmhàng hóa cùng loại cũng phải quan tâm tới việc cải tiến về hình thức và chất lượng
sản phẩm, bằng việc tiếp cận khoa học và công nghệ mới. Chỉ có khoa học công
nghệ tiên tiến mới có thể trợ giúp hữu hiệu cho sản xuất, kinh doanh, giảm giá
thành sản xuất, tăng tính năng và chất lượng sản phẩm. Các hoạt động nghiên cứu
và triển khai nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh sẽ
thúc đẩy sự tiến bộ khoa học- công nghệ, hướng tới sử dụng công nghệ tiên tiến
trong sản xuất kinh doanh.
 Cạnh tranh có chức năng phân phối và điều hòa thu nhập.
Cạnh tranh tạo ra áp lực liên tục đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh
trên nền kinh tế thị trường. Vì vậy, không có một chủ thể kinh doanh nào có thể
mãi thu lợi nhuận cao và thống trị hệ thống phân phối trên thị trường. Các đối thủ
cạnh tranh khác ngày đêm tìm kiếm những giải pháp hữu ích để ganh đua. Trong
từng thời điểm, một sản phẩm hàng hóa với những ưu việt nhất định thỏa mãn yêu
cầu của người tiêu dùng có thể chiếm được ưu thế trên thị trường, song vị trí của
nó luôn bị đe dọa bởi những sản phẩm cùng loại khác tiến bộ hơn. Có cạnh tranh,
các nhà kinh doanh không thể lạm dụng vị thế của mình, chất lượng sản phẩm luôn
được cải tiến và nâng cao mà giá thành thấp, những sản phẩm không tốt sẽ bị loại
bỏ ra khỏi thị trường. Vì vậy, cạnh tranh là một yếu tố sẽ tác động một cách tích
cực đến việc phân phối và điều hòa thu nhập.
 Cạnh tranh là điều kiện góp phần làm thỏa mãn nhu cầu của người
tiêu dùng và đem lại lợi ích cho họ.
GVHD: Nguyễn Mai Hân

8

SVTH: Phan Thị Diệp



Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
Với cách phân tích và lập luận như trên, người tiên dùng được mệnh danh là
trung tâm của thị trường. Sự lựa chọn và sức tiêu thụ của họ là thước đo chính xác
cho tính chất lượng và độ phù hợp của một sản phẩm hàng hóa. Cạnh tranh gây tác
động liên tục đến giá cả, buộc các doanh nghiệp phải phản ứng tự phát để chọn
phương án sản xuất kinh doanh sao cho chi phí nhỏ, hiệu quả cao, chất lượng tốt,
phong phú để phù hợp với thị hiếu, nhu cầu, mong muốn của người tiêu dùng. Bởi
vậy, trong điều kiện có cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả, người tiêu dùng là
“người trọng tài” quyết định sự sống còn của sản phẩm, buộc các nhà kinh doanh
phải thỏa mãn yêu cầu của họ.
 Cạnh tranh có chức năng điều chĩnh linh hoạt đối với thị trường.
Cạnh tranh có hiệu quả không chỉ là một trong những công cụ tốt nhất để sử
dụng tối ưu tài nguyên, mà còn là công cụ năng động cho phép duy trì sự di
chuyển liên tục các tài nguyên đến nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Vấn đề đặt ra là
sự di chuyển đó chỉ diễn ra khi có sự chênh lệch giữa thu nhập và chi phí. Nếu tính
linh hoạt của sự điều chỉnh này không tồn tại trong nền kinh tế hoặc bị cản trở và
đưa đến tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh thì nguyên nhân của
nó là nhà nước không thực thi các chính sách một cách hợp lí hoặc cơ cấu thị
trường không có cạnh tranh.
 Cạnh tranh có chức năng kiểm soát sức mạnh kinh tế.
Sự cạnh tranh hiệu quả không loại trừ việc hình thành những tập đoàn có
tiềm lực và thế mạnh về kinh tế. Song, nếu cạnh tranh được duy trì và bảo đảm
trong một trật tự nhất định sẽ từng bước phá vỡ sự tập trung sức mạnh kinh tế này.
Bản thân hoạt động cạnh tranh có chức năng tự thân kiểm soát sức mạnh kinh tế,
nhưng chức năng này khi không đủ sức để kiểm soát sự tập trung sức mạnh kinh tế
ở quy mô quá lớn, nhất định sẽ xuất hiện sự kiểm soát của các thế lực có quyền lực
chính trị.
Cạnh tranh được coi là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế làm
tăng hiệu quả xã hội cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, cạnh tranh chỉ
thực sự có tác dụng tích cực nếu đó là cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh trong

khuôn khổ pháp luật. Nếu cạnh tranh không lành mạnh sẽ làm biến dạng quan hệ
cung- cầu trên thị trường, gây rối loạn sản xuất và cuối cùng đem lại thiệt hại cho
người tiêu dùng. Do đó, việc quan tâm đến cạnh tranh là điều cần thiết đối với sự
phát triển của nền kinh tế ở một nước nào đó nói riêng và sự phát triển của một
quốc gia nói chung, đòi hỏi quốc gia đó phải có chính sách cạnh tranh cũng như

GVHD: Nguyễn Mai Hân

9

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
pháp luật về cạnh tranh hợp lý nhằm thực hiện mục tiêu là xây dựng, duy trì và bảo
vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh.
1.1.2. Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Đây là một trong những nội dung quan trọng của Luật cạnh tranh Việt Nam.
Pháp luật cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới có nhiều cách giải quyết khác
nhau về vấn đề cạnh tranh không lành mạnh. Một số quốc gia điều chĩnh hành vi
cạnh tranh trong một số văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt như Đức, Thụy Sĩ,
Trung Quốc, Nhật Bản. Một số quốc gia khác lại xây dựng thành một chế định
trong Luật cạnh tranh như Bungari, Hàn Quốc, Cộng đồng các quốc gia độc lập
(SNG), Mông Cổ, Giamaica. Ngoài ra, còn có các quốc gia lại coi cạnh tranh
không lành mạnh là một lĩnh vực đặc biệt của pháp luật dân sự như Pháp, Italia.
Tuy nhiên, mục đích điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh không lành mạnh của các
quốc gia đều nhằm bảo vệ môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh, bình
đẳng.
1.1.2.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Khái niệm về hành vi cạnh tranh ở các nước có cách diễn đạt khác nhau

