Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại PHÁP LUẬT về HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH và NIÊM yết TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 92 trang )

 









































































 








































 












GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:






SINH VIÊN THỰC HIỆN:












 











































 




































































 








































 





- DN
- GDP

- HNX
- HOSE
- NĐT
- SGDCK
- TPDN
- TPCP
- TTCK
- TTGDCK
- TTLKCK
- UBCKNN
- USD
- VND


































































































Doanh nghiệp
Tổng sản phẩm quốc nội
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà đầu tư
Sở Giao dịch Chứng khoán
Trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu Chính phủ
Thị trường chứng khoán
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Dollar Mỹ

Việt Nam đồng


































































 








































 




















































































..................................................................................................... 1
................................................................................................. 4
























































 

























































































































































































































































......... 4































































 





















































































































































































































































































































































































.................................................20



.....20
2.1.1 Khái quát về hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp............................20
2.1.1.1 Khái niệm hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp .........................20
2.1.1.2 Nguyên tắc phát hành trái phiếu doanh nghiệp........................................20
2.1.1.3 Thuận lợi và bất lợi của việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp .............21







................................................................ 4
1.1.1 Cơ sở hình thành thị trường chứng khoán....................................................... 4
1.1.2 Khái niệm thị trường chứng khoán................................................................. 4
1.1.3 Vai trò của thị trường chứng khoán ................................................................ 5
1.1.4 Phân loại thị trường chứng khoán................................................................... 6

1.1.5 Cơ cấu thị trường chứng khoán ...................................................................... 6
1.1.6 Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán ......................................... 7
1.1.6.1 Nhà phát hành.......................................................................................... 7
1.1.6.2 Nhà đầu tư ............................................................................................... 8
1.1.6.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán ............................... 8
........................................ 9
1.2.1 Chứng khoán.................................................................................................. 9
1.2.1.1 Khái niệm chứng khoán ........................................................................... 9
1.2.1.2 Đặc điểm của chứng khoán ...................................................................... 9
1.2.1.3 Phân loại chứng khoán............................................................................10
1.2.2 Các loại chứng khoán phổ biến trên thị trường chứng khoán .........................10
1.2.2.1 Cổ phiếu .................................................................................................10
1.2.2.2 Trái phiếu ...............................................................................................11
...............................................................12
1.3.1 Khái niệm trái phiếu doanh nghiệp................................................................12
1.3.2 Nội dung của trái phiếu doanh nghiệp ...........................................................12
1.3.3 Đặc điểm của trái phiếu doanh nghiệp...........................................................13
1.3.4 Hệ số tín nhiệm của trái phiếu doanh nghiệp .................................................13
1.3.5 Các loại trái phiếu doanh nghiệp ...................................................................14
1.3.6 Phân biệt trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu...............................................15
.....................16
1.4.1 Nhu cầu phát hành trái phiếu của các chủ thể phát hành................................16
1.4.2 Nhu cầu đầu tư trái phiếu của các chủ thể đầu tư...........................................17
.....................................18



















































































































































































































 



























































 




















































































2.1.2 Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước đối với hoạt động phát hành
trái phiếu doanh nghiệp..........................................................................................22
2.1.3 Phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ....................................................23
2.1.3.1 Khái niệm và đặc điểm của phương thức phát hành riêng lẻ....................23
2.1.3.2 Điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ..............................23
2.1.3.3 Thủ tục cơ bản phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ......................25
2.1.4 Chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng ..........................................26
2.1.4.1 Khái niệm và đặc điểm của chào bán trái phiếu ra công chúng................26
2.1.4.2 Điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ..............................27
2.1.4.3 Thủ tục cơ bản phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ......................28
2.1.5 Phương pháp phát hành trái phiếu doanh nghiệp ...........................................31
2.1.5.1 Phương pháp bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp.......................31
2.1.5.2 Phương pháp đại lý phát hành trái phiếu doanh nghiệp ...........................33
2.1.5.3 Phương pháp đấu thầu trái phiếu doanh nghiệp.......................................34
2.1.5.4 Phương pháp phát hành trái phiếu doanh nghiệp trực tiếp .......................36
........36
2.2.1 Khái quát về hoạt động niêm yết trái phiếu doanh nghiệp .............................36
2.2.1.1 Khái niệm, mục đích của hoạt động niêm yết trái phiếu doanh nghiệp ....36
2.2.1.2 Hình thức niêm yết trái phiếu doanh nghiệp............................................37
2.2.1.3 Thuận lợi và bất lợi của việc niêm yết trái phiếu doanh nghiệp ...............38
2.2.2 Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước đối với hoạt động niêm yết
trái phiếu doanh nghiệp..........................................................................................38

2.2.3 Điều kiện niêm yết trái phiếu doanh nghiệp tại Sở giao dịch chứng khoán ....39
2.2.3.1 Điều kiện niêm yết trái phiếu doanh nghiệp tại Sở giao dịch
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh................................................................39
2.2.3.2 Điều kiện niêm yết trái phiếu doanh nghiệp tại Sở giao dịch
chứng khoán Hà Nội...........................................................................................40
2.2.4 Thủ tục cơ bản niêm yết trái phiếu doanh nghiệp tại Sở giao dịch
chứng khoán ..........................................................................................................42
2.2.5 Quản lý trái phiếu doanh nghiệp niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán .......43







































































































































































































































...44
2.3.1 Thị trường trái phiếu quốc tế.........................................................................44
2.3.2 Hoạt động phát hành trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp .............................45
2.3.2.1 Khái niệm hoạt động phát hành trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp ......45
2.3.2.2 Những thuận lợi và bất lợi của hoạt động phát hành trái phiếu
quốc tế của doanh nghiệp ...................................................................................46
2.3.2.3 Điều kiện phát hành trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp........................47
2.3.2.4 Nội dung cơ bản quá trình phát hành trái phiếu quốc tế

của doanh nghiệp................................................................................................48
2.3.2 Hoạt động niêm yết trái phiếu doanh nghiệp tại Sở giao dịch chứng khoán
nước ngoài.............................................................................................................49
2.3.2.1 Những thuận lợi và bất lợi của hoạt động niêm yết trái phiếu
doanh nghiệp tại Sở giao dịch chứng khoán nước ngoài .....................................49
2.3.2.2 Điều kiện niêm yết trái phiếu doanh nghiệp tại Sở giao dịch
chứng khoán nước ngoài ....................................................................................50













































































































 





























































































 































































































































 


































































































































































































































































































































 



































































































































......................................................................................61































































































































































































............................................................................68
3.2.1 Tồn tại trong quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động
phát hành và niêm yết trái phiếu doanh nghiệp ......................................................68
3.2.2 Tồn tại trong quy định pháp luật liên quan gián tiếp đến hoạt động
phát hành và niêm yết trái phiếu doanh nghiệp ......................................................70




































































































































































............................................................................71
3.3.1 Định hướng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
đến năm 2020 ........................................................................................................71
3.3.2 Phương hướng hoàn thiện những quy định pháp luật về hoạt động
phát hành và niêm yết trái phiếu doanh nghiệp ......................................................72
3.3.2.1 Sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán 2006...............................................73
3.3.2.2 Hoàn thiện, bổ sung các quy định của pháp luật về điều kiện phát hành
và điều kiện niêm yết TPDN ..............................................................................74
3.3.2.3 Ban hành quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của tổ chức
định mức tín nhiệm ............................................................................................75
3.3.2.4 Hoàn thiện những quy định về hoạt động công bố thông tin của







...........................61
3.1.1 Quá trình phát triển của trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam ...........................61
3.1.1.1 Hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp .........................................62
3.1.1.2 Hoạt động niêm yết trái phiếu doanh nghiệp ...........................................63
3.1.2 Đánh giá hoạt động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam...........64

3.1.2.1 Điểm mạnh của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam .................64
3.1.2.2 Điểm yếu của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam ....................64
3.1.2.3 Triển vọng phát triển của trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam ...................66

























































 












............................................................................56
2.5.1 Xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động phát hành và niêm yết
trái phiếu doanh nghiệp..........................................................................................57
2.5.2 Xử lý vi phạm pháp luật bằng biện pháp hình sự...........................................59




























.............................................................................................51
2.4.1 Nội dung công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành trái phiếu...............53
2.4.1.1 Công bố thông tin định kỳ.......................................................................53
2.4.1.2 Công bố thông tin bất thường .................................................................54
2.4.1.3 Công bố thông tin về việc chào bán trái phiếu ra công chúng và
tiến độ sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán ....................................................54
2.4.2 Nội dung công bố thông tin của doanh nghiệp niêm yết ................................54
2.4.2.1 Công bố thông tin định kỳ.......................................................................55
2.4.2.2 Công bố thông tin bất thường .................................................................55
2.4.2.3 Công bố thông tin theo yêu cầu...............................................................56

























































































































































 









































 



















































































doanh nghiệp phát hành và doanh nghiệp niêm yết.............................................76
3.3.2.5 Các đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật khác có liên quan
đến hoạt động phát hành và niêm yết trái phiếu doanh nghiệp ............................77
.............................................................................................................81









 











 

 



 
















 

































































































 


















 


















































 






















































































Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế từ Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986), chuyển từ cơ chế kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ kinh tế
đối ngoại. Chính sách đổi mới đã đem đến cho Việt Nam nhiều thành quả to lớn về
mặt phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng đưa Việt Nam hội nhập vào kinh tế khu
vực và thế giới.
Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) vào ngày 07/11/2006 đã mở ra cánh cửa hội nhập ngày càng sâu rộng cho nền
kinh tế Việt Nam nói chung và doanh nghiệp (DN) Việt Nam nói riêng. Đi kèm với cơ
hội là những thách thức không nhỏ mà nền kinh tế Việt Nam, cũng như không phải bất
cứ DN nào cũng có thể dễ dàng vượt qua. Nói cách khác, để có thể đứng vững, nâng
cao năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa, và thị trường quốc tế, DN vẫn còn
không ít vấn đề cần phải sớm giải quyết như đầu tư đối mới khoa học công nghệ, nâng
cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, nâng cao trình độ,

kỹ năng cho người lao động,…Để làm được điều đó đòi hỏi DN phải có tiềm năng tài
chính vững mạnh, phải không ngừng gia tăng và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn cho
đầu tư phát triển. Như vậy, nhu cầu bổ sung vốn để tái sản xuất và đầu tư trong những
năm sắp tới là rất lớn, không thể chỉ trông chờ vào nguồn lợi nhuận giữ lại từ phía các
DN, mà cần phải huy động từ bên ngoài theo nhiều hình thức khác nhau.
Thời gian qua, sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) là
một tất yếu khách quan, khẳng định sự cần thiết và tính tất yếu phải tạo kênh huy động
vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế Việt Nam, và DN nói riêng. TTCK đã mở ra và
giúp cho các DN quen với hai kênh huy động vốn mới, đó là phát hành cổ phiếu và
phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN). Tuy nhiên, thực tế hoạt động của thị
TTCK, đặc biệt là giai đoạn quá nóng trong hai năm 2006 - 2007 cho thấy các DN vẫn
còn quá chú trọng vào việc huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, mà chưa quan
tâm nhiều đến kênh huy động vốn bằng hình thức phát hành TPDN. Trong khi TPDN
được đánh giá là kênh huy động vốn hiệu quả, nhiều ưu thế, nhưng đến nay TPDN vẫn
chưa nhận được sự quan tâm đúng mức từ phía các DN. Hơn nữa, hầu như các DN
Việt Nam không vay nợ từ dân chúng, việc sử dụng các công cụ tài chính đơn giản và
trực tiếp (như vay trực tiếp từ các nhân viên, đối tác, khách hàng, hoặc vay từ các tổ
chức tín dụng,…) vẫn là thói quen phổ biến của các DN.
Ở Việt Nam, có thể nói, sự hình thành và phát triển của thị trường TPDN gắn liền
với các mốc thời điểm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp
về TPDN nói riêng. Mốc thời gian hình thành thị trường TPDN gắn liền với sự ra đời
của Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 17/9/1994 ban hành Quy chế tạm thời về việc
phát hành trái phiếu, cổ phiếu DN Nhà nước và Quyết định số 212/QĐ/NH1 ngày
22/9/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành thể lệ phát hành trái
phiếu ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và hướng dẫn việc phát hành trái phiếu
của các tổ chức tín dụng. Trong giai đoạn từ năm 1994 - 2006, Nhà nước đã ban hành
các quy định pháp lý đầu tiên về TPDN, tạo điều kiện cho DN phát hành trái phiếu để
huy động vốn; tuy nhiên TPDN vẫn còn quá mới mẻ, chưa được các DN quan tâm và
















































trang 1





































 









































 



















































































vận dụng phổ biến. Các DN thực hiện huy động vốn bằng trái phiếu rất ít. Các công ty
huy động vốn bằng hình thức này có thể kể đến như Công ty cổ phần cơ điện lạnh
REE, Tổng công ty điện lực Việt Nam, Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam,
Tổng công ty sông Đà,…
Đến năm 2006, khung pháp lý cho TPDN dần dần hoàn thiện với sự ra đời của Nghị
định số 52/2006/NĐ-CP về phát hành TPDN, Luật Chứng khoán 2006…Kể từ đó,
TPDN có bước phát triển vượt bậc, cả về số lượng DN phát hành và khối lượng trái

phiếu phát hành, đưa quy mô của thị trường TPDN trong năm 2007 đạt mức 2,12%
GDP (so với con số 0.2%GDP của năm 2005). Năm 2008, TPDN bị ảnh hưởng không
ít từ khủng hoảng tài chính thế giới, đến năm 2009 và những tháng đầu năm 2010, Việt
nam chứng kiến sự phát triển bùng nổ của TPDN với nhiều đợt phát hành thành công
với quy mô lớn. Hơn nữa, nhiều DN lớn của Việt Nam còn đang phát triển kế hoạch
phát hành TPDN trên các thị trường tài chính quốc tế dựa trên khuôn khổ của Nghị
định số 53/2009/NĐ-CP về phát hành trái phiếu quốc tế. Đây sẽ là những điều kiện
thuận lợi để Việt Nam hội nhập vào thị trường tài chính khu vực và thế giới.
Như vậy, có thể nói, môi trường pháp lý là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sự
phát triển của TPDN và thị trường TPDN Việt Nam. TTCK và thị trường TPDN nói
riêng không thể vận hành và phát triển lành mạnh nếu không có một khuôn khổ pháp
lý cần thiết cho tổ chức và hoạt động của nó.
Thời gian gần đây, mặc dù nhận được nhiều sự quan tâm của các DN, cũng như các
nhà đầu tư (NĐT) trong và ngoài nước, nhưng đánh giá chung, TPDN Việt Nam vẫn
còn đang trong giai đoạn phát triển, và sự phát triển này thật sự chưa đúng với tiềm
năng và nhu cầu của các DN.
Như vậy, liệu pháp luật có là một trong những yếu tố đang kìm hãm sự phát triển đi
lên của thị trường này? Nếu có, thì hệ thống các quy định pháp luật nên được hoàn
thiện theo phương hướng nào?
Để TPDN thật sự phát huy vai trò của nó, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu vốn đầu tư
phát triển kinh tế trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, cần phải
xem xét về hoạt động phát hành và niêm yết TPDN dưới nhiều góc độ. Hơn lúc nào
hết, việc đi vào nghiên cứu cơ sở lý luận, tìm hiểu và phân tích những quy định của
pháp luật, đánh giá những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động phát hành và niêm yết
TPDN, cũng như những quy định của pháp luật liên quan, từ đó đưa ra những đề xuất
cơ bản về chính sách, pháp luật phù hợp, nhằm hoàn thiện và thúc đẩy TPDN phát
triển, góp phần nâng cao khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn cho các
DN là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài:


”.
 













 

































































 











































 









 















Đề tài “Pháp luật về hoạt động phát hành và niêm yết trái phiếu doanh nghiệp”
nhằm vào mục tiêu góp phần xây dựng cơ sở lý luận chung về pháp luật về hoạt động
phát hành và niêm yết TPDN, đồng thời đưa ra những định hướng khắc phục những

hạn chế làm cho những quy định của pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn. Qua đó, góp
phần tạo lực hút các nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn, tạo điều kiện để TPDN thật sự
trở thành kênh huy động vốn tiện lợi, và phát triển đúng với tiềm năng của nó trong
thời gian tới.















































trang 2





































 










































































 






















































































Về thời gian: Thời gian thực hiện đề tài bắt đầu từ tháng 8 năm 2010 đến tháng 11
năm 2010.
Về không gian: Thị trường TPDN tại Việt Nam
Về nguồn thông tin: Thông tin phục vụ nghiên cứu đề tài được lấy từ các nguồn chủ
yếu sau:
- Các văn bản pháp luật liên quan.
- Các tài liệu chuyên khảo về TPDN.
- Các tạp chí chuyên ngành.
- Thông tin từ internet.
Về nội dung: Đề tài nghiên cứu một cách tổng quát về kênh huy động vốn thông
qua hình thức phát hành TPDN, và hoạt động niêm yết TPDN. Tuy nhiên, đây là một
lĩnh vực đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của nhiều yếu tố, nhiều lĩnh vực khác
nhau. Do giới hạn về thời gian và chuyên ngành nghiên cứu, nên luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu pháp luật về hoạt động phát hành và niêm yết TPDN, từ đó nhận định và
đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện về hệ thống các quy định pháp luật. Đề tài
không đi sâu vào những nghiệp vụ chi tiết của TTCK, cũng như của thị trường TPDN.












































Để thực hiện Đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp như sau:
- Nhóm phương pháp lý luận: bao gồm các phương pháp được sử dụng để tìm hiểu
các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu như phương
pháp phân tích luật viết, phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, phương pháp
phân tích, tổng hợp.
- Nhóm phương pháp thực tế: bao gồm các phương pháp được sử dụng để có thể
đánh giá được thực trạng, so sánh đối chiếu với lý luận, từ đó rút ra được phương
hướng hoàn thiện như phương pháp sưu tầm số liệu, phương pháp thống kê, tổng hợp,
phân tích số liệu.






 


















Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và một số phụ lục, đề tài được chia thành ba
chương như sau:
: Tổng quan về thị trường chứng khoán - trái phiếu doanh nghiệp và
nhu cầu đầu tư - phát hành trái phiếu.
: Quy định của pháp luật về hoạt động phát hành và niêm yết trái phiếu
doanh nghiệp.
: Thực trạng về hoạt động phát hành và niêm yết trái phiếu doanh
nghiệp và một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật.











































Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và hoàn thành Luận văn, nhưng
do đây là một mảng đề tài khá rộng và khá mới mẻ, cộng với vốn kiến thức còn hạn
chế của một sinh viên, nên chắc chắn Luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong sự đóng góp và chỉ bảo của quý thầy cô để Luận
văn được hoàn thiện hơn.
Tác giả chân thành cảm ơn Tiến sĩ Lê Thị Nguyệt Châu đã tận tình hướng dẫn để

tác giả hoàn thành luận văn này.
















































trang 3





































 









































 























 

















































































































































































Để có cái nhìn tổng quan về đề tài PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH
VÀ NIÊM YẾT TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP, chương này sẽ tập trung nghiên cứu
các vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán, cũng như khái niệm, đặc điểm của trái
phiếu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tầm quan trọng của việc quản lý Nhà nước đối với
thị trường chứng khoán nói chung cũng được đi sâu phân tích.














































 

 






























































































