Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Những vấn đề chung về phân loại đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo; quy trình xử lý đơn; những vấn đề cơ bản của Luật Khiếu nại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155 KB, 26 trang )

Chuyên đề 1: Những vấn đề chung về phân loại đơn thư và giải quyết khiếu nại,
tố cáo; quy trình xử lý đơn; những vấn đề cơ bản của Luật Khiếu nại, Luật tố
cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành
1. Những vấn đề chung về phân loại đơn và quy trình xử lý đơn.
1.1. Khái niệm và phân loại các đơn
1.1.1. Khái niệm đơn
Cơ sở pháp lí điều chỉnh: Thông tư số: 07/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10
năm 2014, quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị,
phản ánh (sau đây gọi là Thông tư số: 07/2014/TT-TTCP). Thông tư này quy
định việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đối với đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến
nghị, phản ánh (sau đây gọi chung là đơn) (Điều 1).
Tại Khoản 1, Điều 4 Thông tư số: 07/2014/TT-TTCP, quy định: “Đơn là
văn bản có nội dung được trình bày dưới một hình thức theo quy định của pháp
luật, gửi đến cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền để khiếu
nại hoặc tố cáo hoặc kiến nghị, phản ánh”.
Như vậy, từ khái niệm này chúng ta có thể phân biệt các loại đơn liên quan
đến nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị và phản ánh như sau:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức
theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành
chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định
hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình1.
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất
cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức2.
Như vậy, trước hết sự phân biệt giữa đơn có nội dung khiếu nại và đơn có
nội dung tố cáo được thể hiện ở bản chất, đó là đơn có nội dung khiếu nại nhằm
hướng tới lợi ích, đòi lại lợi ích mà chủ thể khiếu nại cho là họ đã bị xâm phạm;
còn mục đích của đơn có nội dung tố cáo là hướng tới việc xử lý hành vi vi


phạm và người có hành vi vi phạm. Bản chất này chi phối toàn bộ các quy định
của pháp luật và thái độ đối với hai loại này.
Về chủ thể: Nếu như khiếu nại cho phép công dân, cơ quan, tổ chức có
quyền khiếu nại thì pháp luật chỉ cho phép công dân có quyền tố cáo.
Về thái độ xử lý: Khiếu nại không được khuyến khích nhưng tố cáo lại
được khuyến khích: khiếu nại là đi đòi lại lợi ích cho mình nên pháp luật không
đặt vấn đề khuyến khích, trong khi đó, tố cáo là sự thể hiện trách nhiệm của
1

Khoản 1, Điều 2 Luật Khiếu nại số: 02/2011/QH13.
Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo số: 03/2011/QH13.

2

1


công dân đối với xã hội, Nhà nước thông qua việc phát hiện những hành vi vi
phạm pháp luật, góp phần ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm, tránh được những
thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội và các cá nhân khác. Vì vậy, việc
tố cáo cần được khuyến khích và pháp luật đã thể hiện thái độ đó qua việc có
những quy định khen thưởng cho người tố cáo đúng.
Phản ánh là việc cá nhân, tổ chức có ý kiến với cơ quan hành chính nhà
nước về những vấn đề liên quan đến quy định hành chính, bao gồm: những
vướng mắc cụ thể trong thực hiện; sự không hợp pháp, không hợp lý, không
đồng bộ, không thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam hoặc Điều ước quốc
tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và những vấn đề khác.
Kiến nghị là việc cá nhân, tổ chức có phản ánh với cơ quan hành chính
nhà nước và đề xuất phương án xử lý hoặc có sáng kiến ban hành mới quy định
hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh, đời sống nhân dân.

Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng xấu (có thể bị thiệt hại
cụ thể về vật chất) ở đây không nhất thiết là của người hoặc tổ chức kiến nghị,
mà có thể ảnh hưởng đến lợi ích chung của nhiều người, của công đồng dân cư
theo khu vực hoặc của nhiều cơ quan, tổ chức.
Nội dung phản ánh, kiến nghị;
- Phản ánh về hành vi: những vướng mắc cụ thể trong thực hiện quy định
hành chính do hành vi chậm trễ, gây phiền hà hoặc không thực hiện, thực hiện
không đúng quy định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của cán bộ,
công chức.
- Phản ánh về nội dung quy định hành chính, gồm: sự không phù hợp của
quy định hành chính với thực tế; sự không đồng bộ, không thống nhất của các
quy định hành chính, quy định hành chính không phù hợp với pháp luật.
Điểm khác nhau cơ bản giữa đơn kiến nghị và phản ánh:
- Đối với đơn phản ánh, hầu hết những vụ việc phát sinh do công dân, tổ
chức phát hiện và phản ánh với cơ quan chức năng; và qua phản ánh của công
dân, tổ chức thì cơ quan chức năng mới nắm bắt được. Vụ việc phát sinh phản
ánh có thể do con người (chủ thể quản lý) hoặc do khách quan như thiên tai…
gây ra.
- Đối với đơn kiến nghị, vụ việc phát sinh kiến nghị chủ yếu do con
người, cơ quan có thẩm quyền tạo nên và thường đã được các cơ quan chức
năng biết nhưng chưa có biện pháp khắc phục hoặc đã khắc phục nhưng chưa
đến nơi, đến chốn.
1.1.2. Phân loại các đơn
Tại Khoản 1, Điều 6 Thông tư số: 07/2014/TT-TTCP, quy định phân loại
đơn như sau:
Thứ nhất, phân loại theo nội dung đơn, bao gồm:
a) Đơn khiếu nại.
b) Đơn tố cáo.
2



c) Đơn kiến nghị, phản ánh.
d) Đơn có nhiều nội dung khác nhau.
Thứ hai, phân loại theo điều kiện xử lý, bao gồm đơn đủ điều kiện xử lý,
đơn không đủ điều kiện xử lý,bao gồm:
a) Đơn đủ điều kiện xử lý là đơn đáp ứng các yêu cầu sau đây:
- Đơn dùng chữ viết là tiếng Việt và được người khiếu nại, người tố cáo,
người kiến nghị, phản ánh ghi rõ ngày, tháng, năm viết đơn; họ, tên, địa chỉ, chữ
ký hoặc điểm chỉ của người viết đơn;
- Đơn khiếu nại phải ghi rõ tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân bị khiếu nại, nội dung, lý do khiếu nại và yêu cầu của người khiếu nại;
- Đơn tố cáo phải ghi rõ nội dung tố cáo; cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
bị tố cáo, hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo;
- Đơn kiến nghị, phản ánh phải ghi rõ nội dung kiến nghị, phản ánh;
- Đơn chưa được cơ quan, tổ chức, đơn vị tiếp nhận đơn xử lý theo quy
định của pháp luật hoặc đã được xử lý nhưng người khiếu nại, người tố cáo được
quyền khiếu nại, tố cáo tiếp theo quy định của pháp luật.
b) Đơn không đủ điều kiện xử lý.
- Là đơn không đáp ứng các yêu cầu tại điểm a khoản này;
- Đơn đã được gửi cho nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong đó đã
gửi đến đúng cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc đúng người có thẩm quyền giải
quyết;
- Đơn đã được hướng dẫn một lần về cùng nội dung.
Thứ ba, phân loại theo thẩm quyền giải quyết,bao gồm:
a) Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
b) Đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Thứ tư, phân loại đơn theo số lượng người khiếu nại, người tố cáo, người
kiến nghị, phản ánh, bao gồm:
a) Đơn có họ, tên, chữ ký của một người.
b) Đơn có họ, tên, chữ ký của nhiều người (từ 05 người trở lên).

