Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Báo Cáo Đánh Giá Tác Động Dự Thảo Luật Việc Làm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 30 trang )

BỘ LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH
VÀ XÃ HỘI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
DỰ THẢO LUẬT VIỆC LÀM
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Bối cảnh ban hành Luật Việc làm
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để đảm bảo
cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Tạo việc làm cho người lao động, đảm bảo
quyền bình đẳng về việc làm cho mọi người lao động là trách nhiệm của mọi quốc
gia. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, từ những năm 90 của thế kỷ 20, Nhà
nước ta đã đưa nội dung về việc làm vào Hiến pháp. Bộ luật Lao động năm 1994,
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng năm 2006.... và các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu đã
điều chỉnh các quan hệ về việc làm như: trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo
việc làm, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, chính sách hỗ trợ tạo việc
làm của nhà nước: cho vay vốn tạo việc làm...; Thành lập và hoạt động của tổ chức
giới thiệu việc làm; Tuyển và quản lý lao động trong các doanh nghiệp; Lao động
Việt Nam làm việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; Lao động
nước ngoài làm việc tại Việt Nam; Việc làm đối với các đối tượng đặc thù: lao động
nữ, lao động là người khuyết tật; Bảo hiểm thất nghiệp;..... Ngoài các văn bản kể
trên, còn có 3 công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) (Công ước số 100 về
trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ cho một công việc ngang nhau năm
1959, Công ước số 111 về Phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp năm
1958, Công ước số 122 về Chính sách việc làm năm 1964) mà nước ta phê chuẩn,
gia nhập là các nguồn pháp luật quan trọng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật
việc làm.


Các quy định pháp lý này bước đầu đã tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ
xã hội về việc làm, thị trường lao động phát triển, góp phần tạo ngày càng nhiều
việc làm (mỗi năm khoảng 1,5-1,6 triệu việc làm) và giảm tỷ lệ thất nghiệp của
người lao động (tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2012 là 1,99%,
trong đó khu vực thành thị là 3,25%, khu vực nông thôn là 1,42%; năm 2011 các tỷ
lệ tương ứng là: 2,27%, 3,6% và 1,71%)1. Tuy nhiên, cùng với sự hình thành và
1

Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2011, 2012 – Tổng cục Thống kê

1


phát triển thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ việc làm
ngày càng phát triển về số lượng, phong phú và đa dạng về hình thức, cho nên quá
trình thực hiện các chính sách, pháp luật về việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn
chế, ngoài ra còn có một số vấn đề mới về quan hệ việc làm phát sinh cần được
pháp luật điều chỉnh. Vì lý do đó, Quốc hội khóa XIII đã đưa Luật Việc làm vào
Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2012 (Nghị quyết số 07/2011/QH13
của Quốc hội về chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2012 và điều chỉnh
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011).
Thực hiện quyết định số 1681/QĐ-TTg ngày 27/09/2011 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh thuộc
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và các dự án luật, pháp lệnh được
điều chỉnh trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 của Quốc hội,
ngày 10/10/2011, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã thành lập Ban soạn
thảo và Tổ biên tập Luật Việc làm bao gồm đại diện của Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội và các Bộ, ngành có liên quan. Trong quá trình nghiên cứu xây
dựng Luật Việc làm, phát sinh nhiều vấn đề có ý kiến khác nhau. Để có cơ sở lý
luận, thực tiễn luận chứng cho các nội dung của dự thảo Luật Việc làm (đặc biệt là

các nội dung có nhiều ý kiến khác nhau), Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã
chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành và cơ quan có liên quan thành lập nhóm nghiên
cứu tiến hành đánh giá tác động dự thảo Luật Việc làm.
2. Giới thiệu phương pháp đánh giá tác động pháp luật (RIA)
Hoạt động đánh giá này được thực hiện theo phương pháp "Đánh giá dự báo
tác động pháp luật" – Tiếng Anh: "Regulatory Impact Assessment", viết tắt là RIA.
Phương pháp này được sử dụng để đánh giá dự báo tác động của việc ban hành mới
hoặc sự thay đổi hệ thống pháp luật thông qua việc sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp luật hiện hành. Quy trình thực hiện RIA được tiến hành theo các bước sau:
(1) Xác định các vấn đề ưu tiên dựa trên các tiêu chí rõ ràng
(2) Xác định các phương án lựa chọn để giải quyết từng vấn đề
(3) Xác định phương thức đánh giá tác động cho từng vấn đề thông qua việc
xác định các yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất (như chi phí và lợi ích cơ bản).
(4) Xác định nhu cầu về dữ liệu phân tích.
(5) Xác định phương pháp thu thập dữ liệu và tham vấn về phương pháp đó.
(6) Thu thập, tập hợp dữ liệu và tham vấn bằng phương pháp đã nhất trí tại
bước 5.
(7) Phân tích các dữ liệu đã thu thập.
2


(8) Thống nhất về cách diễn giải kết quả phân tích và kết luận.
(9) Lập báo cáo đánh giá tác động.
Bằng một quy trình chặt chẽ, khoa học, có kết hợp đánh giá, phân tích các
yếu tố về định tính và định lượng, RIA được xem là phương pháp hiệu quả để xác
định và đánh giá tác động dự kiến của việc thay đổi chính sách và pháp luật. Báo
cáo RIA sẽ phân tích, đánh giá tổng thể về các lợi ích, chi phí và rủi ro có thể xẩy
ra do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một đề xuất thay đổi pháp luật.
Theo đó, các phương án lựa chọn khác nhau sẽ có dự báo tác động khác
nhau, từ đó, có thể đánh giá, so sánh để xác định phương án được xem là phù hợp

nhất, tức là phương án ít rủi ro và chi phí nhất mà đem lại nhiều lợi ích từ dự kiến
thay đổi pháp luật đó. Đồng thời, do quy trình đánh giá có sự tham gia và cung cấp
ý kiến tham vấn của các đối tượng chịu sự tác động do việc thay đổi pháp luật này
sẽ bảo đảm hoạt động đánh giá có độ tin cậy cao và tạo ra cơ sở cho sự đồng thuận
trong việc xác định và lựa chọn phương án tối ưu cho sự thay đổi pháp luật. Với ý
nghĩa đó, kết quả của việc thực hiện RIA sẽ góp phần bảo đảm chất lượng, tính khả
thi và hiệu quả của việc ban hành văn bản pháp luật.
Trên thế giới, RIA được áp dung khá phổ biến. Các quốc gia thuộc khối
OECD khuyến cáo nên áp dụng RIA đối với các dự kiến thay đổi pháp luật để bảo
đảm chất lượng của việc ban hành pháp luật. Nhiều nước như Canada, Hàn Quốc
… đã coi việc áp dụng RIA là thủ tục bắt buộc trong quy trình xây dựng pháp luật
chính thức. Tại Việt Nam, phương pháp RIA được các tổ chức quốc tế khuyến cáo
sử dụng với mục tiêu nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật. Do đó, việc áp dụng RIA là hoạt động rất có ý nghĩa trong nghiên cứu,
xác định phương án tối ưu cho mô hình Luật Việc làm phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.
3. Sử dụng phương pháp RIA trong đánh giá tác động dự thảo Luật Việc
làm
Báo cáo RIA về Dự thảo Luật Việc làm tập trung vào 5 nhóm vấn đề mà nội
dung của nó có nhiều ý kiến khác nhau, gây tranh luận trong quá trình soạn thảo.
Đó cũng là những vấn đề quan trọng đối với hoạt động cải cách pháp luật, gắn với
các mục tiêu của Dự thảo Luật Việc làm, bảo đảm cho các nhà hoạch định đưa ra
được các chính sách tốt, giúp cho việc thực thi Luật Việc làm đạt chất lượng cao;
tăng cường tính minh bạch, tính thống nhất và tính dễ tiếp cận của hệ thống quy
định về việc làm.
5 nhóm vấn đề cụ thể như sau:
3


