Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP QUAN hệ hôn NHÂN có YẾUTỐ nước NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM và điều ước QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.19 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT KHÓA 2006 - 2010
ĐỀ TÀI:

QUAN HỆ HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC
TẾ

Giáo viên hướng dẫn:
Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
Bộ môn: Thương mại

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Văn Tâm
Mã số SV: 5062501
Lớp: Tư pháp 3-K32

Cần Thơ, 4/2010


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu ..........................................................................................................1
Phần nội dung .....................................................................................................4
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN HỆ HÔN NHÂN CÓ YẾU


TỐ NƯỚC NGOÀI ..............................................................................................4
1.1. Một số khái niệm liên quan về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ...4
1.1.1. Khái niệm quan hệ hôn nhân .................................................................4
1.1.2. Khái niệm quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ..............................5
1.1.3. Pháp luật điều chỉnh hôn nhân có yếu tố nước ngoài............................6
1.2. Sự phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam .......................................................................................8
1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 .......................................8
1.2.2. Giai đoạn 1945 đến 1959.......................................................................9
1.2.3. Giai đoạn 1959 đến 1986.......................................................................10
1.2.4. Giai đoạn 1986 đến 2000.......................................................................11
1.2.5. Giai đoạn 2000 đến nay.........................................................................13
1.3. Đặc trưng của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài ....................................................................................................................14
1.3.1. Đối tượng điều chỉnh.............................................................................14
1.3.1.1. Yếu tố chủ thể của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài............15
1.3.1.2. Khách thể của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ...................16
1.3.1.3. Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ
hôn nhân xảy ra ở nước ngoài ..............................................................................17
1.3.1.4. Yếu tố cư trú của các bên đương sự .................................................18
1.3.2. Phương pháp điều chỉnh ........................................................................19
1.3.2.1. Phương pháp xung đột......................................................................19
1.3.2.2. Phương pháp thực chất .....................................................................21
1.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài .......22
1.4.1. Pháp luật trong nước .............................................................................22
1.4.2. Điều ước quốc tế....................................................................................24
1.5. Các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh pháp luật quan hệ hôn nhân có
yếu tố nước ngoài .................................................................................................25
1.5.1. Các nguyên tắc chung điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài .....................................................................................................................25

1.5.1.1. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
ở Việt Nam ...........................................................................................................25
1.5.1.2. Nguyên tắc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Việt Nam..............................................................................................................26
1.5.1.3. Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ
hôn nhân có yếu nước ngoài................................................................................26
1.5.1.4. Nguyên tắc áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 1

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
đối với quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài..................................................27
1.5.2. Các nguyên tắc chuyên biệt điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài ở việt Nam ........................................................................................28
1.5.2.1. Nguyên tắc luật quốc tịch của đương sự ............................................28
1.5.2.2. Nguyên tắc luật nơi cư trú của đương sự ...........................................29
1.5.2.3. Nguyên tắc luật toà án ........................................................................30
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐIỀU
CHỈNH QUAN HỆ HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI.......................31
2.1. Xác lập quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành .............................................................................31
2.1.1. Điều kiện xác lập quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài......................31
2.1.1.1. Điều kiện về tuổi kết hôn ....................................................................33

2.1.1.2. Điều kiện sức khoẻ ..............................................................................34
2.1.1.3. Điều kiện về tình trạng hôn nhân ........................................................37
2.1.1.4. Điều kiện không có quan hệ dòng họ hoặc quan hệ thân thuộc ..........39
2.1.1.5. Điều kiện không cùng giới tính ...........................................................40
2.1.2. Nghi thức kết hôn .....................................................................................41
2.1.3. Trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ..........................42
2.1.3.1. Thủ tục nộp hồ sơ đăng ký kết hôn ....................................................42
2.1.3.2. Trình tự đăng ký kết hôn tại Việt Nam ...............................................43
2.1.3.3. Trình tự đăng ký kết hôn tại Cơ quan Ngoại Giao, Lãnh sự
Việt Nam ở nước ngoài ........................................................................................44
2.1.4. Thẩm quyền giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài......................45
2.1.4.1. Thẩm quyền đăng ký kết hôn ..............................................................45
2.1.4.2. Thẩm quyền công nhận việc kết hôn đã tiến hành ở nước ngoài ........46
2.1.5. Các trường hợp từ chối đăng ký kết hôn ..................................................46
2.2. Chấm dứt quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành .............................................................................48
2.2.1. Pháp luật điều chỉnh việc ly hôn ..............................................................48
2.2.2. Thẩm quyền giải quyết việc ly hôn ..........................................................51
2.3. Điều ước quốc tế Việt Nam ký kết hoặc tham gia điều chỉnh quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài............................................................................53
2.3.1. Xác lập quan hệ hôn nhân .......................................................................53
2.3.2. Chấm dứt quan hệ hôn nhân.....................................................................54
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
CƠ CHẾ QUẢN LÝ ĐỐI VỚI QUAN HỆ HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI....................................................................................................56
3.1. Thực trạng về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở nước ta
hiện nay................................................................................................................56
3.1.1. Dư luận xã hội xung quanh vấn đề quan hệ hôn nhân có yếu tố

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương


Trang 2

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
nước ngoài ............................................................................................................56
3.1.1.1. Dư luận xã hội trong nước về việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với
người nước ngoài..................................................................................................56
3.1.1.2. Dư luận xã hội về phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài,
nhìn từ bên ngoài .................................................................................................58
3.1.2. Nguyên nhân của việc kết hôn có yếu tố nước ngoài...............................61
3.1.3. Những hệ lụy của việc kết hôn có yếu tố nước ngoài ..............................62
3.2. Một số vướng mắc trong thực tế về việc áp dụng pháp luật điều chỉnh
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ..............................................................65
3.3. Một số gợi ý về các giải pháp nhằm giảm thiểu hậu quả của quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn hiện nay....................................68
3.3.1. Trách nhiệm của người trong cuộc ..........................................................68
3.3.2. Vai trò của gia đình và cộng đồng xã hội.................................................69
3.3.3. Tăng cường vai trò của Nhà nước và Pháp luật .......................................71
3.4. Một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý đối với
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ..............................................................73
Phần kết luận

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 3


SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu
quốc tế, các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển đa
dạng, trong đó các quan hệ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đặc
biệt phát triển, xu thế lấy chồng ngoại quốc, nhận trẻ em làm con nuôi mà mặt
trái của hiện trạng này là tình trạng lợi dụng quan hệ hôn nhân vì mục đích kinh
tế, buôn bán phụ nữ, trẻ em…xảy ra ngày càng nhiều. Trong quan hệ hôn nhân
có yếu tố nước ngoài không thể bác bỏ nhiều trường hợp kết hôn do xuất phát
từ tình yêu thực sự, thường xảy ra ở trường hợp kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người Việt Nam định cư ở nước ngoài và một số người có điều kiện
làm việc cùng nhau. Họ có thời gian tương đối dài để tìm hiểu nhau. Tuy không
có sự tương đồng về ngôn ngữ và phong tục nhưng các bên có thể hiểu được
nhau do có khả năng nhận thức, do thời gian dài gần gũi. Vì vậy, họ tiến tới
hôn nhân là hợp lý. Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp kết hôn có yếu tố nước
ngoài là vì mục đích vụ lợi, thể hiện rõ nhất là các trường hợp kết hôn với
người Đài Loan, Hàn Quốc. Đa số phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài
Loan, Hàn Quốc là những người không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu
nhập thấp và không ổn định nên hoàn cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn. Do đó
mong muốn kết hôn với người nước ngoài để có cuộc sống sung túc hơn, thoát
khỏi cảnh nghèo khổ, hoặc kết hôn với những người tàn tật, khiếm khuyết. Họ
trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình, thậm chí có người còn bị chồng giết

chết.
Tình hình diễn biến phức tạp của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
hiện nay là do nhiều nguyên nhân, một mặt là do những quy định của pháp luật
nước ta còn nhiều thiếu sót, công tác quản lý của Nhà nước thực sự chưa
nghiêm, mặt khác là do hoạt động lén lút của những tổ chức, cá nhân môi giới
bất hợp pháp. Môi giới hôn nhân bất hợp pháp không chỉ hoạt động tại thành
phố mà còn mở rộng về vùng sâu, vùng xa. Thủ đoạn của họ là lừa gạt phụ nữ
bằng hình ảnh những người chồng ngoại quốc khoẻ mạnh, giàu có cùng với
viễn cảnh một cuộc sống no đủ, hạnh phúc, nhàn hạ, thậm chí có tiền gửi về để
giúp gia đình. Một mặt do hoàn cảnh khó khăn trước mắt, cộng với sự lôi kéo
của các thành phần môi giới nên những phụ nữ này đã chấp nhận kết hôn với
những ông chồng chưa từng quen biết nhưng trên thực tế thì họ đang phải đánh
bạc với vận mệnh bằng chính cuộc đời mình.
Trước tình hình trên, việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài trở thành một yêu cầu cấp bách, quan trọng nhằm làm ổn định và phát
triển giao lưu dân sự quốc tế, đồng thời bảo hộ được quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân các nước, đặc biệt là phụ nữ nước ta. Chính vì lẽ đó mà tôi đã tiến
hành nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Vấn đề về xác lập và chấm dứt quan

