Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

LUẬN văn sư PHẠM NGỮ văn dạy học văn XUÔI VIỆT NAM HIỆN đại TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ văn lớp 12 (bộ cơ bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.38 KB, 95 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN NGỮ VĂN
-------

-------

LÊ THỊ TÚ NHƯ
MSSV: 6075365

DẠY HỌC VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN LỚP 12
(BỘ CƠ BẢN)
Luận văn tốt nghiệp đại đọc
Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn:

TRẦN ĐÌNH THÍCH

Cần Thơ, 05 - 2011
2011


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.

Lí do chọn đề tài


II.

Lịch sử vấn đề

III.

Mục đích, yêu cầu

IV.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

V.

Phương pháp nghiên cứu

B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề chung về tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại
trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 (bộ cơ bản)
1. Khái quát về văn xuôi Việt Nam hiện đại
1.1. Chung quanh khái niệm văn xuôi Việt Nam hiện đại
1.2. Đặc trưng thể loại văn xuôi Việt Nam hiện đại
1.3. Quá trình phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại
2. Khái quát văn xuôi từ CMT8 đến hết thế kỉ XX
3. Văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp
12 (bộ cơ bản)
3.1. Thể loại
3.2. Cấu trúc
3.3. Đặc điểm nội dung và nghệ thuật
3.4. Vị trí

Chương 2: Dạy học văn xuôi trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn
lớp 12 (bộ cơ bản)
1. Cơ sở lí thuyết về các phương pháp dạy học Ngữ văn
1.1. Các định hướng trong quá trình dạy học của Marzano
1.2. Vấn đề về tổ chức dạy học hợp tác
1.3. Các phương pháp dạy học Ngữ văn


2. Dạy học phần văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 12 (bộ cơ bản)
2.1. Dạy học tác phẩm truyện trong chương trình sách giáo khoa Ngữ
Văn 12 (bộ cơ bản)
2.2 Dạy học tác phẩm kí trong chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn 12
(bộ cơ bản)
3. Thiết kế một số bài dạy trong sách giáo khoa Ngữ Văn 12 (bộ cơ bản)
Bài dạy: Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bài dạy: Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi
Bài dạy: Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu

C. PHẦN KẾT LUẬN


QUY ƯỚC VIẾT TẮT
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
SGK: Sách giáo khoa
Giáo viên diễn giảng.
Giáo viên hỏi và yêu cầu.
Giáo viên nhận xét và đánh giá.
Giáo viên trình bày phương tiện trực quan.

Học sinh trả lời.
Học sinh thảo luận nhóm.


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Học văn là để hiểu sâu hơn về tâm hồn con người, và đồng thời cũng để học
cách làm người. Văn chương là người thầy dạy ta và cũng là tấm gương để ta soi
mình. Đến với văn chương là đến với môn học về tâm hồn. Đến với văn chương là
chúng ta phần nào thanh lọc chính mình, làm phong phú hơn tình cảm, tâm hồn
mình.
Dạy văn, học văn là quá trình khám phá, tìm hiểu, cảm nhận cái đẹp. Cái đẹp
trong văn chương bao giờ cũng bắt đầu từ cuộc đời nhà văn đến tác phẩm, phong
cách nghệ thuật¸ nhân cách con người. Cái đẹp văn chương bao đời nay vẫn luôn
luôn là cái đẹp hấp dẫn. Việc khám phá và cảm thụ văn chương bao đời nay vẫn là
công việc của mỗi người, một công việc nhiều khó khăn mà vô cùng hứng thú.
Ngày nay, việc dạy học theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của học
sinh đã trở thành một phương pháp không thể thiếu trong trường phổ thông. Vì vậy
làm sao để thực hiện tốt điều này, đặc biệt đối với môn Ngữ Văn – một bộ môn mà
để dạy tốt không phải là chuyện dễ. Với những bộ môn khác, chỉ cần giáo viên nắm
chắc kiến thức, nắm phương pháp là có thể dạy tốt bộ môn ấy nhưng riêng môn Văn
thì không hẳn thế. Bởi đặc trưng nổi bật của văn học là tính đa nghĩa. Một tác phẩm
văn học có thể có nhiều cách tiếp cận, nhiều cách hiểu khác nhau. Nhưng tiếp cận
chúng như thế nào, dạy học như thế nào để cho học sinh thấy cái hay, cái đẹp trong
tác phẩm văn học nói chung và văn xuôi hiện đại nói riêng theo tinh thần phát huy
được tính chủ động, sáng tạo của các em quả là vấn đề không đơn giản. Do đặc điểm
tâm lí lứa tuổi, học sinh là những bạn đọc còn hạn chế về vốn sống, kinh nghiệm
thực tiễn nhưng lại có khả năng rung động và có xúc cảm đặc biệt với tác phẩm văn
học. Vì vậy, vai trò của người giáo viên văn học là phải bổ sung, bồi dưỡng vốn
sống, phát triển các năng lực cảm thụ cho học sinh và hướng dẫn họ đến với tác

phẩm văn học một cách đúng nhất, gần nhất. Để làm được nhiệm vụ cao quý và nặng
nề này, người giáo viên cần có những phương pháp thích hợp, đồng thời phải biết
cách sử dụng, phối hợp các phương pháp phân tích tác phẩm một cách nhuần nhuyễn
nhất, nhằm giúp học sinh vừa nắm bắt tri thức, vừa nắm bắt phương pháp học tập,
nghiên cứu.


Đại văn hào Nga Lev Tolstoi từng nói: “Cái quý nhất không phải là biết quả
đất tròn mà phải hiểu người ta đã tìm ra điều ấy như thế nào?” Phương pháp có vai
trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống cũng như trong học tập. Nhưng tìm ra
phương pháp đã khó, áp dụng phương pháp đó như thế nào để đạt hiệu quả còn khó
hơn.
Với mong muốn đóng góp một phần công sức vào việc nghiên cứu cách tiếp
cận thể loại văn xuôi và phương pháp dạy thể loại này, chúng tôi chọn đề tài “Dạy
học văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình SGK Ngữ Văn 12 (bộ cơ bản)”.
Hơn nữa, đề tài này giúp chúng tôi làm quen với việc thiết kế bài học, nắm vững cơ
sở lí luận khi thiết kế các tác phẩm văn xuôi hiện đại và là cơ sở để chúng tôi xây
dựng tốt giáo án khi lên lớp. Đồng thời, cũng là để thử thách năng lực của bản thân
và chuẩn bị cho mình một kiến thức nhất định cho việc giảng dạy sau này.

