Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại TRANH CHẤP HIỆN NAY GIỮA VIỆT NAM và TRUNG QUỐC ở BIỂN ĐÔNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT THEO LUẬT QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 2009 - 2013

Đề tài:
TRANH CHẤP HIỆN NAY GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG
QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG - HƯỚNG GIẢI QUYẾT THEO
LUẬT QUỐC TẾ

Giáo Viên Hướng Dẫn:
Ths. Thạch Huôn
Bộ môn Luật Thương mại

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Nhã Phi
MSSV : 5095451
LỚP : LK0965A3

Cần Thơ 4/2013


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông - hướng giải quyết theo luật quốc tế

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………....
Cần Thơ, ngày tháng

GVHD: ThS. Thạch Huôn

năm 2013

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮC

Từ viết
tắt
ASEAN

Tên tiếng Anh
Association of Southeast Asia
Nations

Tên tiếng việt
- Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á

DOC

- Tuyên bố về ứng xử của các
bên ở Biển Đông

COC

- Quy tắc ứng xử trên Biển Đông

UNCLOS United Nations Convention on - Công ước của Liên Hiệp Quốc
the law of the sea
về luật biển 1982
- Uỷ ban về ranh giới thềm lục
địa

CLCS

OLA

Office of the United Nations
law

- Văn phòng luật pháp của Ban
thư ký Liên Hiệp Quốc

ITLOS

International Court of Law of
the Sea

- Tòa án quốc tế về luật biển

PRC

People's Republic of China

- Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

ROC

GVHD: ThS. Thạch Huôn

- Cộng hòa Trung Hoa

SVTH: Nguyễn Nhã Phi



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỂN ĐÔNG, VẤN ĐỀ VỀ
PHÂN ĐỊNH BIỂN .......................................................................................... 3
1.1. Giới thiệu chung về Biển Đông ................................................................ 3
1.2. Các khái niệm liên quan đến vùng biển .................................................. 4
1.2.1. Các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ...................................... 4
1.2.1.1. Nội thủy .............................................................................................. 4
1.2.1.2. Lãnh hải ............................................................................................. 5
1.2.2. Các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ...................................... 5
1.2.2.1. Tiếp giáp lãnh hải .............................................................................. 5
1.2.2.2. Vùng đặc quyền kinh tế ...................................................................... 6
1.2.2.3. Thềm lục địa ....................................................................................... 6
1.2.3. Các vùng biển nằm ngoài chủ quyền và quyền chủ quyền .................. 7
1.2.3.1. Biển cả ................................................................................................ 7
1.2.3.2. Vùng ................................................................................................... 7
1.3 Vấn đề về phân định biển .......................................................................... 8
1.3.1 Các nguyên tắc phân định biển .............................................................. 8
1.3.2 Phương pháp phân định Biển ............................................................... 9
1.4 Khái quát chung về tranh chấp ............................................................. 10
1.4.1 Khái niệm tranh chấp ........................................................................... 10
1.4.2 Phân loại tranh chấp............................................................................. 12
1.4.3 Khái quát chung về tranh chấp Biển Đông ......................................... 13
1.4.3.1 Chủ thể tranh chấp ............................................................................ 13
1.4.3.2 Đối tượng nội dung tranh chấp ......................................................... 14
1.4.3.3 Nguyên nhân dẫn đến các cuộc tranh chấp ...................................... 14
CHƯƠNG 2: VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN CÁC TRANH CHẤP DIỄN
RA TRÊN BIỂN ĐÔNG HIỆN NAY
2.1 Các giai đoạn tranh chấp ......................................................................... 18
2.1.1 Giai đoạn trước 1975 ............................................................................ 18

2.1.2 Giai đoạn từ 1975 đến 2009 .................................................................. 19


2.1.3 Giai đoạn 2009 đến nay ........................................................................ 20
2.2 Lập luận của Việt Nam và Trung Quốc đối với hai quần đảo hoàng sa
và trường sa .................................................................................................... 25
2.2.1 Lập luận của Việt Nam ......................................................................... 26
2.2.1.1 Về mặt lịch sử .................................................................................... 26
2.2.1.2 Về mặt pháp lý ................................................................................... 29
2.2.2 Lập luận của Trung Quốc .................................................................... 37
2.2.2.1 Yêu sách lịch sử ................................................................................. 37
2.2.2.2 Yêu sách đường chín đoạn ................................................................ 40
2.3 Tác động của những tranh chấp ở Biển Đông diễn ra trong thời gian
gần đây ............................................................................................................ 43
2.3.1 Đối với mối quan hệ hai bên ................................................................. 43
2.3.2 Đối với an ninh và thịnh vượng khu vực ............................................. 46
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CÓ THỂ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG
3.1. Các biện pháp có thể giải quyết tranh chấp cụ thể .............................. 48
3.1.1. Bằng Tòa án công lý quốc tế ............................................................... 48
3.1.2. Giải quyết bằng Tòa án quốc tế về Luật biển ..................................... 50
3.1.3. Giải quyết thông qua đàm phán .......................................................... 52
3.1.4. Giải quyết bằng trọng tài ..................................................................... 56
3.1.5. Giải quyết bằng hòa giải ...................................................................... 57
3.2. Một số hạn chế và hướng hoàn thiện các biện pháp giải quyết tranh
chấp .................................................................................................................. 59
3.2.1. Một số hạn chế của các biện pháp ...................................................... 59
3.2.2. Một số hướng hoàn thiện ..................................................................... 60
KẾT LUẬN ...................................................................................63
TÀI LIỆU THAM KHẢO



Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biển Đông là một vùng biển rộng lớn, có vị trí chiến lược quan trọng đặc
biệt là nguồn tài nguyên dồi dào, đã và đang giữ vai trò quan trọng trong việc phát
triển kinh tế của các nước trong khu vực Đông Nam Á và thế giới. Biển Đông là
một trong những đường hàng hải quốc tế có lưu lượng tàu thuyền qua lại dày đặc,
là một điều kiện đặc biệt lớn để phát triển kinh tế biển và an ninh quốc phòng của
quốc gia (Hoàng Sa và Trường Sa là những cứ điểm neo và tiếp vận tốt cho hải
quân và cùng với cảng Cam Ranh của Việt Nam là những chốt giúp kiểm soát
đường biển vào Ấn Độ Dương).
Vì vậy, các quốc gia trong vùng biển này đã và đang đưa ra những yêu sách,
mà chủ yếu là giữa Việt Nam và Trung Quốc, song song với đó là những hành
động nhằm thực hiện các yêu sách của mình. Đặc biệt với lợi thế của một nước lớn
nên những hành động được xem là “bảo vệ chủ quyền” của Trung Quốc diễn ra rất
mạnh mẽ, đã tạo nên một diễn biến phức tạp và căng thẳng thêm cho tình hình cuộc
tranh chấp. Yêu sách mà các quốc gia trong vùng đưa ra đều gặp phải sự phản đối
của các quốc gia khác tạo nên nhiều tranh chấp. Các tranh chấp trong vùng Biển
Đông rất phức tạp và rất khó giải quyết nó ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ
kinh tế, chính trị của nhiều nước trên thế giới. Nếu không sớm giải quyết các tranh
chấp đó thì nguy cơ xảy ra một cuộc xung đột vũ trang lớn trong tương lai là rất có
thể xảy ra. Thế nên, việc tìm ra một giải pháp chung cho việc giải quyết các tranh
chấp một cách hòa bình và thực sự công bằng là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Đó
là lý do mà người viết chọn đề tài “Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung
Quốc ở Biển Đông - hướng giải quyết theo luật quốc tế” làm luận văn tốt nghiệp.
Trong quá trình thực hiện, người viết không tránh khỏi những sai xót rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô cùng các bạn đọc để luận

văn được hoàn thiện hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích làm rõ các quy định của pháp luật về biển và tình hình
các cuộc tranh chấp đang diễn ra trên Biển Đông hiện nay giữa Việt Nam và Trung
Quốc, đồng thời tìm kiếm các phương pháp giải quyết các tranh chấp để duy trì hòa