Vấn đề 1: Sự cần thiết ban hành Luật Việc làm

Vấn đề 2: Chính sách hỗ trợ tạo việc làm
Vấn đề 3: Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia
Vấn đề 4: Tổ chức dịch vụ công về việc làm
Vấn đề 5: Bảo hiểm thất nghiệp
II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG DỰ THẢO LUẬT VIỆC LÀM THEO 5
NHÓM VẤN ĐỀ LỰA CHỌN
1. Vấn đề 1: Sự cần thiết ban hành Luật Việc làm (hay đánh giá tác động
chung của việc ban hành và thực thi Luật)
1.1. Xác định vấn đề:
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để bảo đảm
cuộc sống và phát triển toàn diện. Tạo việc làm cho người lao động, bảo đảm quyền
bình đẳng về việc làm cho mọi người lao động là trách nhiệm của mọi quốc gia.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, Hiến pháp năm 1992 đã quy định “Nhà
nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”
(Khoản 2 Điều 55). Theo đó, Bộ luật lao động, Luật bảo hiểm xã hội, Luật người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật dạy nghề,... và
các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu đã điều chỉnh một số nội dung trong
quan hệ xã hội về việc làm. Các quy định này bước đầu đã tạo hành lang pháp lý
cho các quan hệ xã hội về việc làm, thị trường lao động phát triển theo các quy luật
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo ngày càng
nhiều việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự hình thành và phát
triển thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ xã hội về việc
làm ngày càng phát triển đa dạng và linh hoạt hơn, chính sách và việc thực hiện
chính sách pháp luật về việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, ngoài ra còn có
một số vấn đề mới về việc làm phát sinh cần được pháp luật điều chỉnh. Cụ thể như
sau:
- Việc làm là mối quan tâm của toàn xã hội, là chỉ tiêu kinh tế xã hội quan
trọng đối với một đất nước nhưng đến nay chưa có một đạo luật riêng điều chỉnh tất
cả các quan hệ xã hội về việc làm. Vấn đề việc làm được quy định trong nhiều văn
bản luật khác nhau và chủ yếu trong các văn bản dưới luật nên thiếu đồng bộ, chưa

có sự thống nhất, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai;
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm hiện nay chủ yếu điều
chỉnh quan hệ xã hội về việc làm của nhóm đối tượng có quan hệ lao động (thông
qua hợp đồng lao động), trong khi đó số lượng lao động không có quan hệ lao
động ở nước ta lại rất lớn2 nhưng chưa có luật điều chỉnh;
Theo Báo cáo Kết quả điều tra lao động – việc làm năm 2011 của Tổng cục Thống kê, lao động
làm công ăn lương chiếm khoảng 34,6% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế, trong khi đó
2

4


- Chính sách hỗ trợ tạo việc làm chưa đủ mạnh để xóa bỏ mọi rào cản, giải
phóng năng lực của mọi người lao động cho phát triển kinh tế - xã hội; việc lồng
ghép các chương trình phát triển kinh tế xã hội với chương trình việc làm chưa
hiệu quả đã tác động không nhỏ đến giải quyết việc làm;
- Chất lượng lao động hạn chế, có khoảng cách lớn giữa học và làm việc do
chưa xây dựng được bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề theo ngành nghề, vị trí công việc
để tổ chức đánh giá, công nhận kỹ năng nghề của người lao động gây lãng phí lớn
về sử dụng nhân lực; gây hạn chế trong việc di chuyển lao động trong nước cũng
như quốc tế, đặc biệt trong khu vực các nước ASEAN;
- Yêu cầu về chính sách phát triển thị trường lao động đã được Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc đề cập3, song chưa được thể chế hóa bằng các quy định pháp
luật, mô hình hoạt động dịch vụ việc làm chưa đáp ứng được sự phát triển của thị
trường lao động. Các vấn đề như: thông tin thị trường lao động, kết nối cung, cầu
lao động, hợp tác công - tư trong hoạt động dịch vụ việc làm,... chưa được điều
chỉnh bằng văn bản luật. Những hạn chế về chính sách thị trường lao động đã ảnh
hưởng đến cân đối cung, cầu lao động, hạn chế cơ hội tham gia thị trường lao động
của người lao động;
- Chính sách bảo hiểm thất nghiệp còn hạn chế trong việc thực hiện đúng

chức năng và vai trò là chính sách bảo đảm về việc làm toàn diện cho người lao
động. Các quy định hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp mới chỉ dừng ở việc hỗ trợ
người lao động sau khi họ bị mất việc làm mà chưa có chính sách duy trì việc làm,
ngăn ngừa, hạn chế thất nghiệp. Việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp
hiện hành cũng đang bộc lộ một số hạn chế về đối tượng, điều kiện, tổ chức thực
hiện,… cần thiết phải sửa đổi, bổ sung, mở rộng đối tượng để chính sách bảo hiểm
thất nghiệp thật sự phát huy được vai trò đảm bảo việc làm bền vững, hạn chế thất
nghiệp cũng như giúp người thất nghiệp sớm tìm được việc làm.
Việc ban hành Bộ luật Lao động năm 2012 bước đầu góp phần định hướng
cho việc khắc phục những hạn chế nêu trên. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động chỉ điều
chỉnh lao động có quan hệ lao động, nhiều quy định trong Bộ luật chưa cụ thể, chưa
khắc phục những hạn chế và điều chỉnh toàn diện quan hệ xã hội về việc làm.
1.2. Mục tiêu của việc ban hành Luật Việc làm
Việc ban hành Luật Việc làm nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản sau:

lao động không có quan hệ lao động chiếm 65,4%.
3
Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập; khuyến khích, tạo thuận lợi
để người lao động học tập, nâng cao trình độ, tay nghề, đồng thời có cơ chế, chính sách phát hiện, trọng
dụng nhân tài....Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động là một trong những yêu cầu trong nội dung Phát
triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường của định hướng “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

5


- Điều chỉnh thống nhất những vấn đề liên quan đến việc làm và thị trường
lao động cho người lao động trong một văn bản luật (bao gồm: chính sách hỗ trợ
tạo việc làm cho người lao động nói chung, chính sách bảo vệ, hỗ trợ việc làm đối
với lao động làm việc trong khu vực phi chính thức, lao động đặc thù; cung cấp

