MSSV
5044047
HỌ TÊN
Trương Văn
Mạnh
TÊN ĐỀ TÀI
ĐIỂM
Trọng tài thương 8.5
mại trong tư pháp
quốc tế.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
---oOo---
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA 2004 - 2008
Đề tài:
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG
TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Giáo viên hướng dẫn:
Th.s Bùi Thị Mỹ Hương
GV: Bộ môn Kinh doanh thương mại
Sinh viên thực hiện:
Trương Văn Mạnh
Lớp: Luật Thương Mại – K30
MSSV: 5044047
Cần Thơ, 5/2008
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.Văn bản quy phạm pháp luật:
1. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày
25 tháng 02 năm 2003 về trọng tài thương mại.
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
3. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
4. Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng
dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại.
5. Công ước New York về việc công nhận và thi hành quyết định của trọng tài
nước ngoài năm 1958.
6. Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế (UNCITRAL) năm 1976.
II. Tài liệu nghiên cứu lý luận:
1. Những điều cần biết về tố tụng trọng tài; Luật sư. Phan Thông Anh; Tạp chí
Dân chủ và pháp luật; NXB Bộ tư pháp; Số chuyên đề trọng tài thương mại quốc
tế, 2005.
2. Quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực tư
pháp quốc tế; ThS. Nguyễn Bá Chiến; Tạp chí Nhà nước và pháp luật; NXB Viện
Nhà nước và pháp luật, Số 02, 2006.
3. Bài giảng Tư pháp quốc tế, Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Khoa Luật,
Trường Đại học Cần Thơ, 2002.
4. Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam với luật mẫu về trọng tài thương mại
của UNCITRAL, TS. Trần Thái Dương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 01,
2004.
5. Tranh chấp thương mại xử bằng trọng tài: Tại sao không?, Th. Dương, Báo
kinh tế và đô thị, 2007.
6. Trọng tài thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Dương Văn Hậu,
NXB Chính trị quốc gia, 1999.
7. Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế, Phan Huy Hồng, Báo Pháp
luật Việt Nam, Chuyên đề số 02, 2007.
8. Thủ tục giải quyết các yêu cầu liên quan đến hoạt động của trọng tài thương
mại Việt Nam, TS. Phan Chí Hiếu, Tạp chí Luật học, Số Đặc san về Bộ luật tố
tụng dân sự, 2005.
9. Về những điểm mới của Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Nguyễn Hồng
Tuyến, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2003.
10. Pháp lệnh Trọng tài thương mại – những thử thách phía trước, LS Trần Hữu
Huỳnh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 04, 2003.
11. Trọng tài thương mại – Phương thức mới giải quyết hiệu quả các tranh chấp
thương mại, Khắc Kiên, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 2007.
12. Về thẩm quyền của Trọng tài thương mại và những lưu ý trong hoạt động thụ
lý các tranh chấp có thoả thuận trọng tài, ThS. Nguyễn Thị Hằng Nga, Tạp chí
Luật học, Số 7, 2006.
13. Những điểm khác biệt về pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam so với
các nước trên thế giới, ThS. Nguyễn Đình Thơ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 09, 2006.
14. Một số ý kiến về Pháp lệnh trọng tài thương mại, Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí
Khoa học pháp lý, Số 02, 2003.
15. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng trọng tài
thương mại, ThS. Nguyễn Thị Hoài Phương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số
03, 2006.
16. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng trọng tài
thương mại, ThS. Nguyễn Thị Hoài Phương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số
03, 2006.
17. Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài thương mại tại Việt Nam,
TS. Nguyễn Trung Tín, NXB Tư pháp, 2005.
LỜI CẢM ƠN!
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Bùi Thị Mỹ Hương, người đã
tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này. Đồng
thời, tôi muốn gửi lời ảm ơn đến quý thầy cô trong Khoa Luật đã tạo nền tảng
kiến thức cho tôi trong suốt khóa học. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện
Khoa Luật Trường Đại học Cần Thơ, Thư viện Thành phố Cần Thơ đã giúp tôi
có được những tài liệu tham khảo có giá trị trong quá trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành gia đình và bạn bè - những
người đã động vên, giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, tháng 5 năm 2008
Sinh viên thực hiện
Trương Văn Mạnh
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế, quan hệ
thương mại quốc tế ngày càng mở rộng, khả năng phát sinh tranh chấp càng lớn,
không chỉ các dịch vụ pháp lý mà cả Nhà nước cũng phải bước vào những vấn đề
pháp lý không quen thuộc. Việc giải quyết tốt những tranh chấp phát sinh là một
trong những yếu tố thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và hội nhập, góp phần
xây dựng môi trường kinh doanh an toàn, bình đẳng, tạo tâm lý tốt cho các nhà
kinh doanh và đầu tư. Thế nhưng, một dịch vụ pháp lý quan trọng trong hoạt
động thương mại quốc tế là trọng tài thương mại vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
hội nhập nói trên. Hiện nay, vấn đề trọng tài thương mại nhất là trong lĩnh vực tư
pháp quốc tế đang thiếu trầm trọng cả lượng và chất. Vấn đề cần đặt ra hiện nay
là hoàn thiện hệ thống pháp lý của Việt Nam về trọng tài thương mại trong tư
pháp quốc tế sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước1.
Ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, việc giải quyết
tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế thương mại bằng trọng tài là một trong những
phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến. Với chủ trương phát triển kinh tế
và hội nhập, yêu cầu đổi mới toàn diện và sâu sắc các phương thức giải quyết
tranh chấp kinh tế, trong đó có hình thức trọng tài, là vấn đề cấp bách. Tuy nhiên,
nhìn chung, cho đến nay, các văn bản pháp luật hiện hành chưa thật sự tạo nên
một khung pháp lý đầy đủ, thông thoáng và phù hợp với các nguyên tắc của pháp
luật trọng tài thương mại quốc tế. Đồng thời, các văn bản bản này còn chứa nhiều
bất cập so với thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
Vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế được điều chỉnh chủ yếu
bởi Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH11, và một số văn bản khác có liên quan
như: Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của
pháp lệnh trọng tài thương mại, Bộ luật tố tụng dân sự 2004,… Có thể nói, Pháp
lệnh về trọng tài thương mại đã được ban hành hơn bốn năm, đã trở nên lỗi thời
không còn phù hợp với tình hình mới của đất nước. Một mặt, các quy định về
trong tài thương mại trong tư pháp quốc tế chưa được quy định thành một luật
riêng, các quy định còn tản mạn ở các văn bản pháp luật khác nhau nên không
thống nhất; mặt khác, các quy định giữa pháp luật Việt Nam và quốc tế về trọng
1
Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế, Phan Huy Hồng, Báo Pháp luật Việt Nam, Chuyên đề số
02, 2007.
tài thương mại còn nhiều vấn đề chưa tương thích, đã gây khó khăn cho hoạt
động của trọng tài khi tham gia giải quyết các vụ tranh chấp có yếu tố nước
ngoài. Nhìn chung, pháp luật về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế hiện
nay còn nhiều bất cập và trở thành rào cản đối với hoạt động của trọng tài.