GVHD:ThS. Thạch Huôn

1

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

bình trong khu vực, hướng Biển Đông tới một khu vực hòa bình, an ninh và hợp
tác.
3. Phạm vi nghiên cứu
Người viết tập trung nghiên cứu, phân tích theo Công ước luật biển 1982 và
những quy định pháp luật quốc tế có liên quan. Tranh chấp Biển Đông là rất rộng
giữa nhiều chủ thể khác nhau, vì vậy người viết chỉ tập trung nghiên cứu những
tranh chấp chủ yếu giữa Việt Nam và Trung Quốc tại hai Quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, trên cơ sở những phân tích, nhận định và đánh giá tình hình diễn biến
tranh chấp trong thời gian gần đây, từ đó đưa ra những hướng giải quyết thích hợp.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp:
phân tích, so sánh, tổng hợp, phương pháp lịch sử… trên cơ sở áp dụng luật biển
quốc tế để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận văn, luận văn còn đưa ra ý kiến
đề xuất, để giải quyết những tồn tại trong việc áp dụng pháp luật quốc tế để giải
quyết tranh chấp biển.

4. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về Biển Đông, vấn đề về phân định biển
Chương 2: Việt Nam và thực tiễn các tranh chấp đang diễn ra trên Biển Đông hiện
nay
Chương 3: Một số phương pháp giải quyết tranh chấp.
Kết luận:

GVHD:ThS. Thạch Huôn

2

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỂN ĐÔNG, VẤN ĐỀ VỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN
1.1. Giới thiệu chung về Biển Đông
Biển Đông còn gọi là biển Nam Trung Hoa theo tiếng Anh The South China
sea là vùng biển trải dài theo hướng tây nam đến đông bắc, biên giới phía nam là 30
vĩ độ Nam giữa NamSumatra và Kalimanta (eo biển Karimata), và biên giới phía
bắc của nó là eo biển Đài Loan từ mũi phía bắc Đài Loan tới bờ biển Phúc Kiến
thuộc đại lục Trung Quốc. Biển Đông có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, diện tích
bề mặt khoảng 1.148. 500 hải lý vuông1 (tương đương 3.939.245 km2). Vịnh Thái
Lan chiếm phần phía tây của Biển Đông. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao
bọc bởi 8 nước khác là Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia,
Singapore, Thái Lan và Campuchia. Trên biển có nhiều đảo tập trung thành một số
quần đảo chứa đựng nhiều tài nguyên và vị trí quân sự quan trọng đang trở thành

mục tiêu của các cuộc tranh chấp chủ quyền hiện nay.2
Với trữ lượng hải sản đánh bắt khoảng 3-3,5 triệu tấn, cơ cấu hải sản rất
phong phú, có giá trị kinh tế cao có thể khai thác được hàng năm, cả khu vực đánh
bắt khoảng 7 – 8 % tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới. 3
Hơn nữa, Biển Đông được xem là một trong năm bồn trũng lớn nhất thế giới. Ngoài
ra khu vực biển thuộc quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa còn chứa đựng trữ lượng
khí đốt vô cùng lớn và đang được xem là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong
tương lai. Chính tiềm năng như vậy đã tạo ra một nhân tố quan trọng làm gia tăng
các yêu sách chủ quyền của các quốc gia quanh hai quần đảo và khu vực lân cận.
Không những thế, Biển Đông có diện tích bề mặt biển lớn, đường bờ biển dài và vị
trí gần xích đạo nên thuận lợi cho việc phát triển năng lượng gió và năng lượng mặt
trời đang là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới.
Biển Đông là đường hàng hải đông đúc thứ hai trên thế giới, là tuyến đường
hàng hải huyết mạch nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, Châu Âu với
Châu Á, Trung Đông với Châu Á. Trong khu vực Đông Nam Á có khoảng 536
cảng biển, trong đó có những cảng lớn và hiện đại nhất thế giới như cảng Singapor,
cảng Hồng Kông... Trung bình mỗi năm có khoảng 41.000 lược tàu biển qua lại

1 Một hải lý vuông= 1852m.
2
3

Nguồn: http://nghiêncuubienđong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/504-bien-ong-ia-chien-lc-va-tiem-nng
Nguồn: />
GVHD:ThS. Thạch Huôn

3

SVTH: Nguyễn Nhã Phi



Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

khu vực này.4 Các tàu chở dầu qua eo biển Malacca nhiều gấp ba lần so với lượng
tàu qua kênh đào Sues, nhiều gấp năm lần so với lượng tàu qua kênh đào Panama. 5
Bao bọc xung quanh vùng biển này là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới,
Singapore và đặc khu hành chính Hồng Kông cùng với Đài Loan được xem là con
rồng Châu Á, Trung Quốc là một nước lớn và các nước đang phát triển trong khu
vực Đông Nam Á đang ngày càng thu hút đầu tư phát triển, các nguồn nguyên,
nhiên liệu được vận chuyển để phục vụ cho sản xuất cũng như các hàng hóa sản
xuất ra được vận chuyển ra thế giới là rất lớn, Biển Đông không chỉ là tuyến đường
vận chuyển nguyên liệu và hàng hóa mà còn là tuyến đường trọng yếu vận chuyển
năng lượng. Mặt khác, Biển Đông có vị trí đặc biệt quan trọng về quân sự đối với
các nước trong khu vực và trong chiến lược của các nước lớn, là đường tiếp cận,
bàn đạp tiến công, uy hiếp, phong tỏa và phá hoại nhiều mặt. Các đảo trên Biển
Đông có thể đặt các trạm thông tin, trạm ra đa, xây dựng các trạm dừng chân và
tiếp nhiên liệu cho tàu bè. Bên cạnh đó, Biển Đông còn đóng vai trò quan trọng
trong việc phối hợp phòng chống cướp biển và các hoạt động an ninh hàng hải giữa
các nước.
Chính vì lẽ đó, nếu tranh chấp và xung đột trên Biển Đông ngày càng gay
gắt thì nền kinh tế thế giới, đặc biệt là nền kinh tế của các nước trong khu vực có
thể bị suy giảm nghiêm trọng dẫn đến suy thoái kinh tế và gây xáo trộn trong sản
xuất.
1.2. Các khái niệm liên quan đến các vùng biển
1.2.1. Các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia
1.2.1.1. Nội thủy
Nội thủy là vùng nước phía bên trong đường cơ sở, phía ngoài giáp với lãnh
hải, phía bên trong giáp với bờ biển. Như vậy, ranh giới phía bên trong của nội thủy
chính là đường bờ biển, còn ranh giới ngoài chính là đường cơ sở. Đường cơ sở
được xác định dựa vào địa hình bờ biển, nó có thể gồm nhiều bộ phận khác nhau:

cảng biển, vũng đậu tàu, vịnh thiên nhiên, vịnh lịch sử, vùng nước lịch sử.
Do vị trí địa lý của nội thủy nằm sát bờ biển quốc gia, nên Luật biển quốc tế
và pháp luật của các quốc gia đều xác định tính chất chủ quyền hoàn toàn và tuyệt