dịch vụ việc làm cho người tìm việc và người sử dụng lao động; phát triển kỹ năng
nghề của người lao động phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động; chính sách
duy trì việc làm nhằm phòng chống thất nghiệp đối với lao động có quan hệ lao
động; chính sách hỗ trợ phát triển kỹ năng nghề, tư vấn giới thiệu việc làm, trợ cấp
thất nghiệp đối với lao động bị mất việc làm); khắc phục tình trạng tản mát, thiếu
đồng bộ, thiếu thống nhất như hiện nay.
- Có việc làm là nguyện vọng đáng trân trọng của con người. Con người
được tự do trong lao động là tiền đề để giải phóng sức lao động và phát huy triệt để
tiềm năng của con người. Mọi người có sức lao động đều có quyền có việc làm, có
quyền tiến hành bất cứ hoạt động nào mà tạo ra thu nhập cho bản thân và gia đình
với điều kiện hoạt động đó là hợp pháp, phù hợp với nguyên tắc: "Công dân có
quyền làm những gì mà pháp luật không cấm". Với ý nghĩa đó, pháp luật về việc
làm tạo ra hành lang pháp lý làm cơ sở cho Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã
hội tham gia, và thực hiện các biện pháp để tạo việc làm.
Tạo môi trường pháp lý cho người lao động được tự do di chuyển và tự do
tìm việc làm, là công cụ then chốt và cần thiết của Nhà nước để điều tiết việc làm,
chương trình tạo việc làm và thị trường lao động.
- Bảo đảm tính minh bạch cho thị trường lao động phát triển.
1.3. Các phương án lựa chọn: Có 3 phương án cho vấn đề này:
Phương án 1A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hành.
Phương án 1B: Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành.
Phương án 1C: Ban hành Luật Việc làm.
1.4. Đánh giá tác động của các phương án
Theo kết quả thu được thông qua hoạt động lấy ý kiến công chúng bằng
phiếu tham vấn RIA tại 9 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 khu vực: (i) Khu vực miền
Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ); (ii) Khu vực miền Trung và Tây Nguyên (Hà
Tĩnh, Đà Nẵng, Đắk Lắk); Khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Sóc Trăng) về “Sự cần thiết ban hành Luật Việc làm” với 360 phiếu
người sử dụng lao động, 360 phiếu cán bộ ngành Lao động và 1530 phiếu người
lao động, có:


6


- 93,7% người lao động được tham vấn trả lời cần thiết phải ban hành Luật
Việc làm; 6,1% trả lời không cần thiết phải ban hành Luật Việc làm và 0,1% trả lời
không biết.
- 93,3% người sử dụng lao động được tham vấn trả lời cần thiết phải ban
hành Luật Việc làm; 6,7% trả lời không cần thiết phải ban hành Luật Việc làm
- 96,9% cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời cần thiết phải ban
hành Luật Việc làm; 3,1% trả lời không cần thiết phải ban hành Luật Việc làm.
Đối tượng tham vấn đa dạng bao gồm: Người lao động (bao gồm: Lao động
có hợp đồng và lao động không có hợp đồng. Trong nhóm lao động không có hợp
đồng lại bao gồm: Lao động tự do, lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh
hộ gia đình, làng nghề và lao động nông nghiệp). Người sử dụng lao động (bao
gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, Doanh nghiệp FDI, Doanh nghiệp tư nhân và các
chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh hộ gia đình). Cán bộ Ngành lao động (bao gồm:
Cán bộ Sở LĐTBXH, cán bộ phòng LĐTBXH, cán bộ Trung tâm GTVL).
Biểu đồ 1. Sự cần thiết về việc ban hành Luật Việc làm (%)

Phương án 1A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hành (giữ
nguyên hiện trạng).
Phương án này không khắc phục được những hạn chế, bất cập hiện nay. Hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành mới chỉ điều chỉnh đối với người
lao động có quan hệ lao động (chiếm 30% lực lượng lao động). Trong khi đó, các
đối tượng lao động tự làm và lao động làm việc trong khu vực phi chính thức
(chiếm gần 70% lực lượng lao động) thì hầu như chưa được quản lý, chưa có chính
7



sách pháp luật điều chỉnh. Một số quan hệ xã hội về việc làm mới phát sinh chưa
được pháp luật điều chỉnh như: phát triển kỹ năng nghề, cho thuê lại lao động, hỗ
trợ doanh nghiệp để duy trì việc làm, phòng chống thất nghiệp cho người lao
động.... Mặt khác, nếu vẫn giữ nguyên như hiện trạng (chỉ thực hiện các quy định
pháp luật hiện hành), sẽ tạo thêm kẽ hở pháp luật khiến các hành vi vi phạm pháp
luật về việc làm (như: dụ dỗ, hứa hẹn gian dối lừa gạt người lao động; gian lận, giả
mạo hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp....) ngày càng gia tăng, ý thức pháp luật của người
dân giảm sút (công dân sẽ không tôn trọng, tuân thủ pháp luật do chế tài quá nhẹ,
việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật chưa nghiêm minh).......gây tốn
kém kinh phí cho ngân sách nhà nước để khắc phục hậu quả phát sinh.
Phương án 1B: Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành.
Nếu lựa chọn phương án này, tức là tiếp tục để tình trạng các văn bản quy
phạm pháp luật về việc làm quy định tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau, thiếu tính
thống nhất, đồng bộ, thậm chí chồng chéo; khó quản lý, khó áp dụng và thực hiện.
Việc sửa đổi, bổ sung chỉ mang tính chắp vá các quy định mà chưa thực hiện được
một bước trong cải cách lập pháp đã và đang là một nhu cầu cần thiết đặt ra trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Phương án này có thể mất nhiều chi phí cho
những lần sửa đổi, bổ sung văn bản, mà có thể không cải thiện được môi trường
pháp lý về việc làm, không thể pháp điển hoá các quy định pháp luật về việc làm
cho thống nhất và đồng bộ. Đặc biệt nếu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động –
chương II Việc làm (cơ sở pháp lý quan trọng nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội về
việc làm) thì không thể khắc phục được các hạn chế của hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về việc làm, do các quan hệ xã hội về việc làm cần được pháp luật
điều chỉnh ngày càng tăng, nếu chỉ điều chỉnh trong 1 chương của Bộ luật Lao động
thì không đủ, nếu mở rộng chương Việc làm quá nhiều thì sẽ làm mất cân đối Bộ
luật Lao động.
Phương án 1C: Ban hành Luật Việc làm
Lựa chọn phương án này đem đến giải pháp tốt nhất, phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội của đất nước, khắc phục cơ bản những hạn chế của hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về việc làm hiện nay; tạo ra sự liên thông giữa pháp luật về

việc làm trong nước và quốc tế; cải cách một bước về lập pháp các quy định pháp
luật về việc làm; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý, điều hành; tăng
cường trách nhiệm, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong
việc tạo và bảo đảm việc làm cho người lao động... mặc dù việc xây dựng và thực
thi Luật cũng phát sinh những chi phí nhất định. Cụ thể như sau:
8


Về mặt lợi ích: Việc ban hành Luật Việc làm đem lại các lợi ích:
- Thống nhất các quy định pháp luật hiện hành về việc làm còn tản mạn trong
một văn bản duy nhất có giá trị pháp lý cao là Luật.
- Pháp điển hoá các nội dung còn chưa được điều chỉnh trong các văn bản
hiện hành.
- Nâng cao vai trò của hệ thống luật pháp, đảm bảo quyền lợi cho người lao
động và người sử dụng lao động, thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động,
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế;
- Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, của xã hội, của doanh nghiệp
và của người dân về giải quyết việc làm, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định và
phát triển xã hội;
- Phạm vi điều chỉnh rộng sẽ đảm bảo được một hành lang pháp lý chặt chẽ,
phù hợp, tạo điều kiện đảm bảo việc làm bền vững cho mọi đối tượng của xã hội;
- Việc quy định cụ thể các khái niệm, chỉ tiêu về việc làm, thị trường lao
động sẽ giúp cho các tổ chức, cá nhân có thể phân tích đánh giá, so sánh được các
vấn đề liên quan việc làm;
- Việc quy định cụ thể vấn đề về hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm tạo
hành lang pháp lý, đảm bảo cho sự phát triển của thị trường lao động lành mạnh,
quản lý sự biến động lao động chặt chẽ hơn và chấm dứt những tiêu cực trong vấn
đề này.
Về chi phí: Việc xây dựng và tổ chức thực hiện Luật Việc làm làm phát sinh
các chi phí sau:

- Chi phí xây dựng Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành
- Chi phí tập huấn Luật Việc làm và các văn bản hướng dẫn thi hành
- Chi phí phục vụ công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục về Luật Việc làm
và các văn bản hướng dẫn thi hành trên phạm vi toàn quốc
- Chi phí tổ chức thực hiện Luật Việc làm và các văn bản hướng dẫn thi hành
(chi phí đăng ký lao động.....)
1.5. Kết luận và kiến nghị
Theo phân tích kết quả tham vấn ý kiến công chúng (trên 90% đồng ý với
phương án Ban hành Luật Việc làm), và phân tích quan hệ chi phí và lợi ích, việc
lựa chọn phương án 1C của Báo cáo RIA là hợp lý và có lợi nhất về mặt xã hội, bảo
đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong
lĩnh vực việc làm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nâng cao nhận thức và
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân và người lao động
9


trong việc tạo việc làm và bảo đảm việc làm cho người lao động. Xây dựng Luật
Việc làm là đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu pháp
điển hoá hoá các quy định pháp luật và thực tiễn pháp lý đã và đang tồn tại trong
thời gian qua.
2. Vấn đề 2: Chính sách hỗ trợ tạo việc làm
2.1. Xác định vấn đề
- Các chính sách hỗ trợ tạo việc làm đã được ban hành tương đối đầy đủ
trong nhiều văn văn bản, nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm: cho vay vốn tạo việc
làm, hỗ trợ phát triển thị trường lao động, hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng, hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, hỗ trợ đào tạo nghề
gắn với việc làm cho lao động khu vực nông thôn (Chương trình mục tiêu quốc gia
về việc làm, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng, Luật thanh niên, Đề án hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn
2008-2015)

- Các chính sách giải quyết việc làm, chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm được ưu tiên thúc đẩy trong chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước,
đã góp phần tạo ngày càng nhiều việc làm (mỗi năm khoảng 1,5-1,7 triệu việc làm)
và giảm tỷ lệ thất nghiệp của người lao động (tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong
độ tuổi năm 2012 là 1,99%, trong đó khu vực thành thị là 3,25%, khu vực nông
thôn là 1,42%; năm 2011 các tỷ lệ tương ứng là: 2,27%, 3,6% và 1,71%)4.
+ Trong những năm qua, dự án vay vốn giải quyết việc làm từ Quỹ Quốc gia
về việc làm tiếp tục đóng vai trò hỗ trợ đắc lực tạo và tự tạo việc làm cho người lao
động. Doanh số cho vay trong 2 năm 2011 – 2012 là 4.220 tỷ đồng, cho vay hơn 118
ngàn dự án với trên 320 ngàn khách hàng, góp phần giải quyết việc làm cho khoảng
360.000 lao động (trong đó, năm 2011 thông qua Quỹ Quốc gia về việc làm góp
phần giải quyết việc làm cho 200.000 lao động, năm 2012 là 160.000 lao động),
nguồn vốn được sử dụng khá hiệu quả (hệ số sử dụng vốn vay từ Quỹ đạt trên 95%,
tỷ lệ nợ quá hạn và vốn tồn đọng cuối năm thấp, đến 12/2012 tỷ lệ nợ quá hạn đến
tháng là 4,35% và tỷ lệ vốn tồn đòng là 3,06% trên tổng nguồn vốn.
Từ nguồn vốn của Quỹ cho vay giải quyết việc làm đã xuất hiện rất nhiều
các gương điển hình về làm ăn kinh tế giỏi, không chỉ ở khu vực thành thị mà còn
có ở khu vực nông thôn, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, hộ đồng bào
dân tộc thiểu số, người tàn tật thuộc giúp họ hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc
sống. Quỹ Quốc gia về việc làm đã góp phần khôi phục các ngành nghề truyền
4

Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2011, 2012 – Tổng cục Thống kê

10


thống, đã hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh và hộ gia đình để mở rộng
sản xuất, thu hút tạo việc làm cho nhiều người lao động.
+ Trên cơ sở dự án hỗ trợ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài thuộc Chương

trình mục tiêu quốc gia về việc làm, ngân sách nhà nước đã bố trí kinh phí nhằm Hỗ
trợ đào tạo lao động trình độ cao về tay nghề, ngoại ngữ và Hỗ trợ đào tạo nghề,
ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết và chi phí làm thủ tục xuất cảnh cho lao
động thuộc hộ nghèo, cận nghèo lao động là người dân tộc thiểu số, lao động là
thân nhân chủ yếu của gia đình chính sách và lao động thuộc hộ bị thu hồi đất nông
nghiệp (không bao gồm đối tượng thuộc 62 huyện nghèo theo Quyết định số
71/2009/QĐ-TTg). Hiện nay, Cục Quản lý lao động ngoài nước đang triển khai đặt
hàng đào tạo với các doanh nghiệp để đào tạo cho 1.140 lao động thuộc các nghề:
hàn 3G, hàn 6G, điều dưỡng viên, đốc công.
+ Trên cơ sở dự án hỗ trợ phát triển thị trường lao động, những năm qua,
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đã bố trí kinh phí đầu tư nâng cao năng
lực Trung tâm giới thiệu việc làm (TTGTVL), hỗ trợ tổ chức sàn giao dịch việc
làm, tổ chức điều tra thực trạng sử dụng và nhu cầu lao động trong các doanh
nghiệp, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thị trường lao động và hoàn thiện hệ
thống thông tin thị trường lao động. Thông qua sự đầu tư trọng tâm, trọng điểm, cơ
sở vật chất, trang thiết bị và năng lực hoạt động của các TTGTVL ngày càng được
nâng cao, các TTGTVL từ chỗ chỉ tham gia tổ chức các giao dịch việc làm đã trực
tiếp tổ chức các sàn giao dịch việc làm định kỳ, thường xuyên, đưa sàn giao dịch
việc làm dần dần trở thành địa chỉ quen thuộc cho người lao động cần tìm việc làm,
doanh nghiệp cần tuyển lao động5. Hệ thống thông tin thị trường lao động ngày
càng được hoàn thiện , từng bước góp phần đảm bảo cung cấp nguồn thông tin cập
nhật, kịp thời, chính xác và đầy đủ về việc làm, thất nghiệp, lực lượng lao động
phục vụ công tác quản lý Nhà nước về lao động, việc làm và dự báo thị trường lao
động. Dữ liệu thông tin về cung lao động là nguồn dữ liệu khá đầy đủ về thực trạng
lao động, việc làm, thất nghiệp và biến động lao động qua từng thời kỳ trên từng
địa bàn, là cơ sở để hoạch định chính sách việc làm và định hướng phát triển nguồn
nhân lực cũng như phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và quốc gia.
5

Hàng năm, các Trung tâm đã tư vấn, cung cấp thông tin thị trường lao động cho hàng triệu lượt

người có nhu cầu, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động và đào tạo nghề ngắn hạn gắn với tạo việc làm
cho hàng chục vạn lao động. Trong 2 năm 2011 và 2012, các Trung tâm đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho
khoảng 2,2 triệu lượt người.