Do đó, việc nghiên cứu và phân tích những vướng mắc về vấn đề trọng tài
thương mại trong tư pháp quốc tế là một vấn đề cấp bách nhằm góp phần tìm ra
giải pháp cho vấn đề này. Đó chính là lí do người viết chọn nội dung này làm
trọng tâm nghiên cứu của đề tài khóa luận: “Trọng tài thương mại trong tư pháp
quốc tế”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm tìm hiểu một cách tổng quát các quy định hiện
hành của Việt Nam về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế, đồng
thời phân tích những điểm còn vướng mắc trong các quy định đó.
Qua đề tài này, người viết hy vọng góp phần nhỏ trong việc tìm ra giải pháp
giải quyết vấn đề này từ việc phân tích các vấn đề tồn tại trong các quy định của
pháp luật Việt Nam.
3. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản bao gồm những nội dung cụ
thể sau:
Lời nói đầu
Chương 1: Tổng quan về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc
tế.
Chương 2: Một số vấn đề về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế
theo pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Một số vướng mắc trong quy định của pháp luật Việt Nam về
vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế.
Kết luận.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết vận dụng phương pháp duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân tích luật viết, so sánh, tổng
hợp khi xem xét những mặt còn hạn chế của pháp luật Việt Nam so với các quy
định của quốc tế về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế.
5. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về kiến thức pháp luật, nguồn tài liệu thực tiễn về các lĩnh vực
liên quan cũng như trong khuôn khổ của đề tài khóa luận nên người viết chỉ tập
trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản mang tính chất gợi mở cũng như những
hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề trọng tài thương
mại trong tư pháp quốc tế. Do đó, sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận
đượ sự phê bình góp ý của quý thầy cô, các bạn sinh viên và những người quan
tâm đến đề tài, để tôi rút kinh nghiệm và hiểu rõ hơn về vấn đề này.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1.1. Khái quát chung về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế
Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế khác với trọng tài thương mại
quốc gia. Trọng tài thương mại của quốc gia được thành lập theo pháp luật quốc
gia đó nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp trong phạm vi quốc gia. Trong khi
đó, trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế là trọng tài do các bên lựa chọn
hoặc thành lập nhằm giải quyết một tranh chấp nhất định nào đó trong thương
mại quốc tế. Tranh chấp này có thể có một bên hoặc các bên là người nước
ngoài; hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ có tranh chấp phát sinh
ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan ở nước ngoài. Các bên trong quan hệ phát
sinh tranh chấp có thể thỏa thuận chọn trọng tài của quốc gia mà một trong các
bên mang quốc tịch hoặc của quốc gia thứ ba để giải quyết. Theo pháp luật Việt
Nam, việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài được quy định như sau: Vụ
tranh chấp có yếu tố nước ngoài theo thoả thuận của các bên, có thể giải quyết
tại Hội đồng Trọng tài do Trung tâm Trọng tài tổ chức hoặc tại Hội đồng Trọng
tài do các bên thành lập theo quy định của Pháp lệnh trọng tài.
1.1.1.2. Thỏa thuận trọng tài
Về lý thuyết, thuật ngữ thỏa thuận trọng tài có thể đề cập tới hai loại thỏa
thuận là: điều khoản trọng tài, có trong hợp đồng ký kết giữa các bên; và thỏa
thuận trọng tài, các bên có thể lập vào thời điểm tranh chấp phát sinh và trong
trường hợp các bên không quy định điều khoản trọng tài trong hợp đồng.
Theo khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại: “Thoả thuận trọng tài
là thoả thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp
có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại” 2. Trong khi đó,
ở những nước theo luật châu Âu lục địa, cả hai khái niệm trên đều được định
nghĩa rõ ràng. Ví dụ: Ở Pháp, điều khoản trọng tài được gọi là “la clause
compromissoire” trong khi thoả thuận trọng tài thì gọi là “le compromis
d'arbitrage”.
2
Khoản 2, Điều 2, Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 về trọng tài
thương mại.
Hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài đặc biệt quan trọng. Nhìn chung, các
nguyên tắc pháp lý được áp dụng để xác định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài là
những nguyên tắc được sử dụng trong việc xác định hiệu lực của một hợp đồng
thương mại thông thường; bởi thực tế thỏa thuận trọng tài thường dưới dạng một
điều khoản của hợp đồng thương mại. Điều khoản trọng tài thường được điều
chỉnh bởi luật điều chỉnh những điều khoản còn lại của hợp đồng và hiệu lực của
điều khoản trọng tài sẽ được xem xét theo luật đó. Tuy nhiên, có thể điều khoản
trọng tài được điều chỉnh bởi một luật trong khi phần còn lại của hợp đồng được
điều chỉnh bởi một luật khác.
Thông thường, vấn đề về hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài được một
trong các bên nêu ra vào một giai đoạn nào đó trong quá trình tố tụng trọng tài.
Khi bắt đầu tố tụng trọng tài, một bên có thể tìm kiếm khước từ thỏa thuận trọng
tài với lý do thỏa thuận đó không có hiệu lực. Bên bị tố tụng trọng tài chống lại
sẽ là bên đưa ra khước từ. Sự khước từ có thể đưa ra chính ủy ban trọng tài hoặc
một toà án có thẩm quyền xem xét quyết định.
1.1.2. Đặc điểm
1.1.2.1. Phát sinh khi có thỏa thuận
Một điều khoản trọng tài soạn thảo không rõ ràng, hoặc không đầy đủ sẽ đi
ngược lại sự mong đợi của các bên, những người phải nhờ đến trọng tài.
Giống như tòa án quốc gia, trọng tài cũng là một phương thức tài phán giải
quyết tranh chấp thương mại. Nhưng trọng tài là một phương thức giải quyết
tranh chấp riêng tư và bí mật, dựa trên thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung
là “không có thỏa thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng
trọng tài”. Trừ một số ngoại lệ, các bên phải thỏa thuận trong hợp đồng là sử
dụng phương thức này, và xác định chi tiết các quy tắc điều chỉnh tố tụng (chỉ
định trọng tài viên, v.v...) hoặc dựa vào các quy tắc tố tụng trọng tài của một tổ
chức trọng tài thường trực. Ngoài việc thỏa thuận giải quyết tranh chấp phát sinh
bằng trọng tài, các bên còn có thể thỏa thuận về các vấn đề như: luật áp dụng,
thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, ngôn ngữ dùng trong xét xử,…
1.1.2.2. Thủ tục giải quyết đơn giản
Nhìn chung, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thủ tục giải quyết
đơn giản, đảm bảo giải quyết nhanh chóng các tranh chấp, tiết kiệm thời gian của
các bên. Tố tụng trọng tài được đánh giá là linh hoạt, đảm bảo tốt hơn quyền định
đoạt của các bên trong vụ tranh chấp, cụ thể là: tự quyết định chọn hình thức
trọng tài là ad-hoc hay thể chế, tổ chức trọng tài cũng như trọng tài viên mà mình
tin tưởng, thời gian, địa điểm giải quyết,…
Trong tố tụng trọng tài, các bên có thể tự do thay đổi thủ tục theo mong
muốn và yêu cầu của mình trong giới hạn của luật áp dụng liên quan. Thông
thường, ủy ban trọng tài sẽ phải tính đến mong muốn và nguyện vọng của các
bên khi tiến hành tố tụng.