4

Hoàng Việt giải pháp nào cho tranh chấp biển đông, đã dẫn từ Ji Gooxing,”Rough water in the south chinese:
Navigation isues ang conicdenc-building Nedsure”, East-West center 2001.
5
Hoàng Việt, giải pháp nào cho tranh chấp Biển Đông,dẫn từ Christopher c.joyner, Toward a spratly Resource
development Authority: procursor Agreements and Confidence Building Measures, ed. Myron H. Norquist and
john Norton moroe security flashpoints:oil,Islands, sea Access and Military confrontation(1997)
GVHD:ThS. Thạch Huôn

4

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

đối cho vùng nước nội thủy, kể cả đáy và lòng đất dưới đáy vùng. 6 Chính vì vậy,
mà nội thủy có quy chế pháp lý có phần khác với lãnh hải cũng như các vùng biển
khác.
1.2.1.2. Lãnh hải
Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy
của mình, và trong mọi trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước
quần đảo đến một vùng biển tiếp liền gọi là lãnh hải. Chủ quyền này được mở rộng
đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng đất dưới đáy của vùng biển
này 7;

Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này
không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước 8;
Ranh giới phía ngoài của lãnh hải là một đường mà mỗi điểm ở trên đường đó
cách điểm gần nhất của đương cơ sở một khoảng cách bằng chiều rộng lãnh hải 9;
Trong lãnh hải, quốc gia ven biển được quyền thực hiện chủ quyền hoàn toàn và
đầy đủ nhưng không là tuyệt đối, bởi trên lãnh hải thì tàu thuyền nước ngoài được
quyền qua lại vô hại. Quyền qua lại tức là quyền đi ở trong lãnh hải.
Trong lãnh hải, quốc gia ven biển được quyền thực hiện quyền tài phán hình
sự, dân sự với một số điều kiện hạn chế quy định tại Điều 27, Điều 28 Công ước
luật biển 1982. Nội thủy và lãnh hải là các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia
ven biển còn các vùng như tiếp giáp lãnh hải đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là
các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển.
1.2.2. Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia
1.2.2.1. Tiếp giáp lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải được thừa nhận tại Điều 24 của Công ước về lãnh hải
và đây là vùng biển nằm giáp phía ngoài lãnh hải và không thể mở rộng quá 12 hải
lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Điều 33 của Công ước 1982 quy định về chiều rộng vùng tiếp giáp lãnh hải không
được mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển thuộc quyền tài phán của quốc gia, bao
gồm quyền tài phán nhằm ngăn ngừa và quyền tài phán trừng trị những vi phạm
6
7
8
9

Điều 8 Công ước luật biển 1982.
Điều 2 Công ước luật biển 1982.
Điều 3 Công ước luật biển 1982.
Điều 4 Công ước luật biển 1982.


GVHD:ThS. Thạch Huôn

5

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

trong lĩnh vực về hải quan; thuế khóa; y tế; nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải
của mình.10
1.2.2.2. Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền
với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó quyền
và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác
đều do các quy định thích hợp của Công ước điều hành.11
Trong vùng đặc quyền kinh tế thì quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về
kinh tế và quyền tài phán. Quyền chủ quyền về kinh tế bao gồm các quyền đối với
khai thác tài nguyên sinh vật (Điều 62), tài nguyên không sinh vật của cột nước bên
trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Hoạt động khai thác tài
nguyên trên vùng đặc quyền kinh tế đem lại lợi ích cho quốc gia ven biển như khai
thác năng lượng nước, hải lưu, gió…
Mọi tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn khai thác tài nguyên trên vùng đặc
quyền kinh tế phải có sự xin phép và đồng ý của quốc gia ven biển.
Quyền tài phán trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển bao gồm quyền
lắp đặt, sửa chữa các đảo nhân tạo, công trình, thiết bị trên biển; quyền nghiên cứu
khoa học biển; quyền bảo vệ một trường.
Các quốc gia khác có quyền tự do biển cả như: quyền tự do hàng hải; quyền tự do
bay; quyền tự do lắp đặt dây cáp, ống dẫn ngầm; các quyền tự do khác phù hợp với

quy định của Công ước.
Các quốc gia ven biển phải ra tuyên bố để xác lập vùng đặc quyền kinh tế của
mình.
1.2.2.3. Thềm lục địa
Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới
đáy biển, bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên
của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến mép ngoài của rìa lục địa, hoặc đến
cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi mép ngoài của
rìa lục địa của quốc gia đó có khoảng cách gần hơn.12
Bản chất pháp lý của thềm lục địa theo Công ước được xác định trên nguyên
tắc “đất thống trị biển”; quyền chủ quyền của quốc gia trên thềm lục địa là chủ
10
11
12

Điều 33 Công ước luật biển 1982.
Điều 55 Công ước luật biển 1982.
Khoản 1 Điều 76 Công ước luật biển 1982.

GVHD:ThS. Thạch Huôn

6

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

quyền đương nhiên và ngay từ ban đầu (có quốc gia ven biển là có thềm lục địa),
nó không phụ thuộc vào bất kỳ sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa nào. Điều này

khác với vùng đặc quyền kinh tế, tại vùng đặc quyền kinh tế nếu quốc gia ven biển
khai thác không hết thì các quốc gia khác có quyền yêu cầu khai thác phần còn lại
dư ra, còn thềm lục địa thì các quốc gia khác không có quyền này.
Các quốc gia ven biển không cần phải ra tuyên bố về việc xác lập quyền chủ
quyền trên thềm lục địa, nếu có tuyên bố chỉ làm rõ thêm tính chất quản lý Nhà
nước của quốc gia ven biển mà thôi.
1.2.3. Các vùng biển nằm ngoài chủ quyền và quyền chủ quyền
1.2.3.1. Biển cả
Biển cả là vùng không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội
thủy của một quốc gia ven biển cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo
của một quốc gia quần đảo (Điều 86 Công ước).
Trên biển cả với mục đích hòa bình, tất cả các quốc gia có quyền tự do hàng hải, tự
do bay, tự do lắp đặt cáp và ống dẫn ngầm, tự do đánh bắt, tự do nghiên cứu khoa
học, tự do lắp đặt các đảo nhân tạo, công trình, thiết bị trên biển đồng thời có các
nghĩa vụ trấn áp buôn bán nô lệ, trấn áp mua bán, vận chuyển, mua bán chất ma
túy, trấn áp tất cả các hoạt động phát sóng không được phép từ biển cả, trấn áp
cướp biển, bảo vệ môi trường.
Các quốc gia ven biển có quyền truy đuổi: việc truy đuổi có thể ra đến biển cả, chỉ
chấm dứt khi nó chạy vào lãnh hải của quốc gia khác; việc truy đuổi phải liên tục
nhưng không nhất thiết bằng một con tàu, phương tiện của mình mà có quyền liên
hệ với các phương tiện khác để truy đuổi; lực lượng truy đuổi phải chính quy.
Quốc gia ven biển có quyền can thiệp ở biển cả, và bắt giữ, sử dụng các biện pháp
nhằm ngăn chặn ô nhiễm môi trường biển.
1.2.3.2. Vùng
Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của loài người (Điều 136 Công
ước). Vùng nằm ngoài rìa lục địa của quốc gia ven biển .
Chế độ pháp lý của vùng: vì là di sản chung của loài người nên Vùng không thuộc
sự chiếm hữu của bất kỳ quốc gia nào; tất cả các quốc gia được phép sử dụng Vùng
vì mục đích hòa bình; tất cả các quốc gia được quyền sử dụng, quản lý, khai thác
một cách công bằng trên vùng. Quản lý vùng có cơ quan quyền lực đáy đại dương