Khi nền kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định, để đáp ứng nhu cầu về hàng
hóa của xã hội, nhu cầu về vốn của các DN với mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh
càng trở nên lớn, nhằm chiếm lĩnh thị trường và tối đa hóa lợi nhuận. Đồng thời, trong
xã hội lại có một số người khác có vốn tạm thời nhàn rỗi, và nguồn vốn này chỉ có giá
trị theo thời gian, nên những người này muốn vốn của họ được bảo toàn, được sinh sôi
nảy nở. Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các đối tượng này có thể là một nguồn vốn
khổng lồ cung ứng cho nhu cầu của các DN, cũng như của Chính phủ trong quá trình
thực hiện những mục tiêu về kinh tế - xã hội. Từ đó, sự ra đời của một cơ chế để nhu
cầu về vốn gặp gỡ nhau là một đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế. Ban đầu, sự gặp nhau
giữa cung và cầu về vốn được thể hiện ở những hình thức như vay mượn trực tiếp,
hoặc tín dụng thương mại giữa các DN, thông qua các tổ chức tài chính trung gian.
Tuy nhiên, hai hình thức này dần dần bộc lộ những nhược điểm, chẳng hạn như quy
mô vốn không lớn, thường dựa vào quan hệ quen biết, dựa trên sự tín nhiệm (đối với
hình thức vay mượn trực tiếp), cả người vay và người cho vay đều phải phụ thuộc
nhiều vào các tổ chức trung gian tài chính, người cho vay không thể biết nguồn vốn
của mình đang ở đâu…Thực tế khách quan đòi hỏi các chủ thể có nhu cầu về vốn phải

chủ động tìm kiếm nguồn vốn đầu tư bằng cách phát hành các chứng từ có giá. Khi các
chứng từ có giá đã phát triển và khung pháp lý của các hoạt động này trở nên hoàn
thiện, thì việc đầu tư vào giấy tờ có giá là một hình thức đầu tư phổ biến. Với hình
thức đầu tư này, NĐT biết chính xác nguồn vốn của mình đang ở đâu và đang được ai
sử dụng. Đó chính là thị trường tài chính - thị trường giao dịch các chứng từ có giá
hình thành và phát triển. Nói cách khác, sự ra đời, phát triển và mua bán các chứng từ
có giá trong nền kinh tế chính là cơ sở hình thành thị trường tài chính.
Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ (thị trường tài chính ngắn hạn) và
thị trường vốn (thị trường tài chính dài hạn), trong đó thị trường tiền tệ hình thành
trước. Sau đó, cùng với sự phát triển về kinh tế, thị trường vốn ra đời để đáp ứng như
cầu về vốn dài hạn. Chính Phủ và DN có thể huy động vốn dài hạn thông qua các hình
thức tài chính gián tiếp như vay ngân hàng. Bên cạnh đó, các chủ thể này còn có thể
thực hiện huy động thông qua việc phát hành các loại chứng khoán. Khi đó, TTCK ra
đời, nhằm đáp ứng các nhu cầu về mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Như vậy,
có thể nói, sự hình thành của TTCK là kết quả tất yếu và là đòi hỏi của quá trình phát
triển nền kinh tế xã hội.


















































































































trang 4





































 








































 




















































































TTCK là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán giữa những
người phát hành chứng khoán và người mua chứng khoán (người đầu tư) hoặc người
kinh doanh chứng khoán1.
TTCK, như đã trình bày, là một bộ phận của thị trường vốn do đặc tính của chứng
khoán trong việc huy động nguồn vốn dài hạn. Hàng hóa của TTCK là các loại chứng
khoán bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và một số công cụ tài chính khác
có thời hạn trên một năm. Nói cách khác, TTCK là một thị trường mà nơi đó người ta
mua bán, trao đổi, chuyển nhượng các loại chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời.























 












































- TTCK là kênh huy động vốn trung hạn và dài hạn hữu hiệu cho nền kinh tế.

Bằng các công cụ của TTCK, Chính phủ và các DN có thể huy động tối đa nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội, đưa vào đầu tư phát triển, xây dựng cơ sở vật chất mới, góp
phần mở rộng sản xuất xã hội. Vai trò này được thực hiện khi các tổ chức phát hành
chứng khoán và công chúng đầu tư mua chứng khoán. Nhờ vào sự hoạt động của
TTCK, Chính phủ và các DN có được sự hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư phát triển
sản xuất, phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội,…Từ đó,
đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng:
Đối với các NĐT, TTCK cung cấp cho họ một phương thức đầu tư mới. TTCK là
môi trường đầu tư lành mạnh, với nhiều công cụ đa dạng về tính chất, về thời hạn, và
về tính rủi ro cũng như với tính thanh khoản cao, cho phép NĐT lựa chọn tùy khả
năng và mục đích của mình. Hơn nữa, với việc mua bán, trao đổi chứng khoán một
cách dễ dàng trên thị trường, nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư được sử dụng
một cách linh hoạt, đem lại lợi nhuận cho NĐT. Từ đó, khuyến khích người dân tiết
kiệm để đầu tư tạo lợi nhuận, đầu tư sản xuất kinh doanh.
Hay nói cách khác, TTCK sẽ dẫn vốn từ những người thừa vốn sang những người
thiếu vốn. Hoạt động của TTCK tạo ra một cơ chế điều hòa các nguồn vốn.
- Tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán:
Tính thanh khoản là khả năng chuyển đổi thành tiền mặt của các tài sản tài chính3.
Nhờ vào hoạt động của TTCK, các chủ thể trên thị trường có thể dễ dàng chuyển đổi
các chứng khoán thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ mong muốn.
Đây là một vai trò quan trọng của TTCK. Thiếu tính thanh khoản, các NĐT buộc phải
nắm giữ các chứng khoán cho đến khi đáo hạn, hoặc buộc phải đợi đến khi có đợt phát
hành thì NĐT mới có cơ hội đầu tư vào thị trường.
Mọi TTCK đều có tính thanh khoản. Tuy nhiên, mức độ tính thanh khoản phụ
thuộc vào hiệu quả của các hoạt động trên thị trường. Một TTCK hoạt động càng hiệu
quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường này càng cao.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và nền kinh tế:
TTCK buộc các DN phải công khai thông tin, để NĐT đánh giá chính xác khả năng
tài chính, hoạt động của DN mà quyết định đầu tư đúng đắn. Hơn nữa, giá của chứng

khoán sẽ được hình thành trên thị trường thông qua sự đánh giá của các NĐT về tình
hình hoạt động cũng như triển vọng phát triển của DN. Để tồn tại, các DN phải có kế
hoạch phát triển và sử dụng vốn một cách hiệu quả. Từ đó, DN có thể nhận rõ được lợi
thế của mình, và có điều kiện xây dựng kế hoạch phát triển DN tối ưu.
1



GS.TS Lê Văn Tư, Thị trường chứng khoán, NXB Thống kê 2006, trang 13.














































trang 5






































 








































 




















































































Tại một số nước phát triển, TTCK còn được ví như một nhiệt kế để đo nhiệt độ của
nền kinh tế. Sự tăng trưởng của nền kinh tế thường được đánh giá qua chỉ số giá chứng
khoán trên TTCK. Thông qua thị trường này, Chính phủ có thể nhận định được sự tăng
trưởng, hay những dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế, từ đó có thể điều tiết vĩ mô nền
kinh tế một cách có hiệu quả. Cụ thể, Chính phủ có thể mua hoặc bán chứng khoán để
điều tiết lượng tiền lưu thông, hoặc nhằm mục đích tạo nguồn thu để bù đắp thâm hụt
ngân sách. Ngoài ra, Chính phủ có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động
vào TTCK nhằm định hướng đầu tư, bảo đảm sự phát triển cân đối đối với nền kinh tế.


















 















































Căn cứ vào sự luân chuyển nguồn vốn, TTCK được chia thành thị trường sơ cấp và
thị trường thứ cấp:
- Thị trường sơ cấp: Là nơi mua bán các chứng khoán mới phát hành lần đầu. Trên
thị trường này, vốn từ NĐT chuyển sang nhà phát hành, thông qua việc các NĐT mua
các chứng khoán mới phát hành, và đây là nơi duy nhất chứng khoán có thể đem lại
vốn cho nhà phát hành. Trong thị trường này, các chứng khoán sẽ tới tay người mua
đầu tiên theo những thỏa thuận riêng, và thông thường với sự giúp đỡ của các định chế
tài chính làm nhiệm vụ bảo lãnh phát hành.
- Thị trường thứ cấp: Là nơi mua bán các chứng khoán đã được giao dịch trên thị
trường sơ cấp. Trên thị trường này, vốn được luân chuyển giữa các NĐT với nhau.
Hoạt động của thị trường thứ cấp nhằm bảo đảm tính thanh khoản cho các chứng
khoán đã phát hành. Đây là thị trường có hoạt động liên tục, NĐT có thể thực hiện
giao dịch mua bán nhiều lần trên thị trường này.
Căn cứ vào phương thức hoạt động của TTCK, TTCK được chia thành thị trường
tập trung và thị trường phi tập trung:

- Thị trường tập trung (còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán): Là thị trường được tổ
chức ở một nơi cố định. Chứng khoán được mua bán trên thị trường này là loại đã
được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán, hay Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Trên thị trường này, người mua và người bán gặp nhau tại một điểm để giao dịch, và
việc giao dịch được thực hiện theo phương thức khớp lệnh tập trung.
- Thị trường phi tập trung (còn gọi là thị trường OTC): Là loại thị trường được tổ
chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định, mà dựa vào một hệ thống chào
giá cạnh tranh thương lượng giữa các công ty chứng khoán với nhau thông qua các
phương tiện thông tin. Trên thị trường này, nhà kinh doanh chứng khoán ở một địa
điểm, có dự trữ về tiền và chứng khoán để sẵn sàng mua bán không qua quầy, theo
mức giá thỏa thuận với bất kỳ khách hàng nào2.
Ngoài các cách phân loại nêu trên, TTCK cũng có thể được phân loại căn cứ vào
hàng hóa trên thị trường. Theo cách phân loại này, TTCK được chia thành thị trường
cổ phiếu, thị trường trái phiếu, và thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh
(quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai…)




























































Theo Điều 6 khoản 18 Luật chứng khoán 2006, thị trường giao dịch chứng khoán
có thể là địa điểm hay hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao
dịch chứng khoán.
2