Thứ năm, phân loại đơn theo giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn, bao gồm:
a) Đơn có kèm theo giấy tờ, tài liệu gốc.
b) Đơn không kèm theo giấy tờ, tài liệu gốc.
Thứ sáu, phân loại theo thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn
vị, bao gồm:
a) Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước (bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ; Ủy ban nhân dân các cấp và (cơ
quan, tổ chức trực thuộc Ủy ban nhân dân các cấp hoặc của cơ quan hành chính
khác).
b) Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan dân cử, gồm đơn thuộc
thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội; các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan
3


của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Hội đồng nhân dân các cấp và các
Ban của Hội đồng nhân dân các cấp.
c) Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan tiến hành tố tụng, thi hành
án.
d) Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của tổ chức chính trị, tổ chức chính trịxã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; tổ chức tôn giáo.
đ) Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của đơn vị sự nghiệp công lập.
e) Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của doanh nghiệp nhà nước.
1.2. Khái niệm xử lý đơn và nguyên tắc xử lý đơn
Tại Khoản 2, Điều 4 Thông tư số: 07/2014/TT-TTCP, quy định: “Xử lý đơn
là việc cơ quan nhà nước, tổ chức người có thẩm quyền khi nhận được đơn của
cá nhân, cơ quan, tổ chức phải căn cứ và đối chiếu với quy định của pháp luật
để thụ lý giải quyết nếu thuộc thẩm quyền của mình hoặc hướng dẫn công dân
hoặc chuyển đơn đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền giải quyết
theo quy định của pháp luật”.
Việc xử lý đơn phải tuân theo các nguyên tắc quy định tại Điều 3 Thông tư

số: 07/2014/TT-TTCP, như sau:
Một là, thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị vũ trang, người
đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước có trách nhiệm tổ
chức việc tiếp nhận, phân loại xử lý đơn tập trung về một đầu mối và phải tuân
theo quy định của pháp luật, đảm bảo tính khoa học, khách quan, chính xác, kịp
thời.
Hai là, đơn tiếp nhận được từ các nguồn quy định tại Điều 5 của Thông tư
này phải được vào sổ hoặc nhập vào hệ thống cơ sở dữ liệu trên máy tính để
quản lý, theo dõi.
Ba là, đơn phải được gửi, chuyển, hướng dẫn đến đúng cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân có thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết.
1.3. Quy trình xử lý đơn
Việc xử lý đơn thư hiệu quả sẽ tránh được tình trạng đơn thư lòng vòng, khó
tổng hợp và theo dõi. Vì vậy, phân biệt cách xử lý đơn chính xác sẽ có vai trò
quan trọng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Theo Chương 2 của
Thông tư số: 07/2014/TT-TTCP, cần lưu ý một số vấn đề liên quan đến quy trình
xử lý đơn như sau:
1.3.1. Quy trình xử lý đơn khiếu nại, tố cáo
Xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo được quy định cụ thể trong Luật khiếu nại,
Luật tố cáo. Tuy nhiên, cần lưu ý một số nội dung sau khi xử lí sơ bộ nhằm đảm
bảo hiệu quả trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo:
Việc xử lý đơn không đúng thẩm quyền: Khiếu nại không đúng thẩm quyền
thì người tiếp nhận không phải chuyển đơn, trong khi đó tố cáo không đúng
thẩm quyền thì khi nhận được, dù không thuộc thẩm quyền của mình thì cũng
4


phải có trách nhiệm xử lý thông tin đó bằng cách chuyển đến cơ quan có thẩm
quyền giải quyết và nếu thấy cần thiết thì phải thông báo ngay cho cơ quan chức
năng để ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm tránh thiệt hại có thể xảy ra.

Giải quyết: Khiếu nại phải có quyết định giải quyết, trong khi tố cáo chỉ quy
định vấn đề xử lý tố cáo.
Thời hiệu: Khiếu nại có thời hiệu trong khi tố cáo không có thời hiệu. thời
hiệu khiếu nại là 90 ngày. Trong khi đó, hành vi bị tố cáo không liên quan trực
tiếp đến người tố cáo, thậm chí có những trường hợp họ chỉ biết hành vi đó một
cách vô tình rồi báo cho cơ quan nhà nước để xử lý. Vì thế không đặt vấn đề
thời hiệu đối với tố cáo. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là mọi tố cáo
nhận được đều buộc phải giải quyết mà căn cứ vào trường hợp cụ thể các cơ
quan có trách nhiệm sẽ quyết định việc này.
Vấn đề rút đơn: Người khiếu thực hiện việc khiếu nại vì lợi ích cá nhân, nên
họ có quyền tự định đoạt, có thể tiếp tục hay chấm dứt việc khiếu nại bằng cách
rút đơn khiếu nại. Đơn khiếu nại được rút thì cơ quan nhà nước sẽ chấm dứt việc
giải quyết. Còn trong lĩnh vực tố cáo thì sao, người giải quyết tố cáo sẽ xử lý
vấn đề này như thế nào? Để giải quyết vấn đề này, Điều 6 của Thông tư số
06/2013/TT-TTCP quy định như sau:
Trong trường hợp người tố cáo xin rút nội dung tố cáo và xét thấy việc rút
tố cáo là có căn cứ thì người giải quyết tố cáo không xem xét, giải quyết nội
dung tố cáo đó. Trong trường hợp xét thấy hành vi vi phạm pháp luật vẫn chưa
được phát hiện và xử lý thì người giải quyết tố cáo vẫn xem xét, giải quyết theo
quy định của pháp luật.
Trong trường hợp có căn cứ cho rằng việc rút tố cáo do người tố cáo bị đe
dọa, ép buộc thì người giải quyết tố cáo phải áp dụng các biện pháp để bảo vệ
người tố cáo, xử lý nghiêm đối với người đe dọa, ép buộc người tố cáo, đồng
thời phải xem xét, giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp người tố cáo xin rút nội dung tố cáo nhằm che giấu hành
vi vi phạm pháp luật, trốn tránh trách nhiệm hoặc vì vụ lợi thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm, người tố cáo sẽ bị xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.
1.3.2. Quy trình xử lý đơn phản ánh, kiến nghị.
Đơn kiến nghị, phản ánh thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, đơn vị giải quyết thì người xử lý đơn đề xuất thủ trưởng cơ quan, tổ chức,

đơn vị thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật. Đơn kiến nghị, phản ánh
không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị thì người xử lý
đơn đề xuất thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị xem xét, quyết định việc chuyển
đơn và các tài liệu kèm theo (nếu có) đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có
thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Do tính chất đặc thù của hai loại đơn kiến nghị và phản ánh nói trên nên
không thể áp dụng trình tự, thủ tục giải quyết như đối với đơn khiếu nại, tố cáo.
5


Khi đã xác định được đơn (vụ việc) thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì cá
nhân, cơ quan phải căn cứ nội dung và tính chất từng vụ việc để đưa ra các biện
pháp giải quyết phù hợp, kịp thời, đúng pháp luật.
Theo đó, dù vụ việc kiến nghị hay phản ánh ở trường hợp nào, thì việc xem
xét, xử lý, giải quyết cần kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả. Các biện pháp đưa ra
để xem xét, giải quyết không nhất thiết phải theo một trình tự thủ tục nhất định,
mà cơ quan, người có thẩm quyền cần căn cứ tính chất, nội dung vụ việc để đưa
ra các giải pháp, biện pháp giải quyết phù hợp.
1.3.3. Quy trình xử lý đơn có nhiều nội dung khác nhau
Đối với đơn có nhiều nội dung khác nhau thuộc thẩm quyền giải quyết của
nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị thì người xử lý đơn hướng dẫn người gửi đơn
tách riêng từng nội dung để gửi đến đúng cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm
quyền giải quyết.
1.3.4. Quy trình xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh những
vụ việc có tính chất phức tạp
Đơn kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo phức tạp, gay gắt với sự tham
gia của nhiều người; những vụ việc có liên quan đến chính sách dân tộc, tôn
giáo thì người xử lý đơn phải báo cáo với thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị để
áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền kịp thời xử lý hoặc đề nghị với các cơ
quan, tổ chức, đơn vị có liên quan áp dụng biện pháp xử lý.

