Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

ĐÁP án TÌNH HUỐNG MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.31 KB, 17 trang )

ĐÁP ÁN TÌNH HUỐNG LUẬT THƯƠNG MẠI
TÌNH HUỐNG 1:
Ngày 03/06/2016, công ty A gửi thư chào hàng cho công ty B có đầy đủ nội dung chủ
yếu của một hợp đồng, đề nghị bán cho công ty B một lô hàng máy tính xách tay trị giá
350.000USD, bảo hành trong vòng 1 năm, giao hàng trung tuần tháng 7 năm 2016, thời
hạn trả lời là 18/06/2016. Công ty B đến ngân hàng của mình xin bảo lãnh để mở L/C
thanh toán cho lô hàng đồng thời gửi cho công ty A bản sao giấy bảo lãnh này kèm theo
đề nghị duy nhất là kéo dài thời hạn bảo hành cho lô hàng thành 18 tháng. Công ty A
nhận được giấy bảo lãnh và đề nghị này vào ngày 16/06/2016.
Ngày 5/7/2016, công ty A bán lô hàng kể trên cho công ty C
Ngày 10/7/2016, công ty B yêu cầu công ty A xác nhận ngày giao hàng để mở L/C
thanh toán nhưng công ty A thông báo đã bán hàng cho công ty C và không có hàng để
giao. Công ty B đề nghị công ty A cấp cho mình lô hàng tương tự với thời hạn giao
hàng sẽ lùi lại nhưng công ty A không trả lời.
Ngày 15/08/2016, công ty B mua số hàng máy tính xách tay kể trên từ công ty D với
giá 380.000USD và thông báo cho công ty A biết về việc này. Công ty A không có hồi
đáp.
Công ty B kiện công ty A ra trọng tài quốc tế yêu cầu công ty A thanh toán các khoản
tiền sau:

Phí bảo lãnh để xin mở L/C.

Thanh toán khoản tiền chênh lệch 30.000USD

Thanh toán khoản tiền phạt hợp đồng do B chậm trễ giao lô máy tính
này cho bên thứ ba.
Phán quyết của trọng tài trong trường hợp này như thế nào? Biết luật áp dụng là
công ước Viên 1980.
Trả lời:
Chào hàng của công ty a gửi cho công ty b là chào hàng cố định. Công ty b chưa trả
lời chấp nhận nhưng đã yêu cầu ngân hàng để mở lc theo công ước viên 1980 thì hành


vi này được coi như là chấp nhận chào hàng. Hành vi này cũng diễn ra trong thời hạn
hiệu lực của chào hàng.
Tuy nhiên trong trường hợp này người được chào hàng đã kéo dài thời hạn bảo
lãnh, hành động này làm tăng trách nhiệm của người bán, theo khoản 2 điều 19, hành
vi đã làm thay đổi phạm vi trách nhiệm của các bên, do đó hợp đồng không hình thành.
Bên a không có nghĩa vụ giao hàng cho bên b như đã nên trong chào hàng.
Công ty b yêu cầu công ty a cấp cho mình 1 lô hàng tương tự và kéo dài thời gian
giao hàng, đây là 1 đề nghị ký kết hợp đồng mới xuất phát từ phía b, a không trả lời và
giữa a và b không có thỏa thuận hay tập quán thói quen kinh doanh im lặng là đồng ý
nên hợp đồng không hình thành a không có nghĩa vụ phải giao hàng cho b.
Trong trường hợp này các khoản yêu cầu bồi thường của B là không có căn cứ.
TÌNH HUỐNG 2:
Ngày 06/10/2015 công ty A (Mỹ) ký kết hợp đồng với công ty B (Việt Nam) có nội
dung như sau:
Đối tượng hợp đồng: 5MT cua Hoàng đế đông lạnh loại I, xuất xứ Alaska.


Giá cả: 60.000USD/MT giao hàng tại cảng Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; tổng
tiền: 300.000USD
Thời hạn giao hàng: 06/01/2016 ; Thanh toán: Bên B ứng trước 50% ngay sau ký
kết hợp đồng, sau khi A giao hàng 10 ngày, bên B thanh toán nốt 50% còn lại; Phương
thức thanh toán: Bên B chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của bên A.
Kiểm tra phẩm chất: Giấy chứng nhận phẩm chất ở cảng đến do Vinacontrol cấp có
giá trị pháp lý cuối cùng.
Luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp: Công ước Viên 1980
Diễn biến sự việc:
- 06/10/2015, Bên B chuyển 150.000USD vào tài khoản của bên A như trong hợp
đồng quy định.
- 06/01/2016, Bên A giao hàng cho bên B. Ngay trong ngày, bên B đã mời
Vinacontrol xuống cảng giám định, biên bản giám định ghi: “Lô hàng đã bắt đầu bị phân

hủy và có mùi, không thể sử dụng được”. Bên B đã tiến hành hủy lô hàng nói trên.
- 10/01/2016, Bên B gửi thông báo tuyên bố hủy hợp đồng kèm theo giấy chứng
chận phẩm chất của Vinacontrol, đồng thời yêu cầu bên A:
Trả lại 150.000USD công ty B đã chuyển, đồng thời thanh toán khoản tiền lãi trên số
tiền 150.000USD theo lãi suất hiện hành ngân hàng của bên B.
Thanh toán chênh lệch giá mua trong hợp đồng so với giá mua hiện hành ngày hủy
hợp đồng (10/01/2016), do giá nhập cua Hoàng đế tăng mạnh vào thời điểm gần tết
Nguyên Đán.
Thanh toán lợi nhuận dự tính 20% giá trị lô hàng vì đây là mức lợi nhuận trung bình
của B.
Công ty A không chấp nhận với lý do, B đã mất quyền tuyên bố hủy hợp đồng vì B đã
hủy hàng và không thể hoàn trả lại hàng nguyên trạng như lúc nhận cho A.
Phán quyết của trọng tài như thế nào? Giải thích?
Trả lời:
Người mua mất quyền tuyên bố hủy hợp đồng nếu họ không thể hoàn lại hàng hóa
như tình trạng khi họ đã nhận hàng trừ trường hợp hàng hóa không thể sử dụng được
theo điều 82 của công ước viên 1980. Trong trường hợp này, giấy chứng nhận của
vinacontrol đã khẳng định hàng hóa đã phân hủy và không thể sử dụng được, hành
động hủy hàng của b là hợp lý( tránh chi phí lưu kho, bảo quản) b không mất quyền
tuyên bố hủy hợp đồng.
Hợp đồng tuyên bố hủy hợp đồng của bên b giải phóng nghĩa vụ của các bên trừ các
khoản bồi thường thiệt hại. bên b có quyền lợi đòi lại khoản tiền họ đã thanh toán
(điều 81) và khoản tiền lãi (điều 84 khoản 1) nhưng phải là khoản tiền lãi mà a có thể
nhận được.
Vì vậy a sẽ phải trả lại 150000usd công ty b đã chuyển cho, đồng thời thanh toán
khoản tiền lãi xuất hiện hành ngân hàng của bên b. thanh toán chênh lệch giá mua
trong hợp đồng so với giá mua hiện hành ngày nhận và hủy hàng (06/01/2016). Không
phải là ngày tuyên bố hủy hợp đồng.
Khoản lợi nhuận dự tính không có căn cứ xác định vì lợi nhuận trung bình của công
ty chưa chắc đã là lợi nhuận của lô hàng này và việc lô hàng có lãi hay không còn phụ

thuộc vào nhiều yếu tố kinh doanh nên khoản này không được bồi thường.
TÌNH HUÔNG 3:


Công ty A (Singapore) và công ty B (Việt Nam) là hai đối tác quen thuộc trong một
cuộc điện đàm, đại diện theo pháp luật của hai bên vào ngày 10/1/2016 đã trao đổi với
nhau một nội dung như sau:
B: Chúng tôi hiện đang có một lô hàng 1000 tấn nhớt FO phẩm cấp loại I, giá
850USD/tấn giao tại cảng Hải Phòng.
A: Chúng tôi cũng đang cần số lượng nhớt như vậy nhưng giá 850USD là quá cao,
chúng tôi khó có thể mua được với giá trên 750USD/ tấn.
B: Vậy chúng tôi sẽ để cho các anh với giá 800USD/tấn.
A: Chúng tôi sẽ thanh toán trước 50% trị giá lô hàng theo phương thức chuyển tiền
vào tài khoản bên công ty anh vào ngày mai. Số tiền còn lại sẽ được thanh toán bằng
L/C trả ngay, không hủy ngang. L/C sẽ được mở cho các anh trong tháng này và rất
mong anh sẽ giao hàng cho chúng tôi vào trung tuần tháng tới.
B: Chúng tôi đồng ý.
A đã thực hiện đúng như cam kết trong điện đàm. Trung tuần tháng sau, giá nhớt
trên thị trường tăng lên thành 1000USD/tấn, A gửi thông báo cho B về lịch dự kiến và
địa điểm tàu đến, bên B không có ý kiến gì. Đến ngày tàu cập cảng B đã không giao
hàng cho A, A đã kiện B ra Tòa trọng tài ICC, yêu cầu B:

Trả lại khoản tiền A đã thanh toán trước cũng với tiền lãi tính theo lãi suất của
ngân hàng bên A từ ngày thanh toán đến ngày hoàn trả lại tiền.

Bồi thường cước phí A đã phải trả cho hãng tàu

Bồi thường khoản chênh lệch giá giữa giá hai bên đã thỏa thuận với giá trên thị
trường vào thời điểm đáng lẽ B phải giao hàng (200USD/tấn)


Do không nhận được hàng, A đã không thể ký kết hợp đồng với công ty C. A
yêu cầu B bồi thường về thiệt hại uy tín và những khoản lợi kinh doanh dự tính vì
không ký được hợp đồng với C.
Phán quyết của trọng tài như thế nào nếu theo thói quen mua bán giữa hai bên luật
được dẫn chiếu trong hợp đồng là luật của nước người bán?
Trả lời:
Luật thương mại 2005 và bộ luật dân sự 2005 là 2 nguồn luật được dẫn chiếu để giải
quyêt tranh chấp trên theo bộ luật dân sự, hình thức của hợp đồng trái với quy định cuả
pháp luật sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu.
Theo luật thương mại, hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài
phải dưới hình thức văn bản hoặc các hình thức khác tương đương văn bản ……
Do đó bên b có lỗi và phải bồi thường………………
Trả lại tiền cho a và số tiền lãi tính tư thời điểm nhận tiền đến thời điểm hoàn trả tiền
nhưng theo lãi suất của ngân hàng b.
Trả cho a cước phí đã trả cho hãng tàu.
Khoản chênh lệch giá không được bồi thường vì khi hợp đồng vô hiệu quyền sở hữu
về lô hàng kể trên của bên a chưa phát sinh nếu a không thể được hưởng lợi do việc
tăng giá của lô hàng. Thiệt hại về uy tín và lợi nhuận không xác đáng vì a có thể mua
hàng thay thế để ký hợp đồng với c.
TÌNH HUỐNG 4:


Ngày 19/05/2016 công ty A (người bán) và công ty B (người mua) ký kết hợp đồng
mua bán 30.000 áo sơ mi nam trị giá 600.000USD, tiến hành giao hàng thành ba đợt,
đợt I từ 01/08 đến 15/08, đợt II từ 15/09 đến 30/09, đợt III từ 15/10 đến 30/10. Tiền
hàng được thanh toán lần đầu trước khi giao hàng là 40%, lần thứ hai thanh toán 50%
sau khi B nhận hàng đợt II, 10% còn lại sẽ được thanh toán ngay sau khi A giao hàng
và chứng từ. Bên nào thực hiện nghĩa vụ hợp đồng chậm sẽ bị phạt 0,5% giá trị phần vi
phạm cho một ngày chậm, nhưng tổng mức phạt không vượt quá 5% giá trị phần vi
phạm.

Diễn biến sự việc:
Đợt I: Hai bên thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng (giao hàng đúng phẩm chất và
thanh toán đúng hạn).
Đợt II: B cử đại diện của mình kiểm tra hàng hóa tại cảng đi và phát hiện hàng hóa
không đúng quy cách như trong hợp đồng. Sau đó 7 ngày, B đã thông báo cho A về sự
không phù hợp này. B sau đó vẫn nhận hàng và thanh toán như hợp đồng. Tuy nhiên
sau đó B đã phải gia công lại lô hàng với chi phí 10.000USD và chấp nhận bán lô hàng
này lỗ 30.000USD và đều lưu lại chứng từ thanh toán phí gia công và mua bán.
Đợt III: A giao hàng đúng phẩm chất và đúng thời hạn. Ngày 30/10 A chuyển chứng
từ yêu cầu B thanh toán nốt 10% còn lại của hợp đồng. B đã không thanh toán hợp
đồng với lí do đợt II, A đã giao hàng sai phẩm chất khiến cho B bị thiệt hại.
25/11/2016, A kiện B ra trọng tài quốc tế yêu cầu B:
-Thanh toán nốt 10% giá trị hợp đồng.
-Thanh toán khoản tiền phạt vi phạm là 0,5% giá trị hợp đồng nhân với số ngày quá
hạn thanh toán.
Bên B kiện lại bên A, yêu cầu khoản 10% đó phải được dùng thay thế vào khoản tiền
lẽ ra A phải bồi thường cho B cho khoản tiền lỗ trực tiếp, chi phí gia công, thất thu lợi
nhuận do lô hàng thứ hai được giao không đúng chất lượng.
Trọng tài sẽ xét xử như thế nào nếu luật được áp dụng là Công ước Viên 1980.
Trả lời:
Việc a giao hàng sai quy cách phẩm chất trong đợt 2 là vi phạm cơ bản nghĩa vụ của
hợp đồng và cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng và khiến b buộc phải gia công lại hàng hóa
b cũng đã thông báo sau 7 ngày là 1 khoảng thời gian hợp lý về việc hàng không đúng
phẩm chất nên b không mất quyền khiếu nại đối với a.
Tuy nhiên việc a vi phạm hợp đồng nhưng b không tuyên bố tạm ngừng, đình chỉ hay
hủy bỏ hợp đồng không thể lấy lý do a giao hàng sai phẩm chất để từ chối không thực
hiện nhiệm vụ thanh toán. Vì thế trong trường hợp b không thanh toán là vi phạm nghĩa
vụ thanh toán. Vì thế trong trường hợp này, việc b không thanh toán là vi phạm nghĩa
vụ của hợp đồng và là vi phạm trong điều khoản phạt vi phạm.
B sẽ phải thanh toán nốt 10% trị giá lô hàng còn lại cho a là 60000usd

Thanh toán khoản tiền phạt là 5% số tiền chậm thanh toán vì đã quá 10 ngày
(3000Usd)
Về phía a do bên a đã vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng dẫn đến việc b thiệt hại, nên a
phải bồi thường cho b khoản thiệt hại là hậu quả của hành vi vi phạm của mình (điều
74)
A phải bồi thường cho b khoản phí gia công 10000USD
Khoản tiền lỗ 36000USD
Thất thu lợi nhuận sẽ được bồi thường nếu b chứng minh được khoản thất thu này.
(ví dụ: xuất trình hợp đồng với 1 bên thứ 3 và chứng minh mình không thể tìm được


hàng hóa thay thế cho lô hàng thứ 2 bị hỏng). Nhưng thông thường trọng tài hay tòa án
bác khoản tiên này do khó xác thực.
Vậy khi đòi tiền b sẽ phải thanh toán cho a khoản tiền là 83000usd.
Tình huống 5:
TÌNH HUỐNG5:
Ngày 05/01/2016, Công ty A (người bán) và công ty B (người mua) ký kết hợp đồng
mua bán hồ tiêu có các điều khoản như sau:
Số lượng: 1000MT, đơn giá 600USD/MT
Thời hạn giao hàng: 15/02
Thanh toán: bằng L/C trả ngay. Bên B phải mở L/C trị giá 100% giá trị hợp đồng,
trong vòng 10 ngày kể từ ngày kí kết hợp đồng tại ngân hàng có uy tín của nước bên B.
Phạt vi phạm: Bên chậm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng sẽ bị phạt 0,5% giá trị
của phần vi phạm cho một ngày chậm nhưng tổng số tiền phạt không quá 5% giá trị
phần vi phạm.
Miễn trách: Các bên sẽ được miễn trách trong các trường hợp sau đây: xảy ra đình
công, bạo loạn, chiến tranh, lũ lụt, hỏa hoạn, hay các quy định cấm của Chính phủ.
Diễn biến sự việc:
- 09/01, bên B mở L/C cho bên A là người hưởng lợi đúng như quy định trong hợp
đồng.