II. Lịch sử vấn đề
Tìm hiểu văn xuôi Việt Nam hiện đại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc tìm hiểu nền văn học dân tộc. Tuy nhiên, nghiên cứu văn xuôi Việt Nam hiện
đại là một vấn đề lớn và hết sức khó khăn vì ý kiến mọi người khó nhất trí trong việc
đánh giá các tác phẩm. Trên thực tế, vấn đề nghiên cứu văn xuôi Việt Nam hiện đại
đã được một số tác giả đặc biệt chú ý đến những lĩnh vực, mức độ khác nhau. Nói
riêng về đề tài “Dạy học văn xuôi Việt Nam hiện đại trong sách giáo khoa Ngữ văn
lớp 12 (bộ cơ bản)” ít có công trình nào nghiên cứu trọn vẹn. Các tác giả thường đi
vào phân tích tác phẩm, rất ít tác giả đề cập đến hệ thống phương pháp tiếp cận tác
phẩm. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi thấy được ít nhiều công trình, tài liệu có

liên quan đến đề tài:
Trong quyển sách: “Vấn đề giảng dạy các tác phẩm văn học theo loại thể”
[17]. Sách đề cập đến phương pháp phân tích các loại thể khác nhau và các thể thơ,
truyện, văn tế… Trong đó có đề cập đến những loại và thể văn xuôi Việt Nam hiện
đại được giảng dạy trong nhà trường phổ thông như truyện ngắn, tiểu thuyết,… Ở
mỗi loại, thể tác giả đều chỉ ra một số kiến thức cơ bản nhất và vận dụng các đặc
trưng loại, thể vào việc giảng dạy tác phẩm. Ở quyển sách này, tác giả đã có cái nhìn
bao quát, ngòi bút sắc cạnh khi đi vào từng loại, thể.


Quyển “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (Theo loại thể)” [2]. Tác
giả đã hệ thống lại cách nhìn vào môn Văn, các phương pháp, biện pháp, câu hỏi, các
cách thức chiến thuật… và chỉ ra việc vận dụng các phương pháp vào các thể loại cụ
thể trong đó có đề cập đến văn xuôi Việt Nam hiện đại trong nhà trường.
Quyển “Dạy học văn ở nhà trường phổ thông” [6] trong đó có mục: “Đổi
mới phương pháp dạy của giáo viên văn học khi học sinh là trung tâm”. Qua đó,
chúng ta cũng rút ra được những nguyên tắc chung trong việc giảng dạy phân môn
đọc Văn.
Quyển “Để dạy và học tốt môn Văn” [7] tác giả đưa ra vấn đề dạy đúng và
dạy hay trong nhà trường. Trong phần dạy đúng, Vũ Ngọc Khánh có đề cập đến tầm
quan trọng của việc dạy đúng thể loại của các bài giảng. Tác giả cũng cho rằng nếu
không nắm chắc đặc trưng của từng thể loại thì “dù bài giảng có lưu loát cũng không
thể xem là thành công”.
Quyển “Phương pháp dạy học Văn ở bậc trung học” [13]. Tác giả đã đề cập
đến những phương pháp dạy học từ xưa đến nay. Đặc biệt, tác giả đã hệ thống
phương pháp riêng cho văn chương ở nhà trường phổ thông trung học theo hướng
tích cực – hiện đại và ứng dụng, thực nghiệm chúng ở nhà trường phổ thông trung
học.
Quyển “Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945 - 1970” [8]. Tác giả đã nêu ra
cách ngắn gọn quá trình phát triển của văn xuôi hiện đại, những thành tựu đặc sắc

của văn xuôi giai đoạn này và chỉ ra quy luật phát triển của nền văn xuôi đó. Quyển
sách đã cung cấp cho chúng ta những nét chính về lịch sử văn xuôi hiện đại.
Quyển “50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám” [15] với
nhiều bài phát biểu, báo cáo, tham luận đã được sắp xếp thành các phần: đặc điểm,
diện mạo, hướng tiếp cận; văn học và chiến tranh Cách mạng; những vấn đề về thi
pháp thể loại. Quyển sách này phần nào cũng đã tạo ra những tiền đề cho việc nghiên
cứu của chúng tôi.
Bài viết: “Định lượng kiến thức và định hướng phương pháp trong dạy học
tác phẩm văn chương ở trường phổ thông trung học” của ThS Trần Đình Thích đã
đưa ra vấn đề là cần phải xác định kiến thức trọng tâm trong từng bài dạy. Tuy nhiên,
không chỉ định lượng kiến thức mà người giáo viên cũng phải định hướng tốt về


phương pháp thì mới đạt được kết quả cao. Bài viết đã đề cập đến vấn đề loại thể
trong việc khai thác tác phẩm là yếu tố giúp cho việc định hướng tốt phương pháp.
Tác giả chỉ ra các thể loại được giảng dạy trong nhà trường, trong đó có thể loại văn
xuôi. Bài viết đã có cái nhìn tổng quát khi đi vào từng thể loại.
Nhìn chung đây là những công trình nghiên cứu viết về việc dạy học Văn xuôi
Việt Nam hiện đại mà chúng tôi đã thu thập được. Với bài viết này, chúng tôi mong
muốn sẽ góp một tiếng nói như hạt cát nhỏ giữa sa mạc nghiên cứu với tất cả sự đam
mê tìm hiểu.

III. Mục đích, yêu cầu
“Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả” (Điđơrô). Mục đích là
kim chỉ nam của con người, vì thế con người không thể làm việc mà không có mục
đích. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng thế, khi nhận được đề tài thì người
nghiên cứu không thể không hướng tới một mục đích cụ thể. Từ trước tới nay, đã có
bao nhiêu nhà bác học nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trên mọi lĩnh vực để đem lại
những kết quả tốt đẹp nhất, nhằm mục đích cải thiện đời sống con người. Cho nên
khi thực hiện đề tài này, chúng tôi cũng hướng đến mục đích cụ thể: Tiếp cận cũng

như tìm hiểu về những nét cơ bản của phương pháp dạy học Ngữ văn hiện đại theo
quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”. Trên cơ sở đó, tìm hiểu, nghiên cứu, vận
dụng những phương pháp dạy học phù hợp vào việc soạn giáo án nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc tiếp nhận văn học nói chung và
văn xuôi Việt Nam hiện đại nói riêng vào thực tế giảng dạy ở trường phổ thông sau
này được thuận tiện và hiệu quả hơn. Ngoài ra, chúng tôi cũng mong muốn được góp
một phần nhỏ về phương pháp dạy học văn xuôi Việt Nam hiện đại trong nhà trường
phổ thông.

IV. Phạm vi nghiên cứu
Với mức độ là một luận văn Tốt nghiệp và theo yêu cầu của đề tài, chúng tôi
chỉ đi sâu vào tìm hiểu các tác phẩm văn xuôi Việt nam hiện đại trong sách giáo khoa
lớp 12 (bộ cơ bản). Trên cơ sở nắm vững đặc trưng về thể loại, nội dung, nghệ thuật,
vị trí, đóng góp của văn xuôi trong tiến trình văn học Việt Nam để từ đó vận dụng
những phương pháp dạy học hiện đại vào soạn một số bài giáo án.

V. Phương pháp nghiên cứu


Để đáp ứng những yêu cầu của luận văn, chúng tôi đã tìm đọc những tài liệu
liên quan, tham khảo, ghi chép, phân tích chương trình sách giáo khoa lớp 12 (bộ cơ
bản), đồng thời trao đổi với cán bộ hướng dẫn. Từ đó, suy nghĩ, kiểm tra lại những gì
đã đọc, ghi chép lại ý tưởng, cuối cùng tổng hợp thành một luận văn hoàn chỉnh.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp: so sánh,
hệ thống… kết hợp với các thao tác chứng minh, phân tích, tổng hợp để làm rõ vấn
đề nêu ra trên tinh thần khách quan, khoa học.