Những nội dung vụ việc nêu trên, cơ quan hoặc cá nhân có trách nhiệm
cần thành lập các tổ chuyên môn, có thể có sự phối hợp của nhiều bộ phận
chuyên môn, kiểm tra, xác minh cụ thể để kết luận và đưa ra biện pháp giải
quyết.
2.Những vấn đề cơ bản của Luật Khiếu nại, Luật tố cáo và các văn
bản hướng dẫn thi hành
2.1. Những vấn đề cơ bản của Luật Khiếu nại và văn bản hướng dẫn
thi hành
2.1.1.Khái quát về Luật Khiếu nại và văn bản hướng dẫn thi hành
Dưới góc độ xem xét việc giải quyết khiếu nại hành chính là một thủ tục
hành chính, thì người giải quyết khiếu nại hành chính cần lưu ý căn cứ pháp lý
của thục hành chính giải quyết khiếu nại bao gồm:
a) Luật khiếu nại
Ngày 11-11-2011, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật khiếu nại. Chủ tịch nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh công bố Luật khiếu nại và Luật có hiệu
lực từ ngày 01-7-2012. Luật khiếu nại năm 2011 gồm 8 chương và 70 điều.
Luật Khiếu nại quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của
6


người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước; khiếu nại và giải
quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức; tiếp công dân; quản lý và
giám sát công tác giải quyết khiếu nại.
Ngoài ra, để bảo đảm quyền khiếu nại của công dân được quy định tại
Điều 74 của Hiến pháp và cũng phù hợp với Luật tố tụng hành chính vừa được
Quốc hội ban hành, thực tiễn giải quyết khiếu nại hiện nay và kế thừa quy định
của Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành, Điều 3 Luật khiếu nại quy định về áp dụng
pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại, cụ thể như sau :

“1. Khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam và
việc giải quyết khiếu nại được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ trường
hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có
quy định khác.
2. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành
vi hành chính trong đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước được áp
dụng theo quy định của Luật này.
Chính phủ quy định chi tiết khoản này.
3. Căn cứ vào Luật này, cơ quan có thẩm quyền của tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hướng dẫn
việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong cơ quan, tổ chức mình.
4. Căn cứ vào Luật này, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước và
các cơ quan khác của Nhà nước quy định việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại
trong cơ quan mình.
5. Trường hợp luật khác có quy định khác về khiếu nại và giải quyết khiếu
nại thì áp dụng theo quy định của luật đó.”

7


Như vậy, các cơ quan nhà nước khác như: Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Văn
phòng Chủ tịch nước và các cơ quan khác của nhà nước; các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp…trong quá
trình hoạt động của mình, có những quan hệ mang tính hành chính giữa cơ quan,
tổ chức đó với thành viên trong tổ chức; có những quyết định, hành vi của cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong cơ quan tổ chức đó có thể phát sinh
khiếu nại. Tuy nhiên, do những đặc thù khác nhau về cơ cấu tổ chức và hoạt
động của nhiều loại hình cơ quan, tổ chức nên Luật khiếu nại không điều chỉnh

khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với các cơ quan, tổ chức này. Vì vậy, Luật
khiếu nại đã quy định “Căn cứ vào Luật này, cơ quan có thẩm quyền của tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
hướng dẫn việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong cơ quan, tổ chức mình
(Khoản 3 Điều 3); Căn cứ vào Luật này, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ
tịch nước và các cơ quan khác của Nhà nước quy định việc khiếu nại và giải
quyết khiếu nại trong cơ quan mình (Khoản 4 Điều 3);
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, việc khiếu
nại và giải quyết khiếu nại cũng được áp dụng theo quy định của Luật khiếu nại
bởi các đơn vị này chịu sự quản lý của cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên,
do việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại ở các cơ quan này có những đặc thù
riêng, do vậy Luật khiếu nại giao cho Chính phủ quy định chi tiết nội dung này
(Khoản 2 Điều 3).
Trong điều kiện hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa, việc ghi nhận và
thể chế hóa việc giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài, nhất là việc giải
quyết các khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính có yếu tố
nước ngoài là đòi hỏi khách quan và cần thiết. Đáp ứng các yêu cầu nội luật hóa
khi Việt Nam trở thành thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế Luật
khiếu nại đã có những sửa đổi, bổ sung phù hợp nhằm thể chế hóa các cam kết
của Việt Nam khi trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế và khu vực. Điều
3 của Luật khiếu nại đã quy định “Khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài tại Việt Nam và việc giải quyết khiếu nại được áp dụng theo quy định của
Luật này, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên có quy định khác” (Khoản 1 Điều 3).
Ngoài ra, để đảm bảo sự linh hoạt và phù hợp với đặc thù của khiếu nại và
giải quyết khiếu nại trong các lĩnh vực riêng biệt, Luật khiếu nại cũng quy định:
“trường hợp luật khác có quy định khác về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thì
áp dụng theo quy định của luật đó”.
b) Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 3/10/2012 của Chính phủ quy

định chi tiết một số điều của Luật khiếu nại
8


Ngày 3/10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số
75/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại. Nghị định
này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam; cơ quan, tổ chức, cá
nhân nước ngoài tại Việt Nam trong việc khiếu nại quyết định hành chính, hành
vi hành chính, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên có quy định khác.
c) Thông tư số 07/2013/TT-TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra
Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính
Trên cơ sở Luật khiếu nại năm 2011, Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày
3/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật khiếu nại, ngày
31/10/2013 Thanh tra Chính phủ đã ban hành 07/2013/TT-TT-TTCP quy định
quy trình giải quyết khiếu nại hành chính, gồm 3 Chương, 25 Điều quy định cụ
thể về quy trình giải quyết khiếu nại hành chính. Bao gồm: việc thụ lý, xác
minh, kết luận nội dung khiếu nại, ban hành, gửi, công khai quyết định giải
quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
hành chính nhà nước và đối với quyết định kỷ luật cán bộ, công chức.
2.2.2. Những nội dung cơ bản của Luật Khiếu nại và văn bản hướng
dẫn thi hành.
2.2.2.1. Trình tự khiếu nại
Luật Khiếu nại, tố cáo quy định: khi có căn cứ cho rằng quyết định hành
chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của mình thì trong mọi trường hợp, người khiếu nại phải khiếu nại lần đầu
với người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có
hành vi hành chính. Quy định này đã hạn chế quyền được khởi kiện vụ án hành
chính tại Toà án của công dân.
Để khắc phục hạn chế trên, theo quy định của Luật thì khiếu nại lần đầu,

người khiếu nại có quyền khiếu nại trực tiếp đến người có quyết định hành
chính, hành vi hành chính hoặc có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án,
không nhất thiết phải khiếu nại với người có quyết định hành chính, hành vi
hành chính bị khiếu nại như trước đây. Việc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà
án vẫn có thể thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết khiếu
nại ( Điều 7).
Việc quy định trình tự khiếu nại như trên vừa tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân trong việc lựa chọn các hình thức giải quyết khiếu kiện của mình, bảo
đảm quyền tự sửa chữa của người có quyết định hành chính, hành vi hành chính
khi bị khiếu nại, đồng thời tạo ra cơ chế giải quyết khiếu nại khách quan, dân
chủ, kịp thời và hiệu quả hơn.
2.2.2.2. Khiếu nại nhiều người
Trên thực tế, tình trạng khiếu nại nhiều người diễn ra khá phổ biến, đòi
hỏi Nhà nước xem xét, giải quyết để ổn định tình hình chính trị - xã hội. Nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, đơn vị trong việc xử lý đối với loại
9


khiếu nại này, Luật khiếu nại đã quy định mới về khiếu nại nhiều người, trong
đó có các hình thức khiếu nại như nhiều người khiếu nại qua đơn, nhiều người
đến khiếu nại trực tiếp, địa điểm để công dân thực hiện khiếu nại nhiều người và
quyết định giải quyết khiếu nại nhiều người. Còn trình tự, thủ tục giải quyết đối
với khiếu nại nhiều người vẫn tuân theo trình tự, thủ tục chung như giải quyết
đối với từng người.
Khoản 4 Điều 8 quy định về hình thức khiếu nại nhiều người:
“4. Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung thì thực hiện
như sau:
a) Trường hợp nhiều người đến khiếu nại trực tiếp thì cơ quan có thẩm
quyền tổ chức tiếp và hướng dẫn người khiếu nại cử đại diện để trình bày nội
dung khiếu nại; người tiếp nhận khiếu nại ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản,