- 01/02, xảy ra vụ cháy lớn ở nhà máy bên cạnh và lửa lan sang nhà máy của A
khiến nhà kho của A bị cháy toàn bộ, trong đó có hàng hóa chuẩn bị giao cho bên B.
-15/02, A không giao hàng cho B. B đã gửi công văn yêu cầu A giao hàng, và nhận
được hồi đáp không thể giao hàng kèm giấy chứng nhận của cơ quan chức năng về vụ
hỏa hoạn trên. B đề nghị gia hạn cho A thêm 3 tháng để có thể giao hàng cho B và A
chấp thuận.
-15/04, B cử đại diện của mình đến nhà máy của A để kiểm tra sản phẩm thì thấy
bên A mới hoàn thành sản xuất được 500MT và nhận định A không thể hoàn thành việc
giao hàng vào ngày 15/05. Do đó, B đã tuyên bố hủy hợp đồng với lý do A đã vi phạm
nghĩa vụ giao hàng đồng thời yêu cầu A:
Thanh toán khoản tiền phạt 30.000USD tương đương 5% giá trị hợp đồng.
Thanh toán tiền phí mở L/C của bên B.
Thanh toán khoản lợi nhuận dự tính và các chi phí phát sinh khác do việc chậm trễ
giao hàng.
A từ chối thanh toán các khoản tiền trên với lý do rằng việc A không giao hàng vì
gặp hỏa hoạn, là trường hợp miễn trách đã được quy định trong hợp đồng.
Trọng tài sẽ xét xử như thế nào biết luật áp dụng là Công ước Viên 1980? Giải
thích?
Trả lời:
Trường hợp xảy ra hỏa hoạn là trường hợp được miễn trách được quy định trong
hợp đồng nhưng bên a đã không thực hiện nghĩa vụ thông báo về sự việc trong thời
gian hợp lý cho bên b biết (b yêu cầu giao hàng thì a mới thông báo) do đó trong
trường hợp này a không được miên trách(điều 79). Vậy hành vi không giao hàng của a
là hành vi vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng.
B đã gia hạn cho a thời gian thêm 3 tháng để thực hiện nghĩa vụ của hơp đồng nên
trong trường hợp này với bất kỳ lý do gì trừ trường hợp a thông báo rằng không thể tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong thời hạn bổ sung, b không có quyền tuyên bố


hủy hợp đồng khi thời hạn bổ sung chưa kết thúc(điều 47). Hơn nữa việc b nhận định a

không thể thực hiện hợp đồng là nhận định chủ quan không có cơ sở, chẳng han a có
thể tăng cường công suất nhà máy để hoàn thành việc sản xuất hàng nên đó không thể
là lý do b có thể hủy hợp đồng.
Tuy nhiên b vẫn có quyền đòi bồi thường do hành vi vi phạm của a.
A phải thanh toán khoản tiền phạt vi phạm 30000 usd cho b
A không phải thanh toán khoản phí mở lc do hợp đồng giữa A và B vẫn có hiệu lực,
nghĩa vụ mở LC là nghĩa vụ của b trong hợp đồng.
Khoản lợi nhuận dự tính và các khoản phí phát sinh nếu b chứng minh được là hậu
quả của hành vi giao hàng chậm của a thì a phải bồi thường cho B.
Tình huống 6:
TÌNH HUỐNG6:
Ngày 10/01/2014, Người bán (Đức) kí kết hợp đồng với người mua (Canada):
Đối tượng của hợp đồng 350 đôi giày thể thao cùng mẫu và cùng màu.
Phẩm chất: Có quy cách, màu sắc như lô hàng đã giao vào ngày 15/01/2013.
Tổng giá trị của lô hàng: 14.000USD, thanh toán bằng chuyển khoản một lần sau khi
người mua nhận hàng.
Thời hạn giao hàng: 08/02/2014, phương thức vận chuyển đường hàng không
Diễn biến sự việc:
- Ngày 20/01/2014, người mua yêu cầu hủy hợp đồng với lý do khách hàng phàn
nàn nhiều về màu sắc của lô hàng ngày 15/01/2013 nhưng người bán không chấp
thuận.
- Ngày 08/02/2014, người bán giao hàng cho người mua như trong hợp đồng quy
định. Ngày 10/02/2014 bên mua thông báo đã nhân được hàng
- Ngày 28/02/2014, người mua thông báo cho người bán những khiếu nại do lỗi sản
xuất: các lót giày có độ dài khác nhau, nhiều mũi khâu bị hở, ngoài ra nhiều khách hàng
phàn nàn rằng giày bị phai màu và gây nhiều phiền toái trong quá trình sử dụng.
- Ngày 05/03/2014, người mua thanh toán một phần hóa đơn là 10.000USD và
thông báo cho người bán rằng sẽ từ chối thanh toán phần còn lại.
Người bán từ chối không chấp nhận khiếu nại của người mua và kiện người mua ra
trọng tài quốc tế yêu cầu người mua: thanh toán nốt phần tiền còn lại; thanh toán khoản

tiền lãi đối với số tiền trên hóa đơn kể từ ngày 10/02/2014 đến khi số tiền còn lại được
thanh toán; bồi thường cho bên bán những thiệt hại ngẫu nhiên.
Trọng tài sẽ xét xử như thế nào? Giải thích? Biết Đức và Canada là hai thành viên
của Công ước Viên 1980.
Trả lời:
Tham chiếu điều 1b của công ước viên 1980 giữa đức và canada đều là thành viên
của công ước viên lên luật được lựa chọn để giải quyết tranh chấp là công ước này.
Khiếu nại của người mua không hợp lệ do vi phạm thời hạn khiếu nại quá muộn.
Người mua đã nhận hàng từ ngày 10/2 nhưng phải 1 thời gian dài sau đó ngày 28/2
người mua mới tuyên bố hàng kém phẩm chất.
Khuyết tất của hàng hóa không phải là ẩn tỳ mà là những khuyết tật dễ bị phát hiện
nên người mua có đủ sự cần mẫn cần thiết để tìm ra những khuyết tật khi nhận hàng.
Việc người mua kiểm tra qua loa mà đã nhận hàng và không có bất kì những kiến nghị
nào có thể coi là người mua đã mặc nhiên chấp nhận chất lượng của lô hàng. Riêng
với trường hợp giày bị phai màu do đã được cảnh báo trước từ lô hàng đầu tiên nên


người mua cần lập tức kiểm tra thực tế xem giày có bị phai màu hay không bằng các
biện pháp nghiệp vụ đã biết. Nếu người mua sẵn sàng tiến hành một cuộc kiểm tra hợp
lý sẽ có thể sớm phát hiện những khiếm khuyết kể trên ngay tại thời điểm nhận hàng.
Việc thông báo hàng kém phẩm chất không kịp thời do lỗi của bên mua, đặc biệt
trong hoàn cảnh đã có sự vi phạm về phẩm chất của lô hàng trước. do đó người mua
đã mất quyền khiếu nại đối với hàng hóa(điều 38 và 39)
Việc thanh toán chậm và không thanh toán nốt phần tiền còn lại cho bên bán là vi
phạm nghĩa vụ của hợp đồng. Do đó bên mua phải:
Thanh toán nốt khoản tiền 4000 usd cho bên bán
Trả tiền lãi cho số tiền 14000 usd từ ngày 10/2 đến ngày 5/3 và tiền lãi cho số tiền
4000usd kể từ 5/3 cho đến hết thời điểm bên bán nhận được nốt tiền thanh toán.
Thiệt hại ngẫu nhiên là những thiệt hại không có căn cứ nên không được bồi thường.
TÌNH HUỐNG 7:

Người mua Hàn Quốc và người bán Việt Nam ký hợp đồng mua bán có nội dung
như sau:
Hàng hóa: 10MT Chè Thái Nguyên loại I
Tiêu chuẩn hàng: Thủy phần tối đa 9%, Tro tối đa 6%, tạp chất tối đa 6%
Điều kiện giao hàng: FOB Hải Phòng, Incoterms 2010
Tổng trị giá hợp đồng: 40.000USD
Diễn biến sự việc:
Ngày 12/06/2016, bên bán đã mời Vinacontrol đến giám định và Vinacontrol đã cấp
chứng thư ghi “hàng hóa đúng theo tiêu chuẩn quy định”. Vào cùng ngày hày hàng
được chuyển từ cảng Hải Phòng đến cảng Busan Hàn Quốc.
Bên bán đã gửi cho bên mua chứng thư do Vinacontrol cấp, theo đó bên mua đã mở
L/C có giá trị bằng 100% trị giá hợp đồng, người hưởng lợi là người bán.
Ngày 12/12/2016, bên mua mời cục vệ sinh dịch tễ Busan đến kiểm định lại lô hàng
đã được dỡ khỏi tàu. Kết quả giám định cho thấy: “Thủy phần 8%, tro không tan trong
nước 10% và tạp chất có lưu huỳnh 6,5%”. Với tiêu chuẩn này, hàng hóa không thể
được nhập vào Hàn Quốc phục vụ mục đích tiêu dùng. Cơ quan chức năng của Hàn
Quốc yêu cầu lưu kho và tái xuất lô hàng. Bên mua đã thông báo ngày lập tức cho bên
bán về vấn đề này.
Bên mua khiếu nại bên bán yêu cầu hủy hợp đồng và buộc bên bán:
Hoàn trả lại số tiền hàng đã thanh toán.
Thanh toán phí lưu kho và cước phí thuê tàu tái xuất hàng về Việt Nam.
Thanh toán phí mở L/C.
Bên bán từ chối các đề nghị này với lý do đã gửi chứng thư giám định của
Vinacontrol cho bên mua, và không chấp nhận kết quả giám định của cục vệ sinh dịch
tễ Busan do người mua đã không giám định ngay mà sau gần 6 tháng mới tiến hành
giám định đối với mặt hàng có tính hấp thụ cao như chè.
Trọng tài sẽ xét xử thế nào? Giải thích? Luật áp dụng là luật nước người bán.
Trả lời:
Hợp đồng không quy định kết quả giám định tại cảng đi là kết quả có giá trị pháp lý
cuối cùng nên bên bán không có lý do chính đáng để từ chối kết quả giám định của cục

vệ sinh dịch tễ Hàn Quốc. Hơn nữa chứng thư của Vinacontrol cũng chỉ ghi chung
chung hàng hóa đúng theo tiêu chuẩn quy định mà không giải thích rõ ràng phẩm chất
hàng hóa đã kiểm tra. Vì vậy chứng thư giám định được sử dụng để giải quyết tranh


chấp là chứng thư do nước bên mua cấp.
Bên bán không thể viện dẫn lý do mặt hàng chè là mặt hàng có tính chất hấp thụ cao
bởi vì lý do cơ quan chức năng của Hàn Quốc không cho nhập khẩu là vì mặt hàng này
có nhiều tạp chất không dùng làm thực phẩm. Đây chính là tính chất vốn có của hàng
hóa không do tác động từ bên ngoài.
Theo lập luận trên bên bán đã vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng, bên mua cũng tiến
hành khiếu nại trong thời gian khiếu nại (theo luật thương mại là 6 tháng đối với khiếu
nại liên quan đến phẩm chất hàng hóa) chính vì vậy bên mua có quyền tuyên bố hủy
hợp đồng.
Bên mua có quyền:
Yêu cầu bên bán trả lại số tiền đã thanh toán.
Thanh toán phí lưu kho và cước phí lưu thuê tàu do đây là hậu quả trực tiếp của
hành vi vi pham.
Phí mở lc không được hoàn lại vì đây là 1 phần trách nhiệm thuộc về bên mua, do
bên mua không kiểm tra kỹ đã tiến hành mở lc.
TÌNH HUỐNG 8:
Công ty A (bên mua) và công ty B (bên bán) ký kết hợp đồng mua bán dây chuyền
sản xuất bo mạch điện tử có các điều khoản như sau:
Tổng trị giá dây chuyền sản xuất: 12.500.000USD
Giao hàng: các bộ phận của thiết bị sẽ được giao thành 3 lần vào tháng 1, 2, 3 năm
2016. Sau khi kết thúc giao hàng, người bán sẽ cử nhân viên kỹ thuật của mình đến lắp
ráp và chạy thử cho người mua. Bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chịu rủi ro về hàng
hóa đến cơ sở của bên mua.
Thanh toán: Bên mua có nghĩa vụ thanh toán 30% trị giá hợp đồng bằng chuyển
khoản vào lần giao hàng thứ nhất, thứ hai và thứ ba ngay sau khi nhận được giấy

chứng nhận hàng đã gửi của bên bán. 10% giá trị của hợp đồng sẽ được thanh toán
chậm nhất là 5 ngày kể từ ngày người bán hoàn thành việc lắp đặt và chạy thử.
Diễn biến sự việc:
Ngày 15/01/2016, A thanh toán cho B 30% giá trị hợp đồng sau khi nhận được giấy
gửi hàng.
Ngày 10/02/2016, A thanh toán cho B 30% giá trị hợp đồng sau khi nhận được giấy
gửi hàng.
Ngày 20/02/2016, khi nhận hàng A phát hiện thùng hàng chứa bảng điện tử trung
tâm của dây chuyền bị ướt nên đã kiểm tra thiết bị này. A nhận thấy thiết bị bắt đầu bị rỉ
sét và không thể hiển thị khi cắm điện. A đã thông báo cho B biết về việc này.
Ngày 28/02/2016, B gửi chuyên gia của mình đến cơ sở của A sửa chữa nhưng
không thể sửa chữa được do bảng điện tử đã bị ngấm nước biển.
Ngày 15/03, B gửi hàng đợt ba và chuyển phát nhanh giấy chứng nhận hàng đã gửi
kèm thông báo sẽ tiếp tục tiến hành sửa chữa khi lắp đặt và chạy thử dây chuyền.
Ngày 18/03, A tuyên bố hủy hợp đồng và từ chối thanh toán, đồng thời yêu cầu B:
Nhận lại toàn bộ số hàng đã giao.
Trả tiền lãi cho số tiền 7.500.000USD đã chuyển từ ngày 15/01 đến ngày hoàn trả lại
tiền.
Thanh toán cho A các chi phí xếp dỡ và các chi phí chung khác.
B đã từ chối yêu cầu của A với lí do: bảng điện tử bị nước biển ngấm vào do trong
hành trình tàu chở hàng đã gặp sóng lớn nên nước tràn vào toàn bộ khoang chứa


hàng. Và việc hàng đã giao đợt hai bị hư hỏng thì A chỉ có quyền tuyên hủy hợp đồng
đối với lô hàng đó nên A phải nhận hàng và thanh toán nốt tiền hàng đợt ba.
Trọng tài sẽ xét xử như thế nào? Giải thích? Biết luật áp dụng là Công ước Viên
1980.
Trả lời:
Lập luận của bên b không chính xác. Việc sóng lơn nước vào tàu làm ướt hàng
không được coi là 1 sự kiện miễn trách với b vì đây là việc mà b hoàn toan có thể