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁC PHẨM
VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH

SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN LỚP 12
(BỘ CƠ BẢN)
1. Khái quát về văn xuôi Việt Nam hiện đại
1.1. Chung quanh khái niệm văn xuôi Việt Nam hiện đại
Một tác phẩm văn học ra đời đều tồn tại trong các hình thức thể loại nhất định
như: thơ, văn xuôi (truyện, tiểu thuyết, kí), kịch, nghị luận. Không có tác phẩm văn
học nào được xây dựng ngoài những hình thức quen thuộc đó. Loại hình tác phẩm là
sự tổng hợp các phương thức tổ chức, phương thức tái hiện đời sống của những đặc
trưng cơ bản gần gũi với nhau.
Lí luận văn học xưa nay có đã có nhiều cách phân chia loại thể văn học và đến
nay vẫn chưa thống nhất. Trong quyển Quốc văn cụ thể, Bùi Kỉ cho rằng văn ta có
bốn “lối”:
- Có vần mà không đối nhau.
- Có vần mà đối nhau.
- Đối nhau mà không có vần.
- Văn xuôi hay tản văn, không có vần và không đối nhau.
Theo Dương Quảng Hàm trong quyển Văn học Việt Nam cho rằng Văn chương
nước ta có nhiều thể, nhưng có thể chia ra làm ba loại lớn:
- Vận văn, tức là loại văn có vần (thơ, lục bát, song thất, hát nói, xẩm, vè).


- Biền văn, tức là loại văn không có vần mà có đối (câu đối, kinh nghĩa, văn
sách).
- Tản văn hoặc văn xuôi là loại văm không có vần mà cũng không có đối.
Ta thấy rằng cả hai nhà nghiên cứu đều lưu ý đến hình thức câu văn, xem đây là
căn cứ để phân loại các tác phẩm văn chương. Ngoài ra, trong Những nguyên lí về lí
luận văn học (tập III, phần loại thể văn học, 1962) Hà Minh Đức xác định có bốn
loại: thơ ca, kịch, tiểu thuyết, tản văn. Trần Đình Sử lại chia thành năm loại: tự sự,
trữ tình, kịch, kí và chính luận (Lí luận văn học tập 2).
Xét về mặt “phương tiện”, tức là về mặt ngôn ngữ của tác phẩm văn chương

ta thấy chỉ dựa vào hình thức câu văn có thể phân biệt được thể loại văn xuôi với thể
loại khác. Vậy khái niệm văn xuôi được hiểu như thế nào?
“Văn xuôi là thể loại văn nói hoặc viết bằng ngôn ngữ thông thường, không
tuân theo các lề luật như thi ca. Văn xuôi chủ yếu dựa vào năng lực trí tuệ cộng với
tình cảm và trí tưởng tượng”[19].
“Văn xuôi là loại văn viết bằng ngôn ngữ thông thường, không có vần điệu,
phân biệt với văn vần” [14; tr.1797].
Từ đầu thế kỉ XX, văn hóa Việt Nam dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa
phong kiến Trung Hoa, bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hóa phương Tây mà chủ
yếu là văn hóa Pháp. Luồng văn hóa mới thông qua tầng lớp tri thức Tây học (phần
lớn là tiểu tư sản) ngày càng thắm sâu vào ý thức và tâm hồn người cầm bút cũng
như người đọc sách. Đến đầu thế kỉ XX, chữ Quốc ngữ đã thay thế chữ Hán, chữ
Nôm trong nhiều lĩnh vực, từ hành chính công vụ tới văn chương nghệ thuật. Chữ
Quốc ngữ được phổ biến rộng rãi đã tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tiếp xúc
với sách báo. Nhu cầu văn hóa của lớp công chúng mới đã làm nảy sinh những hoạt
động kinh doanh văn hóa, làm cho nghề in, nghề xuất bản, nghề làm báo theo kĩ
thuật hiện đại phát triển khá mạnh. Viết văn cũng trở thành một nghề kiếm sống tuy
rất khó khăn, chật vật.
Những nhân tố trên đã tạo điều kiện cho văn học Việt Nam đổi mới theo
hướng hiện đại hóa. Hiện đại hóa ở đây được hiểu là quá trình làm cho văn học thoát
ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới theo hình thức văn học
phương Tây, có thể hội nhập với nền văn học hiện đại thế giới.


Từ những quan điểm về khái niệm văn xuôi và quá trình hiện đại của văn học
ta có thể thấy văn xuôi Việt Nam hiện đại là những tác phẩm được viết bằng ngôn
ngữ thông thường, không có vần điệu, các luật lệ như thơ ca và thoát ra khỏi hệ
thống thi pháp văn học trung đại.

1.2. Đặc trưng thể loại văn xuôi Việt Nam hiện đại

1.2.1 Truyện ngắn
Truyện ngắn là loại văn xuôi tự sự có hình thức ngắn gọn. Về từ nguyên,
truyện ngắn có nghĩa là một tin tức mới mẻ, sốt dẻo. Tuy nhiên, đặc trưng của truyện
ngắn không phải chỉ vì nó ngắn mà chủ yếu là cách nắm bắt và thể hiện hiện thực
cuộc sống. Truyện ngắn thường đi sâu phản ánh một mặt của cuộc sống hiện thực
hay nhà văn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất
nào đó trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Trong truyện ngắn,
nếu nhà văn đặt quá nhiều vấn đề, câu chuyện sẽ dễ bị loãng. Vì thế người viết luôn
luôn chú ý vào một vấn đề cơ bản với sự tỉ mỉ, chi tiết, loại bỏ những gì thiếu súc
tích mà tập trung về sự kiện, về chủ đề, về ấn tượng là yêu cầu của truyện ngắn.
Maugham cho rằng: “Truyện ngắn cần phải viết sao cho người ta không thể bổ sung
thêm vào đó chút gì cũng không thể rút bớt ra chút gì.”
Hình tượng chủ yếu của loại văn này là hình tượng nhân vật. Thông qua số
phận của nhân vật, người đọc có thể hiểu được cuộc sống như thế nào. Nói đến
truyện là nói tới hai thành phần chủ yếu quyết định đặc trưng của loại văn này: nhân
vật và cốt truyện. Khi đọc xong một tác phẩm truyện, điều làm cho chúng ta phải suy
nghĩ và nhớ đến nhiều nhất là nhân vật. Nhưng nhân vật của truyện lại chỉ được thể
hiện thông qua cốt truyện – nghĩa là thông qua hàng loạt sự kiện và biến cố và mối
quan hệ của nhân vật đó với các nhân vật khác trong tác phẩm. Không có nhân vật,
truyện không thành. Không có cốt truyện, không thể hiểu được nhân vật. Cốt truyện
của truyện ngắn có thể là nổi bật, hấp dẫn nhưng chức năng của nó nói chung là để
nhận ra một điều gì. Chính vì vậy, nhân vật và cốt truyện đã trở thành hai khâu trung
tâm của nghệ thuật viết truyện.