Ths Nguyễn Văn Nông, Ths Nguyễn Thị Hồng Liên, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Lao động – Xã
hội 2007, trang 15.

















































trang 6





































 








































 




















































































Trong đó, Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) tổ chức thị trường giao dịch chứng
khoán cho chứng khoán của tổ chức phát hành đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch.
Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) tổ chức thị trường giao dịch chứng
khoán cho chứng khoán của tổ chức phát hành không đủ điều kiện niêm yết tại
SGDCK (Điều 33 Luật Chứng khoán 2006).
Có thể nói, TTCK là thị trường thống nhất của cả hai thị trường: thị trường sơ cấp
và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có những điểm khác
nhau cơ bản về nội dung và mục đích hoạt động, những giữa hai thị trường này luôn
tồn tại mối quan hệ tương tác, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu không có thị trường sơ
cấp, thì không có hàng hóa để lưu thông trên thị trường thứ cấp. Nhưng nếu không có
sự tồn tại của thị trường thứ cấp, thì thị trường sơ cấp cũng khó có thể tồn tại và phát
triển một cách có hiệu quả. TTCK chỉ thật sự ra đời sau khi đã có thị trường thứ cấp.
Tóm lại, cơ cấu TTCK được thể hiện như sơ đồ sau đây:
Thị trường chứng khoán


Thị trường sơ cấp
(Thị trường phát hành
chứng khoán)

Thị trường thứ cấp
(Thị trường giao dịch
chứng khoán)

Thị trường tập trung
( Sở giao dịch chứng
khoán)




















































 






















































Thị trường phi tập trung
(Thị trường OTC)






















Nhà phát hành là những chủ thể có nhu cầu về vốn, và thực hiện việc huy động vốn
thông qua TTCK. Đây là chủ thể tham gia thị trường với vai trò cung cấp các loại
chứng khoán - hàng hóa của TTCK. Nói cách khác, nhà phát hành là những tổ chức có
quyền huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán theo quy định của pháp
luật, và đối tượng này, thông thường, bao gồm những chủ thể như sau:
- Nhà nước: Để huy động lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và
các tổ chức kinh tế nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công
trình công ích, đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hoặc làm công cụ điều
tiết tiền tệ, Chính phủ và chính quyền địa phương có thể phát hành các loại trái phiếu.
- DN: Nhằm đầu tư, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, các DN cũng có thể
phát hành các chứng khoán như: cổ phiếu, trái phiếu, và các loại chứng khoán phái

sinh…Tuy nhiên, tùy theo loại hình, mỗi DN chỉ có quyền phát hành một hoặc một số
loại chứng khoán nhất định theo quy định của pháp luật.
- Các tổ chức tài chính: phát hành các loại chứng khoán nhằm phục vụ cho hoạt
động của mình.















































trang 7





































 






































































 





















































































Chủ thể đầu tư trên TTCK là những tổ chức, cá nhân có tiền nhàn rỗi, và sử dụng

tiền này để thực hiện việc đầu tư trên TTCK bằng cách thực hiện việc mua và bán các
loại chứng khoán đang lưu thông trên thị trường, nhằm mục đích kiếm lợi nhuận. Có
thể nói, NĐT chính là chủ thể thật sự mua và bán chứng khoán trên thị trường. Việc
mua bán này được tiến hành trên thị trường sơ cấp khi NĐT mua chứng khoán lần đầu
từ những nhà phát hành, và trên thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng
khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.
Khác với nhà phát hành, mọi thành phần trong xã hội đều có thể trở thành chủ thể
đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, có thành phần chỉ thỉnh thoảng bỏ vốn đầu tư vào
TTCK, cũng có thành phần việc đầu tư chứng khoán là công việc thường xuyên.
Theo Điều 6 khoản 10 Luật Chứng khoán 2006, NĐT là tổ chức, cá nhân Việt Nam
và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên TTCK. Như vậy, NĐT được chia
thành NĐT là cá nhân và NĐT là tổ chức.
- NĐT là cá nhân: NĐT là cá nhân chính là công chúng đầu tư. Các bộ phận dân cư
trong xã hội là chủ thể có khả năng cung ứng một khối lượng vốn rất lớn cho nền kinh
tế. Từ nguồn thu nhập thường xuyên của mình, công chúng cần phải dành lại một phần
dưới dạng tích lũy nhằm đề phòng rủi ro, hoặc để tiêu dùng trong tương lai… Công
chúng khi có một lượng vốn nhàn rỗi khá lớn, họ sẽ tham gia đầu tư mua chứng khoán
với mục đích kiếm lời, khi cần vốn, họ lại đem bán các loại chứng khoán đã mua.
- NĐT là tổ chức: Là định chế đầu tư, thường xuyên thực hiện việc mua bán chứng
khoán với số lượng lớn. Đây là loại NĐT chuyên nghiệp trên TTCK. Theo quy định
của pháp luật, NĐT chứng khoán chuyên nghiệp là ngân hàng thương mại, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh
chứng khoán3.
Đối với NĐT là tổ chức, ngoài những yêu cầu cần có ở chủ thể NĐT, pháp luật còn
quy định những điều kiện bổ sung mới được phép thực hiện các nghiệp vụ đầu tư, như
phương thức đầu tư trên cơ sở vốn pháp định và phạm vi hoạt động kinh doanh. Sự
chuyên nghiệp của NĐT tổ chức được thể hiện ở một bộ máy quản lý việc đầu tư sao
cho hoạt động này đạt được hiệu quả cao nhất, và với nguồn vốn lớn, chủ thể này sẽ
thực hiện việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, nhằm giảm rủi ro của việc đầu tư đến
mức thấp nhất. Tuy nhiên, tỷ trọng các khoản đầu tư trong các tổ chức này được quy

định rất chặt chẽ bởi các văn bản pháp luật chuyên ngành.



































































































Công ty chứng khoán: Là một loại hình định chế trung gian, được tổ chức dưới
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc công ty cổ phần, có tư cách pháp nhân,
thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Vai trò của công ty chứng khoán thể
hiện qua những điểm chủ yếu như sau:
- Bảo lãnh phát hành đối với thị trường sơ cấp: Là việc công ty chứng khoán cam
kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận
mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số
chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ
chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng4.
3
4



Điều 6 khoản 11 Luật Chứng khoán 2006.
Điều 6 khoản 22 Luật Chứng khoán 2006.















































trang 8





































 








































 




















































































- Môi giới chứng khoán đối với thị trường thứ cấp: Là việc công ty chứng khoán
làm trung gian thực hiện việc mua, bán chứng khoán cho khách hàng5. Đối với thị
trường tập trung, việc mua bán chứng khoán giữa các NĐT phải được thực hiện theo
nguyên tắc trung gian, tức là phải thông qua các trung gian môi giới, cụ thể là các công
ty chứng khoán được SGDCK chấp thuận trở thành thành viên. Do đó, công ty chứng
khoán còn được xem là một loại hình định chế trung gian, tạo điều kiện cho mọi hoạt
động giao dịch chứng khoán trên SGDCK, hay TTGDCK có tính thống nhất cao.
- Thực hiện tư vấn đầu tư chứng khoán: Công ty chứng khoán với sự chuyên môn
hóa trong lĩnh vực chứng khoán, sẽ cung cấp cho NĐT những kết quả phân tích, công
bố các báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, từ đó các NĐT sẽ
có cơ sở để đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn.
Ngân hàng thương mại: Là loại hình ngân hàng có mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận.
Ngân hàng thương mại sử dụng vốn tự có để đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, việc đầu

tư chứng khoán chỉ được thực hiện trong những giới hạn nhất định, nhằm bảo vệ ngân
hàng trước những biến động về giá của chứng khoán. Ngoài ra, ngân hàng thương mại
còn được thực hiện vai trò bảo lãnh phát hành trái phiếu khi được Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước (UBCKNN) chấp thuận, theo điều kiện do Bộ Tài chính quy định.











































































































































































Theo Điều 6 khoản 1 Luật Chứng khoán 2006, chứng khoán là bằng chứng xác
nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ
chức phát hành, bao gồm:
- Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ.
- Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng
tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ sổ chứng khoán.
Trong đó, cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ được gọi là chứng khoán cơ bản, các
chứng khoán còn lại là chứng khoán phái sinh, nghĩa là loại chứng khoán có nguồn
gốc từ chứng khoán cơ bản.
Trước đây, khi khoa học và công nghệ chưa phát triển, có thể nói chứng khoán là

một loại chứng chỉ huy động vốn. Ngày nay, thay vì phát hành chứng khoán dưới dạng
giấy tờ, các nhà phát hành còn có thể bút toán ghi sổ hoặc ghi lại trên hệ thống thiết bị
điện tử. Đây được coi là sự phi vật chất hóa chứng khoán. Tuy nhiên, dù được thể hiện
dưới hình thức nào, chứng khoán vẫn là một công cụ xác nhận quyền sở hữu đối với
một DN (cổ phiếu), hoặc xác nhận quyền chủ nợ đối với Chính phủ, chính quyền địa
phương, một DN (trái phiếu), hoặc là một công cụ khác, phát sinh trên cơ sở các công
cụ đã có, xác nhận quyền đối với quyền sở hữu (chứng khoán phái sinh).
Hay có thể nói, chứng khoán thể hiện cho một số tiền nhất định mà NĐT đã bỏ ra
và thể hiện quyền được hưởng một khoản thu nhập nhất định trong tương lai của NĐT.
Chính vì thế, chứng khoán có thể được mua bán và được lưu thông với tư cách là hàng
hóa trên TTCK.


