lường trước được khi gửi hàng đường biển. B đáng lẽ ra phải chọn 1 bao bì phù hợp
cho lô hàng này để không bị nước ngấm vào hàng.
Do dây chuyền sản xuất là thiết bị đồng bộ không thể tách rời việc bảng điện tử bị hư
hỏng sẽ khiến người mua không thể sử dụng được dây chuyền. Người bán đã cử
người đến sửa chữa nhưng không sửa được lên lô hàng t1 và t3 không thể sử dụng
được cho mục đích mà bên mua dự tính khi ký kết hợp đồng. Trong trường hợp này
bên mua có quyền tuyên bố hủy hơp đồng với các lô hàng dã giao hoặc sẽ được giao.
Việc hủy hợp đồng của bên A dẫn đến việc giải phóng nghĩa vụ của các bên. Các
bên bồi hoàn lại cho nhau những gì đã nhận đồng thời có lỗi sẽ phải bồi thường. Theo
đó bên B phải:
Nhận lại hàng đã giao và ngừng việc giao hàng đợt 3.
Trả lại cho bên A số tiền đã thanh toán 7500000 USD
Trả tiền lãi cho 3750000 USD từ ngày 15/01 và tiền lãi của 3750000 USD từ 10/02
đến khi hoan trả lại tiền
Các chi phí A đã bỏ ra như xếp dỡ và các chi phí khác nếu như A chứng minh được
là hậu quả của việc vi phạm hợp đồng thì được bồi thường.
TÌNH HUỐNG 9.
Công ty A bán thiết bị thu phát sóng cho công ty B. Trong hợp đồng hai bên có thỏa
thuận với nhau công ty A phải lắp đặt hoàn chình và vận hành, chạy thử cho công ty B.
Sau khi khảo sát công ty A hoàn thảnh lắp đặt và chạy thử. Sau đó công ty B vận hành
thiết bị nhưng không chạy đuợc do nguồn điện tại công ty B không đồng bộ với nguồn
của thiết bị. Bên B thông báo và sau nhiều lần thương lượng bên A đã tiến hành sửa
chữa cho bên B. Tuy nhiên sau một thời gian vận hành thiết bị vẫn không sử dụng
được. Bên B tiếp tục thông báo để bên A sửa chữa nhưng không được bên A hồi đáp.
Bên B quyết định trả lại hàng cho bên A và mua thiết bị thay thế từ bên khác (đã thông
báo cho bên A biết về giao dịch này), đồng thời yêu cầu bên A:
-Hoàn lại sổ tiền đã thanh toán.
-Trả khoản tiền chênh lệch giữa thiết bị cũ và mới
-Bồi thường nhừng thiệt hại ngẫu nhiên.
Phản quyết của trọng tài sẽ như thả nào? Giải thỉch?

Trả lời:
Bên A đã tiến hành khảo sát do dó yếu tố nguồn điện không dồng bộ là yếu tố bên A
cần phải biết và cần phải điều chỉnh thiết bị để sử dụng được với điều kiện của bên B
hoặc yêu cầu bên B thay đổi nguồn điện cho phù họp với thiết bị.
Bên A đã vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng, giao hàng không đúng phẩm chất, không
phù hợp với hợp đồng dẫn đến hậu quả bên B không thể sử dụng được thiết bị.
Chế tài được áp dụng là chế tài buộc thực hiện đúng hợp dồng. Tuy nhiên bên B đã
thông báo nhưng bên A không trả lòi. do vậy bên B có quyền mua hàng hoá thay thế và


bên A phải hoàn lại sổ tiền đã thanh toán đồng thời trả khoản tiền chênh lệch giữa thiết
bị cũ và mới.
Những thiệt hại ngẫu nhiên do không chứng minh được là hậu quả trực tiếp của
hành vi vi phạm nên sẽ không được bồi thường.
TÌNH HUỐNG 10
Người mua Việt Nam (NM) và người bán Hàn Quốc (NB) kí kết hợp đồng mua
bán:
- Tên hàng: Thép thanh
- Sổ lương: 80.000 tấn
- Giá: 350USD/ tấn chưa bao gồm cước vận chuyển
- Thòi gian giao hàng: từ ngày 15/6/2016 đến 15/12/2016
- Quyền mua đặc biệt: Bên mua có quyền mua lên đến 160.000 tấn với
giá như trong hợp đồng nhưng phải thông báo cho bên bán trước ngày
15/10/2016.
Diễn biến sự việc:
Ngày 1/10/2016, NM thông báo cho người bán thực hiện quyền mua đặc biệt,
nâng số hàng muốn mua lên 160.000 tấn. Vào thời điểm này giá thép trên thế giới
tăng đáng kể nên NB đã yêu cầu NM thương lượng về giá cả của số thép mua thêm
so với hợp đồng. NM đã kiên quyết từ chối yêu cầu tăng giá của NB và đề nghị NB
thực hiện giao hàng đúng như giá thỏa thuận trong hợp đồng. Ngày 15/12/2016, NB

không giao hàng, NM gửi thông báo nhấn mạnh NB đã vi phạm HĐ và gia hạn thêm
thời hạn giao hàng cho NB đến ngày 30/12/2016. Ngày 5/1/2017, NM đã mua thép từ
Nhật Bản với giá 380USD/tấn (đã bao gồm cước vận chuyển là 5USD/tấn) để phục
vụ sản xuất cho kịp tiến độ và yêu cầu NB thanh toán so tiền chênh lệch
2.400.000USD. NB không đồng ý với các lý do:
- Hành động mua thép của NM từ Nhật Bản không được coi là hành
động mua hàng thay thế do NM đã không thông báo ý định cho NB.
- Khi NM đàm phán về việc tảng giá bán thép, NB đã đưa ra mức giá
376USD/tấn, thấp hơn giá NM đã mua hàng thay thế. Việc NM không mua
thép của NB là một diều vô lý.
Phán quyết của trọng tài sẽ như thế nào? Giải thích?
Trả lời:
Những lập luận của NM để từ chối bồi thường khoản chênh lệch là không
chính xác.
Mặc dù NM không thông báo cho NB về việc mua hàng từ bên thứ ba nhưng
việc mua hàng để phục vụ tiến độ sản xuất, vì vậy có thể coi đây là một hành
động chủ động nhằm làm giảm thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra
(hành vi không giao hàng) và NM trên thực tế không hề đòi một khoản chi phí
phát sinh nào ngoại trừ tiền chênh lệch giá.
Trên thực tế giá NM mua đã có cước vận chuyển, do đó giá NM thực mua chi có
375USD/tấn, thấp hơn so với giá của NB đã đưa ra.
Người mua chỉ có thể đòi bồi thường những thiệt hại thực tế mà họ phải
chịu trong trường hợp này, sồ tiền bồi thường sẽ chỉ là: 25x 80000 =
2.000.000USD do người mua đã tiết kiệm được 5USD tiền cước vận chuyển
khi mua hàng từ bên thứ ba.
TÌNH HUỐNG 11:


Người mua A kí kết hợp đồng mua 150.000 đôi giày nam với người bán B,
yêu cầu người bán B cung cấp giày nam do hãng C sản xuất. Ngay sau khi kí

kết hợp đồng người bán B đã kí kết hợp đồng mua 150.000 đôi giày cùa hãng
C. Đến ngày giao hàng của người bán B, công ty C chỉ giao được 90.000 đôi
giày do không kịp nhập nguyên liệu sản xuất. Do vậy người bán B cũng chỉ
giao được 90.000 đôi giày nam cho người mua A. Bên A kiện B ra trọng tài
thương mại, yêu cầu bên B nộp phạt vi phạm 2% trị giá hàng giao chậm như
đã thỏa thuận trong hợp đồng, đồng thời yêu cầu bên B bồi thường về việc uy
tín thương mại bị giảm sút, với lí do, bên B giao thiếu hàng nên bên A đã
không thể giao hàng cho khách cùa mình. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hoạt động kinh doanh của đổi tác bên A do mặt hàng giày là mặt hàng có
tính thời vụ. Bên B kháng cáo và lập luận rằng, do bên A yêu cầu cụ thể trong
hợp đồng là mua giày do hãng C sản xuất nên bên B không thể tìm được
nguồn hàng khác thay thế. Vì vậy, việc B không thề giao hàng đủ là bất khả
kháng và B được miễn trách trong trường hợp này.
Phán quyết của trọng tài sẽ như thế nào? Giải thích?
Trả lời.
B không được miễn trách với hai lí do:
Trong trường hợp này lỗi bên C không cung cấp hàng đủ hàng cho bên B không phải
là do nguyên nhân bất khả kháng. Việc C không kịp nhập nguyên vật liệu trên thực tế là
việc có thể lường trước được, và C có thể tìm cách khắc phục vấn đề này bằng cách
nhập nguyên liệu từ các nguồn khác. Do vậy việc B không cung cấp hàng cho A không
được coi là bất khả kháng, chưa kể đến việc B cũng không chứng minh được là lẽ ra
họ cũng đã phải lường trước hoặc tìm cách làm giảm bớt những hậu quả do việc giao
hàng chậm từ phía C gây ra.
B đã không thông báo gì cho bên A biết về việc giao hàng thiếu do bên C không
giao đủ hàng cho bên B ngay khi sự kiện này xảy ra. Điều này vi phạm quy định về
thông báo bất khả kháng nên B sẽ không được miễn trách.
Bồi thường uy tín kinh doanh:
Nếu bên A không chứng minh được thiệt hại cụ thể do việc mất uy tín kinh doanh thì
bên A sẽ không được bồi thường.
Nếu bên A đưa ra được các chứng cứ chứng minh thiệt hại như sự sụt giảm của

doanh số và lợi nhuận với các đối tác truyền thống mua giày (mà A vẫn nhập của B)
so với các kì kinh doanh trước. Lí do vì A đã không thỏa mãn được đươc các đơn
hàng đã ký kết khiến cho đối tác không tiếp tục lựa chọn bên A. Yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại về uy tín của A là hoàn toàn có căn cứ. Trong trường hợp này A
phải được bồi thường cho thiệt hại về uy tín thương mại.
TÌNH HUỐNG 12:
Công ty A(NB) và công ty B(NM) ký kết hợp đồng mua bán quặng Niken vào
ngày 1/11/2013 quy định ngày giao hàng chậm nhất là 15/2/2014, tại càng của
nước NM, NB là người thuê tàu và có nghĩa vụ thông báo thời gian tàu cập bến.
Trước đó ngày 1/1/2013, chính phủ nước NM đưa ra dự thảo danh mục hàng hóa
cấm nhập khẩu trong đó cỏ quặng Niken.
Diễn biến sự việc:
Ngày 12/2/2014, tàu cập cảng, NB thông báo cho NM để NM nhận hàng.
Ngày 1/1/2014, chính phủ nước NM ra lệnh cấm nhập khẩu quặng Niken.
NM đã không nhận hàng từ phía NB, khiến NB phải lưu khoang hàng hóa đến
ngày 25/2/2014 và sau đó phải bán lại lô hàng trên cho công ty C tại nước lân cận


nước NM với giá thấp hơn.
NB kiện NM ra Tòa trọng tài ICC yêu cầu NM bồi thường thiệt hại bao gồm:
- Chi phí lưu khoang 13 ngày
- Chi phí chuyển tài và vận chuyển hàng hóa đến càng nước công ty C
- Chênh lệch giá bán giữa hợp đồng với giá bán cho công ty C.
NM cho rằng mình không thể nhận hàng là bất khả kháng do lệnh cấm nhập khẩu
Của chính phủ đưa ra sau kí kết hợp đồng, và yêu cầu được miễn trách trong
trường hợp này.
ICC đã tiếp nhận đơn kiện của NB, tuy nhiên trong quá trình xét xử, công ty NM
phá sản và tuyên bố giải thể, tên của công ty sau đó bị xóa khỏi Sổ đăng kí kinh
doanh.
Trường hợp này NM có được miễn trách hay không? Việc pháp nhân (NM) không

còn tồn tại có giải phỏng các nghĩa vụ của người mua đối với phán quyết của trọng tài
hay không? Kết quả của bản án sẽ như thế nào? Giải thích.
Trả lời:
Mặc dù lệnh cấm nhập khẩu của chính phủ có sau khi hợp đồng được kí kết nhưng
đã có dự thảo từ trước khi cỏ hợp đồng. Do vậy việc chính phủ ra lệnh câm nhập là
sự kiện có thể dự đoán trước và lí do không nhận hàng của NM không được coi là
bất khả kháng, NM không được miễn trách trong trường hợp này.
Quá trình tố tụng trọng tài đã được bắt đầu tiến hành trước khi có sự xoá tên chính
thức của NM khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, do vậy địa vị pháp lý hiện tại của NM không
ảnh hưởng gì tới hiệu lực của quá trình tố tụng đang được tiến hành trước Toà trọng
tài ICC. Đại diện của NM sẽ phải thanh lý toàn bộ tài sản của công ty NM và có nghĩa
vụ thực hiện các phán quyết của trọng tài bằng số tài sàn nói trên.
Các chi phí NB nêu là các chi phí hợp lý đề NB khắc phục hậu quả của việc vi
phạm hợp đồng nên nếu NB đưa ra được bằng chứng về các chi phí và khoản lãi mất
hưởng (do bán cho C với giá thấp hơn giá trong HĐ) như hóa đơn, chứng từ thanh
toán, hợp đồng mua bán....NM sẽ phải bồi thường. Trong trường hợp ngược lại nếu
những chi phí này chỉ là nhận định chủ quan của NB thì NB có thể không đòi dược
tiền bồi thường hay chi được bồi thường theo số tiền như thông lệ hoặc như tập
quán. Tuy nhiên đối với chi phí lưu hàng, do NB không thông báo ngày giờ tàu cập
cảng cho NM nên mặc định NM sẽ chi phải nhận hàng vào ngày muộn nhất là ngày
15/2/2014. Chi phí lưu khoang NB yêu cầu bồi thường như vậy là chưa hợp lí, NB chỉ
có thể đòi người mua chi phí lưu khoang trong 10 ngày.
TÌNH HUỐNG 13:
Ngày 3 tháng 8 năm 1997 Công ty A (Việt Nam) và công ty B (Hản Quốc) ký hợp
đồng mua bán theo đó A mua của B hai máy thêu trị giá 136.000 USD theo điều
kiện CIF Tân Cảng Thành phố Hồ Chí Minh, bảo hành 12 tháng sau khi hoàn thành
lắp đặt.
Thực hiện hợp đồng, ngày 16 tháng 8 năm 1997, B đã giao hai máy thêu cho A,
máy đã được lắp đặt và đưa vào sử dụng. Trong quá trình sử dụng, máy có nhiều
hỏng hóc, B đã cử chuyên gia sang Việt Nam sửa chữa nhưng không thành công. B

cam kết sẽ sửa chữa xong vào ngày 4 tháng 4 năm 1998 và sẽ bồi thường 29.202
USD cho 40 ngày máy ngừng hoạt động nhưng sau đó B chi bồi thưởng 4.302 USD
và không tiếp tục sửa chữa máy nữa.
A đã trưng cầu SGS Việt Nam giám định tình trạng hai máy thêu. Biên bản giám
định ngày 1 tháng 9 năm 1998 của SGS ghi "hai máy không thể sản xuất ra sản


phẩm theo yêu cầu của nguyên đơn”.
Do máy ngừng hoạt động, A đòi B đổi hai máy mới và bồi thường thiệt hại phát sinh
cho A. Ngày 18 tháng 4 năm 1999 B thông báo với A viộc tái gỉám định sẽ được tiến
hành từ ngày 22 đến ngày 28 tháng 4 năm 1999 bởi Vinacontrol có sự chứng kiến của
luật sư đại diện của B. A không phản đối.
Ngày 28 tháng 4 năm 1999 Vinacontrol cấp Biên bản giám định số 095/1999G,
trong đó kết luận máy bị hỏng hóc, tình trạng lắp ráp, căn chỉnh hai máy chưa
hoàn tất, vào thời điểm giám định, cả hai máy đều không thể vận hành được. B
chấp nhận đổi hai máy cho A. Ngày 4 tháng 5 năm 1999 A kiện B ra trọng tài, đòi:

-

Trả lại hai máy thêu, lấy lại tiền
Bồi thường thiệt hại, gồm:

+ Chi phí nhân công trong thời gian máy ngừng hoạt động
+ Lãi suất trên số tiền hàng 136.000USD kề từ ngày thanh toán đến ngày trọng
tài xét xử
+ Chi phí giám định trả cho SGS Việt Nam
+ Thiệt hại do mất khách hàng, thiệt hại mất doanh thu, thiệt hại tinh thần.
Phán quyết của trọng tài sẽ như thế nào? Giải thích?
Trả lời:
Kết quả giám định của Vinacontrol và các hành vi sửa chữa cũng như cam kết

bồi thường va đổi máy cho A chứng minh B đã giao hàng có khuyết tật cho A và B
phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm hợp đồng này.
Khi phát hiện hai máy thêu có khuyết tật, bị hỏng hóc trong thời hạn bảo hành,
A đã Yêu cầu B thay thế hai máy này bằng hai máy có phẩm chất đúng như quy
định của hợp đồng và B đã chấp nhận yêu cầu này của A. Như vậy, phương án
thay thế hai máy là phương án phù hợp với ý chí của hai bên. Mặt khác, phương
án trả lại hai máy, lấy lại tiền hàng thông thường được áp dụng khi người mua
không thể thay thế được máy khác. Vì vậy, yêu cầu trả lại hai máy, đòi lại tiền
hàng của A là không hợp lí.
Giao hàng có khuyết tật thiệt hại cho A thì B phải có trách nhiệm bồi thường những
khoản tiền sau đây:
+ Chi phí nhân công trong thời gian hai máy ngừng hoạt động, vì máy ngừng hoạt
động, công nhân không có việc làm, A vẫn phải trả lương cho số công nhân này.
+
Lãi suất của 136.000 USD tính cho thời gian kể từ ngày máy ngừng hoạt
động cho đến ngày trọng tài xét xử. Đây là khoản thiệt hại do đọng vỏn vì không sử
dụng được máy.
+
Chi phí giám định của cho SGS Việt Nam. Vì khuyết tật của máy phát sinh
trong thời gian bào hành, làm cho máy móc không hoạt động được, buộc A phải mời
SGS làm giám đinh, kết quả là máy có khuyêt tật, không vận hành được.
+
Yêu cầu của A đòi bồi thường thiệt hại do mất khách hàng, thiệt hại mất
doanh thu, thiệt hại tinh thần không hợp lí bởi vì đây không phải là thiệt hại tài sản trực
tiếp thực tế, không phải do máy móc có khuyết tật trực tiếp gây ra.
TÌNH HUỐNG 14:
Công ty A (Singapore) và công ty B (Việt Nam) là hai đối tác quen thuộc trong một
cuộc điện đàm đại diện về pháp lý của hai bên vào ngày 10/1/2017 đã trao đổi với
nhau một nội dung như sau:
A: Chúng tôi hiện đang cỏ một lô hàng 1000 tấn nhớt FO phẩm cấp loại I, giả



850USD/tấn giao tại cảng Singapore.
B: Chúns tôi cũng đang cần số lượng nhớt như vậy nhưng giá 850USD là quá
cao. chúng tôi khỏ có thê mua được với giá trên 750USD/ Tấn.
A: Vậy chúng tôi sẽ để cho các anh với giá 800USD/tấn.
B: Chúng tôi sẽ mờ L/C cho các anh trong tháng này và rất mong anh sè giao
hàne cho chúng tôi vào trung tuần tháng tới.
A: Chúng tôi đồng ý.
Trung tuần tháng sau, giá nhớt trên thị trường giám xuống chi còn 650USD/tấn, A
gửi thông báo giao hàng cho B, bên B không có ý kiến gì. A tiến hành gửi hàng
nhưng B Đã không đưa tàu đến để nhận hàng. A phải lưu hàng tại cảng, khoản tiền
theo L/C đó cũng không được thanh toán. A đã kiện B ra Toà trọng tài ICC, yêu cầu
bên B nhận hàng và bồi thường cho bên A:
+ Chi phí lưu kho do B không nhận hàng đứng thời hạn.
+ Thuế xuất khẩu và các lệ phí hải quan mà A đã đóng
+ Số tiền lãi theo giá trị của đơn hàng tính từ khi A giao hàng cho đến khi B thực
hiện thanh toán, với lãi xuất là lãi xuất là lãi xuất của đồng USD tại ngân hàng của A.
+ Do không nhận được tiền hàng A đã không thể thanh toán mua nguyên vật liệu
cho công ty C nên bị công ty C từ chối các đơn hàng sau đó. A yêu cầu B bồi thường
thiệt hại về uy tín và những khoản lợi kinh doanh dự tính vì không thực hiện được hợp
đồng với C.
Bên B kháng cáo và đưa ra lập luận của mình: theo các hợp đồng đã kí kết trước
giữa 2 bên, hai bên luôn thoả thuận với nhau nếu xảy ra tranh chấp thì luật áp dụng
để giải quyết tranh chấp là luật của nước người mua. Và theo luật của Việt Nam thì
hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải bằng văn bản hoặc các
hình thức khác có giá trị tương đương. Trong trường hợp này, hai bên chỉ thoả
thuận bằng lời nên hợp đồng vô hiệu ngay từ khi xác lập và không ràng buộc trách
nhiệm các bên. Bên B không có nghĩa vụ phải nhận hàng.
Phán quyết của trọng tài sẽ như thế nào? Giải thích?

Trả lời:
Công ước viên chính thức có hiệu lực với Việt Nam từ 1/1/2017. Theo điều 5
khoản 1 LTM 2005: “ trường hợp điều ước quốc tế mà CHXH chủ nghĩa Việt Nam
làm thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại
quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của luật này thì áp dụng của định của
điều ước quốc tế đó”. Trong TH này thì nguồn luật được áp dụng sẽ là công ước
viên năm 1980 do cả Việt Nam và Sigapo đã là thành viên của công ước. và theo
công ước, hình thức của hợp đồng có thể là văn bản, lời nói, hành vi,nên trong TH
này, hợp đồng đã hình thành giữa 2 bên.
Việc bên B không đến nhận hàng là vi phạm hợp đồng, hành vi này gây thiệt hại
cho bên A nên việc bên A đòi B bồi thường là chính đáng. Tuy nhiên, B sẽ chỉ phải
bồi thường:
Chi phí lưu kho
Số tiền lãi theo giá trị của đơn hàng với lãi xuất cuả ngân hàng Sigapore vì đây là
khoản lãi mất hưởng của bên A( nếu B thực hiện đúng hợp đồng thì A sẽ có số tiền
này để gửi tại ngân hàng của mình tại Singapore).
Những khoản tiền B không phải bồi thường:
Thuế xuất khẩu và các lệ phí hải quan là không hợp lý do khi áp dụng chế
tài buộc phải thực hiện đúng hợp đồng thì nghĩa vụ trên vốn dĩ thuộc về nhà