1.2.2 Tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại lớn nhất trong loại tác phẩm tự sự, đặc biệt phát triển
mạnh mẽ trong thời kì cận và hiện đại. Ðây là thể loại không bị giới hạn về dung


lượng phản ánh hiện thực, cả về không gian cũng như thời gian. Qua tiểu thuyết,

người đọc có thể hiểu được một giai đoạn lịch sử với nhiều sự kiện, nhiều cảnh ngộ,
địa điểm, tình huống... mà khó có thể loại nào đạt được. Các yếu tố khác của tác
phẩm văn học, từ đề tài, chủ đề, nhân vật, kết cấu… cũng chịu sự chi phối của đặc
điểm này.
Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống trong tính chất văn xuôi. Nó thể hiện cuộc sống
như một thực tại cùng thời và hấp thu vào bản thân mọi yếu tố ngổn ngang, bề bộn
của cuộc đời... bao gồm những bi – hài; cao cả – thấp hèn; vĩ đại – tầm thường, lớn –
nhỏ… Chính dung lượng phản ánh hiện thực rộng lớn giúp nhà văn miêu tả nhân vật
và hoàn cảnh một cách đầy đủ, toàn diện, tỉ mỉ từ những trạng thái tâm hồn cũng như
những mối quan hệ đa dạng, phức tạp khác.
Tiểu thuyết là thể loại đa dạng về mặt thẩm mĩ, có khả năng tổng hợp và thu
hút vào bản thân nó những đặc trưng và sắc thái thẩm mĩ của nhiều loại hình nghệ
thuật khác "Ðức tính căn bản của tiểu thuyết là ăn được mọi thứ, nó đồng hóa mọi
loại tác phẩm khác vào mình” (Ph. Mác xô- Nhà nghiên cứu tiểu thuyết Pháp).

1.2.3 Kí
Trong lịch sử văn học, kí cũng là loại văn có truyền thống lâu đời. Kí là ghi
chép, về nguyên tắc là viết về sự thật mắt thấy tai nghe vì thế không chấp nhận hư
cấu bịa đặt. Đó là đặc điểm chính của kí. Tuy nhiên, đã là một tác phẩm nghệ thuật,
không thể không nói đến hư cấu. Vì thế, có thể có một số trường hợp hư cấu trong kí.
Trước khi đặt bút viết, người viết kí có một số tư liệu lộn xộn, nhiều “lỗ hổng”, chưa
móc nối được tư liệu với nhau… nhà văn buộc phải sắp xếp những tài liệu đã thu
lượm được theo một hệ thống nào đó, đồng thời sử dụng trí tưởng tượng và hư cấu
nhằm làm cho bức tranh trở nên hợp lí, liên tục và hấp dẫn. Tóm lại, nhà văn có thể
hư cấu trong tác phẩm kí nhưng có phần hạn chế và thường ở những phần không xác
định như: nội tâm nhân vật, cảm xúc, thiên nhiên, những nhân vật phụ…). Ngoài ra,
kí có thể có cốt truyện hay không có cốt truyện, có nhân vật hay không có nhân vật.
Trong trường hợp có cốt truyện, có nhân vật thì kí về mặt kết cấu giống như truyện.
Kí cũng có thể chứa đựng các yếu tố trữ tình ở mức độ khác nhau.
Kí có nhiều tiểu loại: kí sự, bút kí, phóng sự, nhật kí, tùy bút, hồi kí... Ngoài

những đặc trưng chung của thể kí là phản ánh sự thật khách quan và tính xác thực,


mỗi tiểu loại lại có đặc điểm riêng. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài có
giới hạn, chúng tôi chỉ tìm hiểu các thể: bút kí, hồi kí và tùy bút.
- Tùy bút: là một loại của thể kí, nhưng tùy bút là thể giàu chất trữ tình nhất trong
các loại kí. Tùy bút là thể loại khá tự do trong quá trình sáng tạo. Nhà văn tùy theo
ngọn bút đưa đi, từ sự việc này đến sự việc kia, từ liên tưởng này đến liên tưởng
khác, để bộc lộ những cảm xúc, những suy nghĩ của mình. Ngôn từ trong tùy bút
thường giàu hình ảnh, giàu chất thơ. Tùy bút cũng phản ánh những sự kiện nhưng
đan xen với những sự kiện là cảm xúc, suy ngẫm của tác giả về con người, cuộc
sống. Thể tùy bút có những đóng góp to lớn cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
- Bút kí: là thể loại ghi chép những sự kiện, cảnh vật mà nhà văn đã mắt thấy, tai
nghe qua đó ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ của họ qua một chuyến đi. Trong đó,
những sự việc luôn xen kẽ với những yếu tố liên tưởng, tưởng tượng, cảm xúc. Cho
nên, bút kí luôn mang đậm màu sắc trữ tình.
- Hồi kí: nhằm ghi lại những sự việc đã xảy ra qua hồi tưởng. Có thể đó là câu
chuyện mà người viết đã tham gia, chứng kiến hoặc được nghe thuật lại một cách
tường tận và gắn liền với kỉ niệm của người viết hoặc người kể. Tuy nhiên, hồi kí
buộc phải tôn trọng tính chân thực của câu chuyện và có sự khái quát cao.

1.3. Quá trình phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại
Văn xuôi Việt Nam hiện đại trong thế kỷ XX trải qua ba giai đoạn phát triển
chủ yếu.
Giai đoạn thứ nhất có thể kể đến là giai đoạn từ đầu thế kỷ đến năm 1945
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Nếu so với trước đó văn xuôi đã có bước phát triển đáng kể. Văn xuôi của Hồ Biểu
Chánh, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Đông Hồ, Tương Phố… không chỉ mới mẻ
ở câu văn, lời văn, ngôn ngữ mà còn ở cách dẫn chuyện, xây dựng nhân vật, kết cấu
và cả những vấn đề hiện thực được đề cập trong đó. Rồi tiếp theo là Hoàng Ngọc

Phách với Tố Tâm, văn xuôi Tự lực văn đoàn, và đặc biệt là văn xuôi hiện thực phê
phán mà tiêu biểu là Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố…
đã đưa văn xuôi Việt Nam hiện đại lên đỉnh cao rực rỡ. Văn xuôi tiếng Việt tiến
nhanh trên con đường hiện đại hóa vào những thập niên 30, với sự phát triển của khá
nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tùy bút,… Đến chặng đường


này văn xuôi tiếng Việt đã đạt được những thành tựu nghệ thuật quan trọng với các
sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Nhất Linh, Khái Hưng… Có thể
nói, văn xuôi tiếng Việt đã vận động với một nhịp độ nhanh để hội nhập với văn học
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn từ 1945 đến 1975
Cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại đã làm nên chiến thắng lịch sử của dân tộc.
Cách mạng tháng Tám như một nét son vàng trên trang sử bốn nghìn năm giữ nước.
Và cũng là cách mạng tháng Tám đã đánh dấu một điểm mốc trong sáng tác văn
nghệ, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của văn xuôi cũng như văn học nói
chung. Cách mạng tháng Tám thành công, một chế độ xã hội mới ra đời và tiếp theo
là những năm tháng kháng chiến trường kì và anh dũng của dân tộc để giữ gìn độc
lập của Tổ quốc. Văn học gắn chặt với sự nghiệp vĩ đại đó của dân tộc. Cho nên đặc
điểm của văn xuôi giai đoạn này là văn xuôi sử thi chiếm ưu thế. So với văn xuôi
tiền chiến, văn xuôi hiện thực phê phán cách tân quan trọng nhất của văn xuôi giai
đoạn này như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định là “phát triển ra nội dung cộng
đồng trong đời sống xã hội và phương tiện cộng đồng trong ý thức cá nhân” (Lã
Nguyên). Chưa bao giờ hình tượng Tổ quốc, hình tượng tập thể, hình tượng nhân dân
lại chiếm ưu thế và hiện lên rực rỡ như thế trong văn học.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn sau 1975 đến nay
Kháng chiến chống Mĩ thắng lợi vào năm 1975, hiện thực đất nước ta bước
sang một thời kì mới, thời kì từ cuộc sống thời chiến chuyển sang hòa bình, từ đời
sống bất bình thường của “ngày có giặc” (chữ dùng của Hữu Thỉnh) chuyển sang

