Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

CHẤT LƯỢNG đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT cấp xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.49 KB, 109 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của cán bộ.
Người nói: Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc
thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém”. “Vì vậy huấn luyện cán bộ
là công việc gốc của Đảng” [45, tr269].
Thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định: Cán
bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với sứ mệnh
lịch sử của Đảng, của đất nước và của chế độ. Trong các văn kiện đại hội từ
Đại hội VI đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Đảng ta
nhiều lần nêu rõ: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, thì cán bộ và công
tác cán bộ là quan trọng nhất, là khâu “then chốt trong vấn đề then chốt”, là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
Thực tế nhiều năm qua cho thấy đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã luôn
được cấp ủy Đảng quan tâm và có sự trưởng thành đáp ứng với nhiệm vụ
chính trị, góp phần củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự nghiệp
cách mạng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, việc xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã thật sự có chất lượng còn nhiều bất cấp nhiều vấn đề
cần xem xét nghiên cứu làm sáng tỏ, nhằm xây dựng cho được đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã thực sự đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong giai
đoạn cách mạng mới. Nghị quyết số 17, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
trung ương Đảng (khóa IX ngày 08/03/2002, Đảng cộng sản Việt Nam đã
đánh giá: Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập
trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần



2

chúng….. đội ngũ cán bộ, cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; Chính sách đối
với cán bộ cơ sở còn chắp vá.
Huyện Mỹ Đức thành phố Hà Nội, mặc dù điều kiện kinh tế còn nhiều
khó khăn, nhưng Đảng bộ và nhân dân huyện luôn đoàn kết một lòng, quyết
tâm xây dựng huyện vững mạnh về mọi mặt. Cho đến nay đời sống của nhân
dân trong huyện đã được nâng cao rõ rệt, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội luôn được bảo đảm ổn định giữ vững và tăng cường …. Tạo thêm lòng tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước. Đạt được
nhiều thành tựu như vậy chính là do Đảng bộ huyện đã coi trọng công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt cơ sở nói riêng. Tuy nhiên,
một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ chất lượng vẫn còn nhiều bất cập, yếu
kém về phẩm chất, năng lực, trình độ còn thấp. Do vậy việc xem xét đánh giá
một cách khách quan, toàn diện thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và
đưa ra một hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức thành phố Hà Nội có đủ phẩm
chất, trình độ năng lực để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong giai
đoạn hiện nay, trước mặt tập trung hoàn thành chương trình xây dựng nông
thôn mới là yêu cầu cấp bách của huyện Mỹ Đức.
Với những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài “Chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện nay” để thực hiện luận
văn thạc sỹ chuyên nghành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan đến vấn đề cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói
chung và cán bộ chủ chốt ở cấp xã nói riêng đã có một số nghị quyết Ban
chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành về công tác này. Tiêu biểu là Nghị
quyết trung ương V khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cở sở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 Ban chấp

hành trung ương Đảng khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu


3

của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nghị quyết
trung ương 7 khóa XI - kết luận số 64-KL/TW, ngày 28 tháng 05 năm 2013
của Ban chấp hành trung ương Đảng về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.
Nhiều công trình, sách, các bài báo, tạp chí của các học giả, các nhà
khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu liên quan đến đề tài này. Chẳng hạn
như: “Mác - Ănghen - Lênin - Stalin về vấn đề cán bộ” (Nxb Sự thật, Hà Nội,
1974). “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ” (PGS.TS Bùi
Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội 2002). “Cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới” (Đề tài khoa học cấp
nhà nước KX.05.11, Hà Nội, 1994 - Chủ nhiệm Trần Xuân Sầm). Tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ, đề tài khoa học cấp nhà nước (KX.02.), (1991-1995)Chủ nhiệm GS. Đặng Xuân Kỳ. Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 của PGS, TS Đức Vượng. Vai trò cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ gìn ổn định chính trị - xã hội ở nông
thôn nước ta hiện nay. Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2008, của TS.
Mai Đức Ngọc.
Một số công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến công tác cán bộ
của Đảng cũng đã đề cập đến việc chuẩn hóa các chức danh cán bộ: “Xác
định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị
đổi mới”, PGS. TS Trần Xuân Sầm chủ biên, 1998. Trong sách trình bày cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc xác định tiêu chuẩn cán bộ; thực trạng việc
thực hiện tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ, lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống
chính trị; xác định tiêu chuẩn cán bộ trong những năm tới và phương hướng,
giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ theo tiêu chuẩn xác định “Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, PGS .TS. Nguyễn Phú Trọng và
PGS .TS. Trần Xuân Sầm chủ biên, 2001. Nội dung đề cập đến cơ sở lý luận