nhưng nội dung tương đồng với nhau. Sau đây là một số khái niệm về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh:
 Theo quy định tại Điều 10 Bis Công ước Pari: Cạnh tranh không lành
mạnh là những hành vi cạnh tranh không trung thực, vi phạm những nguyên tắc cơ
bản của đạo đức kinh doanh, được tiến hành trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm, nhằm hưởng lợi ích bất hợp pháp từ thành quả kinh doanh của người khác
hoặc dèm pha đối thủ cạnh tranh, qua đó giành dựt khách hàng về phía mình.
 Căn cứ vào khái niệm cạnh tranh không lành mạnh của Công ước Pari,
pháp luật cạnh tranh của các quốc gia đã đưa ra định nghĩa của hành vi này trong
các đạo luật của mình. Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Trung Quốc đã
xác định cạnh tranh không lành mạnh là: Các hoạt động của doanh nghiệp, của các
chủ thể khác thực hiện trái pháp luật, gây thiệt hại cho quyền lợi chính đáng của
doanh nghiệp khác, làm rối loạn trật tự kinh tế- xã hội.
 Luật cạnh tranh của các Cộng đồng quốc gia độc lập (SNG) đã đưa ra
định nghĩa cạnh tranh không lành mạnh là: Hành vi của các doanh nghiệp với mục
đích thu lợi bất chính trong khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, vi phạm
tập quán kinh doanh, vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh, gây thiệt hại
cho các doanh nghiệp khác là đối thủ cạnh tranh hoặc gây ảnh hưởng uy tín kinh
doanh của họ.
GVHD: Nguyễn Mai Hân

10

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
 Theo khoản 4 Điều 3 Luật cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam thì: Hành
vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá
trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây

thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của
các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Như vậy, khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các nước có
các cách diễn đạt không giống nhau nhưng về nội dung chủ yếu đều gần giống
nhau. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm hai nội dung:
 Đây là hành vi cạnh tranh trong quá trình sản xuất, kinh doanh mà hành
vi này vi phạm các nguyên tắc cơ bản của đạo đức kinh doanh hay những quy định
của pháp luật về cạnh tranh. Đó có thể là những vi phạm về thỏa thuận trong kinh
doanh, một tập quán kinh doanh mà các nhà sản xuất, kinh doanh điều hiểu và tuân
theo hay đó là hành vi vi phạm những quy định pháp luật để thu lợi bất chính, làm
giảm uy tín của đối thủ cạnh tranh hoặc có thể làm cho đối thủ cạnh tranh phá sản.
 Hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra thiệt hại cho nhà sản xuất
chân chính, người tiêu dùng, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước. Điều này có
thể thấy thông qua những tác động trực tiếp của các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh gây ra như: làm cho đối thủ cạnh tranh rơi vào tình trạng khó khăn, sản
phẩm không thể tiêu thụ được, doanh thu của doanh nghiệp bị giảm sút hoặc gây
thiệt hại không bằng vật chất nhưng cũng không kém phần quan trọng như làm uy
tín của doanh nghiệp bị bôi nhọ dẫn đến mất lòng tin ở khách hàng vào sản phẩm,
hàng hóa của mình, hoặc hành vi đó làm giảm lòng tin ở đối tác thậm chí hành vi
đó có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước đến sự phát triển cân bằng của nền
kinh tế như độc quyền sản phẩm, nâng giá sản phẩm.
1.1.2.2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh năm
2004
Dựa vào các khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh nêu trên, hành vi
cạnh tranh không lành mạnh có thể phân chia dưới góc độ xem xét lợi ích của các
chủ thể bị xâm hại, bao gồm: hành vi xâm hại lợi ích của đối thủ cạnh tranh (xâm
phạm bí mật kinh doanh; ngăn cản; gièm pha; bôi nhọ đối thủ kinh doanh); hành vi
xâm phạm lợi ích của khách hàng (can thiệp vào quyền tự do quyết định của khách
hàng; khuyến mại không trung thực; quảng cáo sai lệch).
Theo Điều 39 của Luật cạnh tranh 2004, các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh được quy định trong điều luật tương đối cụ thể và bao quát, tương đồng với

GVHD: Nguyễn Mai Hân

11

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
các quy định của pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới. Các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh bao gồm:
 Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
 Xâm phạm bí mật kinh doanh;
 Ép buộc trong kinh doanh;
 Dèm pha doanh nghiệp khác;
 Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
 Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
 Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
 Phân biệt đối xử của hiệp hội;
 Bán hàng đa cấp bất chính.
Ngoài ra, còn có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác được xác
định theo tiêu chí tại khoản 4 Điều 3 của Luật cạnh tranh 2004.
1.1.2.3. Mục đích và hậu quả của cạnh tranh không lành mạnh
1.1.2.3.1. Mục đích
Nhìn vào tên gọi “cạnh tranh không lành mành” thì ta cũng dễ dàng nhận
thấy được đây là hành vi cạnh tranh diễn ra với ý đồ xấu, không đẹp, với nhiều
mục đích trái pháp luật cạnh tranh. Chúng ta không thể hiểu hết được mục đích của
hành vi cạnh tranh không lành mạnh này, vì chỉ có chính các nhà sản xuất, kinh
doanh mới có thể hiểu hết được là họ đang muốn làm gì. Nhưng có thể liệt kê một

số mục đích sau :
 Thứ nhất, lợi nhuận. Vì khi đã sản xuất, kinh doanh thì không một doanh
nghiệp nào không chú ý đến lợi nhuận kiếm được, và chính sức hút quá lớn của
đồng tiền mà các doanh nghiệp sử dụng cả những thủ đoạn không đẹp để cạnh
tranh và khi tồn tại trong nền kinh tế thị trường thì nó càng xuất hiện rõ nét và
không thể tránh khỏi, điều này chỉ có thể kềm chế khi có sự tự giác của các nhà
kinh doanh, sản xuất biết tuân thủ đúng pháp luật và có đạo đức kinh doanh cùng
với đó là sự quản lí chặt chẽ của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong việc
phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm.
 Thứ hai, hạ gục đối thủ. Doanh nghiệp nào cũng muốn sản phẩm của
mình là duy nhất, không ai cạnh tranh. Do đó, về mặt bên ngoài các doanh nghiệp
kinh doanh cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, công bằng nhưng tồn tại trong
họ là những kế hoạch lật đổ đối thủ bằng những chiến lược hay sách lược ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn với nhiều hình thức khác nhau và đôi lúc là những hành