11


- Bên cạnh đó, nhà nước còn ban hành một số chính sách riêng về việc làm
cho lao động nữ và lao động là người khuyết tật như: bảo đảm việc làm cho lao
động nữ, chống phân biệt đối xử đối với lao động nữ, ưu tiên tuyển dụng lao động
nữ, khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ,....; hỗ trợ dạy nghề cho
người khuyết tật, hỗ trợ hộ gia đình và người khuyết tật tạo việc làm, chính sách
khuyến khích nhận người khuyết tật vào làm việc tại doanh nghiệp.... Những chính
sách này đã tạo môi trường thuận lợi cho lao động nữ, lao động là người khuyết tật
bình đẳng tham gia thị trường lao động, tạo cơ hội cho họ tìm việc làm và tự tạo
việc làm, từng bước cải thiện thu nhập, ổn định cuộc sống, bảo đảm việc làm bền
vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện chính sách
hỗ trợ tạo việc làm cũng bộc lộ một số hạn chế như:
- Chính sách hỗ trợ tạo việc làm chưa đủ mạnh để xóa bỏ mọi rào cản, giải
phóng năng lực của mọi người lao động cho phát triển kinh tế - xã hội; việc lồng
ghép các chương trình phát triển kinh tế xã hội với chương trình việc làm chưa
hiệu quả đã tác động không nhỏ đến giải quyết việc làm.
- Chính sách hỗ trợ tạo việc làm được quy định ở nhiều văn bản khác nhau,
chủ yếu ở các văn bản hướng dẫn luật, nên thiếu đồng bộ, chưa có sự thống nhất,
gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai.
- Hiện nay chúng ta mới chỉ có các quy định về chính sách việc làm cho lao
động nữ, lao động là người khuyết tật rải rác trong Bộ luật Lao động và các văn bản
hướng dẫn thi hành, Luật Người khuyết tật; các đối tượng đặc thù khác như: lao
động là người dân tộc ít người, thanh niên, người sau cai nghiện, mãn hạn tù....

chưa có chính sách riêng.
- Theo quy định các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội phải gắn
với kế hoạch tạo việc làm tuy nhiên, nhiều chương trình, dự án khi triển khai không
gắn với quy hoạch nguồn nhân lực cũng như kế hoạch tạo việc làm cho người lao
động dẫn đến tình trạng nhiều dự án đưa vào hoạt động nhưng không tuyển được
lao động hoặc có tuyển được lao động nhưng không đáp ứng yêu cầu, đồng thời
cũng ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện của bản thân các chương trình, dự án.
2.2. Các phương án lựa chọn
Phương án 2A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hành
Phương án 2B: Sửa đổi, bổ sung và quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm
trong Luật việc làm
2.3. Đánh giá tác động các phương án lựa chọn

12


Theo kết quả thu được thông qua hoạt động lấy ý kiến công chúng bằng
phiếu tham vấn RIA tại 9 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 khu vực: (i) Khu vực miền
Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ); (ii) Khu vực miền Trung và Tây Nguyên (Hà
Tĩnh, Đà Nẵng, Đắk Lắk); Khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Sóc Trăng) về “Chính sách hỗ trợ tạo việc làm” với 360 phiếu người sử
dụng lao động, 360 phiếu cán bộ ngành Lao động và 1530 phiếu người lao động thì
phần lớn ý kiến của người lao động, người sử dụng lao động và cán bộ ngành lao
động được tham vấn đồng ý với phương án 2B (sửa đổi, bổ sung và quy định chính
sách hỗ trợ tạo việc làm trong Luật việc làm.
Bảng 2. Đánh giá về chính sách hỗ trợ tạo việc làm (%)
Đánh giá
Tốt
Bình thường
Cần được sửa

đổi/bổ sung
Không biết

CBNLĐ
18,3
18,6
63,1

NSDLĐ
15,3
34,2
50,5

NLĐ
16,7
38,8
43,2

0,0

0,0

1,3

Phương án 2A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hành
Nếu lựa chọn phương án này thì không thể khắc phục được hạn chế của các
quy định pháp luật hiện hành về chính sách hỗ trợ tạo việc làm. Mặt khác, Bộ luật
lao động năm 2012 lại chỉ quy định chung, mang tính nguyên tắc về các chính sách
hỗ trợ tạo việc làm (ban hành chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy
nghề, thành lập Quỹ quốc gia về việc làm...); Chương trình mục tiêu quốc gia về

việc làm và dạy nghề chỉ có tính thời điểm, được triển khai trong từng thời kỳ nhất
định. Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ tạo việc làm (cho vay vốn từ Quỹ quốc
gia về việc làm, hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng,
hỗ trợ đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho người lao động khu vực nông thôn, hỗ
trợ phát triển thị trường lao động) phần lớn được quy định cụ thể trong chương
trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề, đã và đang được thực hiện trên
thực tế, góp phần không nhỏ trong tạo và duy trì việc làm, bảo đảm việc làm và
việc làm bền vững cho người lao động.
Phương án 2B: Sửa đổi, bổ sung và quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm
trong Luật việc làm
Nếu lựa chọn phương án này sẽ khắc phục được triệt để những hạn chế của
các quy định pháp luật hiện hành về chính sách hỗ trợ tạo việc làm. Có những
chính sách ưu tiên thúc đẩy việc làm đối với nhóm lao động đặc thù: người lao
13


động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ bị thu hồi đất nông nghiệp; người lao động
là người khuyết tật, người dân tộc ít người; người lao động thuộc khu vực biên giới,
hải đảo nhằm tăng cường tính bền vững đối với việc làm ở nhóm đối tượng và các
khu vực; có chính sách hỗ trợ tạo việc làm trực tiếp (Chương trình việc làm công)
mang việc làm đến cho người lao động khó tiếp cận được với thị trường lao động
(người lao động không có tay nghề, người lao động thiếu việc làm ở khu vực nông
thôn,…) vừa khắc phục tình trạng thiếu việc làm, vừa góp phần xây dựng cơ sở xã
hội, những công trình phù hợp, cần thiết với chính người dân tại địa phương.
2.4. Kết luận và kiến nghị
Theo phân tích kết quả tham vấn ý kiến công chúng (phần lớn ý kiến đều
đồng ý với phương án quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm trong Luật việc
làm), và phân tích tác động tích cực và tiêu cực của các phương án lựa chọn, việc
lựa chọn phương án 2B của Báo cáo RIA là hợp lý và có lợi nhất về mặt xã hội, bảo
đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động và người sử dụng lao động, góp phần tạo

ngày càng nhiều việc làm và bảo đảm việc làm, việc làm bền vững cho người lao
động.
3. Vấn đề 3: Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia
3.1. Xác định vấn đề
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang cố gắng đẩy nhanh quá trình thay
đổi về chất của lực lượng lao động, biến lực lượng lao động đông đảo nhưng trình
độ thấp sang lực lượng lao động đông đảo với trình độ cao trước hết thể hiện bởi tỷ
lệ lao động đã qua đào tạo ngày càng cao. Cũng vì thế nên trong một vài năm trở lại
đây hệ thống chính sách có liên quan về giáo dục và dạy nghề đã chú trọng nhiều
hơn tới các vấn đề về chuẩn đầu ra, phát triển kỹ năng nghề cho NLĐ. Thậm chí
Luật dạy nghề đã dành riêng một chương IX để quy định về vấn đề kỹ năng nghề:
“Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia là cơ sở để NLĐ phấn đấu nâng cao trình độ
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sản xuất, kinh doanh và để NSDLĐ bố trí công
việc, trả lương hợp lý cho NLĐ; góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực nghề nghiệp; là căn cứ để xây
dựng chương trình dạy nghề phù hợp với yêu cầu của sản xuất, kinh doanh”. 6 Đây
là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng và phát triển hệ thống đánh giá, cấp
chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia quốc gia. Đã xây dựng và ban hành được 123/173
bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia và ngân hàng đề thi đánh giá kỹ năng, bước
đầu hình thành mạng lưới trung tâm đánh giá kỹ năng nghề, xây dựng đội ngũ đánh
6