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 4

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài” để làm đề tài tốt nghiệp cho mình với kỳ

vọng là kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ được ứng dụng trong thực tế.
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu về vấn đề xác lập và chấm dứt quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều
ước quốc tế có liên quan. Nội dung nghiên cứu bao gồm:
Hệ thống cở sở lý luận và những quy định của pháp luật về việc xác lập,
chấm dứt quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và
các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Thực trạng của việc áp dụng những quy định của pháp luật hiện hành trong
việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
Trên cơ sở lý luận và thực trạng việc áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam, tác giả đưa ra một số giải pháp và
kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật và nâng cao năng lực của các
cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài trong giai đoạn hiên nay và vạch ra phương hướng trong thời gian sắp
tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt cho việc nghiên cứu đề tài này, trong suốt quá trình nghiên
cứu, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tiến hành việc phân tích những quy
định của pháp luật hiện hành điều chỉnh về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài, vận dụng phương pháp đánh giá tổng hợp kết hợp với việc hệ thống hóa
các cơ sở lý luận để có thể nhận định đầy đủ về tình hình diễn biến của quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài trong thời điểm hiện tại và đề ra phương hướng
giải quyết trong tương lai.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: đối chiếu giữa lý luận và thực tiển và lấy
thực tiển để làm cơ sở kiến nghị những giải pháp nhằm giải quyết những khó
khăn, vướng mắc trong thực tiển áp dụng pháp luật điều chỉnh về quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn hiện nay. Qua đó nhằm đánh giá

năng lực hiện tại trong công tác quản lý của Nhà nước đối với quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, thu thập và phân
tích số liệu trên sách báo, internet... để làm rõ những nội dung liên quan.
5. Bố cục của đề tài

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 5

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
Ngoài mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục đi kèm, nội
dung của đề tài bao gồm ba phần chính như sau:
Phần mỡ đầu
Phần nội dung
Chương 1: Khái quát chung về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về việc xác lập và chấm dứt
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý đối
với quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Phần kết luận
Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận cũng như thực trạng của việc áp
dụng các quy định pháp luật Việt Nam về việc xác lập và chấm dứt quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài, Luận văn đã trình bày một cách tổng thể những mặt
tích cực và tiêu cực của pháp luật hiện hành về việc bảo vệ quyền lợi của các

bên chủ thể khi xác lập quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, từ đó đưa ra
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hiện hành nhằm bảo vệ hữu hiệu hơn
quyền lợi của các bên khi tham gia vào quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài,
góp phần tăng tính khả thi của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật Hôn
nhân và gia đình nói riêng. Đó là các kiến nghị về việc tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình tại các địa bàn dân cư; tăng cường
cơ chế phối hợp trong thẩm tra, xác minh giữa các cơ quan Công an, Sở Tư
pháp và các nghành có liên quan nhằm nghiêm khắc xử lý các đường dây tổ
chức môi giới hôn nhân bất hợp pháp; mở rộng quan hệ hợp tác song phương
ký kết các hiệp định về hôn nhân và gia đình, thực hiện nguyên tắc có đi có lại
trong quan hệ đối ngoại nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi cho công dân Việt Nam
trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, trong suốt quá trình
nghiên cứu đề tài này, do khả năng nắm bắt thông tin và tầm hiểu biết của bản
thân còn hạn hẹp so với sự phát triển ngày càng đa dạng có phần phức tạp của
mối quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài nên không tránh khỏi những khó
khăn, vướng mắc. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của quý
thầy cô và các bạn đọc để bài luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 6

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN HỆ HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI
Khác với quan hệ hôn nhân trong nước, quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài rất đa dạng và phức tạp vì nó chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp
luật khác nhau. Trong đó, các hệ thống pháp luật điều chỉnh lại không đồng nhất
với nhau khi cùng điều chỉnh một vấn đề phát sinh. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
và tìm hiểu các cơ sở, quy định nhằm giải quyết các vấn đề liên quan về quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài là hết sức cần thiết. Trong phần này, người viết
muốn đề cập đến các vấn đề: Các khái niệm về quan hệ hôn nhân, hôn nhân có yếu
tố nước ngoài, pháp luật điều chỉnh hôn nhân có yếu tố nước ngoài; lịch sử phát
triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài qua các giai
đoạn; các đặc trưng pháp lý; các loại nguồn và những nguyên tắc cơ bản và
chuyên biệt khi áp dụng để giải quyết xung đột quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài.
1.1. Một số khái niệm liên quan về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
1.1.1. Khái niệm quan hệ hôn nhân
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội đặc biệt, trong đó các bên chủ thể gắn kết
với nhau với mục đích tạo dựng một tế bào của xã hội là gia đình. Thông thường,
hôn nhân là kết quả của tình yêu dựa trên sự tự nguyện của các bên chủ thể nhằm
xây dựng mối quan hệ lâu dài và bền vững. Trước đây, trong thời kỳ tồn tại hình
thức quần hôn, khái niệm hôn nhân được hiểu là sự liên kết của nhiều người đàn
ông và nhiều người đàn bà nhằm tạo thành một gia đình. Trong giai đoạn hiện nay,
khi chế độ hôn nhân một vợ một chồng được coi là hình thức hôn nhân tiến bộ thì
khái niệm về hôn nhân cũng thay đổi. Chính vì vậy mà hiện nay khái niệm hôn
nhân đã được nhiều tài liệu đề cập đến. Theo Từ điển Tiếng việt của Trung tâm từ
điển – NXB Khoa học xã hội xuất bản năm 1994 thì hôn nhân được hiểu là việc “
nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng”.
Theo giải thích của Oxford advanced Learner’s Dictionary do Oxford
University Press xuất bản năm 1992 thì “hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một

người đàn ông và một người đàn bà như vợ chồng”.(1)
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại Học luật Hà Nội thì
“hôn nhân là sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên nguyên tắc tự

(1)

Oxford University Press, (1992) Oxford Advanced Learner’s Dictionary.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 7

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
nguyện, bình đẳng theo điều kiện và trình tự luật định, nhằm chung sống với nhau
suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hoà thuận”.(2)
Còn theo quy định của khoản 6 và khoản 10 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình
2000 thì “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”.
Trong phần này, người viết tập trung nghiên cứu làm rõ về quan hệ hôn nhân
đó là quan hệ giữa các chủ thể trong hôn nhân, nó được xác lập từ khi các bên
nam, nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng và chấm dứt khi các bên không còn
quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật. Có thể nói, việc xác lập và chấm
dứt quan hệ hôn nhân trước hết hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các
bên trong hôn nhân phù hợp với quy định của pháp luật. Chính vì vậy mà quan hệ
hôn nhân được xem như là một loại quan hệ pháp luật dân sự đặc biệt. Tính chất
dân sự và tính chất đặc biệt trong quan hệ hôn nhân được thể hiện như sau:

Thứ nhất, tính chất dân sự trong quan hệ hôn nhân được biểu hiện ở ba điểm
cơ bản: Một là, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về hôn nhân giống như đối
tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự. Hai là, phương pháp điều chỉnh quan hệ
hôn nhân được dựa trên phương pháp điều chỉnh của luật dân sự. Ba là, các quy
định điều chỉnh quan hệ hôn nhân được quy định trong bộ luật dân sự.
Thứ hai, tính đặc biệt trong quan hệ hôn nhân được thể hiện ở yếu tố tình cảm
của các bên chủ thể. Có thể nói tình cảm của các bên chủ thể đối với nhau được
coi là cơ sở cơ bản và phổ biến trong việc xác lập quan hệ hôn nhân lâu dài và bền
vững, không mang tính chất nhất thời và không mang tính chất đền bù ngang giá
giống như hầu hết các quan hệ dân sự khác. Mặt khác, trong quá trình thực hiện
nghĩa vụ của mình, các chủ thể trong quan hệ hôn nhân không chỉ vì lợi ích của
bản thân mà còn vì những lợi ích của người khác trong quan hệ phái sinh từ quan
hệ hôn nhân như quan hệ huyết thống, quan hệ thân thuộc.
Như vậy, quan hệ hôn nhân là quan hệ được hình thành trên cơ sở của hôn
nhân, thể hiện sự liên kết giữa các chủ thể trong đời sống hôn nhân. Tuy nhiên, đời
sống hôn nhân không phải tự nhiên được hình thành mà nó chỉ được hình thành
khi có sự liên kết giữa các chủ thể với những điều kiện nhất định, đồng thời, đời
sống hôn nhân không tồn tại vĩnh viễn mà nó sẽ bị chấm dứt trong những trường
hợp nhất định.
1.1.2. Khái niệm quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
Trong xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân cũng như mọi quan hệ xã hội khác
bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, cùng
với sự phát triển của xã hội, quan hệ hôn nhân cũng không ngừng phát triển đặc
biệt là về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.