GVHD: Nguyễn Mai Hân

12

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
vi cạnh tranh không đẹp, không lành mạnh và khi đó pháp luật cần phải can thiệp
để cho nó hoạt động trong khuôn khổ cạnh tranh công bằng, lành mạnh.
 Thứ ba, chiếm lĩnh thị trường, thu hút khách hàng. Khi đã hạ gục đối thủ
muốn có lợi nhuận nhiều thì phải có khách hàng mua sản phẩm, hàng hóa của
mình. Mặt khác, muốn bán được nhiều hàng hóa của mình thì phải có thị trường
rộng lớn, không ai cạnh tranh với mình. Nhưng thực tế thì đa số các thị trường tiêu
thụ cùng một loại sản phẩm nhưng có nhiều hãng sản xuất giống nhau như bột giặt,

bột ngọt, dầu gội đầu, sữa tắm. Do đó, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau hàng
giờ, hàng ngày rất quyết liệt, khi đó người tiêu dùng có rất nhiều sự lựa chọn và
đôi khi do vấn đề tự do lựa chọn cũng như quá phong phú về các mặt hàng sản
phẩm nên nhiều khi sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh không
được người tiêu dùng lựa chọn. Vì vậy, muốn giảm bớt sự cạnh tranh để chiếm
lĩnh thị trường thì phải sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh đan
xen với những biện pháp cạnh tranh hợp pháp, khi đó Luật cạnh tranh sẽ được đưa
vào để kiềm chế hành vi không đẹp đó làm cho hoạt động đó không vượt giới hạn
quy định của pháp luật cho phép.
1.1.2.3.2. Hậu quả
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn đến nhiều hậu quả mà ta không
thể lường trước được vì không thể xác định chính xác phạm vi ảnh hưởng của nó,
mà ta chỉ có thể xác định một cách khái quát về khả năng có thể xảy ra, bị ảnh
hưởng tới. Điều này cũng dễ hiểu ngay cả những người tiến hành thủ đoạn cạnh
tranh không lành mạnh cũng không thể tính toán chính xác phạm vi ảnh hưởng
hoặc cũng có thể họ chẳng quan tâm đến hậu quả xảy ra vì mục đích của họ là lợi
nhuận cao và tìm mọi cách để hạ gục đối thủ. Bất chấp lợi ích của người tiêu dùng,
hàng loạt vụ cạnh tranh nhằm hạ thấp uy tín của đối thủ đang được một số doanh
nghiệp áp dụng. Điều đáng chú ý là dường như chế tài pháp luật vẫn chưa đủ mạnh
để các doanh nghiệp quan tâm khi tiến hành cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến
khó khăn cho bài toán làm cho môi trường kinh doanh trong sạch, lành mạnh, công
bằng.
Hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là rất lớn, chỉ cần dùng
vài thủ đoạn nhỏ như tung tin đồn không tốt về một loại sản phẩm nào đó kém chất
lượng, khi sử dụng gây dị ứng, tác dụng phụ là sản phẩm đó thậm chí cả doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó rất khó tồn tại. Qua đó, ta có thể thấy
được hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng tới.

GVHD: Nguyễn Mai Hân


13

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
 Hành vi cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến sự cạnh tranh công
bằng trong kinh doanh: có thể dẫn đến việc làm giảm uy tín của các nhà sản xuất,
lợi nhuận giảm sút và có thể gây hậu quả xấu nhất là doanh nghiệp bị phá sản. Khi
đã bị đối thủ chơi xấu dùng những thủ đoạn không minh bạch dù các doanh nghiệp
bị hại đã biết thì cũng quá muộn vì đây là cạnh tranh không lành mạnh, không
công khai hoặc công khai dưới nhiều hình thức mà không biết được. Khi nhà kinh
doanh phát hiện thì sự việc đã diễn ra rồi, họ chỉ biết khắc phục hậu quả bằng cách
thanh minh, giải thích và có thể gánh chịu toàn bộ hậu quả thua lổ dù mình bị vu
oan, bôi nhọ. Dù có chứng minh với khách hàng là mình bị hại thì uy tín của họ
cũng đã bị giảm sút, người tiêu dùng có quay lại sử dụng sản phẩm, hàng hóa đó
cũng sẽ có tâm lý e ngại, lưỡng lự. Hậu quả này có thể kéo dài trong vài tháng, có
khi cả năm và thiệt hại về vật chất là không thể tránh khỏi.
 Người tiêu dùng: Chính khách hàng là người gánh chịu trực tiếp hậu quả
do hành vi cạnh tranh không lành mạnh đem đến. Một sản phẩm đã được sử dụng
thường xuyên, trong một lúc nào đó lại bị nói xấu, làm cho tâm lý người tiêu dùng
rất lo ngại, hoang mang đôi khi bị kích động vì tâm lý khách hàng thường xuyên
sử dụng sản phẩm và rất nhạy cảm với những thông tin về những tin tức dù có thật
hay không. Dẫn đến làn sóng “tẩy chay” sản phẩm của nhà sản xuất bị hại và
người tiêu dùng sẽ quay sang sử dụng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh nhưng có
thể sản phẩm này không tốt bằng sản phẩm trước đó. Ngoài ra, người tiêu dùng
còn bị tình trạng độc quyền của sản phẩm cạnh tranh không lành mạnh là tăng giá
sản phẩm lên hoặc hạ giá sản phẩm xuống tùy thuộc vào chất lượng hàng hóa tốt
hay xấu mà nhà sản xuất cạnh tranh không lành mạnh thắng sẽ quyết định tận dụng
cơ hội này nhưng có một điều chắc chắn là nhà sản xuất, kinh doanh này sẽ tranh

thủ triệt tiêu cơ hội này để thu lợi nhuận nhờ vào cạnh tranh không lành mạnh và
người tiêu dùng là người chịu thiệt thòi.
 Hành vi cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến sự phát triển ổn
định và cân bằng của nền kinh tế: Khi có hành vi cạnh tranh không lành mạnh
đương nhiên sẽ làm nền kinh tế mất ổn định, mất cân bằng. Vì nếu không có pháp
luật can thiệp để đưa các hoạt động này vào khuôn khổ thì có thể tưởng tượng đến
việc các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh với nhau bằng mọi cách, mọi thủ đoạn để có
thể hạ gục đối thủ cạnh tranh nhằm chi phối và chiếm lĩnh thị trường sẽ dẫn đến
tình trạng độc quyền, giá cả không kiểm soát được, các doanh nghiệp chân chính
không kinh doanh được thì cũng phải trả đũa đối thủ bằng nhiều cách khác nhau và
cuối cùng là hậu quả làm mất ổn định kinh tế- xã hội, cuộc sống của người dân có
GVHD: Nguyễn Mai Hân