 










 


























Tính vô hình: Chứng khoán là một loại tài sản vô hình, tính vô hình được thể hiện
nó chỉ là một “bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích…”. Về bản chất, có thể nói
chứng khoán là một loại giấy tờ có giá, cũng giống như tiền tệ, giá trị của chứng khoán
5



Điều 6 khoản 20 Luật Chứng khoán 2006.













































trang 9






































 








































 




















































































không liên quan đến hình thức biểu hiện bên ngoài của nó. Đối với các loại tài sản hữu
hình, giá trị tùy vào thuộc tính vật chất của nó, còn chứng khoán chỉ thể hiện quyền
đối với một lợi ích nào đó trong tương lai, giúp người sở hữu chứng khoán có thể thực
hiện quyền của mình.
Tính sinh lời: Tính sinh lời thể hiện ở việc người sở hữu chứng khoán sẽ nhận được
một khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán, bên cạnh đó mỗi loại chứng khoán sẽ
mang đến những lợi ích đặc thù, có thể gọi chung là lợi nhuận trong tương lai từ nhà
phát hành. Nói cách khác, NĐT bỏ tiền ra hôm nay đầu tư vào chứng khoán, với hy
vọng trong tương lai thu được những khoản lợi nhuận nhất định. Chính vì tính sinh lời
này mà chứng khoán mới được đầu tư ở cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Tính rủi ro: Đi đôi với tính sinh lời của chứng khoán là tính rủi ro. Rủi ro của
chứng khoán gồm rủi ro hệ thống và rủi ro không có hệ thống.
- Rủi ro hệ thống: Là rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà phát hành. Nguyên
nhân của loại rủi ro này có nguồn gốc từ sự thay đổi của các nhân tố vĩ mô như pháp
luật, lạm phát, lãi suất,...làm ảnh hưởng đến toàn bộ TTCK.
- Rủi ro không có hệ thống: Là rủi ro có thể kiểm soát được. Nguyên nhân xuất
phát của nó là từ yếu tố nội tại của nhà phát hành, hay một ngành sản xuất, và nó chỉ
tác động trong phạm vi giới hạn của nhà phát hành đó, hay của ngành đó. Chẳng hạn
như rủi ro về kinh doanh, rủi ro tín dụng,...
Các chứng khoán khác nhau thì mức độ rủi ro khác nhau. Tuy nhiên, tính rủi ro và
tính sinh lợi của một loại chứng khoán luôn tỷ lệ thuận với nhau, một chứng khoán
mang lại lợi nhuận càng cao, thì càng có nhiều rủi ro và ngược lại.
Tính thanh khoản: Mỗi loại chứng khoán có khả năng thanh khoản khác nhau,
nhưng nhìn chung tất cả các chứng khoán đều có khả năng thanh khoản nhất định. Nhờ

tính thanh khoản, NĐT không buộc phải giữ chứng khoán cho đến khi đáo hạn. Đây là
yếu tố cho thấy tính linh hoạt của chứng khoán. Tính thanh khoản cũng là một trong
những đặc tính hấp dẫn các NĐT khi quyết định đầu tư vào chứng khoán.






















 




























Căn cứ chủ thể phát hành, có thể chia chứng khoán thành các loại như sau:
- Chứng khoán Chính phủ và chính quyền địa phương: Là các chứng khoán do
Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành.
- Chứng khoán DN: Là các chứng khoán do các DN phát hành, thường bao gồm cổ
phiếu và trái phiếu.
- Chứng khoán của ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng: Là các chứng
khoán do các ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng phát hành.

Căn cứ vào tính chất, có thể chia chứng khoán thành hai loại:
- Chứng khoán vốn (cổ phiếu): Là loại chứng khoán xác nhận tư cách chủ sở hữu
đối với một DN. Khi nắm giữ chứng khoán vốn, NĐT sẽ được trả một số tiền căn cứ
vào lợi nhuận thu được của DN phát hành sau khi thanh toán xong những nghĩa vụ.
- Chứng khoán nợ (trái phiếu): Là loại chứng khoán xác nhận tư cách chủ nợ đối
với nhà phát hành. Chứng khoán nợ mang lại cho người nắm giữ quyền được hưởng
một lượng tiền cố định, thông thường được ấn định trước khi phát hành.








































































































































Theo Điều 6 khoản 1 Luật Chứng khoán 2006, cổ phiếu là loại chứng khoán xác
nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ
















































trang 10





































 








































 




















































































chức phát hành. Theo điều 85 khoản 1 Luật Doanh nghiệp 2005, cổ phiếu là chứng chỉ
do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc
một số cổ phần của công ty đó.
Qua hai khái niệm trên, có thể nói cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn, do công
ty cổ phần phát hành, chứng nhận số cổ phần mà cổ đông nắm giữ và quyền được
hưởng một phần lợi nhuận dưới hình thức cổ tức. Thêm vào đó, một quyền và lợi ích
hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu mà người sở hữu TPDN không có là quyền được
tham gia quản lý công ty.
 

 






























Luật Chứng khoán 2006 không phân loại cổ phiếu, nhưng cổ phiếu có thể phân chia
thành hai loại cơ bản tương ứng với Luật Doanh nghiệp 2005, bao gồm cổ phiếu phổ
thông và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu phổ thông: Là loại phổ biến nhất, còn gọi là cổ phiếu thường, cho phép

người nắm giữ được hưởng những quyền lợi thông thường đối với công ty phát hành.
Cổ phiếu ưu đãi: Là loại cổ phiếu cho phép người nắm giữ được hưởng một số
quyền lợi nhất định, hơn người nắm giữ cổ phiếu thường. Cổ phiếu ưu đãi bao gồm
các loại sau:
- Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: Là loại cổ phiếu mà người nắm giữ có số phiếu biểu
quyết nhiều hơn so với cổ phiếu phổ thông.
- Cổ phiếu ưu đãi cổ tức: Là loại cổ phiếu được trả cổ tức với mức cổ tức cao hơn
so với mức cổ tức của cổ phiếu phổ thông.
- Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại: Là loại cổ phiếu được công ty phát hành hoàn lại phần
vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người nắm giữ, theo các điều kiện định trước.

































Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành (Điều 6 khoản 3 Luật Chứng
khoán 2006)
Trái phiếu là một loại chứng khoán nợ, trong đó người đi vay là người phát hành
trái phiếu và người cho vay là người mua trái phiếu. Trái phiếu quy định nghĩa vụ của
người đi vay phải trả cho người nắm giữ trái phiếu một số tiền nhất định trong khoảng
thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi đến hạn. Nói cách khác,
đối với người phát hành, trái phiếu là một trong các phương tiện huy động vốn trung
và dài hạn, có bản chất là khoản vay. Đối với người mua trái phiếu, trái phiếu là một
trong các phương tiện đầu tư để thu lợi, và nó đóng vai trò là bằng chứng để có quyền
yêu cầu người phát hành trả lãi suất và tiền vốn gốc mà người sở hữu trái phiếu (còn
gọi là trái chủ) đã bỏ ra sau một thời gian nhất định.
 

 



































Căn cứ vào chủ thể phát hành, có thể chia trái phiếu thành hai loại:
- Trái phiếu Chính phủ (TPCP): Là loại trái phiếu do Chính phủ phát hành, nhằm
huy động lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và tổ chức kinh tế với
mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho công trình công ích, hoặc làm công cụ
điều tiết tiền tệ. Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng có thể phát hành trái phiếu
công trình. Đây là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho những mục đích
cụ thể, thường là để xây dựng công trình cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng,
hay các chương trình mục tiêu của nhà nước để phát triển y tế, giáo dục. TPCP là một
loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán, và thường có tính thanh khoản cao.















































trang 11






































 








































 




















































































- TPDN: Là loại trái phiếu do DN phát hành để vay vốn dài hạn, nhằm thực hiện
hoạt động đầu tư, hoặc để triển khai các dự án kinh doanh.
Đây là cách phân loại trái phiếu phổ biến nhất hiện nay. Trong phạm vi của Đề tài,
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu và phân tích về trái phiếu doanh nghiệp (TPDN).








































































































































TPDN, như đã trình bày, là một loại chứng khoán nợ do DN phát hành, thể hiện sự
cam kết về nghĩa vụ trả cả gốc và lãi của DN phát hành đối với người sở hữu trái phiếu
vào những thời điểm nhất định.









































































Chứng khoán nói chung và TPDN nói riêng có nhiều dạng hình thức để thể hiện,
như chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. Tuy nhiên, với hình thức thể hiện
nào, thì một TPDN đều có các nội dung chính như sau6:
- Mệnh giá trái phiếu: Là giá trị danh nghĩa được ghi trên tờ trái phiếu. Mệnh giá
TPDN đại diện cho số vốn gốc được DN phát hành hoàn trả cho trái chủ tại thời điểm
đáo hạn, và cũng là căn cứ để xác định số tiền lãi mà người phát hành phải trả. Theo
Luật chứng khoán 2006, mệnh giá của trái phiếu được ấn định là một trăm nghìn đồng
và các mệnh giá khác là bội số của một trăm nghìn đồng Việt Nam. Các loại mệnh giá
của TPDN do DN quyết định cho từng đợt phát hành
- Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất thường được ghi trên trái phiếu hoặc DN phát hành
công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Căn cứ vào mức độ uy tín của DN, hiệu quả
của dự án đầu tư và tình hình thị trường tài chính - tiền tệ, DN phát hành có thể xác
định lãi suất trái phiếu cho từng đợt phát hành.
Lãi suất TPDN có thể xác định cố định cho cả kỳ hạn hoặc thả nổi trên thị trường.
Lãi suất thường được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá của trái phiếu.
Trường hợp phát hành lãi suất thả nổi, DN phát hành công bố mức lãi suất tham chiếu
để làm căn cứ xác định lãi suất phải trả cho người sở hữu trái phiếu7.
- Thời hạn của trái phiếu: Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày nhà phát
hành hoàn trả tiền vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc trái phiếu được thanh toán
lần cuối được gọi là ngày đáo hạn của trái phiếu.
- Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian nhà phát hành trả lãi cho trái chủ. Ở nhiều nước,
lãi suất TPDN được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi TPDN thường được
thực hiện mỗi năm một hay hai lần. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, có ba
phương thức thanh toán lãi TPDN, DN quyết định phương thức thanh toán lãi tùy theo
tình hình hoạt động của mình, bao gồm thanh toán lãi định kỳ, thanh toán lãi ngay khi
phát hành, và thanh toán một lần cùng với tiền gốc khi đáo hạn8.
- Giá phát hành: Là giá bán ra của TPDN vào thời điểm phát hành. Tùy theo tình

hình của thị trường và của nhà phát hành để xác định giá phát hành một cách thích
hợp. Có thể phân biệt ba trường hợp: Giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá); Giá
phát hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu); Giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng).
Nhưng dù TPDN bán ra có ngang giá, theo giá chiết khấu hay theo giá gia tăng thì
lợi tức luôn luôn xác định theo mệnh giá của TPDN và khi đáo hạn, trái chủ sẽ được
thanh toán theo mệnh giá của TPDN.
6