(2)

Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương


Trang 8

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
Trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài, Luật Hôn nhân và gia đình 2000, tại khoản 14, Điều 8 đã định nghĩa
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, như sau: “Quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người nước ngoài với nhau thường trú
tại Việt Nam hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài”.
Theo quy định này, quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được hiểu là quan
hệ hôn nhân như sau:
Thứ nhất, có một bên chủ thể là người nước ngoài. Ở Việt Nam, người nước
ngoài được hiểu là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc
tịch nước ngoài và người không có quốc tịch. Người có quốc tịch nước ngoài có
thể là người có một hoặc nhiều quốc tịch nước ngoài. Như vậy, quan hệ hôn nhân
có yếu tố nước ngoài có thể xảy ra trong các trường hợp sau: giữa người Việt Nam
với người nước ngoài, giữa người Việt Nam với người không có quốc tịch, giữa
người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam, giữa người không có quốc
tịch với nhau thường trú tại Việt Nam.
Thứ hai, giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài. Theo quy định này, có thể hiểu rằng,
trong một số trường hợp nhất định, pháp luật Việt Nam thừa nhận việc xác lập,

thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài trong một số chừng
mực nhất định. Việc thừa nhận hệ quả pháp lý trong việc điều chỉnh hôn nhân có
yếu tố nước ngoài giữa công Việt Nam theo pháp luật nước ngoài là một thực tế
khách quan nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tuy nhiên,
pháp luật nước ngoài chỉ điều chỉnh trong khoảng thời gian mà các đương sự cư
trú trên lãnh thổ của họ. Hơn nữa, nếu việc xác lập hôn nhân giữa công dân Việt
Nam với nhau ở nước ngoài trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam thì hôn nhân đó sẽ không được công nhận. Việc áp dụng pháp luật nước
ngoài để giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế phải tuân theo các nguyên tắc, điều
kiện và thể thức nhất định. Theo pháp luật Việt Nam, về nguyên tắc, pháp luật
nước ngoài chỉ được áp dụng trên lãnh thổ Việt Nam để điều chỉnh các mối quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khi có một quy phạm pháp luật (bao gồm pháp luật
trong nước, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên) dẫn chiếu đến và việc áp
dụng đó hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam (Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình 2000 và Điều 759
Bộ luật dân sự 2005).
Thứ ba, quan hệ giữa công dân Việt Nam với nhau mà tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài. Trong trường hợp này, các bên chủ thể đều là công dân
Việt Nam, nhưng tài sản đang tranh chấp lại nằm ở nước ngoài. Tuy nhiên, có thể

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 9

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________

thấy rằng, yếu tố tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài không chỉ xảy ra
trong quan hệ giữa công dân Việt Nam với nhau mà còn tồn tại trong cả quan hệ
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.
1.1.3. Pháp luật điều chỉnh hôn nhân có yếu tố nước ngoài
Hôn nhân là cơ sở, tiền đề cho việc tạo ra gia đình – tế bào của xã hội. Thực tế
đã chứng minh rằng một xã hội phồn thịnh hay không là phụ thuộc rất nhiều vào
gia đình trong xã hội đó, bởi vì gia đình có một vị trí rất quan trọng trong tất cả
các phương diện: kinh tế, chính trị, xã hội. Do đó pháp luật điều chỉnh là việc tất
yếu.
Về mặt nguyên tắc, ở bất cứ xã hội có giai cấp nào, pháp luật cũng luôn là
công cụ hữu hiệu để điều chỉnh quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp
luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, và
phong tục tập quán nhất định. Chẳng hạn như ở các nước tư bản vẫn còn có những
quy định thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ nam nữ, giữa vợ và chồng, còn ở
Việt Nam có quy định hôn nhân được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện và tiến
bộ, một vợ, một chồng bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của vợ, chồng, cha mẹ và cả
con cái… Do đó vấn đề xung đột pháp luật thường hay xảy ra. Để giải quyết hiện
trạng này theo xu hướng của các nước trên thế giới là thống nhất các quy phạm
xung đột thông qua các điều ước quốc tế hoặc thông qua việc công nhận bản án
của các toà án nước ngoài nhằm thống nhất với nhau về nguyên tắc giải quyết. Tuy
nhiên, do điều kiện hoàn cảnh của từng nước khác nhau nên hiện nay việc ký kết
các điều ước quốc tế vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu và sự phát triển muôn hình
muôn vẻ của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Khác với quan hệ hôn nhân
trong nước, hôn nhân có yếu tố nước ngoài phức tạp hơn chịu sự tác động của hệ
thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra hoặc các quy định của điều ước
quốc tế do quốc gia ký kết nhằm bảo đảm cho chúng phát triển phù hợp với ý chí
và lợi ích của mình. Pháp luật với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội
luôn tác động và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống xã hội. Cũng như pháp luật
điều chỉnh quan hệ xã hội khác, pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài vừa thể hiện tính giai cấp, vừa thể hiện tính xã hội cũng có đặc trưng

cơ bản của pháp luật nói chung. Tuy nhiên, xuất phát từ đối tượng điều chỉnh quan
hệ hôn nhân vượt ra khỏi phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật một quốc gia
nên pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài có những đặc
điểm riêng. Khác với pháp luật nói chung, pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân
có yếu tố nước ngoài là pháp luật được lựa chọn để điều chỉnh một nhóm quan hệ
xã hội nhất định, đó là quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Pháp luật được lựa
chọn này có thể là pháp luật quốc gia (đơn phương) hoặc có thể là điều ước quốc
tế song phương hoặc đa phương do các bên liên quan ký kết, nhưng dù là quy
phạm pháp luật quốc gia hay quy phạm điều ước quốc tế thì pháp luật điều chỉnh
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là phương tiện để bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, xã hội và các bên tham gia quan hệ. Pháp luật này bao gồm một tổng thể các

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 10

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
quy phạm xung đột (quy phạm xung đột thống nhất và quy phạm xung đột không
thống nhất) và quy phạm pháp luật thực chất (quy phạm thực chất thống nhất và
quy phạm thực chất không thống nhất). Trong các quy phạm pháp luật đó, quy
phạm xung đột là quy phạm cơ bản điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài.
Từ phân tích trên, có thể định nghĩa rằng về mặt pháp lý thì pháp luật điều
chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài như sau: “Pháp luật điều chỉnh
quan hệ hôn nhân có yếu nước ngoài là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp

luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau được lựa chọn để điều chỉnh quan
hệ kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng, chấm dứt quan hệ vợ chồng…có yếu tố
nước ngoài phát sinh trong đời sống quốc tế”. Theo định nghĩa này, pháp luật
điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là một chỉnh thể thống nhất bao
gồm tổng thể các quy phạm pháp luật thực chất và quy phạm pháp luật xung đột
nhằm điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Do đó, pháp luật điều
chỉnh mối quan hệ này mang tính đặc thù do có “yếu tố nước ngoài” nó khác với
pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ khác trong xã hội và nó có những đặc trưng
riêng biệt so với các quy phạm pháp luật thông thường.
Hiện nay, do sự phát triển đa dạng của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
nên dù số lượng quy phạm thực chất có tăng lên đáng kể thì nó vẫn không đủ sức
để điều chỉnh quan hệ hôn nhân trên thực tế. Trong những trường hợp này, quy
phạm xung đột ngày càng phát huy tác dụng, việc vận dụng và tăng cường khả
năng áp dụng các quy phạm xung đột (nhất là các quy phạm xung đột thống nhất)
sẽ thúc đẩy sự hợp tác và phát triển quan hệ mọi mặt giữa các quốc gia.
1.2. Sự phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945
Trước năm 1945, Việt Nam còn là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Vì vậy
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài trong thời kỳ này được điều chỉnh bởi các
quy phạm quy định trong một số bộ luật tiêu biểu là Quốc triều hình luật và Hoàng
Việt luật lệ.
Quốc triều hình luật, còn gọi là Bộ luật Hồng Đức(3) được ban hành dưới triều
Lê. Đây là một công trình vĩ đại, đã kế thừa những di sản pháp luật của các đời
vua trước, đồng thời tiếp thu có gạn lọc Bộ luật nhà Đường (Trung Quốc) mà vẫn
giữ được nét độc đáo của nền cổ luật Việt Nam, thể hiện trong phong tục tập quán
lâu đời và truyền thống của văn hoá dân tộc.