14

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
thể bị đảo lộn trước sức ảnh hưởng của hoạt động cạnh tranh không lành mạnh như
giá cả hàng hóa, các sản phẩm tiêu dùng đều tăng lên, các doanh nghiệp sẽ dùng
nhiều thủ đoạn để cạnh tranh với đối thủ , cùng với đó là doanh nghiệp nào không
có khả năng cạnh tranh thì sẽ bị phá sản dẫn tới các lao động sẽ mất việc làm, thất
nghiệp làm gia tăng các tệ nạn xã hội, mất trật tự cho xã hội.
1.2 Khái quát về bán hàng đa cấp.
Bán hàng đa cấp là phương thức kinh doanh hiện đại trong thương mại, phát
triển khá mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường tại các nước phát triển như Hoa
Kỳ, Canada, Anh, Đức, Thụy Điển. Trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX, phương thức
kinh doanh này đã lan rộng sang các nước châu Á và phát triển mạnh mẽ tại các
nước và lãnh thổ như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Inđonesia, Trung Quốc, Thái

lan. Phương thức bán hàng đa cấp được nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận là
một hình thức kinh doanh hợp pháp và được ghi nhận trong các đạo luật cạnh tranh
(như Canada, Đài Loan, Oxtraylia) hay trong đạo luật riêng về bán hàng trực tiếp
(như Malaysia).
Bán hàng đa cấp là phương pháp phân phối sản phẩm xuất hiện đầu tiên ở
nước ta vào năm 1998- 2000. Đây là hình thức kinh doanh hiện đại được pháp luật
cạnh tranh Việt Nam thừa nhận và được cơ quan nhà nước cũng như người dân
ủng hộ để đưa vào nền kinh tế.
1.2.1 Khái niệm về bán hàng đa cấp
Trong Luật cạnh tranh Việt Nam, hành vi bán hàng đa cấp được hiểu là:
“Bán hàng đa cấp là một hình thức bán hàng trực tiếp, không thông qua địa điểm
bán lẻ cố định mà thông qua mạng lưới người tham gia độc lập gồm nhiều cấp,
nhiều nhánh khác nhau và được pháp luật các quốc gia bảo hộ”5.
Theo khoản 11 Điều 3 Luật cạnh tranh năm 2004, bán hàng đa cấp là
phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây:
 Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới
người tham gia bán hàng gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau.
 Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho
người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác
không phải địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham
gia.

5

Ts. Lê Hoàng Oanh: Bình luận khoa học Luật cạnh tranh, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2005, tr.29.

GVHD: Nguyễn Mai Hân

15


SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
 Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng
hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham
gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó
được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận. Trong phương thức bán hàng đa
cấp, thu nhập của người tham gia được hình thành từ các nguồn sau: Từ doanh số
bán hàng do chính người tham gia đó bán được hàng; Từ doanh số bán hàng do
những người tham gia cấp dưới trong mạng lưới do chính người đó tổ chức và
mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp đồng ý.
1.2.2. Đặc điểm của bán hàng đa cấp
1.2.2.1. Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa
Đây là phương thức bán lẻ hàng hóa mà không phải là một ngành nghề kinh
doanh. Nói cách khác thông qua mạng lưới tiếp thị, doanh nghiệp tổ chức bán hàng
đa cấp sẽ thiết lập được mối quan hệ mua bán hàng hóa trực tiếp với người tiêu
dùng cuối cùng mà không tốn phí các khoản đầu tư thành lập, duy trì mạng lưới
phân phối dưới dạng cửa hàng phân phối sản phẩm, hoặc các đại lý phân phối theo
pháp luật thương mại. Đồng thời, người tiêu dùng có cơ hội mua được sản phẩm
“gốc” từ nhà sản xuất, tránh những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình phân
phối như nạn hàng giả, giá cả không trung thực. Do đó, doanh nghiệp bán hàng đa
cấp có thể là doanh nghiệp trực tiếp sản xuất hàng hóa được tiếp thị và bán lẻ bằng
phương thức đa cấp hoặc chỉ là các doanh nghiệp phân phối hàng hóa do các
doanh nghiệp khác sản xuất.
Bên cạnh đó, bán hàng đa cấp chỉ xảy ra trong thị trường hàng hóa. Luật
cạnh tranh 2004 và Nghị định 110/2005/NĐ-CP điều xác định đối tựợng của hành
vi này là thị trường hàng hóa mà không đặt ra đối với thị trường dịch vụ. Khi bán
hàng đa cấp được hiểu là phương thức tiếp thị để tiêu dùng, thì hoạt động tiếp thị
để cung ứng trong thị trường dịch vụ sẽ không thể là bán hàng đa cấp. Do đó, các

hoạt động của mạng lưới tiếp thị bảo hiểm không là bán hàng đa cấp, không thuộc
đối tượng điều chỉnh của Luật cạnh tranh 2004.
1.2.2.2. Doanh nghiệp bán hàng đa cấp tiếp thị hàng hóa thông qua những
người tham gia được tổ chức ở nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau
Người tham gia bán hàng đa cấp được hiểu là những cộng tác viên trong
việc tiếp thị, bán lẻ hàng hóa cho doanh nghiệp (được gọi với những tên gọi như
đại lí, nhà phân phối độc lập, trực tiêu viên). Trong hoạt động của mình, người
tham gia thực hiện việc giới thiệu và bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng
GVHD: Nguyễn Mai Hân

16

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
mà không nhân danh doanh nghiệp. Như vậy, khi giới thiệu và bán lẻ sản phẩm,
doanh nghiệp đã không là người trực tiếp thiết lập quan hệ với người tiêu dùng mà
thực hiện thông qua mạng lưới của người tham gia, cho nên họ độc lập trong quan
hệ khách hàng. Do người tham gia bán hàng đa cấp không phải là nhân viên của
doanh nghiệp nên doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm hành vi của người
tham gia trước khách hàng tiêu thụ sản phẩm mà chỉ chịu trách nhiệm trong giới
hạn phạm vi chất lượng sản phẩm và các thông tin liên quan đến sản phẩm do họ
cung cấp.
Mặt khác, khi tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, người tham gia không
phải là các đại lí phân phối theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, không
là các cửa hàng tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp thành lập. Luật cạnh tranh năm
2004 quy định người tham gia tiếp thị hàng hóa nơi ở, nơi làm việc của người tiêu
dùng mà không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hay của
người tham gia. Tức là, người tham gia trực tiếp gặp gở người tiêu dùng để giới