có trụ sở tại jamaica, tổ chức điều hành của cơ quan gồm Hội nghị các nước thành

GVHD:ThS. Thạch Huôn

7

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

viên và Hội đồng gồm 36 thành viên, trong đó 18 thành viên được phân bố theo
tiêu chuẩn địa lý (như Hội đồng bảo an) và 18 thành viên được phân chia gồm 4
nước xuất khẩu nhiều quặng nhất được khai thác; 4 nước sản xuất nhiều nhất; 4
nước nhập khẩu nhiều nhất; 6 nước còn lại đại diện cho các quyền lợi khác.13 Dưới
cơ quan quyền lực đáy đại dương có các xí nghiệp.
1.3. Vấn đề phân định biển
Phân định biển là quá trình hoạch định ranh giới nhằm phân chia các vùng
biển giữa các quốc gia hữu quan, hoặc giữa quốc gia ven biển với vùng biển nằm
ngoài chủ quyền.
Vấn đề phân định biển được đặt ra cho các quốc gia có vùng biển tiếp liền, hoặc đối
diện với nhau, và việc phân định nhằm mục đích xác định rõ đường biên giới biển
phân chia vùng biển thuộc chủ quyền, và quyền chủ quyền của quốc gia. Do đó,
nếu quá trình phân định không được tiến hành một cách hợp pháp thì sẽ rất dễ dẫn
đến sự xung đột của các bên. Chính vì vậy, để thực hiện chủ quyền và quyền chủ
quyền của quốc gia ven biển trong việc bảo vệ, quản lý và khai thác các tài nguyên
thiên nhiên trên các vùng biển tiếp liền hoặc đối diện nhau, đòi hỏi các quốc gia
hữu quan phải có sự thỏa thuận cụ thể, chi tiết nhằm phân định các vùng biển này
một cách rõ ràng, nhanh chóng.14
Sau khi Công ước năm 1982 được hình thành, vấn đề phân định biển càng trở

nên bức thiết bởi nó liên quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và
các lợi ích kinh tế, an ninh, quốc phòng của các quốc gia cũng như quyền tự do
biển cả của cộng đồng quốc tế. Cho nên, nếu vấn đề phân định biển không được
tiến hành một cách hợp pháp thì rất dễ dẫn đến xung đột giữa các bên.
1.3.1. Các nguyên tắc phân định biển
- Nguyên tắc thỏa thuận:
Nguyên tắc này rất quan trọng trong quá trình phân định các vùng biển, các
bên phải tiến hành thỏa thuận để đi đến một kết quả chứ không đơn thuần là một
cuộc đàm phán chính thức, các bên trong quá trình đàm phán có thể nêu lên các yếu
tố và hoàn cảnh cụ thể để củng cố lập luận của mình. Tuy nhiên, cũng cần dựa trên
nguyên tắc công bằng, đảm bảo sự hợp tình, hợp lý và lợi ích hợp pháp của các
quốc gia khác.

13
14

Điều 161 Công ước luật biển 1982.
Ths.Kim Oanh Na :tập bài giảng quốc tế. Trường Đại học Cần Thơ- khoa luật,tr67.

GVHD:ThS. Thạch Huôn

8

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

Nguyên tắc thỏa thuận được thể hiện cụ thể trong Công ước 1982 khi quy định về
việc phân định các vùng biển của các quốc gia có đường bờ biển đối diện hay tiếp

giáp đều đưa nguyên tắc thỏa thuận lên hàng đầu.
- Nguyên tắc công bằng:
Công ước năm 1982 đã quy định thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan trong
một vụ phân định biển phải đi đến một giải pháp công bằng. tuy nhiên, phương
pháp phân định nào có thể cho giải pháp công bằng thì Công ước luật biển 1982 lại
không quy định rõ ràng.
Công ước Giơnevơ 1958 về thềm lục địa nêu ra phương thức đường cách đều
đường trung tuyến như một phương thức đảm bảo công bằng trong phân định thềm
lục địa. Để đạt được một giải pháp công bằng ít nhất cần thỏa mãn hai yếu tố: thứ
nhất là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, thứ hai là không gây chồng lấn
sang phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia khác. Như vậy, cần
xác định rõ: đâu là kéo dài tự nhiên của đất liền ra biển và đâu là điểm kết thúc của
phần kéo dài tự nhiên lục địa. Điều 76 của Công ước 1982 của Liên hiệp quốc về
luật biển lại thừa nhận thềm lục địa không chỉ có danh nghĩa sự kéo dài tự nhiên mà
còn có danh nghĩa pháp lý. Danh nghĩa pháp lý cho phép thềm lục địa của quốc gia
ven biển kéo dài ra tới 200 hải lý không phụ thuộc vào yếu tố cấu tạo tự nhiên của
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Khoảng cách trở thành yếu tố cơ bản để phân
định thềm lục địa.
1.3.2. Các phương pháp phân định biển
Có nhiều phương pháp phân định biển mà các quốc gia có thể lựa chọn. Tùy
thuộc vào tính chất của cuộc tranh chấp mà các quốc gia liên quan có thể lựa chọn
các phương pháp khác nhau để giải quyết. Thực tiễn phân định biển trong thời gian
qua cho thấy các quốc gia liên quan có thể thỏa thuận áp dụng một số phương pháp
phân định sau:
Phương pháp đường trung tuyến cách đều: Phương pháp này được áp dụng
trong trường hợp các quốc gia có đường bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau. Theo
phương pháp này thì đường ranh giới để phân định biển chính là đường mà tất cả
các điểm nằm trên đường đó đều cách đều các điểm gần nhất của đường cơ sở của
mỗi quốc gia. Phương pháp này thường được sử dụng để phân định lãnh hải, tuy
nhiên khi áp dụng phương pháp này các quốc gia phải xem xét một cách thích đáng

đến những hoàn cảnh cụ thể để đi đến một giải pháp công bằng.

GVHD:ThS. Thạch Huôn

9

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

Phương pháp đường trung tuyến có điều chỉnh: Đây là phương pháp trung
tuyến có tính đến các hoàn cảnh đặc thù của khu vực biển phân định. Phương pháp
này làm giảm đi tính không công bằng do việc áp dụng phương pháp trung tuyến
đơn thuần mang tính kỹ thuật ở các khu vực phân định có các hoàn cảnh đặc biệt,
nhất là về mặt địa lý.
Phương pháp công bằng: Khi sử dụng phương pháp này, các nước cần phải
xem xét các yếu tố như: hình dạng của bờ biển, các đảo và yếu tố hàng hải…từ đó
tìm ra được những giải pháp được các bên chấp nhận và mang lại kết quả công
bằng.
Ngoài ra còn có các phương pháp khác như: Phương pháp đường kéo dài tự nhiên
của biên giới trên bộ, phương pháp đường kinh tuyến và vĩ tuyến.
1.4. Khái quát chung về tranh chấp
1.4.1. Khái niệm tranh chấp
Trong quan hệ quốc tế, tranh chấp tồn tại như một tất yếu: có thể ở dạng
tranh chấp hiện tại cần phải giải quyết hoặc tranh chấp tương lai. Các mối quan hệ
càng nhiều, càng phức tạp như tranh chấp trên biển thì khả năng xảy ra tranh chấp
càng lớn, bất chấp khung pháp lý có hoàn chỉnh đến đâu – bởi không phải lúc nào
các bên cũng tuân thủ pháp luật quốc tế một cách nghiêm chỉnh. Thuật ngữ “tranh
chấp” nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ phát

sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng này có thể phát sinh từ những quan hệ
xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên chúng được gọi theo từng ngành luật.
Trong thế giới ngày nay, với xu thế hợp tác và toàn cầu hóa, các quốc gia
ngày càng có nhiều diễn đàn hợp tác để giải quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu,
phục vụ cho sự phát triển chung của cộng đồng quốc tế. Tuy vậy, sự hợp tác này
cũng sẽ dẫn đến nguy cơ bất đồng, tranh chấp giữa các quốc gia, khi mà điều kiện
hoàn cảnh và lợi ích của mỗi một quốc gia chưa đồng nhất với nhau. Đây cũng là
một thách thức của cộng đồng quốc tế ngày nay bởi tỷ lệ tranh chấp thường phát
triển tỷ lệ thuận với sự tăng trưởng của quan hệ quốc tế. Cho dù diễn ra ở lĩnh vực
nào, mức độ tranh chấp ở cấp độ nào thì nó cũng sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến hòa
bình và an ninh quốc tế. Chính vì vậy, việc nhận diện các tranh chấp và tạo ra
những cơ chế hợp lý để giải quyết tranh chấp quốc tế là một việc làm hết sức cần
thiết nhằm đảm bảo sự phát triển của hợp tác quốc tế. Tuy vậy, trước hết cần hiểu
như thế nào là tranh chấp quốc tế.

GVHD:ThS. Thạch Huôn

10

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

Có nhiều quan điểm khác nhau về tranh chấp quốc tế biển. Tuy nhiên, một
cách chung nhất, có thể xem tranh chấp quốc tế về biển là một hoàn cảnh thực tế,
mà trong đó các chủ thể tham gia có những quan điểm trái ngược hoặc mâu thuẫn
nhau và có những yêu cầu hay đòi hỏi cụ thể trái ngược nhau. 15
Thông thường, những tình thế này có thể không thỏa thuận được với nhau về các
quyền và nghĩa vụ liên quan đến một sự kiện nào đó hoặc phát sinh trên cơ sở

những điều ước quốc tế cụ thể. Bên cạnh đó, cũng có nhiều trường hợp các bên
không có sự thống nhất về cách hiểu và áp dụng pháp luật quốc tế, các bên thường
không có sự đồng nhất về lợi ích mà đa phần là lợi ích quốc gia, một trong những
vấn đề nhạy cảm trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, cho dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào
đi nữa thì điểm chung nhất của các tranh chấp quốc tế đó là nó tạo ra một nhu cầu
giải quyết tranh chấp giữa các bên liên quan. Việc giải quyết tranh chấp quốc tế có
ý nghĩa rất lớn trong việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế và đảm bảo sự hợp tác
của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
Trước hết, thông qua việc giải quyết tranh chấp, quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tranh chấp sẽ được khẳng định và đảm bảo, nhất là những tranh chấp
mà một bên ở vị thế yếu hơn. Với các cơ chế giải quyết tranh chấp đang tồn tại hiện
nay, đảm bảo tính công bằng và quyền lợi hợp pháp của các bên luôn là một yêu
cầu hàng đầu. Hơn nữa, việc giải quyết tranh chấp quốc tế góp phần thúc đẩy việc
thực thi, tuân thủ pháp luật quốc tế. Thực tiễn của tranh chấp quốc tế chỉ ra rằng
trong rất nhiều trường hợp tranh chấp nguyên nhân cơ bản vẫn là sự vi phạm pháp
luật quốc tế mà cụ thể là sự vi phạm các nghĩa vụ quốc tế đã cam kết. Do đó, nếu
tranh chấp quốc tế được giải quyết nhanh chóng, hợp lý sẽ góp phần hạn chế được
sự vi phạm pháp luật quốc tế và trật tự pháp lý quốc tế sẽ được đảm bảo.
Mặt khác, giải quyết tranh chấp quốc tế còn góp phần duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế. Đây là một điều hiển nhiên đang
hiện diện ở nhiều nơi trên thế giới ngày nay. Nếu tranh chấp không được giải quyết
kịp thời, căng thẳng giữa các bên sẽ kéo dài và đây là nhân tố gây ra sự bất ổn và
cản trở việc duy trì, triển khai các hoạt động hợp tác không những giữa các bên
tranh chấp mà còn với các quốc gia khác, và đây cũng là thực trạng tranh chấp hiện
nay trên Biển Đông.

15

Giáo trình luật quốc tế - trường đại học luật Hà Nội- nhà xuất bản công an nhân dân, năm 2006, tr 386.


GVHD:ThS. Thạch Huôn

11

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

1.4.2. Phân loại tranh chấp
Tranh chấp biển là loại tranh chấp rất phức tạp, không như tranh chấp lãnh
thổ đất liền. Trong tranh chấp biển đòi hỏi các quốc gia phải có trình độ khoa học
kỹ thuật cao, phát triển để tiến hành các khảo sát, đo đạc dưới lòng đáy biển, thực
hiện nghiên cứu khoa học tại các vùng biển của mình và các vùng biển quốc tế để
xác định rõ ràng và chính xác tọa độ, sự kéo dài tự nhiên của đất liền ra biển cũng
như thông tin về ranh giới ngoài của thềm lục địa, việc khảo sát này không phải
quốc gia ven biển nào cũng có thể tự mình quyết định được.
Do đó, khi phát sinh tranh chấp biển giữa hai quốc gia hay nhiều quốc gia thì
sẽ phát sinh các tranh chấp khác liên quan đến nó như: tranh chấp chủ quyền của
các quần đảo dẫn đến tranh chấp các vùng biển lân cận; tranh chấp trong việc giải
thích; áp dụng công ước; tranh chấp giữa các vùng biển chồng lấn; tranh chấp về
đánh bắt hải sản; tranh chấp về thẩm quyền của việc giải quyết các vụ tranh chấp
liên quan đến đáy biển.
Tranh chấp chủ quyền của các quần đảo dẫn đến tranh chấp các vùng biển lân cận,
đây là tranh chấp rất phức tạp, khó giải quyết, liên quan đến hai hay nhiều quốc gia,
ví dụ như tranh chấp quần đảo Hoàng sa giữa Việt Nam và Trung Quốc, tranh chấp
quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippin... đặc điểm
của tranh chấp này là tranh chấp trong một thời gian dài và vẫn chưa có hướng giải
quyết triệt để.
Tranh chấp các vùng biển chồng lấn, đây là tranh chấp tương đối phức tạp

nhưng về cơ bản vẫn có hướng giải quyết và đa số đã được giải quyết bằng các
phương pháp hòa bình, ví dụ như tranh chấp về vùng chồng lấn giữa Việt Nam và
Malaysia được giải quyết theo nguyên tắc thỏa thuận gác lại tranh chấp và cùng
nhau khai thác tài nguyên trong vùng biển chồng lấn. 16
Tranh chấp trong việc giải thích và áp dụng công ước, cụ thể như nghiên cứu
khoa học trong vùng biển đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của quốc gia ven biển khi
tiến hành phải có sự thỏa thuận của quốc gia ven biển. Nhưng quốc gia ven biển có
quyền không cho phép hoặc ra lệnh đình chỉ một tổ chức hay một quốc gia tiến
hành nghiên cứu khoa học với lý do việc nghiên cứu không minh bạch, không đúng
với đề nghị ban đầu. 17 Hoặc khi tiến hành nghiên cứu, tổ chức hay quốc gia không
tôn trọng các quy định tại Điều 249 của Công ước Luật biển 1982. Theo Điều 58
16