(3)


Viện Sử học (1991), Quốc triều hình luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 11

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
Hoàng Việt luật lệ(4), còn gọi là Bộ luật Gia Long được ban hành vào 1815 vào
đầu thời Nguyễn. Tuy nhiên, ngay từ khi mới ban hành, Bộ luật này đã có nhiều
quy định lạc hậu hơn so với Bộ luật Hồng Đức, đến những thập kỷ đầu của thế kỷ
XIX lại càng lạc hậu. Bằng chứng cho thấy trong thực tiển xét xử một số vụ, Toà
thượng thẩm Hà Nội đã không áp dụng Bộ luật Gia Long mà viện dẫn Bộ luật
Hồng Đức nhưng ghi trong phán quyết là theo tục lệ, nhưng sau viện dẫn các điều
luật cụ thể với lập luận những điều này phản ánh đúng tục lệ.
Hai bộ luật này quy định khá cụ thể việc điều chỉnh quan hệ pháp lý giữa vợ và
chồng, quan hệ tài sản của vợ chồng trong gia đình và các vấn đề khác liên quan
đến quan hệ gia đình. Theo các chế định trong hai bộ luật này cho thấy, pháp luật
nước ta vào thời kỳ này thể hiện rõ nét phong tục, tập quán truyền thống của người
Việt Nam về các mối quan hệ về gia đình. Song, hai bộ luật này cũng không tránh
khỏi những hạn chế của chế độ phong kiến đang suy tàn, luôn có xu hướng duy trì
chế độ phụ hệ cứng nhắc, triệt tiêu sự bình đẳng giũa vợ và chồng, giữa con trai và
con gái, con nuôi và con đẻ.
Sau khi xâm lược Việt Nam và đặt ách đô hộ ở Nam Kỳ, thực dân Pháp đã ban
hành Bộ dân luật giản yếu Nam Kỳ áp dụng ở Nam Kỳ và ba thành phố lớn là Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẳng. Bộ dân luật Bắc Kỳ được ban hành vào 30/3/1931 theo

Nghị định của Thống sứ Bắc Kỳ để thi hành trên toàn Bắc Kỳ từ ngày 01/7/1931
thay cho Bộ luật Gia Long. Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật được ban hành vào năm
1939 thi hành trên toàn Trung Kỳ. Tuy nhiên, pháp luật dân sự trong thời kỳ này
có những mặt hạn chế nhất định mà hạn chế đáng kể nhất đó là các quy định về gia
đình vẫn mang nặng tư tưởng phong kiến, đề cao nho giáo, trọng nam khinh nữ và
đề cao quyền gia trưởng, nhiều quy định về nghĩa vụ của con còn rất khắc khe.
Nói chung, trong thời kỳ này mặc dù cả ba bộ luật áp dụng điều chỉnh quan hệ
dân sự nói chung và quan hệ hôn nhân nói riêng ở ba miền Bắc – Trung – Nam
nhưng không có bộ luật nào có quy phạm có quy định một cách cụ thể điều chỉnh
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài mặc dù trên thực tế trong gần một thế kỷ
dưới sự đô hộ của thực dân Pháp thì ở Việt Nam lúc này có không ít những quan
hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Vấn đề hôn nhân có yếu tố nước ngoài trong
thời kỳ pháp thuộc tại Việt Nam không được quy định trong các bộ luật dân sự
cũng như các văn bản pháp luật khác của Việt Nam lúc bấy giờ là hoàn toàn dễ
hiểu, bởi vì quyền lợi của công dân Pháp nói chung và quyền lợi của công dân
Pháp trong quan hệ hôn nhân với “xứ An nam” nói riêng đã được coi là vấn đề
quan trọng thì không thể bị điều chỉnh bởi pháp luật của một nước thuộc địa.
Như vậy, trong giai đoạn này quan hệ hôn nhân có yều tố nước ngoài không
được quy định trong các Bộ luật dân sự cũng như các văn bản pháp luật khác của
Việt Nam lúc bấy giờ đơn giản vì nước ta lúc bấy giờ còn là thuộc địa của thực
(4)

Hoàng Việt luật lệ (1994), Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 12

SVTH: Nguyễn Văn Tâm



Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
dân Pháp nên không có quyền ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh quan
hệ liên quan đến hôn nhân có yếu tố nước ngoài mà chủ yếu phụ thuộc vào ý chí
của thực dân Pháp.
1.2.2. Giai đoạn 1945 đến 1959
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 02 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chính thức
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đây là một sự kiện vô cùng quan
trọng giải phóng đất nước ta thoát ra khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp hơn một
thế kỷ qua. Sau sự kiện này Nhà nước ta phải dồn toàn bộ sức lực tập trung vào
công cuộc kháng chiến nên có rất ít văn bản pháp luật riêng lẻ được ban hành để
điều chỉnh quan hệ dân sự trong đó có quan hệ hôn nhân mà đặc biệt là quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, chỉ có một văn bản pháp luật có giá trị
cao nhất đầu tiên đề cập gián tiếp đến quan hệ hôn nhân là bản Hiến pháp năm
1946 được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua ngày
09/11/1946. Đây là một bước ngoặt quan trọng thể hiện bản chất tốt đẹp của một
xã hội văn minh, một xã hội mà trong đó mọi người được bình đẳng với nhau ở
mọi lĩnh vực trong đó có đời sống hôn nhân. Ngoài ra, trong thời kỳ này, Chủ tịch
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ký Sắc lệnh số 97 – SL sửa đổi một số quy lệ
và chế định dân luật. Sau khi đã đưa ra các quy định tiến bộ điều chỉnh quan hệ
dân sự, trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình, Sắc lệnh số 97 – SL đã bãi bỏ
việc thi hành những quy định trái với nguyên tắc tiến bộ trong quan hệ hôn nhân
và gia đình của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đưa ra nhiều quy định chi tiết
về quan hệ hôn nhân. Đây là một văn bản pháp lý quan trọng và tiến bộ trong quan
hệ hôn nhân mà chưa bao giờ được quy định trong pháp luật của Việt Nam trước
đó. Bên cạnh Sắc lệnh số 97 – SL, còn có Sắc lệnh 159 – SL được ban hành ngày
17/11/1950 quy định riêng biệt về vấn đề ly hôn đã thể hiện phần nào quan điểm

cho rằng hôn nhân là một là quan hệ dân sự đặc biệt và có thể tách ra khỏi các
quan hệ dân sự thông thường. Tuy nhiên, trong tất cả các quy định trong các văn
bản này không có một quy phạm nào điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài mà vấn đề này lại được quy định trong một số văn bản khác. Đó là Sắc lệnh
53 – SL ngày 20/10/1945 về quốc tịch Việt Nam, tại Điều 5, Điều 6, đã trực tiếp
công nhận một thực tế khách quan là có tồn tại quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài.
Nhìn chung, trong thời kỳ này đã có văn bản quy định liên quan đến vấn đề
hôn nhân có yếu tố nước ngoài nhưng vẫn chưa có quy định cụ thể điều chỉnh trực
tiếp quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, các quy định của pháp luật về việc
điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài còn hết sức đơn giản, chưa
được tập hợp thành một hệ thống, chưa điều chỉnh đầy đủ các quan hệ đó. Để lý
giải cho vấn đề này, chúng ta có thể thấy rằng vào giai đoạn này, do quan hệ hợp
tác giữa Việt Nam dân chủ cộng hoà với các nước (chủ yếu với các nước Xã hội
chủ nghĩa) và chỉ mới bắt đầu được kiến lập và dần dần được củng cố. Thời kỳ này