TS Bạch Đức Hiển, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Tài Chính, Hà Nội 2008, trang 68.
Điều 9 khoản 2 Nghị định số 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
8
Điều 9 khoản 3 Nghị định số 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
7

















































trang 12





































 








































 


















 













 



























































































































Là một loại chứng khoán, TPDN có những đặc điểm của chứng khoán nói chung
như sau:
- Tính vô hình: TPDN là một bằng chứng xác nhận quyền của người nắm giữ, nên
người này sẽ không thể thực hiện quyền của mình, khai thác công dụng của trái phiếu
khi tổ chức phát hành mất khả năng thanh toán. Nói cách khác, TPDN chỉ có giá trị khi
DN phát hành có khả năng thanh toán.
- Tính sinh lời: Chứng khoán nói chung đều có tính sinh lời, nhưng lợi ích NĐT có
được khi đầu tư vào các chứng khoán khác nhau sẽ khác nhau. Đối với TPDN - một
loại chứng khoán xác nhận quyền chủ nợ của NĐT - khi mua TPDN, lợi nhuận của
NĐT bao gồm lãi suất TPDN và sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán TPDN.
- Tính rủi ro: Rủi ro chính của TPDN là sự ảnh hưởng nặng nề khi lãi suất thị

trường tăng cao. Khi lãi suất thị trường tăng cao hơn lãi suất danh nghĩa của TPDN,
NĐT chỉ được hưởng một lãi suất hiện hành ở mức thấp và có xu hướng bán trái
phiếu, để đầu tư vào hình thức khác có mức lãi suất cao hơn, nghĩa là giá TPDN hiện
hành sẽ giảm xuống do cung lớn hơn cầu. Khi đó, NĐT chỉ có thể bán TPDN với mức
giá thấp hơn mức giá mua, tức là sẽ xảy ra tình trạng lỗ về vốn đối với NĐT.
Bên cạnh những đặc điểm chung, TPDN còn có những đặc điểm riêng như sau:
- TPDN là một loại chứng khoán nợ do DN phát hành, nên nó thể hiện quan hệ chủ
nợ và con nợ giữa người mua TPDN và DN phát hành. Nghĩa là, khi đáo hạn, với tư
cách là chủ nợ của DN phát hành trái phiếu đó, người mua có quyền đòi các khoản
thanh toán theo cam kết của DN.
- TPDN thường có lãi suất cố định (trừ trường hợp trái phiếu có lãi suất thả nổi và
trái phiếu có lãi suất bằng không9). Lãi suất thường được ghi cụ thể trên trái phiếu,
thường được xác định theo tỷ lệ phần trăm với mệnh giá của trái phiếu. Trái chủ sẽ
được trả lãi định kỳ, theo những cam kết mà DN đã đưa ra khi phát hành trái phiếu,
không phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của DN.
- Để thu hút NĐT, từ đó huy động được một khối lượng vốn lớn, các DN thường
phát hành TPDN với nhiều hình thức bảo đảm, hoặc phát hành TPDN với những điều
kiện cụ thể kèm theo như TPDN bảo đảm bằng tài sản, TPDN có thể chuyển đổi,...
Như vậy, với những đặc điểm vừa nêu, TPDN là một loại chứng khoán có mức độ
rủi ro tương đối thấp, đem lại khoản thu nhập cố định cho người nắm giữ, và là sự lựa
chọn phù hợp với những NĐT thích an toàn.

















 

































































Như đã trình bày, mặc dù TPDN là một phương thức đầu tư tương đối an toàn,
nhưng thực tế, NĐT vẫn có thể gặp những rủi ro nhất định do yếu tố nội tại của DN,
và những rủi ro này làm cho mục đích thu lợi của NĐT không thể đạt được. Để hạn
chế rủi ro cho NĐT, đặc biệt là rủi ro khi DN phát hành mất khả năng thanh toán (rủi
ro tín dụng), cần có một tổ chức đứng ra cung cấp thông tin và đánh giá mức độ rủi ro
đối với trái phiếu của DN. Việc đánh giá mức độ rủi ro tín dụng được thể hiện bằng hệ
số tín nhiệm. Hệ số tín nhiệm là thể hiện sự đánh giá về năng lực thanh toán tiền lãi và
vốn vay theo kỳ hạn đã cam kết của DN phát hành trái phiếu.
9

Là loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết
khấu) và được hoàn trả số tiền bằng mệnh giá trái phiếu khi đáo hạn. (Ts Bạch Đức Hiển, Giáo trình thị trường
chứng khoán, NXB Tài chính, Hà nội, 2008, trang 10).

















































trang 13





































 








































 




















































































Hệ số tín nhiệm là hệ số mà các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm quốc tế xác định
để đánh giá mức độ tin cậy của các DN về mức độ rủi ro đầu tư và khả năng hoàn trả
các khoản vay (gọi tắt là hệ số tín nhiệm DN). Hệ số này được dùng làm căn cứ để xác
định chi phí đối với việc huy động các khoản vay10. Nói cách khác, hệ số tín nhiệm
DN là một hệ số phản ánh tình hình tài chính của DN phát hành, bao gồm các chỉ tiêu
tài chính phản ánh khả năng thanh toán của DN, cơ cấu vốn và khả năng sinh lời. Bên
cạnh đó, còn có các chỉ tiêu phi tài chính như năng lực, trình độ, kinh nghiệm quản
lý,…cũng được phản ánh qua hệ số tín nhiệm DN. Các chỉ tiêu này được chấm điểm
trên cơ sở so sánh với các chỉ tiêu trung bình ngành. Từ đó, các chỉ tiêu được tổng hợp
và xếp hạng từ A đến hạng C. Trong đó, DN xếp hạng A là có khả năng chắc chắn

hoàn trả tiền lãi và gốc, hạng B là DN có đủ năng lực chi trả nhưng có thể bị ảnh
hưởng của điều kiện kinh tế bất lợi, và hạng C là DN có khả năng hoàn trả rất kém,
thậm chí có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Bên cạnh đó, người ta còn sử dụng
thêm dấu (+) và dấu (-) để thể hiện mức độ đánh giá chính xác hơn.
Đối với DN phát hành, hệ số tín nhiệm DN tạo lòng tin của NĐT đối với DN và
TPDN, tạo điều kiện cho việc huy động vốn một cách thuận lợi và với chi phí vốn thấp
hơn. Đối với NĐT, hệ số tín nhiệm cung cấp những thông tin cần thiết về tình trạng
của DN phát hành, giúp NĐT lựa chọn được những TPDN thích hợp và mang tính an
toàn cao. Hơn nữa, việc đánh giá hệ số tín nhiệm còn liên quan chặt chẽ đến uy tín của
DN, thúc đẩy DN thực hiện đúng những cam kết thanh toán đối với NĐT, từ đó quyền
và lợi ích của các NĐT cũng được bảo đảm.
Tại một số nước có thị trường phát triển, việc đánh giá hệ số tín nhiệm đã trở thành
vấn đề pháp lý có tính chất bắt buộc đối với việc phát hành trái phiếu. Một số tổ chức
định mức tín nhiệm quốc tế có uy tín có thể định mức hệ số tín nhiệm của TPDN, và
cả TPCP. Khi đó, các thông tin liên quan đến hệ số tín nhiệm không chỉ được cung cấp
ở phạm vi quốc gia, mà còn trong khu vực hay thế giới. Hiện nay, hệ số tín nhiệm
ngày càng có vai trò quan trọng trong việc phát triển thị trường trái phiếu của nhiều
nước và thị trường trái phiếu quốc tế.


































































Để bảo đảm lượng vốn huy động, tăng tính hấp dẫn của đợt phát hành, các DN
thường phát hành nhiều loại TPDN khác nhau. Chính vì thế, TPDN rất đa dạng, phong
phú, có thể đáp ứng mọi nhu cầu của các NĐT. Một số loại TPDN chủ yếu:
Căn cứ vào mức độ bảo đảm thanh toán của DN phát hành, có thể chia TPDN
thành các loại (Điều 2 khoản 4, 5 Nghị định số 52/2006/NĐ-CP về phát hành TPDN):
- TPDN có bảo đảm: Là loại TPDN được bảo đảm thanh toán toàn bộ hoặc một
phần gốc, lãi khi đến hạn bằng tài sản của tổ chức phát hành hoặc bên thứ ba hoặc bảo
lãnh thanh toán của tổ chức tài chính, tín dụng. Người nắm giữ trái phiếu loại này

được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp DN phát hành mất khả năng thanh
toán, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể của DN phát hành, hay đối với
một bên bảo lãnh thanh toán cụ thể.
- TPDN không có bảo đảm: Là loại TPDN không được bảo đảm thanh toán toàn bộ
hoặc một phần gốc, lãi khi đến hạn bằng tài sản của tổ chức phát hành hoặc bên thứ ba
hoặc bảo lãnh thanh toán của tổ chức tài chính, tín dụng. Nói cách khác, đây là loại
TPDN chỉ được bảo đảm bằng chính uy tín của DN phát hành. Khi DN phá sản, người
nắm giữ trái phiếu loại này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm.
10



Điều 2 khoản 7 Nghị định số 53/2009/NĐ-CP về phát hành trái phiếu quốc tế.













































trang 14






































 








































 




















































