XK.
Những thiệt hại về uy tín và những khoản lợi dự tính là nhừng thiệt hại
không xác đáng do bên A không thể chứng minh được những khoản thiệt hại
này. Hơn nữa, việc A không nhận được tiền từ B không phải là nguyên nhân
trực tiếp khiến A không thanh toán tiền cho bên C, do A hoàn toàn có thể huy
động tiền từ các nguồn khác để thanh toán cho C.
TÌNH HUỐNG 15:
Ngày 10 tháng 6 năm 2013 giữa người bán Singapore (NB) và người mua Việt
Nam (NM) ký hợp đồng 9623/INUT.13, theo đó NB bán cho NM 9.937 Kg cà phê và

bột kem theo điều kiện CIF càng HCM, thanh toán bàng chuyển tiền vào tải khoản của
NB tại Singapore trong vòng bảy ngày sau khi NM nhận được chứng từ vận tải gốc,
người hưởng lợi là NB.
Thực hiện hợp đồng, NB đã giao hàng cho NM ngày 21 tháng 6 năm 2013. Sau khi
giao hàng, NB đã chuyển cho NM Vận đơn gốc và Hoá đơn thương mại số 059/13 đê
ngày 21 tháng 6 năm 2013 đòi tiền hàng, nhưng cuối cùng NB vẫn không nhận được
tiền hàng.
Qua nhiều lần đòi mà không được trả tiền, NB đã khởi kiện NM ra trọng tài đòi NM
phải trả các khoản tiền sau:

-

Tiền hàng

-

Phí tư vấn pháp lý, phí dịch thuật, phí liên lạc điện thoại và fax.

Tiền lãi của tiền hàng từ ngày 21/6/2013 đến ngày nhận được tiền
thanh toán
Trong văn thư phản bác đơn kiện NM trình bày như sau:
Ngày 10 tháng 6 năm 2013 NM đà ký Họp đồng số 9623/INƯT.13 với NB đế nhập
khẩu uỷ thác cho Cửa hàng A. Theo Biên bản thoả thuận riêng (không đề cập đến
trong hợp đồng) ngày 10 thảng 6 năm 2013 giữa ba bên (NM, NB và Cừa hàng A) thì
trách nhiệm thanh toán tiên hàng cho NB là Cửa hàng A. cho nên NB không có quyền
kiện NM trả tiền hảng.
Phán quyết của trọng tài sẽ như thế nào? Giải thích?
Trả lời:
NM căn cứ vào biên bản thỏa thuận ba bên để từ chối nghĩa vụ thanh toán là
không đúng với lý do:

Thứ nhất, trong Biên bản thoà thuận ba bên không phải là một bộ phận không thể
tách rời khỏi hợp đồng, do đó nghĩa vụ của hợp đồng giữa NB và NM không chịu chi
phối bởi biên bản thỏa thuận này.
Thứ hai, bản chất của hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá là bên nhận uỷ thác, để
được hưởng phi uỷ thác, thì phải nhân danh bản thân mình thực hiện các công việc
đã được uỷ thác với người thứ ba, chứ không phải nhân danh người uy thác. Với lập
luận của NM, rõ ràng, bằng Biên bản thoả thuận ba bên ký ngày 10 tháng 6 năm
2013, NM, một mặt muốn nhận phí uỷ thác, nhưng mặt khác lại không muốn nhận
trách nhiệm về mình qua việc nhân danh mình được thực hiện hợp đồng với người
thứ ba.
Thứ ba, Biên bản thoả thuận ba bên lại qui định Cửa hàng A chịu trách nhiệm trả
tiền cho NB - TK ở Singapore. Điều này không thể thực hiện được, vì cửa hàng A
không được làm việc đó theo quy định của pháp luật Việt Nam (cơ chế quản lý ngoại
hối).


Việc NM không trả tiền là vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng, do đó NM phải bồi
thường thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra cho NB:
- Tiền hàng chưa thanh toán.
- Tiền lãi (lãi mất hưởng), nhưng chỉ được tính từ thời điểm sau bảy ngày khi NM nhận
được chứng từ gốc, không phải từ ngày giao hàng là 21/6/2013.
- Phí tư vấn pháp lý, phí dịch thuật, phí liên lạc điện thoại và fax nếu không cung cấp
được bằng chứng hợp lệ thì sẽ không được bồi thường.
TÌNH HUỐNG16:
Ngày 15/1/2016, Công ty X (Việt Nam) kí hợp đồng mua vỏ giấy kẹo có in sẵn
địa chỉ, logo của công ty mình với công ty USD(Trung Quốc), giao hàng làm 3 lần.
Hợp đồng quy định trước mỗi đợt giao hàng các bên phải kí xác nhận với nhau về
số lượng hàng sẽ giao trong biên bản thỏa thuận (là một phần không thể tách rời
của hợp đồng) làm căn cứ đề mở L/C và giao hàng. Đợt giao hàng thứ nhất và
thứ hai diễn ra thuận lợi, các bên đã nhận được hàng và tiền thanh toán đúng như

hợp đồng. Ngày 20/9/2016, công ty USD fax cho công ty X thông báo mình đã sản
xuất xong lô hàng trị giá 80.000USD và yêu cầu công ty X mở L/C để giao hàng
tiếp. Công ty X telex trả lời đồng ý nhận lô hàng làm hai lần vào ngày 15/11/2016
và 10 ngày sau đợt giao hàng thứ nhất. Tuy nhiên ngày 15/10/2016 công ty X đã
thông báo cho công ty USD rằng minh không thể nhận hàng do kẹo không bán
được trên thị trường Hà Nội và hiện công ty đang dừng sản xuất. Công ty USD
không thể giao hàng và phải lưu lại lô hàng trong kho. Công ty USD sau đó đã
kiện ra trọng tài yêu cầu công ty X bồi thường:
+ Số tiền hàng mà công ty USD đã sản xuất là 85.000USD
+
Tiền lãi đối với 85.000USD kể từ thời điểm đáng lẽ công ty X phải thanh toán
đến thời điểm mà công ty USD nhận được tiền thanh toán theo hợp đồng.
+
20.000USD cho chi phí chung như chi phí pháp lý, thời gian chờ đợi,...
Công ty X kháng cáo không bổi thường với lí do:
+ Việc công ty X bị ngừng sản xuất là bất khả khảng và được miễn trách
+ Trên thực tế công ty X và công ty USD chưa ký kết với nhau biên bản thỏa thuận
thứ ba nào, do vậy USD không có căn cứ yêu cầu X mở L/C và nhận hàng.
Phản quyết của trọng tài sẽ như thế nào? Giải thích?
Trả tời:
Công ty X vả USD mặc dù chưa ký kết với nhau biên bản thỏa thuận thứ ba nhưng
công ty USD đã gửi đề nghị thông qua fax và công ty X cũng đã chẩp nhận nhận hàng
vô điều kiện. Do đó các bên đã có thỏa thuận về việc mua lô hàng thứ ba và công ty X
phải mở L/C và nhận hàng.
Việc công ty X ngừng sản xuất không thể coi là bất khả kháng vì trong kinh doanh
các bên cần phải dự đoán được xu hướng của thị trường, việc hàng hỏa không bán
được dẫn đến dừng sản xuất không được coi là một sự kiện không thể lường trước
được, do đó công ty X không được miễn trách trong trườg hợp này.
Công ty X đã vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng nên phải bồi thường thiệt hại do hành
vi vi phạm của mình gây ra:

Thông thường trong trường hợp bên mua vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và không nhận
hàng, bên bán phải bán lô hàng đó đi và nếu lãi họ hưởng, còn neu lỗ thì có quyền yêu
cầu bồi thường. Tuy nhiên trong trường hợp này do vỏ kẹo đă in sãn thông tin của công
ty X nên không thể bán cho bên thứ ba, công ty USD có quyền đòi bồi thường là giá trị
lô hàng nhưng phải trả lại hàng cho công ty X. Số tiền bồi thường không phải là giá trị


sổ hàng sản xuẩt mà là giá trị của số hàng trong thỏa thuận (80.000USD).
Tiền lãi đối với 80.000USD chứ không phải với 85.000USD.
Chi phi chung nếu công ty USD có thể đưa ra chứng cứ hợp lý thì sẽ được bồi
thường nhưng thông thường các chi phí này thường bị trọng tài bác bỏ.



×