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 13

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
Việt Nam đã bắt đầu gửi sang Liên Xô và các nước Đông Âu nhiều công dân để
học tập, nghiên cứu, đồng thời Việt Nam cũng tiếp nhận chuyên gia, cán bộ của
các nước đến công tác, giúp đỡ và huấn luyện cho cán bộ Việt Nam. Khi đó, các
quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài phát sinh, đòi hỏi phải được pháp luật điều

chỉnh. Tuy vậy, vấn đề điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài chưa
phải là yêu cầu bức xúc. Nhưng cũng chính nhờ vậy mà đã làm nảy sinh khả năng
tiềm tàng cho sự phát triển tiếp tục các xu hướng điều chỉnh pháp luật quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong các giai đoạn sau.
1.2.3. Giai đoạn 1959 đến 1986
Tại kỳ họp thứ 11, ngày 31/12/1959 bản Hiến pháp mới của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà đã được Quốc Hội thông qua tiếp tục khẳng định và ghi nhận
quyền bình đẳng giữa nam nữ. Bên cạnh đó, Luật hôn nhân và gia đình được ban
hành và thông qua vào ngày 29/12/1959 và sau đó đã được Chủ tịch nước ký Sắc
lệnh số 02/SL ngày 13/01/1960 quy định về việc điều chỉnh quyền và nghĩa vụ
giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, Luật hôn nhân và gia đình 1959 không có quy phạm
điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, nhưng so với các giai đoạn
trước, pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn
này đã có những bước phát triển nhất định, đã điều chỉnh một số quan hệ hôn nhân
và cả gia đình có yếu tố nước ngoài.
Ở miền Bắc, vào năm 1961 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04 ngày
16/01/1961 kèm theo Điều lệ về đăng ký hộ tịch, trong đó có quy định vấn đề sinh
tử, kết hôn. Ngày 21/6/1961, Bộ nội vụ ban hành Thông tư số 05/NV hướng dẫn
thi hành Điều lệ về đăng ký hộ tịch nói trên. Tuy nhiên, trong văn bản pháp luật
này lại chưa có quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài đầy đủ
nhưng những quy định này sẽ làm cơ sở để giải quyết mối quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài đặc biệt là về vấn đề con nuôi. Mặt khác, trong giai
đoạn này, đã có một số trường hợp người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm
con nuôi đã được giải quyết.
Ở miền Nam, dưới sự cai trị của bộ máy ngụy quân, ngụy quyền thì các quan
hệ dân sự nói chung và các quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng trong thời kỳ
này vẫn còn chịu sự điều chỉnh của Pháp quy giản yếu (1883) cho đến năm 1959.
Mãi cho đến ngày 02/01/1959, Luật gia đình của chính quyền Ngô Đình Diệm
được công bố. Về mặt pháp lý, Luật gia đình đã chấm dứt sự điều chỉnh của Pháp
quy giản yếu (1883) đối với các quan hệ hôn nhân trong khu vực tạm thời nằm

dưới sự cai trị của chính quyền ngụy quân, ngụy quyền miền Nam. Sự ra đời của
Luật gia đình đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng các quy
định về quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, Luật gia đình 1959 lại còn một số hạn chế
nhất định về kỷ thuật lập pháp cũng như nội dung còn có nhiều quy định còn lạc
hậu như: Pháp luật quy định cấm đoán ly hôn, trừng phạt nghiêm khắc về hình sự
đối với các trường hợp ngoại hôn, trừng phạt nghiêm khắc về hình sự đối với việc

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 14

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
vi phạm các nghĩa vụ phát sinh từ giá thú… Sau đó, Luật gia đình 1959 đã được
thay thế bằng Sắc luật 15/64 kể từ khi chính quyền họ Ngô đã bị lật đổ vào tháng
11 năm 1963. Nhìn chung, Sắc luật 15/64 có nội dung rất giống với Luật gia đình
1959 chỉ khác về cấu trúc và có những cải cách tiến bộ hơn nhưng Sắc lệnh 15/64
vẫn không tránh khỏi những hạn chế về mặt kỹ thuật và nội dung. Trong suốt quá
trình áp dụng, Sắc luật 15/64 đã được sửa đổi, bổ sung bằng nhiều văn bản pháp
luật khác như: Sắc luật số 05/QT/SL ngày 10/2/1965 về việc ấn định việc miễn
điều kiện đứng lập con nuôi; Sắc luật số 49/TP ngày 21/6/1965 về ấn định thủ tục
khế ước nghĩa dưỡng; Sắc luật số 028 ngày 01/12/1965 về việc sửa đổi và bổ sung
Điều 10 Sắc luật 15/64 về việc đặc cách miễn tuổi giá thú; Nghị định số
1200/UBHP/CT ngày 08/12/1965 về việc uỷ quyền cho Tổng uỷ viên Tư pháp
duyệt các Nghị định đặc cách miễn điều kiện tuổi kết hôn. Đến ngày 20/12/1972
Bộ dân luật được ban hành thay thế cho Sắc luật 15/64 cùng các văn bản sữa đổi

và bổ sung sắc luật này trước đó và như vậy kể từ tháng 12 năm 1972 cho đến 30
tháng 4 năm 1975 các quan hệ hôn nhân đều đặt dưới sự điều chỉnh của các quy
phạm quy định trong Bộ dân luật này. Theo quy định tại Điều 125 Bộ dân luật có
quy định về hôn nhân có yếu tố nước ngoài như sau: “Trong trường hợp hôn thú
lập ở ngoại quốc, trong vòng 3 tháng sau khi trở về lãnh thổ Việt Nam, người có
quốc tịch Việt Nam phải xuất trình một bản sao chứng thư hôn thú cũ nhất là 3
tháng gửi cho biện lý Toà án nơi trú ngụ. Biện lý sẽ ra lệnh đăng ký vào sổ giá thú
đương nhiên và ghi chú vào lề chứng thư khai sinh của đương sự, ở sổ chánh cũng
như ở sổ kép”. Cũng như nội dung của các điều 24, 25, 70 của Luật gia đình 01/59
dưới chế đọ Ngô Đình Diệm, Điều 125 của Bộ dân luật dưới chế độ Nguyễn Văn
Thiệu chỉ quy định các điều kiện và thủ tục để một hôn thú được lập ở nước ngoài
có giá trị tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.
Nhìn chung, các văn bản pháp luật dưới chế độ ngụy quân, ngụy quyền miền
Nam là các văn bản có nội dung đi ngược lại lợi ích quốc gia và dân tộc. Mặc dù
đã xoá bỏ chế độ đa thê nhưng vẫn thể hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ và
chồng, phân biệt đối xử với các con trong và ngoài giá thú, cấm vợ và chồng ly
hôn…
Sau khi thống nhất đất nước (1975), quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên
thế giới ngày càng được mở rộng. Trong bối cảnh đó có nhiều người Việt Nam
học tập, công tác, nghiên cứu và lao động ở nước ngoài cũng như có nhiều chuyên
gia nước ngoài vào Việt Nam công tác, làm việc và từ đó làm nảy sinh các mối
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, nên đòi hỏi pháp luật lúc bấy giờ phải có
sự điều chỉnh kịp thời. Đứng trước tình hình đó nên nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã tiến hành đàm phán và ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp
với các quốc gia như: Cộng hoà dân chủ Đức (1980), Liên Xô (1981), Tiệp Khắc
(1982), Cu Ba (1984), Hungari (1985), Bungari (1986). Các hiệp định được ký kết
tạo ra một khung pháp lý hoàn chỉnh hơn điều chỉnh các mối quan hệ hôn nhân và
gia đình giữa các nước được ký kết hiệp định. Bên cạnh việc ký kết các Hiệp định,