Trong trọng tài quốc tế, tính độc lập của các bên được thể hiện rất rõ. Các
bên tự do thiết lập thủ tục tố tụng bằng cách dẫn chiếu quy tắc tố tụng trọng tài
sẵn có hoặc soạn thảo quy tắc của riêng họ. Các bên có thể chọn trọng tài viên, ấn
định thời hạn hoặc để bên thứ ba ấn định thời hạn. Các bên tự do thỏa thuận về
luật áp dụng cho nội dung và luật áp dụng cho thủ tục trọng tài. Các bên cũng tự
do xác định ngôn ngữ dùng trong xét xử trọng tài và trong tài liệu đệ trình,
phương pháp thu thập chứng cứ và lịch trình tố tụng. Tuỳ thuộc vào thỏa thuận
giữa các bên, cách tiến hành tố tụng trọng tài có thể khác hoặc không khác cách
tiến hành tố tụng tại một toà án quốc gia. Có thể nhận thấy rằng, các quy tắc tố
tụng trọng tài thường linh hoạt hơn và ít thủ tục hơn các quy tắc của pháp luật
quốc gia.
Hơn nữa, do phán quyết của trọng tài là chung thẩm và bên thua kiện không
được chống án, vì trọng tài thương mại chỉ đứng ra xét xử khi cả hai bên đương
sự chấp nhận và thành lập ra để xét xử 3. Việc chấp nhận và thành lập ra trọng tài
thể hiện hai bên đương sự tự nguyện và tin tưởng vào sự công bằng của trọng tài
thể hiện ở phán quyết của cơ quan xét xử này. Vì vậy, khi trọng tài ra phán quyết
cuối cùng, nó có giá trị chung thẩm và bắt buộc thi hành, trừ trường hợp quyết
định trọng tài bị tòa án quốc gia hủy theo quy định của pháp luật. Các bên đương
sự không phải đối mặt với những thủ tục chống án kéo dài tốn nhiều thời gian,
công sức như trong tố tụng tòa án. Giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát
sinh luôn được sự ưa chuộng của các doanh nghiệp trong nến kinh tế thị trường
hiện nay.
1.1.2.3. Trọng tài không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị
Bên cạnh những ưu điểm trên, trọng tài thương mại còn được lựa chọn bởi
tính độc lập của nó với các yếu tố chính trị. Trọng tài không đại diện cho quyền
lực nhà nước do vậy rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp mà các bên có quốc
tịch khác nhau (toà án nói là được độc lập nhưng cũng dễ bị chi phối bởi quyền
lợi dân tộc, do đó các bên tranh chấp có quốc tịch khác nhau thường không thích
3
Bài giảng Tư pháp quốc tế, Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ,
2002.
chọn toà án của nhau). Họ thường thích chọn trọng tài, nhất là trọng tài của nước
thứ ba để đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết tranh chấp.
Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại có thể áp dụng luật của một
quốc gia nào đó do các bên thỏa thuận hoặc không áp dụng luật của bất kỳ quốc
gia nào, trọng tài có thể đưa ra phán quyết dựa trên tập quán thương mại quốc tế.
Vì vậy, các bên trong vụ tranh chấp có thể yên tâm khi phán quyết đưa ra dựa
trên những căn cứ mà họ cho rằng có lợi nhất cho mình.
1.1.2.4. Xét xử không công khai
Có thể thấy, tính bí mật áp dụng cho trọng tài thường bảo đảm sự tĩnh lặng
hơn trong tố tụng so với một toà án quốc gia, nơi mà những phiên xét xử là công
khai. Nguyên tắc xét xử không công khai, tức là không ai có quyền tham dự
phiên họp xét xử nếu không được sự đồng ý của các bên, đồng thời, phán quyết
trọng tài cũng không được công bố rộng rãi. Cơ chế này đảm bảo bí mật kinh
doanh và uy tín nghề nghiệp cho các thương nhân có liên quan tới vụ tranh chấp.
Có thể nói đây là một trong những đặc điểm thu hút ngày càng nhiều doanh
nhân lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
hoạt động của mình. Thông thường, các doanh nghiệp không muốn cho các đối
tác khác biết về tình hình kinh doanh của họ nhất là khi đang xảy ra tranh chấp.
Điều đó sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến việc kinh doanh cũng như uy tín của doanh
nghiệp. Việc xét xử công khai, một mặt có thể tiết lộ bí mật kinh doanh của
doanh nghiệp; mặt khác việc đưa tin về vụ tranh chấp của báo chí đôi khi không
khách quan. Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp họ luôn mong muốn giải quyết nhanh
chóng và hạn chế đến mức thấp nhất việc đồn thổi những thông tin đó ra bên
ngoài. Đáp ứng được yêu cầu đó, trọng tài trở thành phương thức giải quyết được
lựa chọn.
1.1.2.5. Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm
Về nguyên tắc, phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và bên thua kiện
không được chống án. Cơ hội để bác phán quyết trọng tài thường bị giới hạn bởi
các thiếu sót thủ tục căn bản. Phán quyết chung thẩm là phán quyết cuối cùng,
giải quyết chung thẩm mọi vấn đề được chuyển cho ủy ban trọng tài. Phán quyết
có tác dụng phân xử giữa các bên, đồng thời phán quyết cuối cùng sẽ chấm dứt
tranh chấp giữa các bên. Một khi phán quyết được ban hành, ủy ban trọng tài sẽ
hết trách nhiệm bởi ủy ban trọng tài đã hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Các phán quyết của trọng tài sẽ đương nhiên có hiệu lực thi hành nếu như
bên thua kiện không yêu cầu tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài. Cần lưu ý
là tòa án chỉ có quyền hủy phán quyết trọng tài theo thủ tục hủy phán quyết trọng
tài, trong đó tòa án không xem xét lại sự việc mà chỉ xem xét việc tuân thủ các
điều kiện và thủ tục tố tụng. Một khi phán quyết của trọng tài có hiệu lực, nó có
giá trị bắt buộc thi hành như một bản án. Nếu, bên thua kiện không tự nguyện thi
hành thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm thi hành án của quốc
gia đảm bảo việc thi hành.
1.2. Cơ sở lý luận về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế
1.2.1. Lược khảo về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế các nước
trên thế giới
Trên thế giới, nhất là ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển, giải quyết
tranh chấp thông qua trọng tài là hình thức được các doanh nghiệp ưa chuộng
nhất. Vì vậy, hình thức tố tụng trọng tài đã được hình thành và phát triển từ rất
sớm ở các quốc gia này. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu các quy định pháp lý về
trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế ở một số nước trên thế giới, cụ thể là
luật trọng tài Mỹ và luật trọng tài Pháp.