thiệu, bán lẻ sản phẩm và họ không phải đăng kí kinh doanh khi tham gia bán hàng
đa cấp.
Bên cạnh đó, người tham gia được tổ chức thành những cấp khác nhau theo
phương thức mỗi người tham gia tổ chức một mạng lưới phân phối mới, khi được
doanh nghiệp chấp nhận. Số người tham gia ở cấp sau luôn nhiều hơn so với cấp
trước đó. Vô hình chung phương thức đó đã tạo ra hệ thống phân phối theo hình
tháp. Trong quan hệ nội bộ, người tham gia ở cấp trên có vai trò tổ chức và điều
hành hoạt động của những người ở mạng lưới cấp dưới.
1.2.2.3. Người tham gia được hưởng tiền hoa hồng , tiền thưởng, các lợi ích
kinh tế khác
Có thể là nhà ở, phương tiện đi lại, các chuyến du lịch từ kết quả bán hàng
của mình và của những người tham gia khác trong mạng lưới do mình xây dựng
nên và được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp nhận. Cách thức phân chia lợi ích
như trên không chỉ kích thích người tham gia tích cực tiêu thụ hàng hóa mà còn
kích thích họ tạo lập hệ thống phân phối cấp dưới. Pháp luật nước ta không giới
hạn số cấp, nhưng pháp luật một số nước khác lại khống chế số cấp phân phối để
người tham gia đầu tiên được chia lợi ích cao từ các cấp dưới là cấp 5 hoặc cấp 6.
1.2.2.4. Chính sách mua lại hàng hóa
Chính sách này đã được luật hóa trong các văn bản pháp luật điều chỉnh
hoạt động bán hàng đa cấp của các nước trên thế giới. Luật pháp Việt Nam cũng
quy định giống như các nước về việc doanh nghiệp bán hàng đa cấp phải mua lại
GVHD: Nguyễn Mai Hân

17

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
hàng hóa đã bán cho người tham gia (hàng hóa này có thể bán lại theo mục đích sử

dụng ban đầu) và hoàn lại với số tiền tối thiểu bằng 90% số tiền mà người tham gia
đã bỏ ra để mua hàng sau khi đã trừ các chi phí hợp lí khác.
Theo chính sách này, để giảm thiểu thiệt hại cho người tham gia bán hàng
đa cấp nếu như họ không bán được hàng thì doanh nghiệp phải mua lại hàng hóa
của người tham gia bằng số tiền tối thiểu là 90% số tiền của hàng hóa mà người
tham gia đã bỏ ra mua hàng của doanh nghiệp, 10% số tiền hàng hóa đã mất là số
tiền mà người tham gia phải chịu khi không bán được hàng, đây là số tiền mà bảo
đảm cho người tham gia bán hàng đa cấp phải cố gắng bán được hàng nếu như
không muốn mất 10% số tiền mua hàng.
1.2.3. Ý nghĩa của bán hàng đa cấp
Bán hàng đa cấp là một mô hình kinh doanh chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam
trong thời gian 1998- 2000 và phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Hình
thức bán hàng này có nhiều ý nghĩa như sau:
 Đối với xã hội và đất nước
Xã hội tiết kiệm được một khoản chi phí rất lớn dành cho quảng cáo,
khuyến mãi, cửa hàng trưng bày. Những chi phí khổng lồ này đối với người dân và
xã hội là vô ích khi xét về một mặt nào đó như xã hội phải tốn một số tiền rất lớn
cho một panô hoặc áp phích to đùng, thậm chí mất vẻ mỹ quan đô thị chỉ với mục
đích nhắc người tiêu dùng nhớ đến một sản phẩm- hàng hóa nào đó.
Có thể huy động được nguồn vốn và sức lao động nhàn rỗi hoặc dư thừa
trong nhân dân, tạo ra việc làm cũng là một cách góp phần thực hiện chương trình
xóa đói giảm nghèo, giảm các tệ nạn xã hội cho Nhà nước và cho toàn dân. Giải
quyết vấn đề cấp thiết hiện nay là việc làm cho người lao động, đặc biệt là người
lao động lớn tuổi (vì các công ty truyền thống chỉ tuyển lực lượng lao động có độ
tuổi từ 20-45). Những người không có điều kiện làm việc cũng như không có trình
độ, tay nghề cũng có thể tham gia bán hàng đa cấp. Mặt khác, phương thức kinh
doanh này không giới hạn số lượng người tham gia nên mọi người, mọi lứa tuổi
(từ 18 tuổi trở lên) điều tham gia bán hàng được. Là môi trường rèn luyện ý chí
tìm tòi, sáng tạo cho người tham gia bán hàng đa cấp. Qua đó tạo ra cho xã hội một
đội ngũ bán hàng năng động, sáng tạo.

Loại hình kinh doanh này còn kích thích tiêu dùng, tăng thị phần kinh
doanh, góp phần nâng cao mặt bằng mức sống xã hội, nâng cao thu nhập và chất
lượng cuộc sống. Đóng góp, tăng cường đáng kể ngân sách nhà nước, tăng phúc
lợi xã hội bằng các loại thuế nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế môn bài, thuế lợi tức
GVHD: Nguyễn Mai Hân

18

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân. Hơn thế nữa, Việt Nam đang thể hiện thiện
chí, tinh thần cùng các nước hội nhập thực sự về mọi mặt, mọi lĩnh vực kinh tế khi
Nước ta là thành viên của WTO.
 Đối với các doanh nghiệp bán hàng đa cấp
Đây là phương thức kinh doanh hiện đại, cắt giảm được hàng loạt các chi
phí trung gian như chi phí thuê mặt bằng trưng bày, chi phí vận chuyển, tiết kiệm
chi phí quảng cáo khổng lồ. Theo hình thức kinh doanh truyền thống, các công ty
phải bỏ ra một khoản chi phí để quảng cáo, trưng bày về sản phẩm, hàng hóa kinh
doanh của mình, sau đó mới thu lại thông qua việc bán được sản phẩm và hàng
hóa. Nhưng theo hình thức bán hàng này thì hàng hóa được giới thiệu trực tiếp đến
người tiêu dùng nên những khâu trung gian đó được bỏ qua. Chi phí tiết kiệm được
chủ yếu tập trung cho việc nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm nên sản
phẩm mang tính ưu việt cao: độc đáo, phong phú về chủng loại, chất lượng cực tốt
để hướng đến thuyết phục và làm hài lòng người tiêu dùng 100%. Qua đó,còn
chống được hiện tượng hàng gian, hàng giả.
Tạo ra một lực lượng tiếp thị, tư vấn, đội ngũ bán hàng khổng lồ, năng động
rộng khắp mọi nơi trên đất nước một cách nhanh chóng và ổn định bền lâu. Nhiều
công ty doanh số vẫn tăng trưởng dù trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn khu