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương


Trang 15

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
Nhà nước ta cũng ban hành một số văn bản để điều chỉnh một số vấn đề riêng lẻ
trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
1.2.4. Giai đoạn 1986 đến 2000
Đây có thể được coi là giai đoạn mà đất nước ta đang chuyển mình sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và dần dần hội nhập vào nền
kinh tế quốc tế kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Trước sự diễn biến to
lớn đó, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật kịp thời điều chỉnh
những quan hệ mới phát sinh trong giai đoạn này, đặc biệt là mối quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài vốn đã không được điều chỉnh một cách cụ
thể trong các văn bản pháp luật trước đó.
Ngày 29/12/1986 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đã được Quốc Hội
thông qua. Luật này đã quy định nhiều vấn đề mới phù hợp với hoàn cảnh hiện tại
của đất nước. Trong Luật này đã dành cả một chương IX quy định về quan hệ hôn
nhân giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài mà cụ thể là ở các Điều 52,
53, 54 của Luật này. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật hôn nhân và gia
đình, Nhà nước ta đã giành một chương riêng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài. Theo các quy định tại các Điều 52, 53, 54 của Luật
hôn nhân và gia đình có một số điểm sau:
- Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải
tuân theo những quy định của pháp luật nước mình về kết hôn. Nếu việc kết hôn
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tiến hành ở Việt Nam thì người

nước ngoài còn phải tuân theo các quy định tại Điều 5, Điều 6, Điều 7 Luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam;
- Quan hệ vợ chồng, quan hệ tài sản, quan hệ cha mẹ và con, huỷ việc kết hôn,
ly hôn, nuôi con nuôi và đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài do
Hội đồng Nhà nước quy định.
- Trong trường hợp đã có hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về hôn nhân
và gia đình giữa Việt Nam và nước ngoài, thì tuân theo những quy định của các
hiệp định đó.
Tuy nhiên, trong ba điều trên thì chỉ có Điều 52 quy định việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài là có thể áp dụng để điều chỉnh quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài, mà việc thực hiện quy định của Điều 52 được cụ
thể hoá trong Nghị định số 12/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
ban hành ngày 01/02/1989 về thủ tục kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài tiến hành trước cơ quan có thẩm quyền của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn 1986 – 2000, Quốc hội nước ta đã thông qua một
số văn bản pháp lý quan trọng có liên quan đến hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Đó
là:

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 16

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
- Pháp lệnh lãnh sự năm 1990 (có hiệu lực từ ngày 01/01/1991) quy định

trường hợp đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài chỉ
đăng ký khi được sự đồng ý của nước tiếp nhận (Điều 22).
- Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt nam và người nước
ngoài (Pháp lệnh 1993) quy định về những nguyên tắc, quy tắc hướng dẫn chọn
luật để giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài. Sự ra đời của pháp lệnh này đã đánh dấu sự phát triển quan trọng của
pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Đây là văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh một phần quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài của Việt Nam. Trong đó lần đầu tiên quy phạm quy định áp dụng tập
quán quốc tế để điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được ghi nhận.
- Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Toà án nước ngoài về hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
- Pháp lệnh thi hành án dân sự được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua
ngày 21/4/1994 có quy định về vấn đề thi hành bản án, quyết định về hôn nhân có
yếu tố nước ngoài.
- Bộ Luật dân sự Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và được
bổ sung vào năm 2005 quy định về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài (từ
Điều 39 – 44).
- Luật quốc tịch 1998 quy định về vấn đề hôn nhân có yếu tố nước ngoài (Điều
9, Điều 10).
- Nghị định số 83/1998/NĐ – CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký
hộ tịch có liên quan đến quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Nói chung, trong giai đoạn này, Nhà nước ta đã xây dựng được nhiều văn bản
pháp lý quan trọng điều chỉnh một cách tương đối đầy đủ về các quan hệ hôn nhân
có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước ta cũng đã định ra một cơ chế phối hợp
chặt chẽ các cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề về hôn nhân có yếu tố nước
ngoài. Đồng thời, Chính phủ cũng đã tiến hành đàm phán và ký kết các hiệp định
tương trợ tư pháp với nhiều quốc gia khác (chứ không chỉ gói gọn trong các nước
xã hội chủ nghĩa) để điều chỉnh về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài, góp phần vào việc giải quyết kịp thời các quan hệ xã hội phát sinh trong

thời kỳ mới trong đó quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
1.2.5. Giai đoạn 2000 đến nay
Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với các điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội không
ngừng phát triển đã tác động đến tình hình thực tế của các quan hệ xã hội đang nảy
sinh, trong đó có quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Từ đầu những năm 80
của thế kỷ XX, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều các văn bản pháp luật trong đó

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 17

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
có liên quan đến các lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trong suốt quá
trình áp dụng Luật hôn nhân và gia đình 1986, bên cạnh những thành tựu đạt được
thì thực tế áp dụng cho thấy những quy định của Luật hôn nhân và gia đình 1986
còn mang tính khái quát, chưa cụ thể, việc áp dụng pháp luật giải quyết các quan
hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài còn nhiều vướng mắc, chưa mang tính cụ thể
cao. Chính vì vậy mà đòi hỏi Nhà nước ta phải sửa đổi, bổ sụng Luật hôn nhân và
gia đình một cách toàn diện. Vì vậy, tại kỳ họp thứ VII, Quốc hội khoá X đã chính
thức thông qua bản dự thảo luật sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình 1986
vào ngày 9/6/2000 và được chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 22/6/2000 (theo
lệnh số 08/L/CTN) theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc
hội Luật này gọi là Luật hôn nhân và gia đình 2000. Trong luật hôn nhân và gia
đình 2000 đã giành một chương riêng (chương XI) quy định quan hệ hôn nhân và

gia đình có yếu tố nước ngoài. Chương này gồm 7 điều từ Điều 100 dến Điều 106,
các điều luật này đã xác định rõ nguyên tắc, cách giải quyết xung đột pháp luật và
xung đột về thẩm quyền trong quan hệ hôn nhân và cả quan hệ gia đình có yếu tố
nước ngoài. Sự ra đời của Luật hôn nhân và gia đình 2000 đã áp ứng được yêu cầu
thực tế trong việc giải quyết quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. So với Luật
hôn nhân và gia đình 1986 và pháp lệnh 1993 thì Luật hôn nhân và gia đình 2000
có phạm vi điều chỉnh rộng hơn bao gồm cả việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân
giữa những người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam. Đặc biệt, Luật
hôn nhân và gia đình 2000 có quy định riêng áp dụng cho vùng biên giới.
Điểm chung nhất của Luật hôn nhân và gia đình 2000 trong điều chỉnh quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài là xu hướng áp dụng pháp luật Việt Nam để giải
quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, thẩm quyền giải quyết
các việc hôn nhân có yếu tố nước ngoài cũng được quy định rõ ràng và có tính khả
thi hơn so với Luật hôn nhân và gia đình 1986 và pháp lệnh 1993. Tuy nhiên, để
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thì cần phải ban hành nghị định mới
thay thế Nghị định số 184/CP, bởi vì qua thực tiển áp dụng Nghị định số 184/CP
đã bộc lộ một số bất cập nhất định do quy định còn chung chung, việc áp dụng còn
gặp nhiều vướng mắc do sự khác biệt về hệ thống pháp luật giữa Việt Nam với các
nước. Chính vì vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/2002/NĐ – CP ngày
10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Ngày 16/12/2002 Bộ tư pháp
đã ra Thông tư số 07/2002/TT – BTP hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị
định số 68/CP. Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 69/2006/NĐ – CP ngày
21/7/2006 về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, để sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định 68/2008/NĐ – CP.
Như vậy, song song với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, pháp
luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài đã được hình thành và phát
triển theo từng giai đoạn lịch sử và sự chuyển mình của đất nước ta qua từng giai


GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 18

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
đoạn khác nhau. Trải qua từng thời kỳ, quan hệ hôn nhân và gia đình được điều
chỉnh bằng các văn bản pháp luật trong nước có giá trị pháp lý cao, đó là Luật hôn
nhân và gia đình 1986 và sau này là Luật hôn nhân và gia đình 2000. Ngoài ra,
quan hệ này còn được điều chỉnh theo các hiệp định song phương mà Nhà nước ta
ký kết với các nước. Các hiệp định này đã đánh dấu những bước phát triển mới
trong quan hệ quốc tế giữa nước ta và các nước liên quan trong nhiều lĩnh vực,
góp phần mở rộng quan hệ pháp lý quốc tế, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của công
dân, tạo môi trường pháp lý thuận lợi trong việc hợp tác giải quyết nhiều vấn đề
pháp lý phức tạp và đa dạng, trong đó có quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
1.3. Đặc trưng của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài
Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài có một số đặc
trưng sau:
1.3.1. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài bị phức tạp hoá bởi “yếu tố nước ngoài”. Yếu tố nước ngoài trong
quan hệ hôn nhân đã làm cho việc điều chỉnh quan hệ này khác với việc điều chỉnh
quan hệ hôn nhân không có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy mà các nước trên thế
giới có nhiều quan điểm khác nhau về “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ dân sự
nói chung và quan hệ hôn nhân nói riêng. Thực tiển các nước cho thấy, để xác