1.2.1.1. Luật trọng tài Mỹ
Vào khoảng nửa thế kỉ XIX, việc phân xử thông qua Trọng tài đã ra đời ở
Mỹ. Hiện nay, việc phân xử bằng trọng tài càng trở nên phổ biến đặc biệt là trong
các tranh chấp quốc tế.
Nhìn chung, việc phân xử bằng trọng tài ở Liên bang Hoa kỳ được điều
chỉnh bởi Luật trọng tài Hoa kỳ (FAA). FAA là nền tảng cho các luật về hàng
hải, ngoại thương, và luật áp dụng cho các tiểu bang. FAA gồm có ba chương,
trong đó chương III được dành riêng cho các quy định về thương mại quốc tế.
Ngoài Luật liên bang, hầu hết các tiểu bang đều có quy chế trọng tài riêng. Ở
hầu hết các tiểu bang Hoa Kỳ đều có sự tiếp nhận Luật Mẫu UNCITRAL về
trọng tài thương mại quốc tế với mục đích tạo ra một luật trọng tài quốc tế hấp
dẫn cho các tranh chấp quốc tế.
Khi có sự xung đột luật giữa luật tiểu bang với liên bang, theo Hiến pháp
Hoa Kỳ, các luật tiểu bang không được xung đột với luật Liên bang và được xem
như theo đuổi cùng một chính sách với Luật liên bang. Sự xung đột này được giải
quyết bởi các quyết định của tòa án, các hiệp ước và các điều lệ. Các quyết định
của tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích và trình bày các luật trọng
tài, đặc biệt là trọng tài thương mại quốc tế.
Hoa Kỳ là thành viên của Công ước NewYork 1958 về công nhận và thi
hành các phán quyết trọng tài nước ngoài. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn tham gia các
công ước khác như: Công ước 1965 về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Nhà
nước và công dân của quốc gia khác, Công ước liên bang Hoa Kỳ 1975 về trọng
tài thương mại quốc tế.
Tổ chức trọng tài hàng đầu ở Hoa Kỳ là Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ (AAA),
được thành lập vào năm 1926. Luật trọng tài quốc tế của AAA được thông qua
ngày 1/3/1991 và được sử dụng phổ biến cho các vụ kiện quốc tế. Nhìn chung,
luật trọng tài quốc tế của AAA cũng có sự tiếp nhận Luật mẫu UNCITRAL ở
việc ủy quyền và cung cấp các dịch vụ hành chính cho phân xử trọng tài. Ngoài
AAA, Hoa Kỳ còn rất nhiều tổ chức thương mại và tổ chức chuyên môn, các
trung tâm giải quyết tranh chấp thực hiện và thúc đẩy sự phát triển của việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Chúng ta có thể xem xét một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ về trọng tài
thương mại trong tư pháp quốc tế. Trước tiên, về thỏa thuận trọng tài, theo luật
của FAA, các tranh chấp về lao động không giải quyết bằng trọng tài. Năm 1974,
tòa án tối cao Hoa Kỳ đã mở rộng giới hạn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
qua lĩnh vực giao dịch quốc tế. Kế đến, mặc dù các quy định của pháp luật không
chú ý đến quyền lực của trọng tài viên trong việc yêu cầu các biện pháp bảo vệ
tạm thời, nhưng thực tế người ta thường làm thế. Theo Luật của Hiệp hội trọng
tài Hoa Kỳ (AAA) quy định, cho phép các trọng tài viên bảo tồn tài sản, không
làm thiệt hại đến quyền của các bên tranh chấp và quyết định cuối cùng của sự
tranh chấp. Việc thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài ở Mỹ, nhìn chung,
được điều chỉnh bởi các hiệp ước mà phổ biến nhất là Công ước 1958 về công
nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Sự thực thi phán quyết
của trọng tài được FAA quy định từ điều 201 đến điều 208. Theo quy định của
Điều 207, các bên tranh chấp có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền ra quyết
định thi hành phán quyết theo tinh thần của công ước trong thời hạn ba năm, kể
từ ngày phán quyết chính thức được đưa ra. Phán quyết này được công nhận,
ngoại trừ tòa án tìm thấy một trong những căn cứ từ chối việc thực hiện theo
công ước. Tòa án có thể bắt buộc thi hành phân xử trọng tài phù hợp với thỏa
thuận trọng tài, ở bất kỳ nơi nào mà thỏa ước được ký, ngay cả bên ngoài Hoa Kỳ
(Điều 206). Những điều khoản của FAA chỉ được áp dụng khi những điều khoản
này không trái với những quy định của công ước (Điều 208). Thông thường,
những phán quyết của tòa án làm tăng tính hiệu lực thi hành của phán quyết trọng
tài và duy trì tinh thần của công ước. Trong trường hợp thiếu một
công ước đa phương, việc thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài có thể được
thực hiện theo một hiệp ước song phương trong tình hữu nghị mà Hoa kỳ là
thành viên.
1.2.1.2. Luật trọng tài Pháp
Trước năm 1980, luật trọng tài Pháp được đặt trong Bộ luật dân sự, về cơ
bản giống như từ thời nó được ban hành vào năm 1806. Năm 1980 và 1981, luật
mới về trọng tài được ban hành với mục đích cải tiến những quy định về vấn đề
này. Luật trọng tài Pháp quy định riêng rẻ hai chế độ trọng tài trong nước và
trọng tài quốc tế, không đặt ra sự cản trở nào cho trọng tài quốc tế, ngoại trừ sự
khẩn cấp của chính sách quốc tế chung.
Pháp là thành viên của nhiều công ước đa phương như: Nghị định thư
Giơnevơ về điều khoản trọng tài năm 1923; Công ước Giơnevơ về thi hành phán
quyết trọng tài năm 1927; Công ước New York về công nhận và thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài năm 1958;… Ngoài ra, Pháp còn là thành viên của
nhiều hiệp ước song phương với điều kiện nhờ đến phân xử bằng trọng tài và thi
hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Theo quy định của Bộ luật dân sự Pháp, xét xử trọng tài mang tính quốc tế
khi tranh chấp có sự giao dịch thương mại quốc tế. Trong khi đó không có một
nguyên tắc nào đưa ra để giải thích điều khoản này. Có những đòi hỏi không theo
quy định của luật cho một thỏa thuận trọng tài quốc tế. Những điều khoản riêng
đưa ra cho các bên tranh chấp có thể xác định những hình thức bề ngoài của
những điều khoản trọng tài trong thỏa ước của họ. Những yêu cầu về điều khoản
thi hành phán quyết của trọng tài quốc tế như là một sự tồn tại của chứng cứ và
giá trị pháp lý của một phán quyết, một bên tranh chấp có thể yêu cầu thi hành
nguyên bản phán quyết được đưa ra. Về phạm vi của phân xử trọng tài bao gồm
các vấn đề thương mại. Một thỏa ước trọng tài quốc tế có thể chỉ định trọng tài
viên hoặc ghi rõ phương pháp chỉ định trọng tài. Nếu như phân xử trọng tài ở
Pháp hoặc đưa ra xét xử theo luật của Pháp, các bên tranh chấp có thể nhờ đến
tòa án của Pháp chỉ định trọng tài viên căn cứ vào Điều 1493, Bộ luật dân sự.