trong đó ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều này. Việc tiếp nhiều
người cùng khiếu nại thực hiện theo quy định tại Chương V của Luật này;
b) Trường hợp nhiều người khiếu nại bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ
nội dung quy định tại khoản 2 Điều này, có chữ ký của những người khiếu nại
và phải cử người đại diện để trình bày khi có yêu cầu của người giải quyết
khiếu nại;
c) Chính phủ quy định chi tiết khoản này.”
Khoản 5 Điều 8 và Khoản 4 Điều 60 quy định về người đại diện trong
trường hợp khiếu nại nhiều người:
“5. Trường hợp khiếu nại được thực hiện thông qua người đại diện thì
người đại diện phải là một trong những người khiếu nại, có giấy tờ chứng minh
tính hợp pháp của việc đại diện và thực hiện khiếu nại theo quy định của Luật
này”
“4. Cử đại diện để trình bày với người tiếp công dân trong trường hợp có
nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo về một nội dung.”
Khoản 3 Điều 31 quy định về quyết định giải quyết khiếu nại nhiều
người:
“ 3. Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung thì người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét, kết luận nội dung khiếu nại và căn cứ
vào kết luận đó để ra quyết định giải quyết khiếu nại cho từng người hoặc ra
quyết định giải quyết khiếu nại kèm theo danh sách những người khiếu nại.”
2.2.2.3. Các khiếu nại không được thụ lý giải quyết
Ngoài những khiếu nại không được thụ lý để giải quyết mà Luật khiếu
nại, tố cáo đã quy định, Luật khiếu nại lần này đã bổ sung thêm một số trường
hợp khiếu nại không được thụ lý để giải quyết, cụ thể:
- Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong nội bộ cơ quan nhà
nước để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ; quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong chỉ đạo điều hành của cơ quan hành chính cấp trên với
cơ quan hành chính cấp dưới; quyết định hành chính có chứa đựng các quy
10



phạm pháp luật do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành theo trình
tự, thủ tục của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; quyết định
hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh
vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định.
- Đơn khiếu nại không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại.
- Có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại mà sau 30 ngày
người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại.
Việc bổ sung quy định mới này nhằm thống nhất với Luật tố tụng hành
chính và đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

11


2.2 . Những vấn đề cơ bản của Luật Tố cáo và văn bản hướng dẫn thi
hành.
2.2.1. Khái quát về Luật Tố cáo và văn bản hướng dẫn thi hành
a) Luật Tố cáo
Trên cơ sở khắc phục những tồn tại, hạn chế trong các quy định của Luật
Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005), Luật Tố
cáo năm 2011 đã tập trung quy định những nội dung chính như sau:
Thứ nhất, Luật Tố cáo bên cạnh việc quy định về tố cáo và giải quyết tố
cáo đối với hành vi vi phạm của cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính
nhà nước, đồng thời bổ sung các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với
hành vi vi phạm pháp luật về các lĩnh vực quản lý nhà nước, làm căn cứ để giải
quyết các tố cáo đối với hình thức này.
Thứ hai, Luật Tố cáo quy định thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết của
từng loại cơ quan cũng như trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với các hành vi

vi phạm xảy ra trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, Luật cũng
quy định đầy đủ quyền, nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo, người được giao
nhiệm vụ thẩm tra, xác minh, kết luận nội dung tố cáo, chưa quy định về việc
công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm...
Thứ ba, Luật Tố cáo quy định rõ về cơ chế bảo vệ người tố cáo khi họ bị
đe dọa, trả thù, trù dập hoặc bị phân biệt đối xử; quy định rõ nội dung cũng như
các biện pháp bảo vệ người tố cáo, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trọng
việc áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo, quy định việc khen thưởng đối
với những người có công trong việc phát hiện, tố cáo, cung cấp các thông tin
quan trong giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời ngăn chặn, xử lý hành
vi vi phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
b) Nghị định số 76/2012/NĐ-CP của Chính phủ.
Trên cơ sở Luật Tố cáo năm 2011, ngày 03/10/2012 Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 76/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Tố cáo. Nội dung của Nghị định này tập trung hướng dẫn chi
tiết việc thực hiện một số nội dung sau:
- Việc cử người đại diện trình bày tố cáo khi nhiều người cùng tố cáo;
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp, xử lý trường hợp
nhiều người cùng tố cáo; việc công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử
lý hành vi vi phạm bị tố cáo.
- Các biện pháp bảo vệ người tố cáo và trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc bảo vệ người tố cáo.
- Khen thưởng người có thành tích trong việc tố cáo
c) Thông tư 06
Trên cơ sở Luật Tố cáo số 03/2011/QH13 ngày 11/11/2011 của Quốc hội,
Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật Tố cáo, ngày 30/9/2013, Thanh tra Chính phủ đã ban hành
12



Thông tư 06/2013/TT-TTCP quy định về quy trình giải quyết tố cáo, giải quyết
lại tố cáo, bao gồm việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo, việc
xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo và việc công khai kết luận nội dung tố
cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.
2.2.2. Những nội dung cơ bản của Luật Tố cáo và văn bản hướng dẫn
thi hành.
2.2.2.1. Các hình thức tố cáo.
Các hình thức tố cáo qua điện thoại, qua mạng thông tin điện tử tuy đã
được quy định trong pháp luật về phòng, chống tham nhũng song hiện vẫn chưa
được áp dụng phổ biến. Trên thực tế, việc quản lý các thông tin thuộc loại này
còn nhiều khó khăn, bất cập. Do đó, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn trước khi cụ thể hóa trong Luật nhằm tránh bị lợi dụng để
xuyên tạc, vu khống, gây rối, làm mất đoàn kết nội bộ hoặc để phát tán thông tin
về việc tố cáo, nhất là trên các trang mạng điện tử, gây ảnh hưởng xấu đến danh
dự, uy tín của người khác hoặc cản trở hoạt động bình thường của cơ quan nhà
nước. Vì vậy, Luật tố cáo chỉ quy định hai hình thức là tố cáo trực tiếp và tố cáo
bằng đơn. Cũng cần phải nói thêm rằng, việc quy định 2 hình thức tố cáo này
không có nghĩa là phủ nhận các hình thức tố cáo khác mà luật khác đã quy định
bởi lẽ tại khoản 3 Điều 3 của Luật này cũng đã quy định “trường hợp luật khác
có quy định khác về tố cáo và giải quyết tố cáo thì áp dụng quy định của luật
đó”, ví dụ tại Điều 54 Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17/6/2013 quy định
chi tiết một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng quy định công dân tố
cáo hành vi tham nhũng theo các hình thức tố cáo trực tiếp, tố cáo qua đơn, tố
cáo qua điện thoại hoặc tố cáo qua mạng thông tin điện tử. Đơn tố cáo phải có
chữ ký hoặc điểm chỉ của người tố cáo, trường hợp tố cáo trực tiếp thì người tố
cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ vào bản ghi nội dung tố cáo. Trường hợp nhiều
người cùng tố cáo thì trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, chữ ký hoặc điểm
chỉ của từng người tố cáo và phải cử người đại diện để trình bày khi có yêu cầu
của người giải quyết tố cáo.
2.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải

quyết tố cáo.
+ Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo.
Việc quy định quyền và nghĩa vụ của người tố cáo trên nguyên tắc khuyến
khích và tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền tố cáo một cách đầy đủ và
đúng đắn, đồng thời cũng phải có trách nhiệm về việc tố cáo của mình, nhất là
trong trường hợp tố cáo không đúng, lợi dụng quyền tố cáo.
Luật Tố cáo quy định: Người tố cáo có quyền gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo
với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; được
giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của mình; yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý giải quyết
tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết,
13