Điều 79, chương IX Luật dạy nghề năm 2006

14


giá viên và đã triển khai thí điểm đánh giá kỹ năng ở một số nghề cho người lao
động.
Tuy nhiên, quá trình triển khai các quy định của Luật Dạy nghề và các văn bản

hướng dẫn thi hành về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia quốc gia đã
bộc lộ những hạn chế như sau:
- Việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia theo quy định của Luật
Dạy nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành chủ yếu dựa trên các tiêu chí về đào
tạo kiến thức (kể cả lý thuyết, thực hành) mà chưa xuất phát từ thực tiễn các yêu
cầu, đòi hỏi của công việc (đánh giá kỹ năng làm 1 công việc, nghề cụ thể của
người lao động)
- Sự gắn kết và tham gia của các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp, người sử
dụng lao động vào hoạt động đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia còn
rất hạn chế và không có chế tài đủ mạnh đối với các doanh nghiệp, người sử dụng
lao động khi không tham gia vào những hoạt động này. Ngoài việc thiếu hệ thống
chế tài đủ mạnh để NSDLĐ và NLĐ “nhận thức” được tầm quan trọng của kỹ năng
nghề, việc phát triển kỹ năng nghề theo Luật dạy nghề cũng không nhận được sự
hưởng ứng tích cực từ các hiệp hội nghề nghiệp.
Chính vì vậy, trên thực tế, hiện nay mới chỉ triển khai đánh giá, cấp chứng
chỉ kỹ năng nghề quốc gia quốc gia cho 5 nghề.
3.2. Các phương án lựa chọn
Phương án 3A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hành
Phương án 3B: Sửa đổi, bổ sung Luật Dạy nghề về đánh giá, cấp chứng chỉ
kỹ năng nghề quốc gia
Phương án 3C: Mở rộng đối tượng tham gia và quy định vấn đề đánh giá,
cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trong Luật việc làm
3.3. Đánh giá tác động các phương án lựa chọn
Theo kết quả thu được thông qua hoạt động lấy ý kiến công chúng bằng
phiếu tham vấn RIA tại 9 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 khu vực: (i) Khu vực miền
Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ); (ii) Khu vực miền Trung và Tây Nguyên (Hà
Tĩnh, Đà Nẵng, Đắk Lắk); Khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Sóc Trăng) về “Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia” với 360
phiếu người sử dụng lao động, 360 phiếu cán bộ ngành Lao động và 1530 phiếu
người lao động thì phần lớn ý kiến của người sử dụng lao động, cán bộ ngành lao

động được tham vấn đồng ý với phương án 3C (quy định vấn đề đánh giá, cấp
chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trong Luật Việc làm); đa số ý kiến người lao động
15


được tham vấn đồng ý với phương án 3A (chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp
luật hiện hành). Kết quả cụ thể như sau:
Biểu đồ 3. Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia (%)

Phương án 3A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hành
Nếu lựa chọn phương án này thì không thể khắc phục được hạn chế của các
quy định pháp luật hiện hành về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia dẫn
đến khó có thể triển khai việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trên
thực tế do việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia chưa gắn với yêu
cầu của người sử dụng lao động đối với từng công việc cụ thề và chưa có chính
sách hỗ trợ người lao động tham gia đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc
gia, chính sách sử dụng lao động có kỹ năng nghề quốc gia để khuyến khích người
lao động tham gia đánh giá và được công nhận kỹ năng nghề.
Phương án 3B: Sửa đổi, bổ sung Luật Dạy nghề về đánh giá, cấp chứng chỉ
kỹ năng nghề quốc gia
Nếu lựa chọn phương án này thì không thể khắc phục được triệt để những
hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng
nghề quốc gia.Việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia do các trung
tâm đánh giá kỹ năng được cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề cấp phép thực
hiện nên việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia không khách quan,
không gắn liền với yêu cầu của người sử dụng lao động mà chủ yếu dựa trên kết
quả đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề; mặt khác việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ
năng nghề quốc gia chỉ áp dụng đối với người lao động tốt nghiệp các cơ sở đào tạo
16



làm hạn chế cơ hội tham gia đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia của
những người lao động không qua bất kỳ một cơ sở đào tạo nghề hoặc cơ sở giáo
dục đào tạo nào.
Phương án 3C: Mở rộng đối tượng tham gia và quy định vấn đề đánh giá,
cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trong Luật việc làm
Nếu lựa chọn phương án này sẽ khắc phục được triệt để những hạn chế của
các quy định pháp luật hiện hành về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc
gia, điều chỉnh thống nhất các vấn đề về việc làm trong 1 văn bản Luật; quy định
trách nhiệm của nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và toàn xã hội
về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; chính sách hỗ trợ của nhà nước
đối với người lao động tham gia đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia.
Việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia được mở rộng đối với mọi
người lao động (không phân biệt đã có hay không có bằng cấp chứng chỉ đào tạo
theo quy định của Luật dạy nghề, Luật giáo dục đào tạo) và do tổ chức độc lập
thực hiện đảm bảo tính khách quan, toàn diện. Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia
được xây dựng trên cơ sở kết quả đào tạo và yêu cầu của người sử dụng lao động
đối với từng nghề nghiệp cụ thể. Do đó, việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề
quốc gia sẽ được triển khai mạnh mẽ trên thực tế góp phần nâng cao chất lượng lao
động tiến tới sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
3.4. Kết luận và kiến nghị
Theo phân tích kết quả tham vấn ý kiến công chúng (phần lớn ý kiến đều
đồng ý với phương án quy định vấn đề đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc
gia trong Luật việc làm), và phân tích tác động tích cực và tiêu cực của các phương
án lựa chọn, việc lựa chọn phương án 3C của Báo cáo RIA là hợp lý và có lợi nhất
về mặt xã hội, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động và người sử dụng lao
động, nâng cao chất lượng lao động tiến tới sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực,
đảm bảo điều kiện khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Tổ chức dịch vụ công về việc làm
4.1. Xác định vấn đề

- Vấn đề tổ chức, hoạt động của tổ chức dịch vụ công về việc làm đã được
quy định trong Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi năm 2002, 2006, 2007) và
Nghị định số 19/2005/NĐ-CP quy định điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của
tổ chức giới thiệu việc làm; Nghị định số 71/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 19/2005/NĐ-CP; Thông tư số 20/2005/TT-BLĐTBXH ngày 22/6/2005 của
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị
17