Trong phân xử các tranh chấp quốc tế, các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng để
giải quyết tranh chấp. Các bên có thể lựa chọn luật của bất kỳ quốc gia nào, thậm
chí cả tập quán thương mại và những nguyên tắc pháp lý chung. Nếu các bên
không có thỏa thuận thì trọng tài viên sẽ quyết định. Trong phân xử trọng tài
quốc tế tại Pháp hoặc áp dụng luật của Pháp, các bên tranh chấp có thể nhờ đến
tòa án tối cao ở Paris xét xử (Điều 1493). Không có một điều khoản nào quy định
về kháng cáo hoặc hủy bỏ những phán quyết được đưa ra ở bên ngoài nước Pháp.
Trong trường hợp phán quyết được đưa ra ở Pháp trong một vụ phân xử trọng tài
quốc tế có thể đặt bên ngoài nền tảng của phân xử trong nước (phán quyết trọng
tài trong nước có thể bị kháng cáo lên Tòa án tối cao, nơi những người có thẩm
quyền ra phán quyết cuối cùng). Để đạt được sự cho phép thi hành một phán
quyết của trọng tài nước ngoài, bảng sao chép của phán quyết và thỏa ước trọng
tài phải được đặt cùng với tòa án có thẩm quyền (Điều 1477). Trong trường hợp
từ chối thi hành phán quyết thì tòa án phải đưa ra những lý do quy định tại
Điều1478. Một quyết định từ chối công nhận, thi hành phán quyết sẽ bị kháng
cáo trong khoảng thời gian một tháng, kể từ ngày phán quyết được đưa ra (Điều
1489). Một phán quyết trọng tài nước ngoài sẽ được công nhận ở Pháp nếu sự tồn
tại của nó là được thiết lập trên những nguyên tắc cơ bản.
1.2.2. Sự cần thiết của trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay và trong bối cảnh Việt Nam đã hội
nhập vào nền kinh tế thế giới, tranh chấp kinh tế được xem là một thuộc tính
mang tính quy luật. Vì vậy, Việt Nam rất cần có những cơ quan tài phán, không
chỉ toà án mà cả trọng tài quốc tế, có đầy đủ năng lực để giải quyết những tranh
chấp về kinh doanh thương mại ngày một gia tăng và phức tạp. Vì vậy, vấn đề
phát triển các dịch vụ pháp lý để giải quyết hiệu quả các tranh chấp là nhu cầu
hết sức bức thiết. Một trong những dịch vụ pháp lý được ưa chuộng, giải quyết
nhanh chóng và hiệu quả các tranh chấp, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại, là trọng tài thương mại. Tuy nhiên, trước sự phát triển và nhu cầu
hội nhập của đất nước, tổ chức trọng tài thương mại Việt Nam vẫn còn thiếu và
yếu về nhiều mặt. Trọng tài thương mại Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu
cầu cho quá trình hội nhập là do, thứ nhất, Việt Nam chưa có một khung pháp lý
hoàn chỉnh về trọng tài; thứ hai, đội ngũ trọng tài viên Việt Nam còn yếu kém về
trình độ chuyên môn, nhất là khi tham gia giải quyết các tranh chấp có yếu tố
nước ngoài;…
Để đảm bảo cho quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và giải quyết
hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, sự cần
thiết của trọng tài thương mại là không thể phủ nhận.
1.2.2.1. Đảm bảo quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam
Đặc điểm được xem là tất yếu của nền kinh tế thị trường là thúc đẩy quá
trình mua bán trao đổi hàng hóa phát triển ngày càng mạnh. Trong khung cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, hoạt động thương mại luôn có xu hướng vượt ra khỏi
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Các hoạt động thương mại xuyên quốc gia
thực sự tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong nước với
doanh nghiệp nước ngoài và giữa các doanh nghiệp nước ngoài với nhau trong
quá trình tìm kiếm thị phần. Bên cạnh sự tìm kiếm thị trường, lôi kéo khách
hàng, các doanh nghiệp còn đảm bảo cho mục đích lợi nhuận của mình. Vì vậy,
bên cạnh sự cạnh tranh, các doanh nghiệp phải hợp tác với nhau để thỏa mãn nhu
cầu tiêu dùng của khách hàng. Tuy nhiên, với mục đích theo đuổi lợi nhuận, giữa
các doanh nghiệp luôn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tranh chấp. Thực tế, các tranh
chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại ngày càng gia tăng và càng phức
tạp. Vì vậy, các doanh nghiệp luôn cần những biện pháp tài phán hiệu quả, nhanh
chóng để giải quyết kịp thời khi có tranh chấp phát sinh.
Hiện nay, tranh chấp thương mại có thể giải quyết theo một trong hai cách
sau: thông qua các phương thức mang tính tài phán hoặc thông qua các phương
thức không mang tính tài phán. Các phương thức mang tính tài phán đơn thuần
đề cập đến tranh tụng tại toà án quốc gia và trọng tài. Cả toà án và ủy ban trọng
tài đều có quyền ban hành phán quyết không chỉ có giá trị ràng buộc đối với các
bên trong vụ tranh chấp mà còn buộc bên thua kiện phải thi hành. Các phương
thức không mang tính tài phán đề cập đến các phương thức giải quyết tranh chấp
lựa chọn như hoà giải hoặc trung gian. Không giống như phán quyết của toà án
quốc gia hay ủy ban trọng tài, biện pháp giải quyết, nếu có, của phương thức
trung gian hoặc hoà giải không có giá trị ràng buộc đối với các bên. Khả năng
các bên không tuân theo biện pháp giải quyết đó, tuỳ thuộc vào ý chí của mình, là
rất cao.
Tuy nhiên, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên nên căn
cứ vào từng loại hợp đồng vì nhìn chung mỗi phương thức điều có những ưu
điểm riêng. Ví dụ, đối với những hợp đồng nợ vay đơn giản thì nhờ tòa án giải
quyết là cách tốt nhất; còn đối với những hợp đồng thương mại phức tạp, đòi hỏi
chuyên môn cao thì nên chọn trọng tài. Để có thể lựa chọn một phương thức giải
quyết tranh chấp hữu hiệu nhất, chúng ta sẽ cùng phân tích những ưu nhược điểm
của từng loại theo quy định của pháp luật hiện hành cũng như về mặt lí luận.
• Đầu tiên, là biện pháp hòa giải. Có thể nói, thủ tục hoà giải nhằm đưa các
bên cùng hướng tới người thứ ba được chính các bên lựa chọn để giải
quyết tranh chấp. Nếu hòa giải thành công, thỏa thuận giải quyết được ghi
thành biên bản hòa giải có chữ ký của các bên và hòa giải viên. Trong quá
trình hòa giải, hòa giải viên luôn cố gắng, với thỏa thuận trước giữa các
bên, để trình bày cho các bên thấy những cái gì được coi là triển vọng tốt
đẹp nhất và từ đó hòa giải các quan điểm khác nhau, và vì vậy, chuyển
một tình huống từ tranh chấp thành sự hòa giải. Tuy nhiên, giải pháp này
chỉ có thể tiến hành và đạt được hiệu quả trong trường hợp các bên đương
sự đều có thiện chí mong muốn hòa giải. Trong trường hợp, một bên
không tỏ ra có thiện chí, giải pháp này sẽ không đạt được kết quả.