định yếu tố nước ngoài trong quan hệ dân sự cụ thể thì thường dựa vào một trong
ba dấu hiệu là: chủ thể, khách thể và sự kiện pháp lý.
Theo pháp luật Việt Nam, yếu tố nước ngoài được quy định cụ thể trong Luật
hôn nhân gia đình 2000, theo đó quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài có các
yếu tố cấu thành như sau:
1.3.1.1. Yếu tố chủ thể của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
Cũng như các quan hệ dân sự khác, yếu tố chủ thể trong quan hệ dân sự nói
chung và quan hệ hôn nhân có yếu nước ngoài nói riêng là rất quan trọng. Vì vậy,
việc nhận diện đúng “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ hôn nhân là hết sức cần
thiết, một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để xác định tư cách chủ thể trong
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là vấn đề quốc tịch của các bên chủ thể
tham gia vào quan hệ hôn nhân. Quốc tịch thể hiện sự lệ thuộc vào một nhà nước
nhất định của một cá nhân, là tiền đề pháp lý bắt buộc để cá nhân có thể được
hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của công dân của mỗi nhà nước. Cá
nhân mang quốc tịch của nước nào thì được hưởng các quyền và thực hiện các
nghĩa vụ và pháp luật của nhà nước đó. Đồng thời, cá nhân đó phải chịu sự chi
phối, quản lý, tác động về mọi mặt của nhà nước mà mình mang quốc tịch. Theo
quy định của Luật quốc tịch 2008 thì người có quốc tịch Việt Nam là người được
sinh ra mà có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam không

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 19

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________

kể người đó sinh ra trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam (Điều 15); là người được
sinh ra trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam mà có cha hoặc mẹ là người Việt Nam
còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam còn cha
không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam (khoản 1, Điều 16); là người được sinh ra
có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có
quốc tịch Việt Nam (nếu có sự thoả thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm
đăng ký khai sinh cho con), là người được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha
mẹ không thoả thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì người đó có quốc
tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 16); là người sinh ra lãnh thổ Việt Nam mà có cha
mẹ là đều người không quốc tịch nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam thì có
quốc tịch Việt Nam (khoản 1, Điều 17); là người sinh ra trên lãnh thổ Việt nam mà
khi sinh ra có mẹ là người không quốc tịch nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam
còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam (khoản 2, Điều 17); là người dưới
15 tuổi bị bỏ rơi được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai
thì có quốc tịch Việt Nam (Điều 18).
Công dân Việt Nam khi tham gia vào quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
thì trước tiên phải có quyền năng chủ thể, tức là phải có năng luật pháp luật và
năng lực hành vi theo quy định của pháp luật Việt Nam. Năng luật pháp luật và
năng luật hành vi là những thuộc tính pháp lý của những chủ thể pháp luật, là
những đặc trưng không thể thiếu của chủ thể pháp luật. Trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài, vấn đề năng lực pháp luật và năng luật hành vi
của công dân Việt Nam được xác định trên cơ sở các quy định của pháp luật dân
sự Việt Nam (Điều 14, Điều 17 Bộ luật dân sự Việt Nam).
Ngoài công dân Việt Nam là chủ thể cơ bản của quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài thì người nước ngoài cũng là chủ thể cơ bản trong quan hệ này. Khái
niệm người nước ngoài được sử dụng trong nhiều văn bản khác nhau của Nhà
nước ta. Trong cả Luật quốc tịch 1998 và Luật quốc tịch 2008 đều không có định
nghĩa cụ thể về người nước ngoài. Tuy nhiên, theo giải thích thuật ngữ “Quốc tịch
nước ngoài” tại khoản 1, Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam 2008 thì “Quốc tịch
nước ngoài là quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam”.

Theo đó, người có quốc tịch nước ngoài là người có quốc tịch của một nước khác
mà không phải là quốc tịch Việt Nam. Khái niệm người nước ngoài còn được quy
định tại Điều 9 Nghị định số 68/2002/NĐ – CP ngày 10/7/2002 của chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình 2000 về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như sau: “Người nước ngoài là người
không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm công dân nước ngoài và người không quốc
tịch”. Như vậy, theo quy định này thì người nước ngoài còn bao gồm cả người
không quốc tịch. Theo khoản 2, Điều 3 Luật quốc tịch 2008 thì: “Người không
quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước
ngoài”. Từ những quy định của Luật quốc tịch 2008 về quốc Việt Nam, quốc tịch
nước ngoài và người không quốc tịch, thì các khái niêm này sẽ được sử dụng trong

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 20

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
suốt quá trình nghiên cứu tư cách chủ thể của những người tham gia vào các quan
hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Để tham gia vào quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài, người nước ngoài phải có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự, trước tiên là theo pháp luật của nước mà người đó là công dân
hoặc pháp luật của nước mà người đó thường trú nếu người đó không có quốc tịch.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam tại khoản 2 Điều 761 Bộ luật dân sự 2005
thì “người nước ngoài có năng luật pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân
Việt Nam”(trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Tuy nhiên, để người nước

ngoài tham gia trực tiếp vào quan hệ hôn nhân thì họ phải có năng lực hành vi. Ở
Việt Nam, vấn đề năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được quy định
tại Điều 762 Bộ luật dân sự 2005.
1.3.1.2. Khách thể của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
Yếu tố khách thể trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài luôn gắn liền
với tài sản, quyền tài sản và quyền nhân thân của các bên chủ thể trong quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự 2005
thì tài sản “bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” và quyền tài
sản theo quy định tại Điều 181 Bộ luật dân sự 2005 “là quyền trị giá được bằng
tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”.
Trong trường hợp có phát sinh tranh chấp giữa các bên có cùng quốc tịch
nhưng tài sản lại nằm ở nước ngoài thì quy chế pháp lý của tài sản, quyền của các
bên và bên thứ ba liên quan đến tài sản đó sẽ được chú ý đến. Điều đó có nghĩa
pháp luật nước ngoài cũng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân có
yếu tố tài sản này. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản ở đây là sẽ điều chỉnh như thế nào khi
có phát sinh tranh chấp. Khi điều chỉnh những tranh chấp về tài sản giữa các bên
chủ thể trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài thì thường áp dụng các quy
phạm xung đột để giải quyết những vấn đề liên quan đến tài sản đó. Phần lớn các
quy phạm xung đột đều dựa vào quy tắc pháp luật của nước nơi có tài sản (lex rei
sitae).
Bên cạnh tài sản và quyền tài sản là khách thể của quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài thì quyền nhân thân cũng là khách thể không thể thiếu trong quan hệ
này. Trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài thì yếu tố tình cảm gắn bó giữa
các bên là nét đặc trưng và trong nhiều trường hợp yếu tố tình cảm đó quyết định
việc xác lập, tồn tại hay chấm dứt quan hệ hôn nhân. Luật hôn nhân gia đình 2000
chưa có quy định giải quyết xung đột pháp luật về các quan hệ nhân thân và quan
hệ tài sản giữa vợ và chồng có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, về nguyên tắc, trong
quan hệ với các nước chưa ký kết điều ước quốc tế để xác định quan hệ nhân thân
và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa công dân Việt Nam với công dân nước
đó thì áp dụng pháp luật Việt Nam. Tranh chấp về quyền nhân thân trong quan hệ

hôn nhân giữa một bên là công dân Việt Nam còn bên kia là công dân các nước

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 21

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
Việt Nam đã ký kết điều ước quốc tế sẽ được điều chỉnh theo quy phạm được ghi
nhận trong các điều ước quốc tế đó.
1.3.1.3. Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ
hôn nhân xảy ra ở nước ngoài
Sự kiện pháp lý trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài phải là sự kiện
xảy ra ở nước ngoài. Nó có thể là sự kiện, hành vi…phù hợp với pháp luật Việt
Nam hoặc pháp luật nước ngoài. Theo các biện pháp tác động đối với quan hệ xã
hội, sự kiện pháp lý được chia thành sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi và
chấm dứt quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Thứ nhất, sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài: Trong trường hợp này, các bên chủ thể kết hôn với nhau có quốc tịch khác
nhau và được kết hôn trước cơ quan có thẩm quyền mà một trong hai bên có quốc
tịch. Thông thường, khi kết hôn với người nước ngoài sẽ do pháp luật nước sở tại
điều chỉnh về nghi thức kết hôn trên cơ sở áp dụng nguyên tắc chọn luật nơi đăng
ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân sẽ được coi là hợp pháp khi các bên chủ thể kết hôn
theo đúng quy định của pháp luật nước của mình mang quốc tịch. Đối với pháp
luật Việt Nam, khi công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài thì công dân
Việt Nam trước tiên phải tuân thủ điều kiện kết hôn của của pháp luật Việt Nam