đời sống bình thường. Có những chuyện hôm qua văn học chưa kịp nói đến, chưa
được đề cập, còn phải nhìn một cách phiến diện thì nay có điều kiện đề cập, để nhìn
lại… Những điều này đòi hỏi văn xuôi phải chuyển kịp với thời đại, phù hợp với
hiện thực mới. Người ta nói tới “chưa bao giờ văn xuôi phát triển mạnh mẽ như bây
giờ… chưa bao giờ nhà văn được thành thật như bây giờ”. “Văn xuôi của ta sau
năm 1975 đã chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết”. Ý kiến của nhà
văn Bùi Hiển: "Theo nhận xét riêng của tôi về khuynh hướng "hiện đại hóa" trong
văn xuôi hiện nay, một trong những đặc điểm bút pháp của nó là trầm tĩnh hơn, tỉnh


táo hơn, bớt đi vẻ say sưa, nồng nhiệt so với những sáng tác trước đây về cách mạng
và kháng chiến, tạo một khoảng cách nhất định với đối tượng miêu tả, do đó bình
thản hơn, trí tụê hơn, thấm đậm hơn giọng điệu phê phán, bình giá, trên cơ sở một
cái nhìn thiên về bề sâu tâm tưởng, ý nghĩa nhân sinh, tuy nhiên không vì thế mà
lạnh lùng khô héo, trái lại nữa, qua giọng điệu lời văn ta vẫn thấy cái hơi ấm nhân
tình”. Đã có một độ lùi thời gian nhất định cho phép bao quát toàn cảnh lịch sử, lại
được trang bị một kiểu tư duy nghệ thuật mới, các nhà văn có thêm điều kiện để
chiêm nghiệm, suy tư về nhiều khía cạnh của hiện thực chiến tranh mà trước đây đã
bị bỏ qua hoặc khai thác chưa thỏa đáng.
2. Khái quát văn xuôi Việt Nam hiện đại từ Cách mạng tháng Tám năm

1945 đến hết thế kỉ XX
Thời kì văn xuôi Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ
XX được chia làm ba giai đoạn: giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
đến 1954, giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975, giai đoạn từ 1975 đến cuối thế kỉ
XX.
Văn xuôi Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1954
Văn xuôi giai đoạn này đã có những bước phát triển mới cả về nội dung lẫn
hình thức thể hiện theo định hướng về một nền văn học đại chúng, gắn liền với hiện
thực cuộc sống Cách mạng, phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân dân, thể hiện

niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến. Truyện
ngắn Đôi mắt và Nhật kí ở rừng của Nam Cao, truyện ngắn Làng của Kim Lân là
những tác phẩm tiêu biểu. Từ 1950 bắt đầu xuất hiện những tập truyện kí khá dày
dặn. Đáng chú ý là các tác phẩm được tặng giải nhất trong giải thưởng truyện – kí
của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955: Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc,
Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
Văn xuôi thời kì này đã cố gắng vượt khỏi những khó khăn cả về chủ quan lẫn
khách quan để đi vào khám phá những vấn đề trung tâm của đời sống kháng chiến.
Chỉ trong thời gian ngắn, các nhà văn đã nhận đúng đường đi của mình, hướng đi tất
yếu của thời đại để trên cơ sở đó tìm tòi, sáng tạo để lại cho nền văn học dân tộc
nhiều tác phẩm đặc sắc, khẳng định bước đi vững chắc và vị trí xứng đáng của văn


xuôi thời kì này, cũng như góp phần không nhỏ đối với sự thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Pháp.
Văn xuôi Việt Nam giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975
Nét nổi bật, nét mới của văn xuôi giai đoạn này đó là vừa nâng cao khả năng
bao quát hiện thực, vừa chú ý đào sâu những vấn đề nằm trong hiện thực đó, vừa
miêu tả, vừa phân tích và lí giải cho nên tác phẩm có được sức khái quát chính xác
và sâu sắc hơn. Trong quá trình khám phá, sáng tạo, các nhà văn đã chú ý khai thác
và thể hiện những khía cạnh độc đáo của cuộc sống vừa sản xuất, vừa chiến đấu, sự
gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương cũng như các mối quan hệ trong đời sống gia
đình, xã hội…
Ở từng phương diện và mức độ khác nhau, các tác phẩm đã thể hiện được một
cách thành công sự sàng lọc con người trong cuộc sống xây dựng và chiến đấu, mà
nhất là thể hiện được sự kế tiếp của hai thế hệ trong cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do
của dân tộc tiêu biểu là: Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong
gia đình của Nguyễn Thi…
Văn xuôi trong 20 năm qua tuy chưa có được tác phẩm mang tầm vóc vĩ đại,
nhưng những gì đạt được rất đáng tự hào, trân trọng. Nó đã phản ánh và đáp ứng kịp

thời nhu cầu thẩm mĩ của thời đại, góp phần cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ cuộc sống
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc trong những tháng năm đó.
Văn xuôi Việt Nam giai đoạn từ năm 1975 đến cuối thế kỉ XX
Văn xuôi nhập cuộc nhanh hơn, xông xáo hơn, sớm chứng tỏ vai trò không
thể thay thế của nó trong việc chiếm lĩnh cái hiện thực sôi động đang diễn ra và tham
gia xây dựng, hoàn thiện nhân cách, tâm hồn con người Việt Nam trong thời đại mới.
Điều này không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, bởi văn xuôi đặc biệt phát triển trong
những thời kì mà xã hội có nhiều biến động và số phận, tính cách con người phải trải
qua những bước ngoặc, những thăng trầm dữ dội.
Do đặc trưng thể loại, văn xuôi có thể bao quát một phạm vi đời sống rộng lớn
không chỉ ở hiện tại mà còn cả quá khứ và tương lai, có thể khắc họa chân dung con
người với tất cả các mối quan hệ tự nhiên và xã hội phức tạp của nó. Trong bối cảnh
không gian và thời gian không hạn định, thông qua hệ thống hình tượng sinh động,
văn xuôi cho phép người nghệ sĩ trải lòng mình trước nhiều cảnh đời, nhiều xung


đột gay gắt; từ đó mới có thể giãi bày hết tâm huyết của họ đối với đời sống. Tiếp
tục truy kích cái ác đến cùng, các nhà văn đã tấn công vào những chuyện tiêu cực,
những biểu hiện phản văn hóa, những lối sống buông thả làm băng hoại nhân cách,
đạo đức, những hành vi trắng trợn chà đạp lên đạo lí, dân chủ và công bằng xã hội.
Có thể nói đề tài của văn xuôi được mở rộng đến vô cùng. Mảnh đất hiện thực còn
đang ngổn ngang bề bộn rất cần sự góp mặt của các nhà văn để dần khẳng định các
giá trị đích thực và loại bỏ những rác rưởi, cặn bã, làm lành mạnh hóa đời sống xã
hội. Mặt khác, đã có độ lùi thời gian cho phép bao quát toàn cảnh lịch sử, lại được
trang bị kiểu tư duy nghệ thuật mới, các nhà văn có thêm điều kiện để chiêm
nghiệm, suy tư về nhiều khía cạnh của hiện thực chiến tranh mà trước đây đã bị bỏ
qua hoặc khai thác chưa thỏa đáng. Nền văn học đó ngày càng hiện thực hơn, nhân
đạo hơn và vì thế có sức thuyết phục người đọc hơn.