thông báo kết quả giải quyết tố cáo; tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải
quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật
hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết; yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập; được khen
thưởng theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh những quyền trên, thì người tố cáo có các nghĩa vụ: Nêu rõ họ,
tên, địa chỉ của mình; trình bày trung thực về nội dung tố cáo; cung cấp thông
tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được; chịu trách nhiệm
trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình; bồi thường thiệt hại do hành vi cố
ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra. (Điều 9 Luật tố cáo).
Người tố cáo thực hiện quyền tố cáo của mình chính là để phát hiện cho
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những hành vi trái pháp luật, thể hiện
trách nhiệm của công dân vì lợi ích chung, lợi ích cộng đồng. Vì vậy Nhà nước
phải có trách nhiệm giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân
khác của người tố cáo. Đây chính là điểm mới của Luật tố cáo so với quy định
của Luật khiếu nại, tố cáo. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong quá

trình tiếp nhận, xử lý, thẩm tra, xác minh, giải quyết tố cáo phải có trách nhiệm
giữ bí mật cho người tố cáo. Mục đích của quy định này nhằm bảo vệ người tố
cáo, tránh những trường hợp do bị tiết lộ thông tin nên bị trả thù, trù dập hoặc có
những bất lợi khác cho người tố cáo. Bên cạnh đó, việc giữ bí mật không chỉ đối
với họ, tên, địa chỉ, bút tích mà còn giữ bí mật cả các thông tin khác của người
tố cáo. Đây là quyền đương nhiên của người tố cáo và các cơ quan nhà nước có
trách nhiệm thực hiện, áp dụng các biện pháp để bảo đảm an toàn cho người tố
cáo.
Trên thực tế có không ít trường hợp sau khi báo cho cơ quan nhà nước về
hành vi vi phạm pháp luật, người tố cáo đã phải gánh chịu rất nhiều hậu quả của
việc trả thù, trù dập, đe doạ tinh vi từ phía người bị tố cáo. Vì thế Luật tố cáo đã
quy định cho người tố cáo được quyền “yêu cầu” cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập và cũng đã dành một chương
riêng quy định về việc bảo vệ người tố cáo. Về bản chất khi thực hiện việc tố
cáo, người tố cáo đã vì lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, vì
vậy họ có quyền yêu cầu được thông báo việc thụ lý giải quyết tố cáo, thông báo
chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Việc quy định
như vậy là phù hợp, vừa góp phần giảm bớt thủ tục hành chính, tạo sự linh hoạt
cho quá trình giải quyết tố cáo.
Về quyền tố cáo tiếp: Nếu người tố cáo có căn cứ cho rằng việc giải quyết
của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá
thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết thì có quyền tố cáo tiếp với
người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có trách nhiệm giải quyết
tố cáo.
Để khuyến khích việc tố cáo đúng, Luật tố cáo đã ghi nhận thêm một
14


quyền mới của người tố cáo là quyền được khen thưởng. Thực ra ngay trong
Luật thi đua khen thưởng cũng đã có quy định về việc khen thưởng, động viên

đối với những cá nhân có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như
vậy, đối với công dân có thành tích trong việc tố cáo cần phải có cơ chế khen
thưởng thích đáng. Trong thời gian qua, cũng có nhiều người có thành tích trong
việc tố cáo, đặc biệt là tố cáo hành vi tham nhũng nhưng việc khen thưởng mới
chỉ dừng lại ở mức độ “ vinh danh” động viên về tinh thần là chủ yếu, chưa có
hình thức khen thưởng chính thức của Nhà nước hay động viên về mặt vật chất.
Chính vì vậy, để phù hợp với yêu cầu thực tiễn, khuyến khích, động viên những
người có trách nhiệm, dũng cảm đấu tranh với hành vi vi phạm pháp luật, Luật
xác định nguyên tắc: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc giải
quyết tố cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước,
tổ chức, cá nhân thì được khen thưởng về vật chất và tinh thần.
Bên cạnh các quyền trên, thì người tố cáo phải có nghĩa vụ trình bày trung
thực về nội dung tố cáo. Người tố cáo cần phải trình bày đúng những nội dung
sự việc mà mình biết tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền có cơ
sở tiến hành xác minh. Việc thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ này không những
làm tăng cường trách nhiệm của người tố cáo mà còn có tác dụng ngăn ngừa
việc lợi dụng quyền tố cáo để đưa ra những thông tin không đúng, có hại cho
người khác, gây mất thời gian, công sức cho cơ quan xem xét, giải quyết. Khi tố
cáo, người tố cáo cần nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình để cơ quan có thẩm quyền
có điều kiện liên hệ trong quá trình xem xét, làm rõ sự việc. Người tố cáo nếu cố
ý tố cáo sai sự thật mà gây ra thiệt hại cho người khác thì ngoài việc bị xử lý kỷ
luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn phải
bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.
+ Quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo.
Mặc dù người bị tố cáo là đối tượng bị tố cáo nhưng chưa đủ căn cứ, cơ sở
để kết luận họ có vi phạm pháp luật hay không. Hành vi bị tố cáo của họ chỉ bị
coi là vi phạm pháp luật khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền,
sau khi đã tiến hành thẩm tra, xác minh đầy đủ theo đúng trình tự, thủ tục quy
định. Vì vậy, để đảm bảo công bằng và khách quan, pháp luật quy định cho
người bị tố cáo có những quyền và nghĩa vụ nhất định.

- Khoản 1 Điều 10 Luật tố cáo quy định người bị tố cáo có các quyền:
Được thông báo về nội dung tố cáo; đưa ra chứng cứ để chứng minh nội dung tố
cáo là không đúng sự thật; nhận thông báo kết luận nội dung tố cáo; yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật, người
cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật; được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm, được xin lỗi, cải chính công khai, được bồi thường thiệt hại do việc
tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra.
Trong số các quyền của người bị tố cáo, đáng lưu ý là quyền “đưa ra chứng
cứ để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật”. Đây là một trong
15


những quyền rất quan trọng của người bị tố cáo để họ tự bảo vệ mình trước
những thông tin có hại từ việc tố cáo không chính xác đem lại. Quyền này đặc
biệt có ý nghĩa trong trường hợp người bị tố cáo bị người khác cố tình bịa đặt,
vu khống, bôi nhọ. Những lý lẽ giải trình hoặc các bằng chứng mà người bị tố
cáo đưa ra phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét đầy đủ,
thận trọng. Thiệt hại xảy ra đối với người bị tố cáo có thể là do hành vi tố cáo sai
sự thật hoặc là hậu quả của quá trình xem xét, giải quyết tố cáo thiếu thận trọng
hay có sai lầm. Nếu nội dung tố cáo là không đúng sự thật hoặc trong quá trình
giải quyết tố cáo, người có thẩm quyền cố ý giải quyết trái pháp luật thì người bị
tố cáo có quyền được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được xin
lỗi, cải chính công khai, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng
gây ra, đồng thời người bị tố cáo có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền xử lý người giải quyết tố cáo trái pháp luật. Quy định trên đây thể hiện
nguyên tắc đảm bảo sự công bằng giữa quyền, nghĩa vụ, bảo đảm mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật. Bên cạnh đó, Luật tố cáo cũng đã ghi nhận người
bị tố cáo cũng có quyền được nhận thông báo kết luận nội dung tố cáo.
- Ngoài những quyền trên, Khoản 2 Điều 10 Luật tố cáo quy định người bị

tố cáo có các nghĩa vụ: Giải trình bằng văn bản về hành vi bị tố cáo; cung cấp
thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu
cầu; chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền; bồi thường, bồi hoàn thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình
gây ra. Đây là những yếu tố quan trọng để cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền đánh giá được mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị tố cáo, thái độ
tự giác và nhận thức về hành vi sai trái của người bị tố cáo để từ đó có biện pháp
xử lý thích hợp, vừa có tác dụng phòng ngừa chung vừa tạo điều kiện để họ có
thể sửa chữa hành vi sai trái của mình. Khi có kết luận nội dung tố cáo của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, người bị tố cáo phải chấp hành nghiêm
chỉnh quyết định xử lý tố cáo.
+ Quyền và nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho người giải quyết tố cáo trong quá trình xem
xét, giải quyết vụ việc, Điều 11 Luật tố cáo đã quy định về quyền và nghĩa vụ
của người giải quyết tố cáo.
- Người giải quyết tố cáo có các quyền: Yêu cầu người tố cáo cung cấp
thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo; yêu cầu người bị tố cáo giải
trình bằng văn bản về hành vi bị tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung
cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo; tiến hành các biện pháp
kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ để giải quyết tố cáo theo quy định của
pháp luật; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để ngăn chặn, chấm dứt hành
vi vi phạm pháp luật; kết luận về nội dung tố cáo; quyết định xử lý theo thẩm
quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy
16