• Tiếp theo, cũng là một phương thức không mang tính tài phán, đó là trung
gian. Trung gian có thể định nghĩa như một biến thể của hòa giải khi cố
gắng dàn xếp tranh chấp được thực hiện bởi bên thứ ba - nhà trung gian người xem xét khiếu kiện của các bên và giúp các bên đàm phán để giải
quyết tranh chấp. Nhìn chung, vai trò của hòa giải viên là đưa ra những lời
khuyên bằng lời nói hoặc bằng văn bản để các bên tự đi đến sự thỏa thuận,
trong khi đó, vai trò của nhà trung gian thiên về thuyết phục các bên tìm ra
một phương pháp giải quyết tranh chấp thân thiện. Nhà trung gian cũng có
thể đưa ra nhiều giải pháp để giải quyết tranh chấp cho các bên lựa chọn.
Có thể thấy vai trò của người trung gian thể hiện đậm nét hơn trong sự
thỏa thuận của các bên. Nhưng cũng giống như hòa giải, trung gian chỉ có
thể đạt được kết quả khi có sự hợp tác của các bên trong vụ tranh chấp.
• Đối với biện pháp tố tụng tại tòa án quốc gia, nhất là trong hoạt động
thương mại quốc tế, thường ít được lựa chọn vì những lí do sau:
- Thứ nhất, vì một lý do rất dễ thấy là không bên nào mong muốn
đưa tranh chấp ra giải quyết tại toà án quốc gia của bên kia, vì vậy
thông thường các loại điều khoản “tòa án” trong hợp đồng không
được sử dụng phổ biến. Khi tranh chấp xảy ra, vấn đề là phải xác
định tòa án nào có thẩm quyền giải quyết bằng cách áp dụng các
quy tắc xung đột luật về thẩm quyền pháp lý có liên quan hoặc
bằng cách xem xét các hiệp định song phương hoặc đa phương có
thể áp dụng. Khi đó, một tòa án quốc gia có thể khước từ thẩm
quyền và trên cơ sở các quy tắc xung đột luật của quốc gia đó,
chuyển vụ việc cho tòa án của một quốc gia khác sau khi bị đơn
kiện về việc thiếu thẩm quyền của tòa án đầu tiên. Việc này sẽ
không chỉ trì hoãn một cách đáng kể thủ tục tố tụng mà còn gây ra
chi phí tốn kém do liên tiếp tiến hành kiện tụng tại các tòa án của
các quốc gia khác nhau. Nhìn chung, các bên cũng không muốn
giải quyết tranh chấp tại tòa án của nước thứ ba vì nhiều lý do. Ví
dụ: sự không phù hợp khi đưa tranh chấp được điều chỉnh bởi một
hệ thống pháp luật cho các thẩm phán mà trình độ chuyên môn và
giáo dục của họ lại thuộc một hệ thống luật pháp khác; hợp đồng và
các thư từ liên quan tới tranh chấp phải dịch sang ngôn ngữ của
thẩm phán quốc gia được chọn - tương tự, các cuộc thảo luận phải
tiến hành bằng ngôn ngữ này - các bên và những người tham gia tố
tụng sẽ gặp một số bất tiện; nếu tòa án có thẩm quyền của một quốc
gia không tham gia vào hiệp định song phương hoặc đa phương về
công nhận và thi hành các quyết định pháp lý, các bên có thể rất
khó khăn để thực hiện phán quyết đã ban hành,…
- Thứ hai, nhìn chung thủ tục tố tụng tại tòa án tốn nhiều thời gian và
phức tạp. Phần lớn các doanh nghiệp đều có tâm lý ngại phải đối
mặt với những thủ tục tố tụng phức tạp tốn nhiều thời gian, chi phí
và công sức đi lại vì ngoài hợp đồng phát sinh tranh chấp, họ còn
rất nhiều hợp đồng khác để giải quyết. Vì vậy, họ cần có một thủ
tục đơn giản giải quyết nhanh chóng và có hiệu quả những tranh
chấp phát sinh. Hơn nữa, thậm chí khi tòa án đã đưa ra phán quyết,
bên thắng kiện vẫn phải đối mặt với các thủ tục chống án sau đó
của bên thua kiện. Vì vậy, để theo đuổi một vụ kiện cho đến khi có
phán quyết cuối cùng, đôi khi doanh nghiệp phải tốn kém chi phí
cao hơn rất nhiều so với số tiền được bồi thường.
- Cuối cùng, là nguyên tắc xét xử công khai của tòa án đã khiến các
doanh nghiệp phải suy nghĩ khi lựa chọn phương thức này. Các
doanh nghiệp luôn mong muốn giữ gìn bí mật kinh doanh cũng như
uy tín trên thương trường. Việc phát sinh tranh chấp, mặc dù ngoài
mong muốn của doanh nghiệp, nhưng ít nhiều khiến cho các đối tác
khác có tâm lý thận trọng hoặc nghi ngờ về tính trung thực của
doanh nghiệp.
Với những lý do trên, tòa án thường là sự lựa chọn sau cùng khi mà những
giải pháp khác không thể giải quyết các tranh chấp như mong muốn của các
doanh nghiệp.
• Cuối cùng là phương thức tố tụng trọng tài. Như đã phân tích ở những
phần trên, tố tụng trọng tài là phương thức giải quyết tối ưu nhất vì nó là
tập hợp những ưu điểm mà các doanh nghiệp ưa chuộng như: thủ tục tố
tụng đơn giản giải quyết vụ tranh chấp nhanh gọn, tiết kiệm được nhiều
thời gian và chi phí; tố tụng trọng tài nói chung là không công khai, giữ
được bí mật và uy tín cho các bên đương sự; các phán quyết của trọng tài
có giá trị chung thẩm và có giá trị bắt buộc thi hành,… .
Từ sự phân tích trên, người viết nhận thấy, trọng tài thương mại nhất là trong
việc giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài là một dịch vụ pháp lý quan
trọng cần được phát triển. Trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của tổ chức
thương mại thế giới, quá trình hội nhập kinh tế đã và đang diễn ra một cách mạnh
mẽ, đồng thời cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xảy ra tranh chấp trong quá trình
theo đuổi lợi nhuận của các doanh nghiệp. Vì vậy, nhu cầu giải quyết các tranh
chấp thương mại quốc tế đã trở nên cấp thiết. Để đảm bảo quá trình hội nhập
cũng như môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng giữa các doanh nghiệp,
rất cần một tổ chức có trình độ chuyên môn cả về lí luận và thực tiễn giải quyết
tranh chấp một cách khách quan, phản ánh đầy đủ quyền và lợi ích của các bên.
Tổ chức đó chính là trọng tài thương mại. Sự ra đời của tổ chức trọng tài thương
mại nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doang thương
mại là điều phù hợp và tất yếu trong khung cảnh Việt Nam tham gia hội nhập với
thế giới.