3. Văn xuôi Việt Nam hiện đại trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 (bộ cơ

bản)
3.1. Thể loại
Khi dạy một tác phẩm văn học, điều đầu tiên là giáo viên phải xác định được
thể loại và đặc trưng thể loại. Đó là công việc hết sức quan trọng trong việc dạy học.
Bởi lẽ “trong dạy học văn nếu không chú ý đến đặc điểm đối tượng, đến đặc trưng
thể loại thì sẽ không có phương pháp phù hợp” [13; 189]. Xác định đúng thể loại và
nắm được các đặc trưng của nó sẽ giúp chúng ta tìm ra phương pháp dạy học hiệu
quả.
Trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 (bộ cơ bản), tác phẩm văn xuôi chiếm một
tỉ lệ khá lớn. Học sinh được tiếp cận với các thể loại văn xuôi như kí, truyện ngắn và
tiểu thuyết. Trong kí học sinh được tìm hiểu các tiểu loại: tuỳ bút, bút kí, hồi kí. Phần
lớn trong chương trình học sinh học truyện ngắn. Còn tiểu thuyết chỉ học ở phần đọc
thêm.

3.2. Cấu trúc
Nhìn chung về cấu trúc chương trình, phần văn xuôi Việt Nam hiện đại trong
sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 (bộ cơ bản) được sắp xếp như sau:
Học kì I
- Người lái đò Sông Đà (Trích - Nguyễn Tuân)


- Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Trích - Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Học kì II
- Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
- Vợ nhặt (Kim Lân)
- Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
- Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)
- Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)
Ngoài ra, còn có thêm một số bài đọc thêm:
- Những ngày đầu tiên của nước Việt Nam mới (Trích – Võ Nguyên Giáp)

- Bắt sấu rừng U Minh Hạ (Sơn Nam)
- Mùa lá rụng trong vườn (Trích – Ma Văn Kháng)
- Một người Hà Nội (Trích – Nguyễn Khải)
Ta có thể thấy rằng, các tác phẩm trên được sắp xếp theo trục lịch sử văn học,
sắp xếp theo trật tự truyền thống: Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2000
gồm 2 giai đoạn: giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 và giai đoạn từ năm 1975 đến
hết thế kỉ XX. Phần lớn các tác phẩm đều được sắp xếp theo khung lịch sử của nó.
Mặt khác, trong từng giai đoạn văn học thì tác phẩm, đoạn trích lại sắp xếp theo cụm
thể loại nhằm tạo thuận lợi cho việc hình thành kĩ năng đọc văn bản thể loại. Chẳng
hạn, phần văn xuôi Việt Nam hiện đại trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 (bộ cơ
bản), tập một có:
Cụm kí gồm 2 tác phẩm chính: Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho
dòng sông? Đọc thêm: Những ngày đầu tiên của nước Việt Nam mới.
Cụm truyện gồm có 5 tác phẩm chính: Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt, Rừng xà nu,
Những đứa con trong gia đình, Chiếc thuyền ngoài xa. Đọc thêm 3 bài: Bắt sấu rừng
U Minh Hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Một người Hà Nội.

3.3. Đặc điểm nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm văn xuôi Việt Nam
hiện đại trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 12 (bộ cơ bản)
Về nội dung tư tưởng, văn xuôi giai đoạn năm 1945 – 1975 đã kế thừa và phát
huy những nét cơ bản trong truyền thống của dân tộc, là chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần nhân đạo. Có thể nói chưa có thời kì nào mà tình cảm dân tộc, ý thức cộng
đồng, tình yêu quê hương đất nước, tình nghĩa đồng bào, đồng chí, lại được thấm


nhuần sâu rộng và biểu hiện phong phú, nhiều vẻ như ở văn học giai đoạn này. Chủ
nghĩa yêu nước vừa là một truyền thống sâu xa lại vừa là nét nổi bật trong tinh thần
của thời đại mới, được thể hiện ở niềm tự hào và ý thức làm chủ đất nước của quần
chúng, ở tư tưởng đất nước này là đất nước của nhân dân, ở lí tưởng độc lập tự do
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tinh thần nhân đạo truyền thống thể hiện ở lòng nhân

ái, tình nghĩa thuỷ chung, ở khát vọng giải phóng con người (Vợ chồng A Phủ của Tô
Hoài, Vợ nhặt của Kim Lân…)
Cảm hứng lãng mạn không chỉ sôi nổi trong thơ mà cả trong văn xuôi. Từ tiểu
thuyết, truyện ngắn, bút kí, tuỳ bút đều rất giàu chất thơ. Và hướng vận động của cốt
truyện, của số phận nhân vật, của dòng cảm nghĩ của tác giả hầu như đều đi từ bóng
tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm vui, từ hiện tại tới tương lai đầy hứa hẹn. Trong
giai đoạn văn học này, cảm hứng lãng mạn kết hợp với khuynh hướng sử thi, tạo nên
một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng. Cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt đã đặt mỗi người
Việt Nam bình thường vào tình huống không thể không trở thành anh hùng. Đồng
thời, mỗi con người, một cách tự nhiên đều cảm thấy hết sức gắn bó với cộng đồng
và có ý thức nhân danh cộng đồng mà suy nghĩ và hành động. Ra đời và phát triển
trong không khí lịch sử đó, văn xuôi giai đoạn này là những sự kiện lịch sử, số phận
toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm của nó là những con người đại
diện cho giai cấp dân tộc, thời đại và kết tinh một cách chói lọi những phẩm chất cao
quý của cộng đồng.
Ở từng phương diện và mức độ khác nhau, các tác phẩm đã thể hiện được một
cách thành công sự sàng lọc con người trong cuộc sống xây dựng và chiến đấu, mà
nhất là thể hiện được sự kế tiếp của hai thế hệ trong cuộc chiến đấu vì Độc lập, Tự
do của dân tộ, tiêu biểu là Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Những đứa con trong
gia đình (Nguyễn Thi)…
Văn xuôi sau năm 1975 phát triển trong bối cảnh đất nước chuyển đổi sang
nền “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Từ năm 1986, sự đổi mới văn xuôi mới
thật sự diễn ra ở bề sâu với một quan niệm đa dạng, nhiều chiều về đời sống. Cảm
hứng khám phá, suy ngẫm, kiếm tìm những vấn đề có ý nghĩa triết lí nhân sinh chi
phối dòng mạch chính của văn xuôi (Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu). Văn xuôi bắt đầu quay về với cuộc sống bình thường. Nó dường như trút bỏ


gánh nặng lịch sử đã qua, để chìa vai gánh một gánh nặng lịch sử mới đầy nặng nhọc
và bỡ ngỡ, đó là văn học của đời sống hàng ngày. Cuộc đời con người được miêu tả