định của pháp luật.
- Người giải quyết tố cáo có các nghĩa vụ: Bảo đảm khách quan, trung
thực, đúng pháp luật trong việc giải quyết tố cáo; áp dụng các biện pháp cần
thiết theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp để

bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo, người cung cấp thông tin
có liên quan đến việc tố cáo; không tiết lộ thông tin gây bất lợi cho người bị tố
cáo khi chưa có kết luận về nội dung tố cáo; chịu trách nhiệm trước pháp luật về
việc giải quyết tố cáo; bồi thường, bồi hoàn thiệt hại do hành vi giải quyết tố cáo
trái pháp luật của mình gây ra.
2.2.2.3. Thực hiện quyền tố cáo.
Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì
người tố cáo có thể viết đơn hoặc trực tiếp đến trình bày với cơ quan có thẩm
quyền. Thực tế cho thấy, các hành vi vi phạm pháp luật rất đa dạng và phức tạp,
có loại thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước, có
loại thuộc thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng, có loại thuộc thẩm
quyền giải quyết của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể,
quần chúng. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền
trong việc tiếp nhận và xử lý tố cáo, người tố cáo cần phải gửi đơn đến đúng cơ
quan có thẩm quyền, trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của mình để các cơ
quan có thẩm quyền liên hệ khi cần thiết; nêu rõ nội dung tố cáo. Trường hợp tố
cáo trực tiếp thì người tố cáo phải nói rõ họ, tên, địa chỉ của mình và trình bày rõ
ràng, trung thực về nội dung tố cáo.
Cũng cần phải lưu ý rằng, khi tố cáo trực tiếp thì người tố cáo phải trình
bày rõ nội dung để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nắm được sự việc, có cơ sở
tiến hành thẩm tra, xác minh. Người tố cáo cần phải trình bày sự việc một cách
trung thực, khách quan, những nội dung, sự việc nào biết được hoặc thấy được
thì phản ánh đúng, không suy diễn hay áp đặt chủ quan, đặc biệt không được vì
lợi ích cá nhân lợi dụng tố cáo để làm ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của
người khác. Tuy nhiên, trong trường hợp khó xác định được cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giải quyết thì người tố cáo có thể tố cáo bằng đơn với cơ quan nhà
nước mà mình cho rằng có thẩm quyền giải quyết. Cơ quan này sẽ có trách
nhiệm tiếp nhận đơn, nếu không đúng thẩm quyền thì chuyển đơn tố cáo đó cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Như vậy, tố cáo là quyền của công dân
nhưng để đảm bảo cho quyền này được phát huy thì công dân phải thực hiện

theo đúng những yêu cầu nói trên.
2.2.2.4. Về tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo.
Trên thực tế, bên cạnh người tố cáo ghi rõ họ tên, địa chỉ của mình trong
đơn tố cáo, thì còn có loại tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ của người tố cáo. Hiện
nay, quan điểm xử lý đối với loại tố cáo này còn có ý kiến khác nhau. Có quan
điểm cần phải giải quyết, có quan điểm không nên giải quyết đối với loại tố cáo
không rõ họ tên, địa chỉ của người tố cáo. Luật tố cáo quy định người tố cáo
17


phải nêu rõ họ tên, địa chỉ nhằm mục đích nâng cao ý thức trách nhiệm của công
dân trong việc thực hiện quyền tố cáo. Bởi vì, bên cạnh những trường hợp tố cáo
mang tính xây dựng, tích cực thì cũng có không ít người lợi dụng quyền tố cáo
để tố cáo sai sự thật, tố cáo tràn lan, không có căn cứ, gây phức tạp, mất đoàn
kết nội bộ, làm tốn kém cả thời gian và công sức cho các cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm trong việc xem xét, giải quyết. Chính vì thế, cơ quan, người có thẩm
quyền chỉ quy định thụ lý, giải quyết đối với các tố cáo rõ họ, tên, địa chỉ của
người tố cáo.
2.2.2.5. Về việc nhiều người cùng tố cáo.
Đây là một vấn đề rất phức tạp, thực tế tình trạng nhiều người cùng đến tố
cáo một hoặc một số hành vi vi phạm pháp luật vẫn xảy ra. Những vụ việc này
thường có nội dung phức tạp, đòi hỏi có quy trình giải quyết đặc thù và nếu tố
cáo không được tiếp nhận, xem xét, giải quyết kịp thời sẽ dẫn đến trình trạng
mất ổn định về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nếu vẫn tiến hành trình tự thông
thường thì sẽ không hợp lý, kém hiệu quả. Do tính chất phức tạp trong việc giải
quyết tố cáo khi có nhiều người tham gia, việc nghiên cứu để xây dựng một cơ
chế giải quyết đầy đủ, toàn diện vấn đề này cần có thời gian. Do vậy, Luật tố cáo
chỉ quy định về việc nhiều người cùng tố cáo về một nội dung, theo đó có hướng
dẫn như sau như sau: “…Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn thì
trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của từng người tố cáo, có chữ ký hoặc

điểm chỉ của những người tố cáo; họ, tên người đại diện cho những người tố cáo
để phối hợp khi có yêu cầu của người giải quyết tố cáo” (Khoản 2 Điều 19 Luật
tố cáo). “…Trường hợp nhiều người đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận
hướng dẫn người tố cáo cử đại diện để trình bày nội dung tố cáo” (Khoản 3 Điều
19 Luật tố cáo).
Trên cơ sở quy định của Luật tố cáo, Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày
3/10/2012 quy định chi tiết một số điều của Luật tố cáo quy định chi tiết vấn đề
này như sau:
- Số lượng người đại diện: để làm rõ trường hợp nào thì cử đại diện để
trình bày tố cáo, Điều 4 Nghị định đã quy định từ 05 người trở lên cùng tố cáo
về một nội dung thì cử đại diện để thực hiện việc tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền. Người đại diện phải là người tố cáo. Trường hợp có từ 05
người đến 10 người tố cáo cùng nội dung thì cử 01 hoặc 02 người đại diện;
Trường hợp có từ 10 người trở lên thì có thể cử thêm người đại diện nhưng tối
đa không quá 05 người.
- Văn bản cử đại diện: Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn về
một nội dung thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người đại diện.
Trường hợp nhiều người cùng tố cáo trực tiếp về một nội dung thì phải cử đại
diện để trình bày nội dung tố cáo. Việc cử đại diện để trình bày tố cáo phải được
thực hiện bằng văn bản với những nội dung sau:
18


+ Ngày, tháng, năm;
+ Họ, tên, địa chỉ của người đại diện khiếu nại, người khiếu nại;
+ Nội dung, phạm vi được đại diện;
+ Chữ ký hoặc điểm chỉ của những người khiếu nại;
+ Các nội dung khác có liên quan (nếu có).
Người đại diện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của
việc đại diện và văn bản cử đại diện.