vực. Mặt khác do mạng lưới phân phối đựơc tổ chức để đưa hàng hóa trực tiếp đến
với người tiêu dùng nên có nhiều thuận lợi trong việc quảng bá hàng hóa một cách
trực tiếp và hữu hiệu.
 Đối với người tham gia
Khi tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, người tham gia có thể tiếp xúc với
nhiều người, có thể phát huy được tối đa khả năng ăn nói, khả năng thuyết phục,
cách tiếp cận hay chăm sóc khách hàng, khả năng thuyết trình, phát biểu trước đám
đông.
Phương thức kinh doanh này không đòi hỏi nhiều vốn, bằng cấp, kiến thức,
không mất nhiều thời gian nên đây được xem là một công việc tốt để làm thêm
ngoài công việc chính, nhưng có thể đem lại thu nhập cao.
 Đối với người tiêu dùng
Người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn và nhiều cơ hội mua hàng trực tiếp từ
nhà sản xuất nên tránh được nạn hàng giả, hàng kém chất lượng mà giá sản phẩm
thấp, phải chăng.
Ngoài việc tiêu dùng, khách hàng còn có thể tham gia vào mạng lưới bán
hàng đa cấp. Có thêm quyền kinh doanh, thêm ý tưởng kinh doanh sáng tạo (trong
GVHD: Nguyễn Mai Hân

19

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
kinh doanh truyền thống, người tiêu dùng chỉ có quyền sở hữu và sử dụng hàng
chứ không có quyền kinh doanh). Đây cũng có thể được xem là một ngành nghề
làm thêm ngoài công việc chính, là nguồn thu nhập phụ nhưng khá đáng kể cho
người dân. Đặt biệt là những người nội trợ, sinh viên mặc dù ở nhà, đi học nhưng
vẫn có thể tham gia bán hàng đa cấp vì phương thức này không tốn nhiều thời gian

cũng như không đòi hỏi tay nghề, vốn kinh doanh.
Ngoài ra, kết quả áp dụng phương thức bán hàng đa cấp đã đạt được một số
hiệu quả nhất định. Tính đết hết năm 2009, có 32 công ty bán hàng đa cấp hoạt
động đã thu hút gần 700.000 nhà phân phối, mang lại doanh thu hàng năm hơn
2.100 tỷ đồng (tăng 150% so với năm 2008), đóng góp gần 660 tỷ đồng thuế thu
nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân vào ngân sách Nhà nước và trên 5 tỷ
đồng cho các hoạt động xã hội, từ thiện. Các sản phẩm được đăng ký tổ chức bán
hàng đa cấp tính đến thời điểm hiện tại khoảng 1.000 mặt hàng, chủ yếu là thực
phẩm chức năng, mỹ phẩm, đồ dùng cá nhân và đồ dùng gia đình. Từ đó cho thấy,
phương thức bán hàng hiện đại huy động được sức lao động nhàn rỗi trong nhân
dân, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc
sống, phát huy tinh thần đoàn kết, tinh thần đồng đội hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng
vươn tới thành công, tăng khoản thu cho ngân sách nhà nước, tăng phúc lợi xã hội.
Măt khác, do đặc điểm và nguồn gốc của hàng hóa được lưu thông trong bán hàng
đa cấp là hàng hóa ở nước ngoài nên người tiêu dùng Việt Nam có thể tiếp cận với
xu hướng tiêu dùng của thế giới.
Mặt khác, sự ra đời của Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam6 đã đánh dấu
được bước phát triễn vượt bậc của hoạt động này. Hiệp hội ra đời tạo nhiều thuận
lợi không chỉ đối với các doanh nghiệp bán hàng đa cấp mà còn góp phần quan
trọng đối với cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động quản lý, giám sát bán hàng
đa cấp. Vai trò này được làm rõ như sau:
 Hiệp hội sẽ là tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp
của Việt Nam hoạt động một cách tích cực, hiệu quả, hỗ trợ nâng cao năng lực và
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hội viên, để từng bước hình thành một hệ thống
các doanh nghiệp với quy mô lớn và mang tính chuyên nghiệp cao.

6

Vào lúc 8h00 ngày 21/07/2009, tại Nhà khách Quốc Hội, 165 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 7, Quận 3, TPHCM, Đại
hội thành lập Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam đã được diễn ra với sự tham dự của 18 thành viên ban đầu của Hiệp

hội là các Công ty đang hoạt động trong ngành kinh doanh đa cấp. Tại Đại hội, Ban tổ chức đã công bố Quyết định số
935/QĐ-BNV ngày 15/6/2006 của Bộ Nội Vụ về việc cho phép thành lập Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam và tiến
hành bầu cử Ban chấp hành Hiệp hội nhiệm kỳ thứ nhất (2009 – 2014).

GVHD: Nguyễn Mai Hân

20

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
 Hiệp hội là cầu nối giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước
thông qua việc thu thập và tổng hợp những đề xuất, kiến nghị của hội viên phản
ánh với các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời, Hiệp hội cũng sẽ
là tổ chức hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước thực hiện công tác tuyên truyền, phổ
biến chính sách pháp luật cho các hội viên, cho người tham gia bán hàng đa cấp và
cho cộng đồng xã hội. Các Sở Công Thương7 và Hiệp hội cần “hợp tác” với nhau
để tăng cường hơn trong việc quản lý, giám sát bán hàng đa cấp, hơn nữa để tạo
điều kiện cho hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam ngày càng phát triển bền
vững và tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
Từ đó, cho thấy có Hiệp hội bán hàng đa cấp, nhà nước sẽ dễ dàng quản lý
hơn trong việc giám sát, phát hiện ra các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp khi chưa
đủ điều kiện, có hành vi bất chính. Đó là “kênh thông tin” để cơ quan quản lý bán
hàng đa cấp loại trừ được các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính; Đồng
thời nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bán hàng đa cấp chân
chính phát triển.
1.3. Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Quan hệ bán hàng đa cấp giữa doanh nghiệp bán hàng đa cấp với người
tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp được xác định và thực hiện thông qua

hình thức pháp lí là hợp đồng bán hàng đa cấp. Pháp luật về bán hàng đa cấp ở
Việt Nam không định nghĩa hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp, tuy nhiên dựa vào
bản chất của bán hàng đa cấp thì có thể hiểu hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp là
sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ
trong quan hệ bán hàng đa cấp. Với tư cách là hình thức pháp lí của quan hệ bán
hàng đa cấp, hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp có những dấu hiệu pháp lí sau:
 Về chủ thể của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Tồn tại hai chủ thể quan trọng đó là doanh nghiệp bán hàng đa cấp và người
tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp.
 Doanh nghiệp bán hàng đa cấp không phải là loại hình doanh nghiệp mới
trong nền kinh tế nước ta mà thực chất nó tồn tại dưới các dạng loại hình doanh
nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CP), công ty
hợp danh và công ty tư nhân theo Luật doanh nghiệp 2005. Đối với doanh nghiệp

7

Trong phạm vi bài viết, người viết xin đề cập đến Sở Công Thương để thay thế cho Sở Thương Mại hoặc Sở Thương
Mại- Du lịch.