Căn cứ vào tính chất có thể chuyển đổi, có thể chia TPDN thành các loại:
- TPDN chuyển đổi: Là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông
của cùng một tổ chức phát hành theo các điều kiện đã được xác định trong phương án
phát hành11. Các điều kiện chuyển đổi bao gồm tỷ lệ chuyển đổi (thể hiện số lượng cổ
phiếu phổ thông mà trái chủ nhận được khi chuyển đổi một TPDN) và kỳ hạn chuyển
đổi (có loại được chuyển đổi bất kỳ lúc nào hoặc chuyển đổi tại một thời điểm cố định)
được DN ấn định ngay khi phát hành trái phiếu.
- TPDN không chuyển đổi: Là loại trái phiếu không có khả năng chuyển đổi thành
cổ phiếu. Khi sở hữu loại trái phiếu này, trái chủ không có quyền chuyển đổi tư cách
từ người chủ nợ thành người chủ sở hữu DN.
Ngoài ra, các DN có thể phát hành các loại trái phiếu với những điều kiện kèm theo
nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào đó. Cụ thể như sau:
- TPDN có quyền mua cổ phiếu: Là loại TPDN có kèm theo phiếu cho trái chủ
quyền được mua một lượng cổ phiếu nhất định của DN phát hành theo các điều kiện
xác định. Khi lưu hành trên thị trường, quyền mua cổ phiếu có thể được giao dịch tách
rời với TPDN như là một loại chứng khoán, và được gọi là chứng quyền.
- TPDN có thể mua lại: Là loại trái phiếu mà khi phát hành có quy định cho phép
DN phát hành mua lại trái phiếu trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Loại TPDN này
có lợi cho DN phát hành, khi cho phép DN chủ động giảm bớt các khoản nợ. Đối với
NĐT, loại trái phiếu này bất lợi hơn các loại khác, nên lãi suất của nó thường cao. Hơn
nữa, quyền mua lại của DN phát hành thường chỉ được thực hiện sau một khoảng thời
gian nhất định, nhằm bảo vệ quyền lợi của các NĐT.
- TPDN có thể bán lại: Là loại trái phiếu cho phép NĐT bán lại trái phiếu cho DN
phát hành trước khi đáo hạn. Khác với TPDN có thể mua lại, loại trái phiếu này đặt

DN vào thế bị động, nên lãi suất của nó thường thấp hơn các loại trái phiếu khác.
















 





































































TPDN và cổ phiếu đều là bằng chứng xác nhận một người đã bỏ tiền ra đầu tư dưới
hình thức góp vốn vào công ty cổ phần hay hình thức cho vay trực tiếp và cũng là bằng
chứng đưa lại cho người nắm giữ những quyền nhất định. Tuy nhiên, TPDN và cổ
phiếu có những tính chất, đặc trưng riêng mà các NĐT, cũng như các chủ thể khác trên
thị trường cần phải phân biệt rõ.

Về loại hình DN được quyền phát hành:
- Các loại hình DN được phát hành TPDN bao gồm: công ty cổ phần, công ty nhà
nước chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, và các DN
có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đối với cổ phiếu, chỉ có công ty cổ phần mới được quyền phát hành cổ phiếu.
Về tính chất và lãi suất:
- TPDN là loại chứng khoán nợ, người mua trái phiếu có tư cách là chủ nợ của DN
phát hành. TPDN mang lại cho trái chủ quyền hưởng một lượng tiền cố định, được ấn
định trước, không phụ thuộc vào lợi nhuận của DN phát hành (lãi suất cố định).
- Cổ phiếu là loại chứng khoán vốn, người mua cổ phiếu có tư cách là một trong
những người chủ sở hữu DN. Người này sẽ nhận được một số tiền căn cứ vào lợi
nhuận thu được của DN phát hành, tương ứng với phần vốn góp mà người này đã đầu
tư ban đầu sau khi DN đã thực hiện xong nghĩa vụ.
Về thời hạn:
11



Điều 2 khoản 2 Nghị định số 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.














































trang 15





































 








































 




















































































- TPDN luôn có thời hạn đáo hạn. Khi đáo hạn, DN phải hoàn trả khoản tiền gốc
ban đầu cho người nắm giữ trái phiếu.
- Cổ phiếu không cho NĐT sự hứa hẹn hoàn trả lại số vốn đầu tư như trái phiếu.
Do đó, cổ phiếu còn được xem là giấy chứng nhận góp vốn không có kỳ hạn.
Về quyền đối với các quyết định của DN phát hành:
- TPDN không đem lại cho trái chủ quyền sở hữu DN phát hành, nên người này
không có quyền tham gia vào các quyết định của DN, cũng như không có quyền bầu
cử, ứng cử vào các chức vụ trong DN.
- Là người chủ sở hữu một phần DN, người mua cổ phiếu có quyền quyết định các
vấn đề của DN tương ứng với tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ, kể cả quyền bầu cử và ứng cử.
Về tính rủi ro: Với mức thu nhập cố định, TPDN thường được đánh giá là loại
chứng khoán có mức độ rủi ro thấp hơn so với cổ phiếu. Khi mua cổ phiếu, bên cạnh
việc hưởng cổ tức từ DN, NĐT phải chấp nhận chia sẻ những rủi ro trong hoạt động
kinh doanh với các cổ đông khác khi DN thua lỗ.
Về thứ tự ưu tiên thanh toán: Khi DN phá sản, pháp luật quy định rằng trái chủ
được ưu tiên thanh toán trước, phần tài sản còn lại mới chia cho các cổ đông của DN.
Tóm lại, khi đầu tư vào TPDN và cổ phiếu, NĐT có thể có được những ưu điểm và
nhược điểm nhất định do đặc trưng riêng của mỗi loại chứng khoán mang lại. Do đó,

NĐT cần dựa vào khả năng tài chính của mình, cũng như các điều kiện đầu tư khác và
đánh giá rõ những ưu điểm của từng loại TPDN và cổ phiếu, để đưa ra quyết định đầu
tư đúng đắn và phù hợp.











































































































































































 


































Nhu cầu về vốn của các DN được đánh giá là nhu cầu bức xúc nhất hiện nay, nhằm
mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư cho các dự án đầu tư phát triển, nâng
cao năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa và cả trên thị trường quốc tế. Cùng với
sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính, các DN ngày càng có nhiều cơ hội
tiếp cận với những nguồn vốn dưới nhiều hình thức khác nhau, nhu cầu về vốn của các
DN cơ bản được đáp ứng trên cả phương diện khối lượng, thời hạn cũng như những
yêu cầu khác phù hợp với đặc thù của mỗi DN. Hiện nay, ba hình thức chủ yếu để DN

huy động vốn là vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu và phát hành TPDN.
Trong đó, hình thức vay ngân hàng là hình thức huy động vốn xuất hiện sớm nhất.
Để vay được nguồn vốn từ ngân hàng, DN cần phải có tài sản thế chấp, phải xây dựng
dự án khả thi trong việc sử dụng nguồn vốn, đồng thời DN phải có kế hoạch trả lãi và
vốn gốc định kỳ theo hướng dư nợ giảm dần. Việc DN phải phụ thuộc vào ngân hàng,
và chịu sự chi phối, giám sát của ngân hàng trong việc sử dụng nguồn vốn vay là hoàn
toàn không thể tránh khỏi. Thêm vào đó, nguồn vốn cung ứng tín dụng từ các ngân
hàng (thường là ngắn hạn) không phải lúc nào cũng đủ để phục vụ triển khai các dự án
của DN, và tỷ lệ cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng phải đảm bảo ở mức rủi
ro thấp cho thị trường tài chính. Chính vì thế, các ngân hàng luôn thận trọng trong việc
xét duyệt các khoản cho vay trung và dài hạn theo hướng nâng cao chất lượng.
Đối với hình thức phát hành cổ phiếu, như đã trình bày, đây không phải là hình
thức huy động vốn mà mọi loại hình DN đều có thể sử dụng. Khi phát hành cổ phiếu,
DN thường bị bất lợi là quyền sở hữu bị biến động, các cổ đông bị mất quyền kiểm
soát, nghĩa là DN phải đứng trước áp lực về cơ cấu cổ đông, đặc biệt là cổ đông chiến

















































trang 16





































 








































 




















































































lược và đối tác nước ngoài. Hơn nữa, việc phát hành cổ phiếu có thể đưa DN đứng
trước nguy cơ bị ảnh hưởng bởi các hoạt động thôn tín hay sáp nhập DN.
Khi phát hành TPDN, dù bản chất vẫn là hoạt động vay vốn, nhưng DN có quyền
chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn, không đứng trước những nguy cơ về cơ
cấu cổ đông, về thôn tín hay sáp nhập DN như trường hợp phát hành cổ phiếu. Thêm
vào đó, chi phí vốn của DN khi phát hành trái phiếu luôn thấp hơn chi phí vốn khi phát
hành cổ phiếu do DN chỉ có nghĩa vụ thanh toán lãi suất hàng năm với mức đã định
trước cho các trái chủ, kể cả khi DN kinh doanh tốt (trừ trường hợp phát hành TPDN
với lãi suất thả nổi). Có thể nói, huy động vốn bằng việc phát hành TPDN là hình thức
đem lại cho DN phát hành những lợi thế nhất định so với hai hình thức nói trên.
Theo quy định của pháp luật, phát hành TPDN là việc bán trái phiếu lần đầu cho
các đối tượng mua, và chủ thể của hoạt động này là những loại hình DN mà pháp luật
cho quyền thực hiện phát hành trái phiếu. Trên thị trường, chủ thể phát hành TPDN là
những tổ chức có nhu cầu về vốn, thường là vốn trung và dài hạn, thực hiện nhằm huy
động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Tiền thu được từ việc phát hành trái
phiếu, DN được sử dụng cho các mục đích như thực hiện các dự án đầu tư, cơ cấu lại
các khoản vay trung và dài hạn, hoặc tăng quy mô vốn hoạt động.
Khi thực hiện phát hành trái phiếu, DN cần xem xét tính chất cũng như đặc điểm
của các loại TPDN, cần thực hiện việc phân tích sự phát triển của thị trường TPDN và