Về nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo trong trường hợp nhiều
người cùng tố cáo về một nội dung cũng được tiến hành theo các bước như giải
quyết tố cáo đối với các trường hợp tố cáo riêng lẻ.
Về việc phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xử lý trường hợp
nhiều người cùng tố cáo về một nội dung:
Trên thực tế, các cơ quan, tổ chức nhiều khi còn bị động, chưa có sự phối
hợp chặt chẽ để xử lý tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người; thậm chí có nơi
gây ra điểm nóng, gây mất trật tự, an ninh xã hội. Vì vậy, để đảm bảo ổn định an
ninh chính trị xã hội, đòi hỏi các cơ quan, tổ chức phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm và có sự phối hợp chặt chẽ khi có nhiều người khiếu nại, tố cáo. Hiện nay,
Nghị định số 76/2012/NĐ-CP quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc xử lý trường hợp nhiều người cùng tố cáo về một nội
dung, cụ thể là:
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp xử lý
trường hợp nhiều người cùng tố cáo về một nội dung ở xã, phường, thị trấn:
Khi phát sinh việc nhiều người cùng tố cáo về một nội dung ở xã, phường,
thị trấn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm:
+ Phân công cán bộ tiếp đại diện của những người tố cáo để nghe trình bày
nội dung tố cáo; giải thích, hướng dẫn công dân thực hiện quyền tố cáo theo
đúng quy định của pháp luật. Trường hợp tố cáo phức tạp, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã trực tiếp hoặc chủ trì, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội có liên quan tiếp, nghe đại diện của những người tố cáo trình
bày nội dung tố cáo;
+ Chỉ đạo công an cấp xã giữ gìn trật tự công cộng nơi có người tố cáo tập
trung;
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thụ lý, giải quyết theo quy định của pháp
luật tố cáo thuộc thẩm quyền; nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền, hướng dẫn
công dân đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết.
Trưởng công an cấp xã có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với lực lượng bảo
vệ, dân phòng giữ gìn trật tự công cộng nơi có người tố cáo tập trung; xử lý các

hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp xử lý
trường hợp nhiều người cùng tố cáo về một nội dung ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh
19


+ Thủ trưởng cơ quan nơi có người tố cáo tập trung có trách nhiệm cử cán
bộ hoặc trực tiếp tiếp đại diện của những người tố cáo để nghe trình bày nội
dung tố cáo; giải thích, hướng dẫn công dân thực hiện quyền tố cáo theo đúng
quy định của pháp luật. Trường hợp tố cáo phức tạp, Thủ trưởng cơ quan tiếp và
nghe đại diện của những người tố cáo trình bày nội dung tố cáo.
Trường hợp vụ việc tố cáo thuộc thẩm quyền, Thủ trưởng cơ quan thụ lý
để giải quyết theo quy định của pháp luật; nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền,
hướng dẫn người tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
+ Khi có nhiều người cùng tố cáo tập trung tại Ủy ban nhân dân cấp huyện
hoặc nơi tiếp công dân của cấp huyện, người phụ trách công tác tiếp công dân
cấp huyện có trách nhiệm bố trí cán bộ tiếp và nghe đại diện của những người tố
cáo trình bày nội dung tố cáo; giải thích, hướng dẫn công dân thực hiện quyền tố
cáo theo đúng quy định của pháp luật.
Khi cần thiết, người phụ trách tiếp công dân trực tiếp tiếp đại diện của
những người tố cáo; yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra vụ việc
tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu và cử
người có trách nhiệm tham gia tiếp đại diện của những người tố cáo.
Đối với vụ việc phức tạp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh trực tiếp hoặc cử người có trách nhiệm tiếp và nghe đại diện
của những người tố cáo trình bày nội dung tố cáo. Trường hợp cần thiết, yêu cầu
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra vụ việc tố cáo hoặc cơ quan, tổ chức
có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu và cử người có trách nhiệm tham gia tiếp
đại diện của những người tố cáo.

Trưởng công an cấp xã quản lý địa bàn nơi người tố cáo tập trung có trách
nhiệm bảo đảm trật tự công cộng; xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của
pháp luật.
Trưởng công an cấp huyện có trách nhiệm theo dõi, nắm tình hình tố cáo
để tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền xử lý các tình huống phát sinh trong
quá trình giải quyết tố cáo; thực hiện các biện pháp bảo đảm trật tự công cộng;
xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp xử lý
trường hợp nhiều người cùng tố cáo ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
+ Thủ trưởng cơ quan nơi có người tố cáo tập trung có trách nhiệm cử cán
bộ tiếp và nghe đại diện của những người tố cáo trình bày nội dung vụ việc; giải
thích, hướng dẫn công dân thực hiện quyền tố cáo theo đúng quy định của pháp
luật. Trường hợp tố cáo phức tạp, Thủ trưởng cơ quan tiếp và nghe đại diện của
những người tố cáo trình bày nội dung tố cáo.
Trường hợp vụ việc tố cáo thuộc thẩm quyền, Thủ trưởng cơ quan thụ lý
để giải quyết theo quy định của pháp luật; nếu vụ việc không thuộc thẩm quyền,
hướng dẫn người tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
20


+ Người phụ trách Trụ sở tiếp công dân cấp tỉnh có trách nhiệm bố trí cán
bộ tiếp và nghe đại diện của những người tố cáo trình bày nội dung tố cáo.
Khi cần thiết, người phụ trách Trụ sở tiếp công dân trực tiếp tiếp đại diện
của những người tố cáo; yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện
nơi xảy ra vụ việc tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin,
tài liệu và cử người có trách nhiệm tham gia tiếp đại diện của những người tố
cáo.
Đối với vụ việc phức tạp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trực tiếp
hoặc cử người có trách nhiệm tiếp, nghe đại diện của những người tố cáo trình
bày nội dung tố cáo. Trường hợp cần thiết, yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cấp xã, cấp huyện nơi xảy ra vụ việc tố cáo hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan
cung cấp thông tin, tài liệu và cử người có trách nhiệm tham gia tiếp đại diện của
những người tố cáo.
Trưởng công an cấp xã, cấp huyện quản lý địa bàn nơi người tố cáo tập
trung có trách nhiệm bảo đảm trật tự công cộng; xử lý các hành vi vi phạm theo
quy định của pháp luật.
Trưởng công an cấp tỉnh có trách nhiệm theo dõi, nắm tình hình tố cáo để
tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền xử lý các tình huống phát sinh trong quá
trình giải quyết tố cáo; thực hiện các biện pháp bảo đảm trật tự công cộng; xử lý
các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp xử lý
trường hợp nhiều người cùng tố cáo đến các cơ quan Trung ương
+ Khi nhiều người cùng tố cáo tập trung tại cơ quan trung ương, Thủ
trưởng cơ quan cử cán bộ tiếp, nghe đại diện của những người tố cáo trình bày
nội dung tố cáo. Trường hợp tố cáo phức tạp, Thủ trưởng cơ quan tiếp và nghe
đại diện của những người tố cáo trình bày nội dung tố cáo.
Trường hợp vụ việc tố cáo thuộc thẩm quyền, Thủ trưởng cơ quan thụ lý
để giải quyết theo quy định của pháp luật; nếu vụ việc không thuộc thẩm quyền,
hướng dẫn người tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết.
+ Người phụ trách Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà
nước có trách nhiệm:
Cử cán bộ hoặc chủ trì, phối hợp với người đại diện thường trực của cơ
quan tham gia tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân.
Khi cần thiết, đề nghị lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện nơi
xảy ra vụ việc tố cáo tham gia hoặc cử người có trách nhiệm tham gia tiếp đại
diện của những người tố cáo.
Yêu cầu các cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu;
tham gia tiếp đại diện của những người tố cáo.
Phối hợp với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vận động, thuyết phục để
công dân trở về địa phương.

21


+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện nơi xảy ra vụ việc tố cáo
có trách nhiệm:
Trực tiếp hoặc cử người có trách nhiệm phối hợp với người phụ trách Trụ
sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước và các cơ quan chức năng
có liên quan của Trung ương tiếp đại diện của những người tố cáo.
Cung cấp thông tin, tài liệu về vụ việc tố cáo theo yêu cầu của người có
thẩm quyền.
Giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền hoặc chỉ đạo cơ quan thuộc quyền
quản lý giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật.
Vận động, thuyết phục, có biện pháp để công dân trở về địa phương.
+ Thủ trưởng các cơ quan nhà nước có liên quan có trách nhiệm cung cấp
thông tin, tài liệu và cử người có trách nhiệm tham gia tiếp đại diện của những
người tố cáo theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
+ Trưởng công an cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh quản lý địa bàn nơi người tố
cáo tập trung có trách nhiệm bảo vệ cơ quan, cán bộ tiếp công dân và đảm bảo
trật tự công cộng; xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
+ Bộ Công an có trách nhiệm theo dõi, nắm tình hình tố cáo để tham mưu
cho cơ quan có thẩm quyền xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình giải
quyết tố cáo; thực hiện các biện pháp đảm bảo trật tự công cộng; xử lý các hành
vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm của Tổng thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tổng thanh tra
Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an có trách nhiệm thực hiện, hướng dẫn, kiểm
tra, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương, cơ quan công an, cơ quan thanh tra các
cấp trong việc xử lý trường hợp nhiều người cùng tố cáo về một nội dung.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp với Tổng thanh tra
Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an, Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng
và Nhà nước tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và các Bộ, ngành
có liên quan trong việc xử lý trường hợp nhiều người cùng tố cáo khi được yêu
cầu.
2.2.2.6. Về vấn đề tố cáo tiếp và tiếp nhận, xử lý tố cáo tiếp
Trên thực tế, có những trường hợp người tố cáo không đồng ý với kết luận
của người giải quyết tố cáo, họ cho rằng người giải quyết tố cáo giải quyết chưa
chính xác, chưa khách quan, họ tiếp tục tố cáo tiếp. Tuy nhiên, trước kia Luật
khiếu nại, tố cáo chưa quy định cụ thể về vấn đề này. Hiện nay, Luật tố cáo và
Thông tư số 06/2013/TT-TTCP đã quy định điều kiện để được tố cáo tiếp, người
có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý tố cáo tiếp và cách thức xử lý tố cáo tiếp.
22