về điều kiện kết hôn với người nước ngoài.Còn nghi thức kết hôn do pháp luật
nước ngoài điều chỉnh. Xu hướng này được đa số người nước ngoài đến Việt Nam
để chọn vợ thông qua con đường visa du lịch với thời gian lưu trú ở Việt Nam rất
ngắn nên việc tìm hiểu để xác lập mối quan hệ hôn nhân dường như rất hiếm và
chủ yếu thông qua con đường môi giới của các cá nhân, tổ chức Việt Nam nhằm
mục đích trục lợi từ những người nước ngoài chọn vợ. Vì vậy, những mối quan hệ
hôn nhân này thường diển ra rất nhanh chóng thậm chí chỉ vài ngày và sẽ tiến
hành thủ tục để bảo lãnh sang nước ngoài. Khi các cô dâu Việt Nam đến nước
ngoài thì một thời gian sau sẽ tiến hành tổ chức lại việc kết hôn theo đúng nghi
thức và trình tự kết hôn của người nước ngoài. Chính vì vậy mà việc tìm hiểu nhau
để xác lập mối quan hệ hôn nhân lâu dài là không có nên dể xảy ra tình trạng đổ
vỡ hôn nhân.
Thứ hai, sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ hôn nhân yếu tố nước ngoài:
Trên thực tế, có nhiều trường hợp các bên trong quan hệ hôn nhân không còn coi
nhau như vợ chồng nhưng chưa muốn ly hôn với nhau. Trong trường hợp này, ở
những nước công nhận ly thân, pháp luật cho phép các bên ly thân với nhau trên
cơ sở quyết định của toà án. Việc toà án tuyên một quyết định cho phép các bên ly
thân được coi là sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ hôn nhân. Theo quyết định
này, hôn nhân chưa bị chấm dứt nhưng quan hệ vợ chồng thì thay đổi. Sự thay đổi
này thể hiện trong quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của vợ chồng sẽ được điều
chỉnh bởi quyết định của toà án. Khi sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ hôn
nhân xảy ra ở nước ngoài thì vấn đề chọn luật áp dụng sẽ được đặt ra.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 22

SVTH: Nguyễn Văn Tâm



Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
Thứ ba, sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài:
Khi pháp luật đề cập đến các vấn đề liên quan đến sự kiện pháp lý làm chấm dứt
quan hệ hôn nhân đó là sự kiện ly hôn. Trong trường hợp này, các bên vợ chồng ly
hôn với nhau ở nước ngoài trước cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài thì pháp
luật được áp dụng điều chỉnh sẽ là pháp luật của nước mà các bên chủ thể mang
quốc tịch và pháp luật nơi tiến hành ly hôn. Song, vấn đề chọn luật để áp dụng
cũng được đặt ra.
Như vậy, việc xác định đúng thời điểm mà sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xác định đúng luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật
phát sinh giữa các bên, từ đó áp dụng pháp luật chính xác trong việc giải quyết
tranh chấp liên quan đến các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hôn nhân có yếu
tố nước ngoài. Tuy nhiên, khi nghiên cứu sự kiên pháp lý với tính cách là “căn cứ
để phát sinh, thay đổi chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài” không bao
quát được các trường hợp xác lập quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam với
nhau ở nước ngoài. Bởi lẽ, đây là sự kiện pháp lý xảy ra giữa các bên chủ thể cùng
quốc tịch (giữa công dân Việt Nam với nhau) thì sự kiện đó phải xảy ra ở nước
ngoài còn nếu xảy ra ở trong nước thì không được coi là có yếu tố nước ngoài.
1.3.1.4. Yếu tố cư trú của các bên đương sự
Khi nhắc đến “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài thì hầu hết pháp luật của các nước cũng như theo pháp luật Việt Nam
thường chỉ nói đến ba yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, trong Luật hôn nhân và gia
đình 2000 có quy định bổ sung thêm yếu tố cư trú của các đương sự khi tham gia
vào quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, xảy ra trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất, công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài. Theo quy định tại khoản 4
Điều 100 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì các quy định của chương
XI (quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài) cũng được áp dụng đối

với quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai
bên định cư ở nước ngoài. Việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên cư trú ở nước ngoài
tham gia vào quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam là hết sức cần
thiết trong điều kiện hiện nay khi mà xã hội Việt Nam đang bước vào thời kỳ “mở
cửa” và “hội nhập” vào nền kinh tế của khu vực. Chính vì vậy mà việc áp dụng
quy tắc này là hoàn toàn hợp lý, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
không có sự phân biệt giữa công dân Việt Nam ở trong nước hay là công dân ở
ngoài nước, đồng thời tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết các việc
gia đình khi họ tham gia tại Việt Nam.
Thứ hai, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam. Hiện nay, quan hệ hôn nhân
giữa những người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam phát sinh ngày
càng nhiều. Trước thực tế đó, pháp luật Việt Nam đã có quy định để điều chỉnh

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 23

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


Luận văn tốt nghiệp
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo ...
_________________________________________________________________
quan hệ giữa họ với nhau ở Việt Nam. Quan hệ giữa người nước ngoài với nhau
thường trú ở Việt Nam theo quy định tại điểm c, khoản 14, Điều 8 Luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam được coi là yếu tố nước ngoài. Pháp luật áp dụng để điều
chỉnh quan hệ hôn nhân khi họ tham gia tại Việt Nam là pháp luật Việt Nam, tức
là áp dụng quy tắc luật nơi cư trú (lex domicili) của đương sự. Quy tắc này được
ghi nhận tại Điều 103, khoản 1 Điều 104 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.

Việc áp dụng luật nơi cư trú để điều chỉnh quan hệ hôn nhân khi người nước ngoài
tham gia tại Việt Nam là phù hợp với thực tế vì khi họ cư trú tại Việt Nam, các cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam áp dụng pháp luật Việt Nam sẽ giải quyết vụ
việc nhanh chóng và thuận lợi do không phải áp dụng pháp luật nước ngoài.
Như vậy, yếu tố nước ngoài được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam 2000 đã được mở rộng so với trước đây không chỉ bao gồm các yếu tố:
chủ thể, khách thể, sự kiện pháp lý mà còn có yếu tố cư trú của các bên đương sự.
Việc mở rộng phạm vi yếu tố nước ngoài như vậy là hết sức cần thiết nhằm đáp
ứng tình hình thực tế hiện nay của nước ta đang trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.3.2. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là phương
pháp xung đột và phương pháp thực chất. Hai phương pháp này được kết hợp hài
hoà và tác động tương hỗ với nhau trong điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài nhằm đảm bảo một trật tự pháp lý dân sự quốc tế ổn định và tăng
cường hợp tác với nhau giữa các nước trong khu vực và hoàn thiện môi trường
pháp lý vững chắc, đoàn kết, hợp tác, hữu nghị nhất là trong điều kiện hội nhập
ngày nay trên thế giới và đặc biệt trong lĩnh vực hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
1.3.2.1. Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột (hay còn gọi là phương pháp điều chỉnh gián tiếp) là
phương pháp điều chỉnh dựa vào các quy tắc được ấn định để áp dụng pháp luật
của một nước được chỉ định nhằm giải quyết quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài phát sinh thông qua các quy phạm xung đột pháp luật(5). Phương pháp xung
đột được hình thành và phát triển trên nền tảng hệ thống các quy phạm xung đột
của quốc gia và các quy phạm xung đột trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó
là thành viên. Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật ấn định pháp luật của
nước nào cần phải được áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài trong một tình huống thực tế.
Như vậy, các quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài này sẽ được điều chỉnh cụ thể như thế nào, mà chỉ quy định

pháp luật của nước nào cần được áp dụng để điều chỉnh quan hệ cụ thể đó. Do
(5)

Hoàng Phước Hiệp và Lê Hồng Sơn, Các nghành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội (2001), tr. 233.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 24

SVTH: Nguyễn Văn Tâm


×