Ban tuyên giáo trung ương- Nội dung cơ bản của bản thỏa thuận (MOU) về hợp tác thăm dò khai thác chung
vùng biển chồng lấn Việt Nam và Malaysia />3b5361ff&ID=2-tham khảo 02/11/2011
17
Điều 253 Công ước luật biển 1982.
GVHD:ThS. Thạch Huôn

12

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

Công ước Luật biển 1982 về các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác trong
vùng đặc quyền kinh tế, thì tất cả các quốc gia được hưởng các quyền tự do hàng
hải, hàng không, quyền tự do đặt dây cáp ngầm, nhưng khi thực hiện quyền của
mình các quốc gia phải tính đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển,

tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia ven biển đã ban hành.
Tranh chấp về khai thác hải sản. Mặc dù đã có quy định quốc tế về đánh bắt
cá trên biển nhưng vẫn phát sinh tranh chấp.
Theo Công ước tất cả các quốc gia đều được hưởng quyền tự do hàng hải nhưng
khi thực thi thẩm quyền về đánh cá của quốc gia ven biển Công ước lại cho phép
quốc gia ven biển có thể chặn lại những tàu đang quá cảnh trong vùng đặc quyền
kinh tế để kiểm tra xem các tàu đó có tiến hành các hoạt động đánh cá bất hợp pháp
hay không.
Tranh chấp về thẩm quyền của việc giải quyết các vụ tranh chấp liên quan
đến đáy biển,18 hành động hay thiếu sót của Cơ quan quyền lực hay của một quốc
gia thành viên đã vi phạm các qui tắc, quy định hay thủ tục đã được các Cơ quan
quyền lực thông qua, hoặc cơ quan quyền lực đã vượt qua thẩm quyền của mình.
Tranh chấp giữa các bên ký hợp đồng, tranh chấp giữa cơ quan quyền lực và một
người yêu cầu được một quốc gia bảo trợ, tranh chấp giữa cơ quan quyền lực và
một quốc gia thành viên.
1.4.3. Khái quát chung về tranh chấp Biển Đông
1.4.3.1. Chủ thể tranh chấp
Tranh chấp Biển Đông là tranh chấp rất đa dạng và phức tạp, có nguồn gốc từ
lâu đời, giữa nhiều bên tranh chấp với nhau. Tranh chấp chủ quyền Biển Đông gồm
các tranh chấp về đảo và vùng biển. Quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa là
hai quần đảo trên các rạn san hô ở Biển Đông. Trong đó quần đảo Hoàng Sa đang
là đối tượng tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan. Quần
đảo Trường Sa là nơi tranh chấp chủ quyền của 6 quốc gia và lãnh thổ: Trung
Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Các quốc gia tuyên
bố chủ quyền toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa. Bãi Macclesfield là đối
tượng tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines, Quần đảo Đông Sa do Đài Loan
quản lý là đối tượng tranh chấp giữa Trung Quốc và Đài Loan. 19
Do hầu hết các nước trong cộng đồng quốc tế ngày nay đều theo đuổi chính sách
“một Trung Quốc” nên chúng ta không coi Đài Loan là một bên yêu sách tách biệt.
18

19

Điều 187 Công ước luật biển 1982.
Nguồn. http://biendongnet/tranh-chap-chu-quyen-bien-dong.

GVHD:ThS. Thạch Huôn

13

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

Trong lịch sử, những yêu sách của Đài Loan đối với các Đảo thuộc Trường Sa cũng
giống như những yêu sách của Trung Quốc, nhưng cũng cần lưu ý rằng Đài Loan
đang chiếm giữa đảo Ba Bình, hòn đảo lớn nhất thuộc quần đảo Trường Sa. 20
Ngoài hai quần đảo trên tranh chấp Biển Đông còn mở rộng ra cả vùng biển
phía Nam đảo Trường Sa giữa 6 nước 7 bên gồm Việt Nam, Trung Quốc, Đài
Loan, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei, chính quyền Trung Hoa dân quốc
coi vùng biển này nằm trong đường biên giới “lưỡi bò” là vùng nước lịch sử do họ
đơn phương tuyên bố sở hữu từ cuối năm 1947. Từ sau 1949, nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa có những tuyên bố tương tự.21
1.4.3.2. Đối tượng nội dung tranh chấp
Tranh chấp Biển Đông trở nên phức tạp và bị đẩy lên mức độ ngày càng gay
gắt trong những năm gần đây, không bắt nguồn từ mâu thuẫn hay tồn tại tranh chấp
về chủ quyền lãnh hải do lịch sử để lại và quyền tài phán đối với các vùng chồng
lấn ở biển của nhiều quốc gia đòi yêu sách, mà còn xuất phát từ sự đan xen lợi ích,
mưu cầu địa chính trị trước hết là quản lý, kiểm soát tuyến hàng hải, hàng không
chiến lược và nguồn tài nguyên giàu có, đặc biệt có dầu mỏ tại khu vực này. Từ đó

mở rộng ảnh hưởng ra toàn khu vực Châu Á – Tây Thái Bình Dương.
Tranh chấp chủ quyền Biển Đông, trước hết là hai quần đảo Hoàng Sa (Pracel hay
Paraceds) và Trường Sa (Spatlys) ngoài ra, vùng biển trong khu vực Biển Đông
cũng là đối tượng tranh chấp, với các lợi ích mà các quốc gia quan tâm. Nổi lên từ
sau chiến tranh thế giới thứ II nhưng chúng leo thang, với mức độ khá nghiêm
trọng và nhất là từ cuối thập niên đầu thế kỷ XXI bởi các hành động cứng rắn đòi
chủ quyền của một số nước liên quan, đặc biệt là Trung Quốc, với lợi thế của một
nước lớn nên những hành động được xem là “bảo vệ chủ quyền” của họ diễn ra rất
mạnh mẽ, đã tạo nên một diễn biến khá phức tạp và căng thẳng cho tình hình cuộc
tranh chấp.22
1.4.3.3. Các nguyên nhân dẫn đến các cuộc tranh chấp
- Nguyên nhân kinh tế:
Một trong những nguyên nhân chính làm cho tình hình tranh chấp trên vùng
Biển Đông trở nên phức tạp và diễn biến khó lường như hiện nay là các giá trị kinh
20

Nguồn: />21
Nguồn. . Tranh chấp biển đông nhìn từ góc độ chính trị.
22
Xem thêm: „Tranh chấp Biển Đông nhìn từ góc độ chính trị”.Nguồn: />GVHD:ThS. Thạch Huôn