GVHD: Nguyễn Mai Hân

21

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
bán hàng đa cấp là doanh nghiệp đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp
giấy tổ chức đăng kí bán hàng đa cấp8.
 Người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp: Là người đã kí kết hợp

đồng tham gia bán hàng đa cấp với doanh nghiệp bán hàng đa cấp.
Theo Luật cạnh tranh 2004, cho rằng chỉ có cá nhân mới có quyền tham gia
mạng lưới bán hàng đa cấp, còn tổ chức không có quyền này. Cơ sở lý luận của
quan điểm này xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt động bán hàng đa cấp.
Bán hàng đa cấp là phương thức tiêu thụ sản phẩm dựa vào các mối quan hệ thân
quen và là sự quảng cáo trực tiếp của phân phối viên tới người tiêu dùng. Chủ thể
tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp phải là người trực tiếp sử dụng và đánh giá
chất lượng sản phẩm và dùng những hiểu biết, kinh nghiệm cá nhân để tiếp thị sản
phẩm với những người quen. Do đó, chỉ có cá nhân là chủ thể hội đủ các yêu cầu
và có khả năng thực hiện việc tiếp thị sản phẩm theo phương thức bán hàng đa cấp.
Còn tổ chức là một tập hợp cá nhân, tổ chức không phải là chủ thể vừa có tính sinh
học vừa có tính xã hội như con người. Do đó, tổ chức không có mối thân quen
mang tính gia đình, bạn bè, tổ chức càng không thể trực tiếp sử dụng và cảm nhận
chất lượng sản phẩm. Vì thế, tổ chức không thể là người tham gia mạng lưới bán
hàng đa cấp. Và càng không thể là bên ký kết hợp đồng với doanh nghiệp kinh
doanh đa cấp.
Không phải mọi cá nhân điều có quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp. Theo điều 4 NĐ110/2005/NĐ-CP người tham gia vào mạng lưới bán hàng đa
cấp phải là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp
bị cấm tham gia bán hàng đa cấp như:
 Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc có tiền án về các tội sản xuất,
buôn bán hàng giả, quảng cáo gian dối, kinh doanh trái phép, trốn thuế lừa dối
khách hàng, các tội về lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tính nhiệm chiếm đoạt
tài sản, chiếm giữ trái phép tài sản.
 Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài không có giấy
phép lao động tại Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Đây là những quy định mang tính chất phòng ngừa, xuất phát từ đặc điểm
phức tạp của bán hàng đa cấp, người tham gia trực tiếp tiếp thị sản phẩm cho
người tiêu dùng và trực tiếp lựa chọn, giới thiệu người tham gia mới vào mạng
lưới bán hàng đa cấp. Do đó, nếu cho phép những người có tiền án hoặc đang chấp


8

Ths.Đoàn Trung Kiên: Bản chất pháp lý của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp – Tạp chí luật học số 11/2008.

GVHD: Nguyễn Mai Hân

22

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
hành hình phạt tù về những tội xâm phạm sở hữu hoặc các tội về kinh tế khi tham
gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp sẽ dễ dàng xảy ra tình trạng những người này
tiếp tục lợi dụng bán hàng đa cấp để lừa đảo người khác. Mặt khác, hầu hết các
doanh nghiệp bán hàng đa cấp tại Việt Nam là một thành viên trong mạng lưới bán
hàng đa cấp quốc tế. Do đó, có hiện tượng người nước ngoài và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài có thể tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp và phát sinh
thu nhập tại Việt Nam khi chưa có giấy phép lao động và có hành vi trốn thuế. Vì
thế, theo quy định này giúp cho nhà nước có thể kiểm soát việc thu thuế cũng như
quản lý được hoạt động của họ tại Việt Nam, ngăn chặn họ tổ chức trái phép mạng
lưới bán hàng đa cấp bất chính tại Việt Nam.
Tùy từng doanh nghiệp bán hàng đa cấp mà người tham gia được gọi là nhà
phân phối, nhân viên tiếp thị bán lẻ trực tiếp, trực tiêu viên, hợp tác viên nhưng họ
không phải là nhân viên của doanh nghiệp. Lúc này, người tham gia hoàn toàn độc
lập tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp. Họ nhân danh chính mình, tự mình
quyết định mọi việc và tự mình gánh chịu trách nhiệm về kết quả bán hàng. Tư
cách pháp lí độc lập của người tham gia thường được ghi nhận ngay trong hợp
đồng tham gia bán hàng đa cấp hay trong chính sách của doanh nghiệp bán hàng

đa cấp với nội dung như: Người tham gia là nhà phân phối viên độc lập, không là
nhân viên hay người đại diện của doanh nghiệp với bất kì mục đích nào. Điều này
lí giải tại sao các doanh nghiệp bán hàng đa cấp thường không chịu trách nhiệm về
các hành vi quảng cáo gian dối, sai sự thật, lừa đảo của người tham gia vì người
tham gia không có quyền nhân danh doanh nghiệp trong hoạt động của mình. Vậy
hợp đồng được coi là căn cứ duy nhất để xác lập và điều chỉnh quan hệ giữa họ với
doanh nghiệp.
 Về hình thức của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận kết quả mà các bên
tham gia đã thỏa thuận với nhau. Hợp đồng có thể được lập dưới nhiều hình thức
khác nhau như lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, với tính
chất phức tạp của quan hệ bán hàng đa cấp, khả năng phát sinh tranh chấp trong
quá trình thực hiện hợp đồng bán hàng đa cấp là rất lớn nên hợp đồng tham gia bán
hàng đa cấp luôn được thể hiện dưới các dạng hình thức đảm bảo rõ ràng để giúp
cho việc giải quyết tranh chấp trở nên thuận lợi hơn. Vì vậy, theo quy định của
khoản 1 Điều 9 NĐ 110/2005/NĐ-CP quy định: “Doanh nghiệp bán hàng đa cấp
phải kí kết hợp đồng tham gia bằng văn bản với người tham gia vào mạng lưới bán
hàng đa cấp”.
GVHD: Nguyễn Mai Hân