1.2.2.2. Đa dạng hóa các cơ quan giải quyết tranh chấp - Góp phần giải
quyết hiệu quả các tranh chấp về kinh doanh thương mại
Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã tác động sâu sắc tới đời sống
kinh tế, xã hội và pháp luật. Sự chuyển hướng của nền kinh tế sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa khiến cho các tranh chấp trong lĩnh vực kinh
tế ngày càng đa dạng và cần được giải quyết theo các phương thức mới phù hợp.
Các tranh chấp này có thể được giải quyết bằng thương lượng, hoà giải giữa các
bên, bằng tòa án hoặc bằng trọng tài. Phần lớn các tranh chấp thương mại, đầu tư
trên thế giới, nhất là các tranh chấp thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài,
được giải quyết theo con đường trọng tài nếu các bên thương lượng hoặc hòa giải
không thành. Điều này xuất phát từ những ưu việt của hình thức giải quyết bằng
trọng tài so với tòa án: nhanh chóng, mềm dẻo, đỡ tốn kém, đảm bảo uy tín và
đảm bảo bí mật kinh doanh.
Tuy vậy, để trọng tài phi chính phủ (trọng tài thương mại) phát huy được các
mặt lợi đó, nhà nước cần vừa đảm bảo các điều kiện phù hợp cho việc thành lập
và hoạt động của trọng tài thương mại, vừa đảm bảo cho các quyết định mà nó
đưa ra đáp ứng các yêu cầu của pháp luật được công nhận và cho thi hành. Có
được các đảm bảo đó, trọng tài mới thực sự là một công cụ của thương mại đảm
bảo cho việc thi hành các hợp đồng đã được ký kết. Chính vì vậy, trong những
năm qua, Nhà nước ta đã ban hành, bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật; ký
kết, tham gia nhiều điều ước quốc tế liên quan đến việc công nhận và thi hành tại
Việt Nam quyết định của trọng tài thương mại nước ngoài. Điều đó đã thể hiện tư
duy đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, trong thời buổi hội nhập việc tạo ra càng
nhiều phương thức giải quyết tranh chấp để các doanh nghiệp, nhà đầu tư lựa
chọn là phù hợp với xu thế chung của thế giới.
Sau khi gia nhập Tổ chức kinh tế thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam phải
đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là các tranh chấp phát sinh trong hoạt động
kinh doanh. Các dịch vụ pháp lý của Việt Nam phải giải quyết một khối lượng
công việc tăng gấp nhiều lần và ngày càng phức tạp. Vì vậy, Việt Nam rất cần có
những cơ quan tài phán, không chỉ tòa án mà cả trọng tài quốc tế, có đầy đủ năng
lực để giải quyết hiệu quả những tranh chấp đó.
Có thể nhận thấy, trọng tài thương mại quốc tế là phương pháp hữu hiệu nhất
có thể chia xẻ công việc với tòa án quốc gia trong việc giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Bên cạnh những ưu thế của
mình cùng với sự hỗ trợ của tòa án đối với các vấn đề: chỉ định trọng tài viên; áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời;… trọng tài thương mại quốc
tế sẽ thực hiện tốt vai trò góp phần giải quyết hiệu quả các tranh chấp về kinh
doanh thương mại, chia xẻ một phần gánh nặng cho các tòa án quốc gia 4.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó cần có những cải tiến đặc biệt quan trọng
mang tính đột phá trong hoạt động của các tổ chức trọng tài thương mại quốc tế
như: có một đội ngũ trọng tài viên Việt Nam có chuyên môn cao, tôn trọng quy
tắc đạo đức nghề nghiệp cộng với sự tham gia của người nước ngoài với tư cách
trọng tài viên tại các tổ chức trọng tài Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam phải có
một khung pháp lý hoàn chỉnh về trọng tài tại Việt Nam, bên cạnh đó là sự công
nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam một cách vô tư và
khách quan theo đúng chuẩn mực của Công ước New York năm 1958 về công
nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. Có như vậy, trọng tài thương
mại Việt Nam mới có thể đáp ứng được nhu cầu giải quyết các tranh chấp có yếu
tố nước ngoài, đồng thời phát huy đầy đủ vai trò của mình trong việc tham gia
giải quyết các tranh chấp và ngày càng nhận được sự tín nhiệm của các doanh
nghiệp trong và ngoài nước.
4
Trọng tài thương mại – Phương thức mới giải quyết hiệu quả các tranh chấp thương mại, Khắc Kiên,
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 2007.
1.2.2.3. Cung cấp cho các nhà kinh doanh một mô hình giải quyết tranh
chấp mới, có khả năng đáp ứng những yêu cầu có tính nghề nghiệp của họ
Theo người viết, với các giao dịch có yếu tố nước ngoài, trọng tài vẫn là
phương thức giải quyết tranh chấp hữu hiệu nhất, nếu các quốc gia của các bên
tranh chấp đều đã là thành viên Công ước Liên hiệp quốc về công nhận và thi
hành quyết định của trọng tài nước ngoài 5. Có thể thấy việc lựa chọn trọng tài để
giải quyết tranh chấp có năm ưu điểm lớn. Thứ nhất, các bên có nhiều quyền tự
định đoạt, chẳng hạn như được tự do lựa chọn trọng tài thậm chí được tự mình
lập ra trọng tài, quy tắc tố tụng, luật áp dụng, địa điểm, ngôn ngữ, thời gian tiến
hành các hoạt động tố tụng của trọng tài... Thứ hai, có nhiều trọng tài viên là các
chuyên gia hàng đầu trong các lĩnh vực như hàng hải, sở hữu trí tuệ, ngoại
thương, công nghệ thông tin... Vì vậy, đối với các tranh chấp đòi hỏi chuyên môn
cao, doanh nghiệp hoàn toàn có quyền chủ động tìm và lựa chọn những trọng tài
viên đáp ứng yêu cầu nói trên. Thứ ba, việc xét xử tại trọng tài được giữ bí mật.
Điều này rất có lợi cho các bên, nhất là trong các tranh chấp liên quan đến sở hữu
trí tuệ, bí mật kinh doanh hay các yếu tố khác mà doanh nghiệp không muốn cho
người ngoài cuộc biết. Thứ tư, tính minh bạch cao trong xét xử. Theo đó, tất cả
tài liệu, chứng cứ của một bên đều được trọng tài gửi ngay cho các đương sự còn
lại để họ phản biện hay kiện lại. Trong tố tụng dân sự của tòa án cũng có quy
định cho các bên quyền này nhưng trên thực tế hầu như không thực hiện được.
Cuối cùng là thuận lợi trong việc rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp. Nếu
giải quyết bằng con đường tòa án, đương sự có thể mất rất nhiều thời gian do
phải qua hàng loạt cấp xét xử như sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí giám đốc thẩm,
tái thẩm. Trong khi đó, quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm và có hiệu
lực cưỡng chế ngay 6.