Theo đó, khi quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết hoặc
người tố cáo có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật thì
người tố cáo có quyền tố cáo tiếp với người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp
của người có trách nhiệm giải quyết.
Khi tiếp nhận tố cáo tiếp, người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp cần xử
lý như sau:
- Đối với trường hợp quá thời hạn mà tố cáo không được giải quyết thì
người đứng đầu cơ quan cấp trên yêu cầu người có trách nhiệm giải quyết tố cáo
phải giải quyết, trình bày rõ lý do việc chậm giải quyết tố cáo; có biện pháp xử lý
đối với hành vi vi phạm của người có trách nhiệm giải quyết tố cáo.
- Đối với tố cáo đã được giải quyết đúng pháp luật nhưng có tình tiết mới
chưa được phát hiện trong quá trình giải quyết tố cáo có thể làm thay đổi kết quả
giải quyết tố cáo thì yêu cầu người đã giải quyết tố cáo phải tiếp tục giải quyết tố
cáo đó theo thẩm quyền.

- Trong trường hợp tố cáo tiếp không có tình tiết mới, không phát hiện dấu
hiệu vi phạm pháp luật thì không thụ lý giải quyết, đồng thời thông báo bằng văn
bản cho người tố cáo, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan.
- Trường hợp việc giải quyết của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp
là không đúng pháp luật thì tiến hành giải quyết lại theo đúng trình tự Luật tố cáo
quy định.
Đối với trường hợp này, Điều 8 Thông tư số 06/2013/TT-TTCP quy định
như sau: Khi phát hiện một trong những dấu hiệu vi phạm pháp luật được quy
định tại Khoản 2 Điều 8 Thông tư này thì phải thụ lý, giải quyết lại tố cáo đó.
Dấu hiệu vi phạm pháp luật để thụ lý, giải quyết lại tố cáo bao gồm một trong
những dấu hiệu sau:
- Có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo có
thể làm thay đổi kết quả giải quyết tố cáo.
- Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận nội dung tố cáo.
- Kết luận nội dung tố cáo không phù hợp với những chứng cứ thu thập
được.
- Việc xử lý người bị tố cáo và các tổ chức, cá nhân liên quan không phù
hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật đã được kết luận.
- Có bằng chứng về việc người giải quyết tố cáo hoặc người tiếp nhận tố
cáo, người xác minh nội dung tố cáo đã làm sai lệch hồ sơ vụ việc.
- Có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng của người bị tố cáo nhưng
chưa được phát hiện.

23


Các cơ quan thanh tra nhà nước xem xét việc giải quyết tố cáo do người
đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước cùng cấp đã giải quyết mà kết luận có một trong những dấu hiệu vi phạm
pháp luật như đã nêu trên thì kiến nghị người đứng đầu cơ quan hành chính nhà

nước cùng cấp xem xét, giải quyết lại tố cáo đó. Trình tự, thủ tục giải quyết lại tố
cáo theo kiến nghị của cơ quan thanh tra nhà nước được thực hiện theo quy định
tại Luật tố cáo và Thông tư số 06/2013/TT-TTCP.
2.2.2.7. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực
(1) Việc tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản
lý nhà nước trong các lĩnh vực
Việc tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý
nhà nước trong các lĩnh vực được thực hiện như đối với tiếp nhận, xử lý thông
tin tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc
thực hiện nhiệm vụ, công vụ, trừ trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về
quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có nội dung rõ ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ
sở để xử lý ngay.
Đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các
lĩnh vực có nội dung rõ ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ sở để xử lý ngay thì việc
giải quyết tố cáo được thực hiện theo trình tự: Người có thẩm quyền tiếp nhận,
xử lý thông tin tố cáo; trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật thuộc lĩnh
vực mà mình quản lý, người tiếp nhận tố cáo phải trực tiếp tiến hành hoặc báo
cáo người có thẩm quyền giải quyết tố cáo tiến hành ngay việc xác minh nội
dung tố cáo, áp dụng các biện pháp cần thiết để đình chỉ hành vi vi phạm và kịp
thời lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật (nếu có); việc xác minh, kiểm tra
thông tin về người tố cáo được thực hiện trong trường hợp người giải quyết tố
cáo thấy cần thiết cho quá trình xử lý hành vi bị tố cáo.
(2) . Xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung tố cáo đối với hành vi vi
phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực
Việc xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung tố cáo đối với hành vi vi
phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực cũng được thực hiện như xác
minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của
cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ, trừ trường hợp tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có nội dung rõ

ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ sở để xử lý ngay thì người tiếp nhận tố cáo phải trực
tiếp tiến hành hoặc báo cáo người có thẩm quyền giải quyết tố cáo tiến hành ngay
việc xác minh nội dung tố cáo để người có thẩm quyền tiến hành hoặc đề nghị xử lý
hành vi vi phạm đó.

24


Như vậy, trình tự, thủ tục giải quyết đối với những vụ việc có nội dung rõ
ràng, bằng chứng cụ thể để xử lý nhanh chóng và ngăn chặn kịp thời hành vi vi
phạm được thực hiện một cách rút gọn, đơn giản, đảm bảo phù hợp với tính chất,
yêu cầu xử lý kịp thời đối với các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước
trong các lĩnh vực.
3.2.2.3 . Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo
Việc quyết định xử lý tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước
trong các lĩnh vực được thực hiện như đối với việc xử lý tố cáo của người giải
quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong thực
hiện nhiệm vụ, công vụ như đã nêu trên. Tuy nhiên, đối với trường hợp nội dung
tố cáo rõ ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ sở để xử lý ngay thì sau khi xác minh nội
dung tố cáo, áp dụng biện pháp cần thiết để đình chỉ hành vi vi phạm và kịp thời
lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật (nếu có) thì người giải quyết tố cáo ra
quyết định xử lý hành vi vi phạm theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm
quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản của Bộ chính trị
1. Chỉ thị số 35-CT/TU ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
I. Về tiếp công dân:
1. Luật tiếp công dân số 42/2013/QH13 ngày 01/7/2014.
2. Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Thanh tra Chính phủ

quy định quy trình tiếp công dân.
II. Về xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
1.Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 của Thanh tra Chính
phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.
2.Thông tư số 03/2013/TT-TTCP ngày 10/6/2013 của Thanh tra Chính phủ
quy định chế độ báo cáo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng.
3. Quyết định số 1585/QĐ-TTCP ngày 21/6/2016 của Thanh tra Chính phủ
công bố thủ tục hành chính được chuẩn hóa thuộc phạm vi quản lý nhà nước của
Thanh tra Chính phủ.
III. Về Khiếu nại
1. Luật khiếu nại.
2 . Nghị định 75/2012/NĐ-CP ngày 3/10/2012 quy định chi tiết một số điều
của Luật khiếu nại.
3.Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 quy định quy trình giải
quyết khiếu nại hành chính.
25


×