chân thực hơn, không phải chỉ có chiến thắng, hạnh phúc mà nhiều khi còn đầy bất
hạnh, đau khổ. Sự quan tâm chia sẻ của nhà văn đối với bi kịch và những mất mát
mà con người phải gánh chịu trong suốt gần một nửa thế kỉ chiến tranh và nghèo đói
không chỉ thể hiện mối quan hệ gắn bó muôn đời giữa văn học với cuộc sống mà còn
là biểu hiện sinh động của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học thời kì đổi mới.
Về nghệ thuật, văn xuôi ở hai thời kì này có sự phong phú về đề tài, chủ đề.
Vấn đề về nhân vật, nhà văn chú trọng hơn việc đi sâu vào khai thác nội tâm, đời
sống tinh thần của nhân vật. Ngoài ra, cần chú ý đến nghệ thuật xây dựng tình huống
truyện, và bút pháp trần thuật mới mẻ.
3.4. Vị trí và tầm quan trọng
Văn xuôi Việt Nam hiện đại được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa
Ngữ Văn 12 (bộ cơ bản) có một vị trí khá quan trọng. Đối với tác phẩm truyện trong
giai đoạn này chủ yếu viết về vấn đề số phận con người bằng cảm hứng anh hùng ca
và cảm hứng thế sự; về tình yêu quê hương đất nước. Còn kí thì nó đã phản ánh được
vẻ đẹp và sức hấp dẫn của cuộc sống, con người và quê hương qua những trang viết
chân thực, đa dạng. Chính những điều này đã góp phần vào việc bồi đắp tâm hồn cho
thế hệ trẻ đó là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, niềm tự hào, trân trọng và gìn giữ
cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và những nét đẹp văn hoá truyền thống. Mặt khác, nó
giúp học sinh nhìn nhận lại chính bản thân và hoàn thiện mình hơn trong cuộc sống,
học sinh sẽ ý thức hơn về trách nhiệm của bản thân là ra sức học tập với quan niệm
“Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định” (UNESCO).
Ngoài ra, nó còn giúp học sinh bổ sung thêm tri thức về thể loại kí đặc biệt là
tuỳ bút, bút kí,… rèn luyện khả năng quan sát và sáng tạo đối với các sự vật, hiện
tượng thiên nhiên trong cuộc sống.


CHƯƠNG 2: DẠY HỌC VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12 (BỘ CƠ BẢN)
1. Cơ sở lí thuyết về các phương pháp dạy học Ngữ văn
Một trong những vấn đề cơ bản trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy

học Văn là vấn đề chủ thể của học sinh. Học sinh cần được xem là một chủ thể có ý
thức hoạt động độc lập, tích cực trong quá trình dạy học Văn. Một tác phẩm văn
chương được đưa vào giảng dạy trong nhà trường khi đến với học sinh lại là một cơ
sở để học sinh tự nhận thức dựa trên kinh nghiệm và đặc điểm tâm sinh lí của bản


thân các em. Vì vậy, muốn học sinh cảm nhận tốt tác phẩm cần chú ý đến vấn đề chủ
thể học sinh.
Ngày nay, lí luận dạy học hiện đại đặc biệt coi trọng vai trò của học sinh, học
sinh trở thành trung tâm của quá trình dạy học. Đây là vấn đề mang ý nghĩa thời đại,
phù hợp với yêu cầu của thời đại. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã diễn ra với
tốc độ chóng mặt, đã và đang làm nên những đổi thay kì diệu trong cuộc sống loài
người. Nó đặt tất cả các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam vào tình thế
cấp bách, buộc phải đổi mới tư duy và phương pháp để theo kịp bước tiến của thời
đại. Vì vậy, “phát huy năng động của chủ thể năng lực sáng tạo của mỗi người cũng
như phát huy chủ thể học sinh cũng chính là đáp ứng một đòi hỏi có ý nghĩa thời đại
mà cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang đặt ra cho các ngành khoa học cũng như
các nhà khoa học” [9; tr.124]. Đề cao vai trò chủ thể học sinh, lấy học sinh làm
trung tâm trong quá trình giảng dạy và học tập Văn học chính là tìm ra phương
hướng cơ bản để đào tạo ra những con người năng động tích cực, sáng tạo. Nó là
“vấn đề thuộc bản chất chính trị của chế độ ta phù hợp với quan điểm nhân văn cộng
sản và nhận thức luận mác-xít về tư duy và khoa học với con người” [9; tr.126].
Trong quá trình đổi mới hiện nay của đất nước đang phát triển theo con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa – rất cần những chủ nhân tương lai có khả
năng tư duy độc lập, quyết đoán, có thể giải quyết những vấn đề mang tính chất xã
hội. Quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm” trong giảng dạy đã đáp ứng nhu cầu đó
của thời đại bằng cách thay đổi mối quan hệ tương tác một chiều giữa thầy giáo và
học sinh. Theo quan điểm này thì học sinh tích cực học tập bằng nổ lực của bản thân
mình, tự mình tìm ra kiến thức, tự suy luận, phán đoán và tự kiểm tra kiến thức bằng
hoạt động của mình. Học sinh là cá thể tiếp nhận sáng tạo dưới sự hướng dẫn, tổ

chức của giáo viên. Học sinh sẽ học cách quan sát, xử lí tình huống, tự giải quyết vấn
đề, biết khơi gợi trí tưởng tượng phong phú. Trí tưởng tượng càng mạnh năng suất
cảm thụ càng cao. Sêkhôp từng phát biểu: “Khi viết tôi hoàn toàn dựa vào người
đọc, thêm giúp cho tôi những yếu tố chủ quan mà trong tác phẩm không có được”.
Từ cách học tập trung nêu vấn đề và giải quyết vấn đề bằng suy luận phán đoán,
tưởng tượng… học sinh sẽ thỏa mãn trí tò mò về tri thức mới vừa được tự bản thân
mình khám phá. Điều đó sẽ kích thích hơn nữa sự ham học hỏi của các em. Theo


quan điểm này, giờ học không còn là giờ độc thoại phát vấn của thầy nữa mà trở
thành giờ đàm thoại giữa thầy – trò, trò – trò, hợp tác nhiều chiều để tìm ra cách giải
quyết vấn đề. Thầy chỉ đạo, hướng dẫn, trò chủ động tích cực. Học sinh sẽ tự đánh
giá mình và đánh giá bạn, tự kiểm tra mình và điều chỉnh bản thân. Thầy cũng dựa
trên cơ sở đó để cho điểm một cách linh hoạt cơ động tránh chủ quan cảm tính. Tất
cả đều hướng đến cái đích quan trọng là xây dựng cho học sinh một năng lực độc lập
trong cảm thụ, để trong nhà trường học sinh học tác phẩm văn chương một cách tự
giác; ngoài xã hội học sinh có thể tự mình khám phá, phân tích, xử lí tình huống thử
thách… Từ đó, đào tạo được những con người tự chủ, năng động, sáng tạo trong lao
động.
Quan điểm dạy học “lấy học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học”
không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên mà ngược lại, vai trò của người thầy
giáo cần phải tăng cường, đòi hỏi về trách nhiệm và tài năng cũng nặng hơn nhiều so
với dạy học theo phương pháp truyền thống tái hiện. Cơ chế dạy học Văn đổi mới
nhấn mạnh đến vai trò không thể thiếu được của giáo viên. Học sinh là trung tâm,
giáo viên đóng vai trò chủ đạo, là linh hồn của lớp học, là người tổ chức hoạt động
tâm lí nhận thức của học sinh trong giờ học. Một giờ giảng văn không thể thiếu được
kiến thức văn chương và tài năng Sư phạm của thầy giáo. Thầy giáo là người truyền
đạt kiến thức, kĩ năng lĩnh hội tác phẩm cho học sinh, còn là người phải biết cách tổ
chức định hướng hoạt động cho các em. Từ đó giúp các em nắm được nội dung kiến
thức mới, nắm được kĩ năng, phương pháp đi tới kiến thức đó và tự mình khám phá.