Có thể nhận thấy, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết hiệu quả
các tranh chấp xảy ra trong kinh doanh thương mại, đặc biệt là đối với các giao
dịch có yếu tố nước ngoài. Tính ưu việt của phương thức giải quyết tranh chấp
này đã được các doanh nghiệp trên thế giới thừa nhận và lựa chọn.
Tuy nhiên, có một thực tế là hầu hết các vụ tranh chấp về thương mại ở nước
ta đều thông qua toà án mà rất ít trông cậy vào sự phán quyết của trọng tài
thương mại. Đây được xem là một điều trái ngược hẳn so với nhiều quốc gia trên
thế giới, và được đánh giá là bước cản trở lớn khi chúng ta đã chính thức gia
5
6
Công ước New York về việc công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài năm 1958.
Tranh chấp thương mại xử bằng trọng tài: Tại sao không?, Th. Dương, Báo kinh tế và đô thị, 2007.
nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO. Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này như các quy định pháp luật chưa phù hợp, tâm lý xã hội chưa quen
với các tổ chức giải quyết tranh chấp ngoài nhà nước và ngay cả hoạt động của
các trọng tài vẫn còn nhiều điểm chưa thuyết phục. Trong điều kiện đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, hoạt động thương mại sôi động thì tranh
chấp thương mại giữa các nhà đầu tư và thương gia ngày càng nhiều hơn. Đây
cũng là điều bình thường trong đời sống thương mại, đòi hỏi cần có sự quan tâm
và giải quyết một cách thỏa đáng. Vì vậy, nhà nước phải tạo ra hành lang pháp lý
giải quyết các tranh chấp này, đồng thời, phải xây dựng nhiều mô hình giải quyết
tranh chấp để giúp các nhà kinh doanh có điều kiện lựa chọn mô hình mà mình
ưa thích để giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau.
Để hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề trọng tài
thương mại trong tư pháp quốc tế, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu các quy định cụ thể
về vấn đề này trong chương hai của đề tài: “Một số vấn đề về trọng tài thương
mại trong tư pháp quốc tế theo pháp luật Việt Nam”.
CHƯƠNG II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Trước đây, hoạt động trọng tài được điều chỉnh tản mạn bằng các văn bản
của Chính phủ như Nghị định 116-CP ngày 5-9-1994 về Tổ chức và hoạt động
của Trọng tài kinh tế, Nghị định số 204-TTG ngày 28-4-1993 của Thủ tướng về
Tổ chức Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt nam, Quyết định 114-TTG ngày 16-21996 của Thủ tướng về mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt nam hoặc trong một số các Luật như Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt nam 1987, Bộ luật hàng hải Việt nam 1990, Luật thương mại
1997….
Sau sáu năm chuẩn bị, ngày 25-3-2003 Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã
được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực kể từ ngày
1-7-2003. Sự ra đời của Pháp lệnh là bước hoàn thiện đáng kể việc điều chỉnh
pháp luật đối với hoạt động trọng tài ở nước ta. Về cơ bản Pháp lệnh đã khắc
phục được những khiếm khuyết, hạn chế trong các quy định của pháp luật về
trọng tài. Có thể nói những khiếm khuyết ,hạn chế đó là nguyên nhân chủ yếu
làm giảm sút đáng kể sự hấp dẫn của chế định trọng tài trong thực tiễn giải quyết
các tranh chấp nảy sinh trong hoạt động kinh doanh 7.
Theo quy định của pháp luật về trọng tài hiện hành, các tranh chấp mà căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt phát sinh ở nước ngoài, liên quan đến tài sản ở
nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài Việt nam, và được điều
chỉnh bởi các quy định của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003: “Vụ tranh chấp
có yếu tố nước ngoài theo thỏa thuận của các bên, có thể giải quyết tại Hội đồng
Trọng tài do Trung tâm Trọng tài tổ chức hoặc tại Hội đồng Trọng tài do các
bên thành lập theo quy định của Pháp lệnh này. Hội đồng Trọng tài do Trung
tâm Trọng tài tổ chức hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập được áp
dụng các quy tắc tố tụng khác, nếu các bên có thỏa thuận. Trọng tài viên do các
bên chọn hoặc do Tòa án chỉ định có thể là Trọng tài viên có tên trong danh sách
hoặc ngoài danh sách Trọng tài viên của các Trung tâm Trọng tài của Việt Nam
hoặc là Trọng tài viên nước ngoài theo quy định của pháp luật về trọng tài nước
đó. Trong trường hợp một bên hoặc các bên yêu cầu Tòa án nước ngoài chỉ định
Trọng tài viên thì Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên là Tòa án được
7
Một số ý kiến về Pháp lệnh trọng tài thương mại, Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 02,
2003.
xác định theo quy định của pháp luật nước đó. Các bên có quyền thỏa thuận lựa
chọn pháp luật theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Pháp lệnh này, tập quán
thương mại quốc tế để giải quyết vụ tranh chấp. Các bên có quyền thỏa thuận địa
điểm giải quyết vụ tranh chấp tại Việt Nam hoặc tại nước ngoài; nếu không thỏa
thuận được thì Hội đồng Trọng tài quyết định, nhưng phải bảo đảm thuận tiện
cho các bên trong việc giải quyết. Các bên có quyền thỏa thuận về sử dụng ngôn
ngữ trong tố tụng trọng tài, nếu các bên không có thỏa thuận thì ngôn ngữ dùng
trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt” 8.
Chúng ta lần lượt xem xét các vấn đề: thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
trọng tài, thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời, căn cứ hủy phán quyết trọng tài và thi hành phán quyết trọng tài.
2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Trong đó, hoạt động
thương mại là các hoạt động bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân
phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư
vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai
thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển,
đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp
luật. Chỉ những tranh chấp phát sinh trong các hoạt động được liệt kê ở trên mới
được giải quyết bằng phương thức trọng tài nếu có thỏa thuận. Vì vậy, khi có
thỏa thuận trọng tài giải quyết một tranh chấp, một trong những vấn đề cần được
kiểm tra để xác định thỏa thuận trọng tài có hiệu lực không chính là tranh chấp
phát sinh có nằm trong phạm vi hoạt động thương mại không?
Có thể thấy, khái niệm hoạt động thương mại quy định tại K.3 - Điều 2 của
Pháp lệnh trọng tài thương mại được hiểu theo nghĩa rộng như Luật mẫu
UNCITRAL. Khái niệm hoạt động thương mại trong Pháp lệnh được xây dựng
trên cở sở tổng hợp các dấu hiệu : hành vi thương mại + chủ thể thực hiện hành
vi thương mại gồm cá nhân, tổ chức kinh doanh + phạm vi, lĩnh vực thực hiện
hành vi thương mại như mua bán hành hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại
diện, đại lý thương mại, ký gửi , thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng ,tư vấn, kỹ
thuật, li xăng, đầu tư ,tài chính, ngân hành ,bảo hiểm…Dấu hiệu quan trọng nhất
của khái niệm này là “hành vi thương mại”, tuy nhiên lại không được Pháp lệnh
giải thích rõ do vậy đã hạn chế giá trị thực tiễn của nó. Theo người viết, khái
8
Điều 49, Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 về trọng tài thương mại.