14

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

tế to lớn trong vùng biển này. Khi giá trị kinh tế trên Biển Đông đặc biệt là xung
quanh hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa được xác định thì cuộc tranh chấp

ngày càng trở nên quyết liệt, nhất là sau thập niên 1960 sau khi khám phá phát hiện
vùng biển này có nhiều dầu mỏ và khí tự nhiên. Đây cũng là nguyên nhân khiến các
quốc gia trong vùng Biển Đông mong muốn mở rộng thêm vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của mình, gây ra những tranh chấp về các vùng biển chồng lấn,
phức tạp và khó có thể giải quyết.
Trong quá trình phát triển kinh tế do Trung Quốc cần rất nhiều năng lượng để
phục vụ cho các hoạt động phát triển kinh tế. Biển Đông là một vùng biển giàu
năng lượng tự nhiên (đặc biệt là dầu và khí đốt), vì vậy Trung Quốc đã không ngần
ngại tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cải” đối với Biển Đông mà minh chứng
là yêu sách “đường lưỡi bò”, chiếm gần hết diện tích của vùng biển này. Theo tổ
chức năng lượng thế giới thì hơn một nữa lượng dầu tiêu thụ của Trung Quốc phải
nhập khẩu, nhu cầu khí tự nhiên cũng tăng cao. Hiện nay Trung Quốc đang gia tăng
nguồn dự trữ năng lượng của mình (hiện chỉ chiếm khoản 1,1% của toàn cầu),
trong khi đó năm 2010 họ tiêu thụ tới 10,1% lượng dầu thế giới và 20,1% tổng số
toàn bộ nhiên liệu toàn thế giới. Trở thành nước tiêu thụ nhiên liệu lớn nhất thế
giới. Nền kinh tế của một quốc gia phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn năng lượng
nhập khẩu là một đều rất nguy hiểm khi các quốc gia gặp phải khủng hoảng kinh tế
hay chiến tranh lúc đó thì nguồn cung sẽ bị thu hẹp, điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến nền kinh tế của quốc gia đó.
- Nguyên nhân chính trị:
Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là do hiện nay Trung Quốc đã
“đủ lực lượng” để “chiến đấu” với các cường quốc lớn trên thế giới.
Theo giáo sư Ngô Vĩnh Long, giảng viên khoa sử trường đại học Maine, bang
Maine, Hoa kỳ, thì hiện nay Trung Quốc đang thực hiện chiến lược bành chướng
thế lực của mình ra toàn thế giới và lợi dụng tình hình Mỹ đang trong thế yếu nên
“lấn tới”, nếu như Mỹ không có phản ứng gì các nước xung quanh sẽ khiếp sợ họ.
Cụ thể là ngày càng nhiều hành động xâm phạm của Trung Quốc trên Biển Đông
trong thời gian gần đây như cắp cáp tàu thăm dò của Việt Nam, bắt tàu cá của Việt
Nam, Philippin và buộc họ phải nộp phạt... Dường như Trung Quốc muốn biến
Biển Đông và khu vực Đông Nam Á trở thành sân sau của mình, đẩy sự ảnh hưởng

của Mỹ và đồng minh ra khỏi khu vực này.23
23

Nguồn. />
GVHD:ThS. Thạch Huôn

15

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

Bên cạnh đó, Biển Đông ngay từ xưa đã là vùng ảnh hưởng của Trung Quốc,
nước này là nước lớn có ảnh hưởng nhiều đến sự ổn định của thế giới cũng như là
chiến lược toàn cầu của Mỹ và các cường quốc khác, nên việc sử dụng Biển Đông
để răng đe của Trung Quốc là rất nguy hiểm cho các nước trong vùng Biển Đông,
đặc biệt là Việt Nam.
Ngày nay, cùng với sự phát triển về kinh tế thì tiềm lực quốc phòng của Trung
Quốc ngày càng lớn mạnh và trở thành một cường quốc quân sự trên thế giới. Vì
thế, ham muốn mở rộng quyền lực của Trung Quốc ngày càng thể hiện rõ ràng
bằng tuyên bố “đường lưỡi bò” thâu tóm gần 80% diện tích Biển Đông. Trung
Quốc tuyên bố ngân sách quốc phòng năm 2012 sẽ lần đầu tiên vượt mức 100 tỷ
USD – tăng 11,2% so với năm ngoái, đạt 670 tỷ nhân dân tệ (106,4 tỷ USD). Tuy
nhiên theo nhiều chuyên gia cho rằng con số trên là không thực tế và con số này
còn lớn hơn nhiều so với con số đã được công bố.
Chủ nghĩa dân tộc ở mỗi quốc gia cũng làm cho các tranh chấp kéo dài và khó giải
quyết hơn. Nếu các quốc gia đã tuyên bố chủ quyền hay quyền chủ quyền đối với
một vùng biển tranh chấp nào đó trong qúa khứ thì nay buộc phải giữ vững lập
trường của mình, khó có thể nhân nhượng nhau để đi đến giải quyết được tranh

chấp vì sức ép dư luận chính người dân của quốc gia.
- Nguyên nhân kinh tế chính trị:
Biển Đông có vị trí chiến lược rất quan trọng, kiểm soát được vùng biển này
đồng thời có ý nghĩa kiểm soát được tuyến giao thông lớn nhất nhì thế giới. Bất kỳ
nước nào kiểm soát được vùng biển này cũng có thể ngăn cản việc vận chuyển
hàng hóa qua đây và từ đó “bức tử” eo biển Malacca, các trung tâm kinh tế như
Singapor, Hồng Kông và các nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á (trong đó có Việt
Nam), đồng thời cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của các nước ở
Đông và Đông Bắc Á. Hiện nay, Trung Quốc sở dĩ muốn kiểm soát vùng Biển
Đông, một phần là muốn kiểm soát con đường vận chuyển huyết mạch đó. Thay vì
đi qua Biển Đông, các tàu vận chuyển có thể đi xuống phía Nam qua vùng biển của
Indonesia rồi ngược lên Đông Bắc Á. Tuy nhiên, sẽ tốn rất nhiều chi phí vận
chuyển.
Bên cạnh đó, nếu kiểm soát được vùng biển này sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng
về mặt quân sự. Đối với Trung Quốc việc kiểm soát này còn tạo ra một vùng đệm
an toàn về hải phận và không phận, đối phương không thể sử dụng vũ lực để tấn
công vào đại lục.

GVHD:ThS. Thạch Huôn

16

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

Giáo sư Alfred Mahan. Một sĩ quan quân đội Mỹ từng nói “muốn duy trì một hạm
đội mạnh thì cần có căn cứ để hạm đội neo và tiếp vận” hai quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa là những cứ điểm neo và tiếp vận tốt cho hải quân và không quân, cùng

với cảng Cam Ranh là những chốt giúp kiểm soát đường biển vào Ấn Độ Dương.
Chính những lợi ích to lớn trên đã kích thích thêm tham vọng địa chính trị của
nhiều nước, làm cho Biển Đông trở nên nổi sóng trong nhiều thập kỷ qua.

GVHD:ThS. Thạch Huôn

17

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

CHƢƠNG 2
VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN CÁC TRANH CHẤP ĐANG DIỄN RA TRÊN
BIỂN ĐÔNG HIỆN NAY
Tranh chấp trên Biển Đông hiện nay đang diễn biến khá phức tạp, tập trung
chủ yếu giữa Việt Nam và Trung Quốc nhưng không phải không có những chủ thể
khác, các quốc gia trong vùng tranh chấp đều đưa ra các yêu sách và đi kèm với đó
là những hành động nhằm thực hiện và bảo vệ các yêu sách của mình. Đặc biệt là
Trung Quốc, với lợi thế của một nước lớn nên những hành động được xem là “bảo
vệ chủ quyền” của họ diễn ra rất mạnh mẽ, đã tạo nên một diễn biến khá phức tạp
và căng thẳng cho tình hình cuộc tranh chấp. Việt Nam là một trong những quốc
gia có bờ biển dài giáp với Biển Đông, có những vùng biển chồng lấn với các nước
và đặc biệt là chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đang là đối tượng
tranh chấp của nhiều quốc gia. Vì vậy, khi nghiên cứu các tranh chấp cụ thể giữa
Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông, chúng ta có thể dự báo tình hình trong
tương lai như thế nào và có thể đưa ra những hành động phù hợp với tình hình
tranh chấp. Từ đó, chúng ta có thể tìm ra một giải pháp thích hợp nhất để giải quyết
các tranh chấp một cách hòa bình và đảm bảo quyền lợi giữa các bên tranh chấp,