định số 19/2005/NĐ-CP quy định điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ
chức giới thiệu việc làm ; Thông tư số 27/2008/TT-BLĐTBXH ngày 20/11/2008
Sửa đổi bổ sung Thông tư số 20/2005/TT-BLĐTBXH; Thông tư số 95/2007/TTLTBTC-BLĐTBXH ngày 7/8/2007 hướng dẫn về phí giới thiệu việc làm. Theo đó hệ
thống tổ chức dịch vụ việc làm công bao gồm các Trung tâm giới thiệu việc làm
thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và các Trung tâm giới thiệu việc làm
thuộc hội đoàn thể quần chúng và Bộ Quốc phòng. Hiện nay, cả nước có 64 Trung
tâm thuộc ngành Lao động – Thương binh và Xã hội (trong đó có 4 Trung tâm giới
thiệu việc làm vùng) và 66 Trung tâm thuộc hội đoàn thể quần chúng và Bộ quốc
phòng.
- Các Trung tâm thuộc Bộ Quốc Phòng chủ yếu tập trung vào đào tạo nghề
cho bộ đội hoàn thành nghĩa vụ quân sự, thanh niên,...do vậy nhiều Trung tâm đã
chuyển sang trường nghề và hoạt động theo quy định của Luật Dạy nghề. Còn các
Trung tâm thuộc các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng như Thanh niên, Công đoàn,
Hội phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu Chiến binh, Liên minh HTX,... rất hạn chế về
biên chế và kinh phí hoạt động thường xuyên nên phần lớn chưa thực sự quan tâm
đến hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, mà tập trung nhiều hơn tới hoạt động dạy
nghề.
- Chỉ có 64 Trung tâm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh,
thành phố là thực hiện có hiệu quả các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thực
hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, thông tin thị trường lao động. Tuy nhiên, các
Trung tâm này chưa được các địa phương đầu tư đúng mức mà chủ yếu được đầu tư

từ nguồn vốn của Trung ương. Trong khi đó, do địa phương quản lý về nhân lực và
tài chính nên hoạt động của các Trung tâm này còn nhiều hạn chế như bị chia cách
về địa lý, còn chưa thống nhất trong tổ chức, hoạt động và công tác thông tin thị
trường lao động, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của người lao động và người
sử dụng lao động.....ảnh hưởng đến chất lượng thông tin thị trường lao động cũng
như vai trò là cầu nối giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất cũng như hiệu quả hoạt động của hệ thống
Trung tâm giới thiệu việc làm, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đồng
thời phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế khi Việt Nam tham gia Hiệp hội Dịch vụ
việc làm công Thế giới thì cần phải quy hoạch lại hệ thống dịch vụ việc làm công.
4.2. Các phương án lựa chọn:
Phương án 4A: Tiếp tục thực hiện các quy định pháp luật hiện hành. Hệ
thống dịch vụ công về việc làm bao gồm: Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc
18


Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc các hội đoàn thể quần chúng và Bộ Quốc
phòng
Phương án 4B: Chuyển trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức hội
đoàn thể và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm (hệ
thống dịch vụ công về việc làm chỉ bao gồm Trung tâm giới thiệu việc làm trực
thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương)
Phương án 4C: Thành lập tổ chức dịch vụ công về việc làm theo ngành dọc
từ Trung ương đến địa phương trên cơ sở quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu
việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đồng thời chuyển trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức
hội đoàn thể và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc
làm.

Phương án 4D: Xã hội hóa hoạt động dịch vụ việc làm (khuyến khích phát
triển các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm; chuyển Trung tâm giới thiệu
việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và Trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức hội đoàn thể và
Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm)
4.3. Đánh giá tác động của các phương án lựa chọn
Theo kết quả thu được thông qua hoạt động lấy ý kiến công chúng bằng
phiếu tham vấn RIA tại 9 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 khu vực: (i) Khu vực miền
Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ); (ii) Khu vực miền Trung và Tây Nguyên (Hà
Tĩnh, Đà Nẵng, Đắk Lắk); Khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Sóc Trăng) về “Mô hình tổ chức dịch vụ công về việc làm” với 360 phiếu
người sử dụng lao động, 360 phiếu cán bộ ngành Lao động và 1530 phiếu người
lao động, có:
- 46,9% người lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án 4C,
18,6% đồng ý với phương án 4A, 16,8% đồng ý với phương án 4B và 20,5% đồng
ý với phương án 4D
- 67,8% người sử dụng lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án
4C, 16,9% đồng ý với phương án 4A, 11,1% đồng ý với phương án 4B và 12,2%
đồng ý với phương án 4D

19


- 77,5% cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án
4C, 15,3% đồng ý với phương án 4A, 22,8% đồng ý với phương án 4B và 21,7%
đồng ý với phương án 4D.
Biểu đồ 4. Tổ chức dịch vụ công về việc làm (%)

Phương án 4A: Tiếp tục thực hiện các quy định pháp luật hiện hành. Hệ
thống dịch vụ công về việc làm bao gồm: Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc

Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc các hội đoàn thể quần chúng và Bộ Quốc
phòng
Nếu lựa chọn phương án này thì không thể khắc phục được hạn chế của hệ
thống dịch vụ việc làm công hiện hành (hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm)
cũng như tốn kém tiền đầu tư của ngân sách nhà nước (ngân sách nhà nước sẽ phải
đầu tư không chỉ cho các trung tâm giới thiệu việc làm của nhà nước mà còn phải
đầu tư cho các trung tâm giới thiệu việc làm của các hội đoàn thể quần chúng) mà
không thu được hiệu quả như mong muốn (hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm
của các hội đoàn thể quần chúng hiện nay hầu như hoạt động không có hiệu quả,
20


không thực hiện được mục tiêu hoạt động giới thiệu việc làm mà chủ yếu thực hiện
hoạt động dạy nghề).
Phương án 4B: Chuyển trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức hội
đoàn thể và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm
(hệ thống dịch vụ công về việc làm chỉ bao gồm Trung tâm giới thiệu việc làm trực
thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương)
Nếu lựa chọn phương án này sẽ giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Các trung tâm giới thiệu việc làm hoạt động kém hiệu quả (trung tâm giới thiệu
việc làm của các hội đoàn thể quần chúng) sẽ được chuyển đổi sang hoạt động theo
loại hình doanh nghiệp (xã hội hóa), ngân sách nhà nước sẽ chỉ tập trung đầu tư cho
các trung tâm giới thiệu việc làm hoạt động có hiệu quả (trung tâm giới thiệu việc
làm thuộc ngành Lao động – Thương binh và Xã hội). Tuy nhiên, phương án này có
hạn chế là do các Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương
binh và Xã hội các tỉnh/thành phố nên vẫn còn tình trạng đầu tư dàn trải, cào bằng
cho tất cả các tỉnh/ thành phố, trong khi đó 1 số tỉnh/thành phố cần thiết phải thành
lập nhiều hơn 1 trung tâm giới thiệu việc làm còn số tỉnh/thành phố khác chỉ cần

thành lập 1 trung tâm giới thiệu việc làm chung cho mấy tỉnh thành phố. Các trung
tâm giới thiệu việc làm bị chia cách về địa lý, còn chưa thống nhất trong tổ chức,
hoạt động và công tác thông tin thị trường lao động, chưa thực sự đáp ứng được
nhu cầu của người lao động và người sử dụng lao động....
Phương án 4C: Thành lập Tổ chức dịch vụ công về việc làm theo ngành dọc
từ Trung ương đến địa phương trên cơ sở quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu
việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đồng thời chuyển trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức
hội đoàn thể và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc
làm.
Nếu lựa chọn phương án này có thể khắc phục được triệt để các hạn chế của
hệ thống dịch vụ việc làm công hiện nay (hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm),
quy hoạch tập trung các nguồn lực, thống nhất trong tổ chức và hoạt động từ trung
ương đến địa phương, nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ việc làm đáp ứng được
nhu cầu của người lao động và người sử dụng lao động cũng như đáp ứng được yêu
cầu của việc thực hiện chính sách trả bảo hiểm thất nghiệp trước đây (theo Luật
Bảo hiểm xã hội) và nay là bảo hiểm thất nghiệp (theo dự thảo Luật Việc làm). Đây
là chính sách thị trường lao động gắn liền với chính sách việc làm và gắn liền với
21


việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ về dịch vụ việc làm của Tổ chức dịch vụ việc
làm công. Phương án này cũng không làm phát sinh thêm chi phí cho việc thành lập
mới tổ chức dịch vụ việc làm công, do phương án này chỉ là quy hoạch lại theo
ngành dọc từ trung ương đến địa phương thành tổ chức dịch vụ việc làm công
thống nhất trên cơ sở hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao
động – Thương binh và Xã hội các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương.
Phương án 4D: Xã hội hóa hoạt động dịch vụ việc làm (khuyến khích phát
triển các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm; chuyển Trung tâm giới thiệu
việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương và Trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức hội đoàn thể
và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm
Phương án này là tiết kiệm nhất về mặt chi phí cho nhà nước, vì ngân sách
nhà nước sẽ không phải đầu tư cho việc thực hiện hoạt động dịch vụ việc làm. Tuy
nhiên học tập kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới thấy rằng ở đa số các
nước, nhà nước vẫn thực hiện hoạt động dịch vụ việc làm (thông qua tổ chức dịch
vụ việc làm công) nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động và người sử
dụng lao động (nhà nước cung cấp miễn phí một số hoạt động dịch vụ việc làm cho
người lao động, người sử dụng lao động), phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về lao
động, việc làm (thông qua tổ chức dịch vụ việc làm công, nhà nước có thể quản lý
được lao động,tình trạng việc làm của người lao động) cũng như thực hiện các
chính sách việc làm, thị trường lao động của nhà nước.
4.4. Kết luận và kiến nghị:
Theo phân tích kết quả tham vấn ý kiến công chúng (đa số ý kiến đều đồng ý
với phương án thành lập tổ chức dịch vụ công về việc làm thống nhất từ trung
ương đến địa phương), và phân tích tác động tích cực và tiêu cực của các phương
án lựa chọn, việc lựa chọn phương án 4C của Báo cáo RIA là hợp lý và có lợi nhất
về mặt xã hội, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động và người sử dụng lao
động, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống dịch vụ việc làm công hiện hành
và phù hợp với xu hướng chung của thế giới đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã
gia nhập Hiệp hội dịch vụ việc làm công thế giới (năm 2011).
5. Bảo hiểm thất nghiệp
5.1. Xác định vấn đề:
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp được quy định trong chương X Luật Bảo
hiểm xã hội năm 2006, nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm
22


thất nghiệp, thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25 tháng 10 năm 2010

hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12 tháng
12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật
Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp và đã được triển khai trên thực tế hơn 3
năm. Qua 3 năm triển khai, chính sách này đã thu được nhiều kết quả đáng khích
lệ, góp phần tạo và ổn định việc làm cho người lao động, giải quyết những khó
khăn cho người lao động không may gặp khó khăn khi đang làm việc, giải quyết
vấn đề an sinh xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp: Người lao động khi hưởng chế độ bảo
hiểm thất nghiệp ngoài việc được hưởng một khoản tiền trợ cấp để bù đắp một
phần thu nhập do bị mất việc làm và hưởng chế độ bảo hiểm y tế còn được tư vấn
giới thiệu việc làm miễn phí và hỗ trợ học nghề để người lao động nâng cao trình
độ, khả năng của bản thân, tạo sự chủ động trong việc tự tạo cơ hội quay trở lại thị
trường lao động. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai
chính sách bảo hiểm thất nghiệp cũng bộc lộ một số hạn chế như: Đối tượng, phạm
vi tham gia bảo hiểm thất nghiệp còn hạn chế nên chưa phát huy được hết lợi ích
của chính sách này; thời gian đăng ký thất nghiệp ngắn; chưa xác định và phân loại
nguyên nhân thất nghiệp....
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp mới chỉ dừng ở việc giải quyết chính sách
khi chấm dứt quan hệ lao động, vấn đề thúc đẩy doanh nghiệp duy trì việc làm tốt,
sắp xếp lại doanh nghiệp, ...chưa được đề cập đến. Hiện nay, các văn bản quy phạm
pháp luật mới chỉ quy định hỗ trợ cho người lao động sau khi họ mất việc làm chưa
có thiết chế, chính sách để hỗ trợ cho doanh nghiệp để duy trì việc làm cho người
lao động, phòng chống thất nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp gặp các khó
khăn đặc biệt như suy giảm kinh tế, biến đổi khí hậu.....
5.2. Các phương án lựa chọn:
5.2.1. Mở rộng phạm vi các chế độ bảo hiểm thất nghiệp
Phương án 5.1A: Giữ nguyên các chế độ bảo hiểm thất nghiệp như hiện hành
Phương án 5.1B: Bổ sung thêm chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ, kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động
5.2.2. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Phương án 5.2A: Tiếp tục thực hiện các quy định pháp luật hiện hành (đối

tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: người lao động làm việc theo hợp
đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời
hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên và người sử dụng lao động có sử
dụng từ 10 lao động trở lên)
23


Phương án 5.2B: Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp (đối
tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc bao gồm: người lao động làm việc
theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác
định thời hạn hoặc xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc
theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng và mọi
người sử dụng lao động - có sử dụng từ 1 lao động trở lên; các đối tượng người lao
động còn lại – người lao động không có quan hệ lao động, người lao động có hợp
đồng lao động dưới 3 tháng có quyền tham gia bảo hiểm thất nghiệp)
5.2.3. Tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp:
Phương án 5.3A: Giữ nguyên như hiện nay (BHXH thu và chi, trung tâm
dịch vụ việc làm thực hiện các chế độ, thủ tục đăng ký, hưởng trợ cấp thất
nghiệp…)
Phương án 5.3B: BHXH thu, trung tâm dịch vụ việc làm thực hiện thêm
chức năng chi trả
Phương án 5.3C: Thành lập riêng tổ chức bảo hiểm thất nghiệp (mô hình
giống BHXH)
5.3. Đánh giá tác động các phương án lựa chọn:
Theo kết quả thu được thông qua hoạt động lấy ý kiến công chúng bằng
phiếu tham vấn RIA tại 9 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 khu vực: (i) Khu vực miền
Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ); (ii) Khu vực miền Trung và Tây Nguyên (Hà
Tĩnh, Đà Nẵng, Đắk Lắk); Khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Sóc Trăng) về “Mở rộng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp” và ”Mở rộng
đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp” với 360 phiếu người sử dụng lao động,

360 phiếu cán bộ ngành Lao động và 1530 phiếu người lao động, có:
- 71,7% cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án
mở rộng phạm vi các chế độ bảo hiểm thất nghiệp; tỷ lệ đồng ý đối với người sử
dụng lao động được tham vấn là 66,3%, người lao động được tham vấn là 70,8%.
- 51,4% cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án
mở rộng đối tượng người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (người lao động
giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không
xác định thời hạn hoặc có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên) ; tỷ lệ đồng ý đối với
người sử dụng lao động được tham vấn là 46,4%, người lao động được tham vấn là
57,4%.
- 71,7 % cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án
mở rộng đối tượng người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (tất cả
24


người sử dụng lao động) ; tỷ lệ đồng ý đối với người sử dụng lao động được tham
vấn là 64,2%, người lao động được tham vấn là 78%.
- 43,4 % cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án
5.3B (BHXH thu, trung tâm dịch vụ việc làm chi trả); phương án 5.3C nhận được
sự hưởng ứng cao hơn cả từ phía NLĐ (49,9%), tương tự với nhóm NSDLĐ
(45,1%).
Biểu đồ 5.1. Mở rộng phạm vi các chế độ bảo hiểm thất nghiệp (%)

Biểu đồ 5.2. Mở rộng đối tượng người lao động tham gia BHTN (%)

Biểu đồ 5.3. Mở rộng đối tượng DN tham gia BHTN (%)
25



×