Giáo viên phải làm sao chuyển hóa những nhận thức, cảm nhận tác phẩm thành cảm
xúc của bản thân học sinh. Giáo viên phải linh hoạt trong từng tiết học, tùy bài giảng,
tùy thời gian thực tế, tùy đặc điểm của học sinh mà vận dụng các phương pháp giảng
dạy khác nhau. Nghệ thuật của người giáo viên là dự tính được mọi khả năng có thể
xảy ra và tìm một phương pháp tối ưu để học sinh giải quyết vấn đề. Do đó, giáo
viên phải biết phát huy tối đa năng lực sáng tạo, tính năng động và hiểu biết của cá
nhân học sinh. Cần tôn trọng ý kiến cá nhân của các em, kích thích các em bày tỏ suy
nghĩ trước mỗi vấn đề cần giải quyết, tạo cho các em tính tự giác học tập bằng
phương pháp giảng dạy độc đáo hiệu quả của mình. Từ đó học sinh có thể ứng dụng


lí thuyết đã học vào cuộc sống. Làm tốt những yêu cầu trên, người thầy mới hoàn
thành được vai trò chủ đạo, hướng dẫn của mình.

1.1. Các định hướng trong quá trình dạy học của Marzano
Các nước cải cách giáo dục trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng đã và
đang vận dụng xu hướng hiện đại lấy học sinh làm trung tâm, phát huy hơn nữa nhân
tố con người. Trong đó, công trình A Different Kind of Classroom: Teaching With
Dimensions of Learning là một trong những xu hướng dạy học đã được nhiều nước
vận dụng và đạt hiệu quả giáo dục cao. Tư tưởng dạy học này do nhà giáo dục người
Mĩ Robert Marzano đề ra. Đây là năm định hướng đan xen trong quá trình dạy học.
Năm định hướng này sẽ giúp cho người giáo viên biết làm gì và làm như thế nào để
giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập cũng như rèn luyện
những thói quen tư duy cần thiết. Năm định hướng đó là:

1.1.1 Định hướng 1: Thái độ và sự tự nhận thức tích cực về việc học
Học sinh chỉ có thể học tập có hiệu quả khi có thái độ và sự nhận thức tích
cực về việc học của mình. Hai nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến thái độ và sự nhận
thức tích cực của học sinh là không khí học tập và nhiệm vụ học tập. Không khí học
tập bao gồm những nhân tố bên ngoài: môi trường, điều kiện học tập như cơ sở vật

chất, thiết bị đồ dùng trong lớp, ánh sáng, nhiệt độ, vị trí lớp học,… và những nhân
tố bên trong như: Thái độ học tập, sự nhận thức tích cực về việc học tập của học
sinh. Nhân tố này ảnh hưởng đến tinh thần, tâm lí của học sinh và phụ thuộc rất
nhiều ở thái độ của giáo viên. Người giáo viên phải thể hiện được sự quan tâm của
mình đối với lớp học và từng thành viên trong lớp bằng nhiều cách: giáo viên có thể
di chuyển thường xuyên về phía học sinh, nhìn vào mắt học sinh khi giảng bài hoặc
lúc phát vấn,… Học sinh sẽ cảm thấy thoái mái, dễ chịu nếu được quan tâm, tôn
trọng của giáo viên và bạn bè trong lớp. Tiết học sẽ sinh động, hứng thú hơn nếu
giáo viên có cách vào bài hoặc mở ra vấn đề mới mang tính sư phạm, bất ngờ, thu
hút sự chú ý của người học. Vì thế, để tạo ra bầu không khí tâm lí thoải mái, tích cực,
giáo viên phải chú ý tạo sự thoải mái trong lớp học bằng thái độ vui vẻ, hài hước,
những lời động viên, khích lệ,… Điều quan trọng là người giáo viên phải biết tạo cho
mình phong cách vừa mang tính sư phạm, vừa tạo được sự thoải mái cho học sinh.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cũng cần tạo điều kiện để học sinh thể hiện tinh


thần hợp tác trong học tập thông qua những bài tập thảo luận nhóm, cho học sinh có
sự tự do nhất định trong việc chọn cách trình bày bài tập và có quyền trao đổi với
giáo viên những vấn đề còn khúc mắc,… Giáo viên chỉ bao quát lớp học, theo dõi,
nhắc nhở, hướng học sinh vào nội dung bài học.
Để duy trì thái độ và sự nhận thức tích cực của học sinh về việc học, giáo viên
cần đưa ra những bài tập hữu ích, có giá trị. Sự hứng thú của học sinh càng được
phát huy khi các em thấy được giá trị của các bài tập được giao, nhận thức được
nhiệm vụ học tập của các em sẽ giúp cho các em thực hiện được mục tiêu cá nhân.
Đồng thời, bài tập giáo viên đưa ra phải rõ ràng và mang tính vừa sức đối với học
sinh. Học sinh sẽ tự tin hơn nếu các em hiểu rõ được yêu cầu, nhiệm vụ được giao và
có đủ khả năng thực hiện được nhiệm vụ đó. Mặt khác, giáo viên cũng cần giúp các
học sinh ý thức được nhiệm vụ học tập của mình, phải tạo được mối liên hệ giữa
nhiệm vụ và mục tiêu người học. Chỉ khi xác định được mục tiêu học để làm gì, có
ứng dụng gì cụ thể trong đời sống, khi đó tự các em sẽ có ý thức, thái độ đúng đắn

trong bài học, bài tập được giao, nâng cao hiệu quả học tập của bản thân.

1.1.2. Định hướng 2: Thu nhận và tổng hợp kiến thức
Để có được kiến thức, con người phải trải qua quá trình thu nhận và tổng hợp
kiến thức, biến kiến thức tự nhiên thành kiến thức của chính mình. Xét về tính tự
nhiên của kiến thức, Marzano phân kiến thức nội dung ra thành hai kiểu kiến thức.
Đó là kiến thức thông báo và kiến thức quy trình. Kiến thức thông báo là kiến thức
mà học sinh cần phải nhớ, phải hiểu. Kiến thức quy trình là kiến thức thuộc về kĩ
năng, buộc học sinh phải vận dụng, phải tiến hành các thao tác tư duy để chiếm lĩnh
tri thức.
Kiến thức thông báo bao gồm những kiến thức về: sự kiện, khái niệm, định
nghĩa,… Để học sinh có thể nắm bắt được những kiến thức thông báo một cách vững
chắc, trước khi đi vào bài mới, giáo viên phải giúp học sinh xây dựng ý nghĩa bằng
cách nêu những câu hỏi có liên quan đến nội dung bài học, định hướng cho học sinh
kiến thức sắp học. Sau đó, giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp, hệ thống kiến thức
đã học và đi vào nội dung chính của bài học. Từ việc định hướng bài học, hệ thống
kiến thức, giáo viên đã giúp học sinh chuyển kiến thức từ vùng nhớ tạm thời sang
vùng nhớ lâu dài. Do đó, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức hơn.


×