hướng tới một khu vực hòa bình, an ninh và hợp tác.
2.1 Khái quát cuộc tranh chấp
2.1.1.Giai đoạn trước 1975
Năm 1816 vua Gia Long cho một đội thủy quân ra chiếm giữ Hoàng Sa một
cách chính thức. Năm 1921 khi chính phủ Trung hoa Dân quốc tuyên bố sát nhập
quần đảo Hoàng Sa vào đảo Hải Nam, từ đó bắt đầu sự tranh chấp giữa Trung Quốc
và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi
công hàm đến Bộ Ngoại giao Pháp cho rằng: “các đảo Tây Sa là bộ phận lãnh thổ
Trung Quốc xa nhất về phía Nam”. Năm 1935 lần đầu tiên Trung Quốc chính thức
tuyên bố một bản đồ có cả 4 quần đảo trên Biển Đông là của Trung Quốc (trong đó
có Hoàng Sa và Trường Sa). Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật đã rút khỏi
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và đặt các đảo vào tình trạng “không có
người” một lần nữa. Ngay sau đó, Pháp gửi đoàn khảo sát lại Hoàng Sa và Trường
Sa, trong khi nhắc lại yêu sách của An Nam đối với Hoàng Sa của Pháp đối với
Trường Sa, nhưng không lưu lại quân đồn trú. Cùng thời gian này, Trung Hoa Dân
Quốc của Tưởng Giới Thạch cũng gửi các đoàn khảo sát đến hai quần đảo và đã

GVHD:ThS. Thạch Huôn

18

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

đánh dấu chủ quyền thành lập sự hiện diện trên đảo Phú Lâm (ở phía Đông của
quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (Trường Sa).
Năm 1947, Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố chính phủ Trung
Quốc đã lấy lại các đảo Hoàng Sa và khôi phục lại chủ quyền của họ trên các đảo

này. Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc ban bố bản đồ với “đường lưỡi bò” bao
gần hết Biển Đông.
Năm 1949, Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc chạy Sang Đài Loan, nên
buộc phải rút quân ở Phú Lâm (Hoàng Sa) vào tháng 4 năm 1950 và Ba Bình
(Trường Sa) tháng 5 năm 1950. Ngày 14/10/1950, Pháp trao chủ quyền hai quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho chính phủ Bảo Đại.
Ngày 15/8/1951, Chu Ân Lai Thủ tướng Trung Quốc, tuyên bố: “các quần đảo Tây
Sa và Nam Sa cũng như các quần đảo Đông Sa và Trung Sa từ xưa đến nay là lãnh
thổ Trung Quốc”.
Phát biểu tại Hội nghị San Fransisco năm 1951, đại diện của Chính Phủ Bảo
Đại đã khẳng định chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Khi pháp rút khỏi Đông Dương Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa của Ngô Đình
Diệm đưa quân ra thay thế quân pháp trên các đảo thuộc nhóm phía Tây của quần
đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đảo chính của quần đảo Trường Sa đặt cột mốc và kéo
cờ của Việt Nam Cộng Hòa.
Năm 1958, Công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn
Đồng về tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ấn định chiều rộng lãnh hải
Trung Quốc 12 hải lý.
Năm 1974, lợi dụng Mỹ suy yếu ở Đông Dương, Trung Quốc dùng không quân và
hải quân đánh chếm nhóm đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam Cộng
Hòa chiếm đóng. Sau đó, tại Hội nghị Luật biển lần thứ 3 kỳ 2 tại Caracas, đại biểu
của chính phủ Việt Nam Cộng hòa tố cáo Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng
Sa bằng vũ lực, và khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam.24
2.1.2. Giai đoạn từ 1975 đến 2009
Năm 1976, Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính thức ra đời và
đã kế thừa yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, công
bố bản đồ của nước Việt Nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chiến tranh biên giới Việt – Trung nổ ra vào năm 1979 cả hai nước đều đưa ra lập
luận và căn cứ của mình về chủ quyền của hai quần đảo, phía Việt Nam đã tố cáo
24


Xem thêm: Nguyễn Quốc Thắng, Hoàng Sa – Trường Sa lãnh thổ Việt Nam nhìn từ Công pháp Quốc pháp
Quốc tế. Nhà xuất bản Tri Thức, 1988, Chương V.
GVHD:ThS. Thạch Huôn

19

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


Tranh chấp hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông – hướng giải quyết theo luật quốc tế

Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
vào ngày 19 và 20 tháng 1 năm 1974 và công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, giới thiệu thêm 19 tư liệu liên
quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo.
Năm 1988, đánh dấu một hành động dùng vũ lực của Trung Quốc để đánh chiếm
quần đảo Hoàng Sa khi đánh chìm 2 tàu lớn hải quân Việt Nam, bắn hỏng một tàu
khác làm chết và mất tích nhiều người. Ngay sau đó, Trung Quốc đặt bia chủ quyền
trên các đảo và bãi đá chiếm được của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa. Năm
1990, lãnh đạo hai nước Việt Nam và Trung Quốc ký sắc lệnh bình thường hóa
quan hệ sau nhiều xung đột.
Ngày 25/2/1992 Trung Quốc ban hành luật hàng hải và vùng tiếp giáp, ngày
15/6/1996 Trung Quốc tiếp tục ra quyết định về hệ thống đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải, trong đó quy định cả đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo
Hoàng Sa.
Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc đã liên tục có những hành động ngang ngược,
hóng hách, xâm phạm đến chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam trên lãnh
hải và thềm lục địa của Việt Nam, hàng năm còn ra lệnh cấm đánh bắt cá trên phạm
vi từ vĩ tuyến 120 Bắc trở lên trong thời gian 3 tháng, liên tục ký các hợp đồng khai

thác và thăm dò dầu khí trong vùng thềm lục địa của Việt Nam.
Việc Trung Quốc chiếm dải đá ngầm Vành Khăn dấy lên mối quan ngại sâu
sắc tại các nước Đông Nam Á, thúc đẩy ASEAN đoàn kết đấu tranh ngoại giao về
vấn đề Biển Đông. Các nổ lực ngoại giao đã dẫn đến việc ký kết Tuyên bố về ứng
xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa ASEAN và Trung Quốc, ngày 4/11/2002,
tại Phnom Penh.
Cuối năm 2007, Quốc Vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố
hành chính cấp huyện. Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam trực tiếp quản lý 3 quần đảo
trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bộ Ngoại giao Việt Nam chính
thức phản đối việc làm của Trung Quốc thông qua người phát ngôn. 25
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Từ mùa Thu 2008, Mỹ rơi vào tình trạng khủng hoảng, bị suy yếu về kinh tế
và đối ngoại (sa lầy vào trong hai cuộc chiến tranh). Tháng 3/2009, 5 tàu thuyền
Trung Quốc bao vây cản trở hoạt động của tàu nghiên cứu hải dương Impeccable
của hải quân Mỹ đang thu thập thông tin tình báo đáy biển ngoài khơi đảo Hải
25

Xem thêm: Nguyễn Quốc Thắng, Hoàng Sa – Trường Sa lãnh thổ Việt Nam nhìn từ Công pháp Quốc pháp
Quốc tế. Nhà xuất bản Tri Thức, 1988, Chương V.
GVHD:ThS. Thạch Huôn

20

SVTH: Nguyễn Nhã Phi


×