TTCK nói chung. Mỗi loại TPDN có những đặc trưng khác nhau về khả năng sinh lợi,
mức độ rủi ro và mức độ thanh khoản. Sự phát triển của thị trường trong từng thời
điểm khác nhau có thể đưa đến những kết quả khác nhau của đợt phát hành. Chính vì
thế, điều quan trọng nhất của DN là cần phải lựa chọn phát hành loại trái phiếu thích
hợp, đáp ứng được thị hiếu của các NĐT, đồng thời việc phát hành phải được thực
hiện đúng thời điểm. Có như thế, việc phát hành trái phiếu của DN mới thu hút được
sự tham gia đông đảo của các NĐT, bảo đảm cho đợt phát hành thành công, thực hiện
được mục tiêu huy động vốn.










































































 












Cùng với sự gia tăng GDP ở mỗi quốc gia, nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của công
chúng cung cấp cho nền kinh tế ngày càng gia tăng và trở nên quan trọng. Bên cạnh
đó, nguồn vốn trong hiện tại của dân chúng sẽ có sự chênh lệch về giá trị so với nguồn
vốn trong tương lai, do những biến động về giá cả, lạm phát…Nói cách khác, theo góc
độ tài chính, tiền tệ chỉ có giá trị theo thời gian, nghĩa là tiền có chi phí cơ hội, chi phí
cơ hội là giá trị mất đi do không sử dụng vào mục đích sinh lợi. Do đó, để bảo tồn giá
trị của nguồn vốn, công chúng sẽ lựa chọn một hình thức đầu tư thích hợp. Lúc đầu,
hình thức đầu tư của công chúng chỉ là việc người này tự đứng ra cho vay, hoặc thông
qua tổ chức tài chính trung gian (gửi ngân hàng). Khi đầu tư thông qua các ngân hàng,
người đầu tư được hưởng lãi suất cố định từ ngân hàng; tuy nhiên, người này không
thể biết được ngân hàng sẽ cho DN nào vay, sẽ đầu tư vào lĩnh vực nào, không thể biết
chính xác nguồn vốn của mình đang ở đâu. Hơn nữa, khi thông qua một định chế tài
chính trung gian, cả người đi vay và người cho vay (người gửi tiết kiệm) sẽ phải chịu
một khoản phí tổn nhất định, thể hiện bằng sự chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay
và lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Khi đó, NĐT không thể thu được lợi nhuận tối đa như khi
cho vay trực tiếp, và DN đi vay thì phải trả lãi suất cho ngân hàng cao hơn.
Ngày nay, NĐT có thể lựa chọn thêm những hình thức đầu tư mới, như đầu tư vào
thị trường bất động sản, hoặc đầu tư vào TTCK,…tùy thuộc vào sự ổn định của nền
















































trang 17





































 








































 




















































































kinh tế, cũng như chính sách pháp luật về thuế, tài chính của Nhà nước. Khi nền kinh
tế phát triển tốt, các NĐT thường lựa chọn hình thức đầu tư vào TTCK để được hưởng
lợi do sự phát triển đó, vì TTCK phản ánh được sự tăng trưởng kinh tế. Khi đầu tư trên
TTCK, NĐT biết rõ mình đầu tư vào đâu, và tiền của mình được sử dụng như thế nào,
quan trọng nhất là NĐT có toàn quyền quyết định trong việc đầu tư hay không, điều
này hoàn toàn khác với việc đầu tư thông qua các ngân hàng. Hơn nữa, sự tham gia
quản lý của Nhà nước đã tạo ra một cơ chế nhằm bảo vệ TTCK hoạt động lành mạnh,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT.
Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa đưa ra khái niệm về hoạt động đầu tư chứng
khoán. Theo cách hiểu thông thường, khi nói đến đầu tư vào một việc gì đó, người ta
hiểu rằng đó chính là việc sử dụng một khoản tiền tích lũy vào một việc nhất định,
nhằm thu được một khoản tiền lớn hơn. Theo từ điển tiếng Việt, đầu tư là làm cho
nhân lực, tài lực phát huy sức mạnh tiềm ẩn của nó trong một hoạt động kinh doanh,
hoặc hoạt động phát triển công việc. Còn theo từ điển Oxford English, đầu tư là bỏ tiền
(vốn) vào một hạng mục nhằm mục đích thu lợi. Như vậy, có thể hiểu rằng, đầu tư

chứng khoán là việc sử dụng tiền vào việc mua bán những hàng hóa trên TTCK nhằm
mục đích thu lợi. Mục tiêu của hoạt động đầu tư chứng khoán là tạo ra một lượng tiền
lớn hơn lượng tiền đã bỏ ra, và đạt giá trị xã hội khác.
Khi đầu tư vào TTCK, NĐT cũng cần nắm được những đặc trưng của từng loại
chứng khoán, để có quyết định đầu tư đúng đắn, đáp ứng các yêu cầu đề ra về thu nhập
và mức độ mạo hiểm. TPDN, như đã trình bày, luôn đem lại cho trái chủ khoản thu
nhập cố định, và không phải gánh chịu những rủi ro DN gặp phải như cổ đông. Hiện
nay, TPDN đã xuất hiện với nhiều chủng loại, đa dạng về tính chất, về thời hạn, về lãi
suất,…nhằm để thu hút NĐT. Mỗi loại TPDN lại đem đến sự an toàn và rủi ro khác
nhau, đòi hỏi NĐT phải thật sự nắm rõ loại trái phiếu và những quyền đi kèm theo trái
phiếu này, để có được một quyết định đúng đắn. Nói cách khác, khi đầu tư vào TTCK
nói chung và TPDN nói riêng, đỏi hỏi NĐT phải có những khả năng cùng kiến thức
chuyên môn nhất định, để có thể đánh giá được những thông tin mà DN công bố khi
thực hiện đợt phát hành, trên cơ sở đó mới có thể đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
Tóm lại, thị trường TPDN, đối với DN,là nơi có thể tập hợp được các nguồn vốn
nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư và DN có toàn quyền sử dụng cho các mục tiêu phát
triển trung và dài hạn; đối với NĐT, là nơi có thể sử dụng khoản tiền tích lũy một cách
an toàn và linh hoạt, và nhằm đạt được mục đích là được một khoản tiền lớn hơn. Có
thể nói, thị trường TPDN ra đời và phát triển là một tất yếu của nền kinh tế thị trường,
và nó đóng một vai trò không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế của mọi quốc
gia, cũng như trong hệ thống kinh tế - tài chính toàn cầu. Đối với Việt Nam, việc phát
triển thị trường TPDN là điều kiện, đồng thời cũng là tiền đề để hội nhập kinh tế quốc
tế trong lĩnh vực tài chính, tạo tiền đề quan trọng đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản là
một nước công nghiệp như Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra.

























































































TTCK với những vai trò và chức năng của mình, khi được tổ chức tốt, sẽ đem đến
những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Tuy nhiên,
TTCK là một thị trường hàng hóa đặc biệt, có sự tham gia của nhiều chủ thể khác
nhau, đại diện cho những quyền lợi khác nhau. Đặc tính này khiến cho TTCK cũng là
môi trường dễ xảy ra và luôn có sự tồn tại những tiêu cực nhất định như thông tin sai,
thao túng giá,…gây thiệt hại cho các chủ thể trên thị trường, đồng thời gây ra những
















































trang 18





































 








































 




















































































tác động không nhỏ đến sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Để dung hòa lợi ích của
các chủ thể, cũng như để hạn chế tiêu cực, bảo đảm cho thị trường hoạt động đúng
định hướng và đạt mục tiêu, thì cần có sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường. Đòi
hỏi này được đặt ra với tất cả các Nhà nước bất kể khác nhau về hình thức chính thể,
trình độ phát triển kinh tế - xã hội,…của mỗi quốc gia. Ngoài ra, việc quản lý của Nhà
nước đối với TTCK còn xuất phát từ kinh nghiệm phát triển TTCK ở các nước trên thế
giới. Bài học từ TTCK trên thế giới cho thấy, TTCK phải trả giá đắt khi nó phát triển
một cách tự phát, thiếu vắng sự bảo đảm bằng các biện pháp quản lý của Nhà nước.
Ở Việt Nam, Nhà nước có đầy đủ các điều kiện pháp lý và điều kiện thực tế để tiến

hành công việc này, bởi lẽ quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK cũng là một
trong những lĩnh vực của quản lý Nhà nước.
Quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK nói chung là quá trình mà các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền bằng các cách thức, công cụ, phương tiện khác nhau tác
động đến hoạt động của các chủ thể trên thị trường, nhằm dung hòa lợi ích của các chủ
thể, trên cơ sở đó tạo đà phát triển cho TTCK. Các công cụ và phương tiện mà Nhà
nước thường sử dụng trong quá trình tác động này là công cụ kỹ thuật, công cụ kinh tế,
kế hoạch, chính sách và pháp luật,…trong đó, pháp luật có vị trí quan trọng. Thông
qua pháp luật về chứng khoán và TTCK, Nhà nước xác định rõ mục đích, nguyên tắc
và nội dung quản lý chứng khoán. Mặt khác, bằng pháp luật Nhà nước thiết lập một hệ
thống cơ quan quản lý về chứng khoán từ trung ương đến địa phương, quy định cơ
cấu, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như xác định hình thức và phương pháp
hoạt động của các cơ quan này để có thể giúp Nhà nước tiến hành được hoạt động
quản lý về chứng khoán trên thực tế. Có thể nói, luật pháp là một công cụ hiệu quả để
Nhà nước điều chỉnh hoạt động chứng khoán và TTCK nói chung, tạo môi trường
pháp lý, kinh tế tài chính phù hợp để thị trường phát triển.
Tóm lại, thực tiễn đã và đang chứng minh quản lý Nhà nước về TTCK nói chung là
một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển ổn định và bền vững, đồng
thời là cơ chế bảo vệ thị trường hoạt động lành mạnh, bảo vệ quyền lợi chính đáng của
các chủ thể, bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế, góp phần thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

















































trang 19





































×