23

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
Mặt khác, do tính phổ biến và lan rộng của hoạt động tham gia bán hàng đa
cấp, nên pháp luật đã xác định hình thức hợp đồng này là văn bản để làm cơ sở
pháp lí chắc chắn cho việc giám sát tính hợp pháp của mạng lưới bán hàng đa cấp,
thiết lập được cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự của từng bên trong giao dịch

tham gia bán hàng đa cấp, từ đó có thể ngăn chặn được ý định đùng đẩy hoặc phân
tán trách nhiệm cho nhau giữa doanh nghiệp và người tham gia, tạo ra cơ hội bảo
vệ tốt hơn quyền lợi của những bên có vị trí yếu trong các giao dịch mua bán, kể
cả hợp đồng tham gia bán hàng.
 Về đối tượng của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Đối tượng của hợp đồng này là lợi ích mà các bên hướng tới khi kí kết hợp
đồng. Đối với doanh nghiệp bán hàng đa cấp, lợi ích mà họ hướng tới là hàng hóa
họ bán được cho người tham gia, tức là hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp là một
hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa, theo đó bên bán hàng là doanh nghiệp
bán hàng đa cấp, bên mua hàng là người tham gia bán hàng đa cấp. Tuy nhiên,
mục đích lợi ích mà người tham gia bán hàng đa cấp hướng tới là hàng hóa mà họ
mua đựơc thì lợi ích chủ yếu chính là tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh
tế mà họ nhận được từ việc tiếp thị bán hàng của mình cũng như của người tham
gia cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và được doanh nghiệp bán hàng đa
cấp chấp nhận. Như vậy, dưới góc độ lợi ích của người tham gia, đối tượng của
hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp lại là một công việc- bán hàng đa cấp. Tiếp
cận đối tượng của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp dưới góc độ của người tham
gia cho thấy hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp là một dạng hợp đồng trung gian
tiêu thụ hàng hóa.
 Về nội dung cơ bản của hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Theo Thông tư 19/2005/TT-BTM của Bộ Thương Mại (bây giờ là Bộ Công
Thương) hướng dẫn một số nội dung quy định tại NĐ 110/2005/NĐ-CP, theo đó
Điều 5 của Thông tư này quy định những nội dung cơ bản của hợp đồng tham gia
bán hàng đa cấp mẫu. Bao gồm:
 Thông tin về chủ thể của hợp đồng (bao gồm tên doanh nghiệp, địa chỉ
trụ sở chính, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bán hàng đa cấp, họ
và tên, hộ khẩu thường trú (hoặc đăng kí lưu trú đối với người nước ngoài), nơi
đăng kí tạm trú, số chứng minh nhân dân (hoặc số hộ chiếu đối với người nước
ngoài).
 Nguồn gốc, chủng loại, chất lượng, giá cả, công dụng và cách thức sử

dụng của hàng hóa, các điều kiện và phạm vi bảo hành hàng hóa (nếu có).
GVHD: Nguyễn Mai Hân

24

SVTH: Phan Thị Diệp


Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán hàng đa cấp
Thông thường các sản phẩm được doanh nghiệp bán hàng đa cấp kinh
doanh là thực phẩm chức năng, mỹ phẩm và các sản phẩm này có xuất xứ từ nước
ngoài như Hoa Kì, Anh, Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan. Những sản
phẩm này người tiêu dùng Việt Nam hầu như chưa từng biết đến. Cho nên nhiều
doanh nghiệp bán hàng đa cấp đã lợi dụng việc thiếu thông tin về sản phẩm để
quảng cáo sai sự thật về tính năng, công dụng, chất lượng của sản phẩm. Chẳng
hạn có doanh nghiệp đã quảng cáo sản phẩm thực phẩm dinh dưởng thành dược
phẩm thậm chí là thần dược chữa được nhiều bệnh để bán sản phẩm với giá cao
hơn nhiều so với giá trị thực của sản phẩm. Để phòng ngừa và ngăn chặn hiện
tượng này, hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp phải có điều khoản quy định rõ về
nguồn gốc, chủng loại, chất lượng, giá cả, công dụng và cách thức sử dụng của
hàng hóa được bán, giá bán lại hàng hóa. Bên cạnh đó, Điều 5 NĐ110/2005/NĐCP còn quy định những hàng hóa không được kinh doanh theo phương thức bán
hàng đa cấp và những điều kiện của hàng hóa kinh doanh theo phương thức bán
hàng đa cấp tất cả các hàng hóa điều được kinh doanh theo phương thức bán hàng
đa cấp, trừ những trường hợp sau đây: Hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa cấm
lưu thông; Danh mục hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng giả, hàng nhập lậu theo
quy định của pháp luật; Hàng hóa là thuốc phòng chữa bệnh cho người; Các loại
vắc xin; Sinh phẩm; Trang thiết bị y tế và dụng cụ y tế; Các loại thuốc thú y (bao
gồm cả thuốc thú y thủy sản), thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất, chế phẩm diệt công
trùng, diệt khuẩn dùng trong lỉnh vực gia dụng và y tế; Nguyên liệu làm thuốc
chữa bệnh; Các loại hóa chất độc hại và các sản phẩm có hóa chất độc hại theo quy

định của pháp luật. Mặt khác, việc cấm bán các loại hàng hóa này vì nó ảnh hưởng
trực tiếp tới sức khỏe cuả người tiêu dùng mà chưa được một cơ quan chức năng
nào kiểm định.
Hàng hóa được kinh doanh theo phương thức bán hàng đa cấp phải đáp ứng
các điều kiện sau:
 Hàng hóa đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, chất lượng, an toàn, vệ sinh thực
phẩm theo quy định của pháp luật;
 Hàng hóa bảo đảm rõ ràng, hợp pháp về nguồn gốc, xuất xứ, tính năng,
công dụng của hàng hóa;
 Có nhãn hàng theo đúng quy định của pháp luật.
Cách thức tính tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác mà
người tham gia nhận được từ việc tiếp thị bán hàng của mình và của người tham
gia cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và được doanh nghiệp bán hàng đa
GVHD: Nguyễn Mai Hân

25

SVTH: Phan Thị Diệp


×