4

của việc sử dụng tiêu chuẩn cán bộ trong công tác cán bộ; những tiêu chuẩn
xây dựng cán bộ của Đảng phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; những
quan điểm, phương hướng chung trong việc nâng cao chất lượng công tác cán
bộ trong đó có nội dung về “tiêu chuẩn hóa cán bộ”.
Một số luận văn thạc sỹ bảo vệ tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh như: “Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã vùng đồng
bằng Bắc bộ ở nước ta hiện nay” của Mai Đức Ngọc, 2002; “Nâng cao năng
lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở” của Phan Văn
Hai, 1997; “Xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp xã ở Đồng
bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Minh Châu 2003; “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh đạo
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hóa hiện nay” của Bùi Khắc
Hằng, 2004.
Tài liệu Bồi dưỡng lý luận và nghiệp vụ công tác tổ chức, cán bộ, do
Ban tổ chức Trung ương phối hợp với Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh biên soạn, đã trình bày những vấn đề chủ yếu về xây dựng tiêu chuẩn
cán bộ và quy trình xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; yêu cầu của việc sử dụng tiêu
chuẩn cán bộ làm cơ sở cho công tác đánh giá, lựa chọn, bổ nhiệm, điều động,
luân chuyển, đào tao…cán bộ và đổi mới và nâng cao chất lượng tổ chức
chính quyền và đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn.
Qua phân tích cho thấy các công trình đều ít nhiều có liên quan đến đề
tài mà tác giả chọn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp và
toàn diện về vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn làm sáng rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức. Từ đó, đề xuất phương hướng và giải pháp nâng


5

cao chất lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức có đủ
khả năng đáp ứng được nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
chủ chốt cấp xã.
- Khảo sát, phân tích thực trạng về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở huyện Mỹ Đức hiện nay.
- Xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyên Mỹ Đức hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã (xã, thị trấn) ở huyện Mỹ Đức - thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu khảo sát chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt ở các xã và thị trấn ở huyện Mỹ Đức (bao gồm 21 xã và
01 thị trấn của huyện Mỹ Đức).
Thời gian nghiên cứu tập trung vào từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với các phương pháp cụ thể như:
Thống kê, phương pháp so sánh, chuyên gia…để giải quyết những nhiệm vụ
mà đề tài luận văn đã đặt ra.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Từ số liệu cụ thể luận văn đánh giá một cách trung thực, đầy đủ về chất

lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay ở huyện Mỹ Đức, thành
phố Hà Nội.
Luận văn đề xuất 1 số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội
hiện nay.


6

7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
Luận văn cung cấp luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao chất lượng; xây dựng chuẩn hóa cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn ở các trường chính trị tỉnh thành phố trực thuộc trung ương;
Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp quận, huyện hoặc tài liệu tham khảo cho
sinh viên học viên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước.
8. Kết cấu của đề tài luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 8 tiết.


7

Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ - MỘT
SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm và tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã
1.1.1. Khái niệm về cán bộ và chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã

1.1.1.1. Khái niệm về cán bộ và chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã
+ Khái niệm về cán bộ
Thuật ngữ - khái niệm “cán bộ” được du nhập từ Trung Quốc vào Việt
Nam và dùng khá phổ biến từ thời kỳ chống pháp để chỉ những người chỉ huy,
dần dần được dùng để chỉ tất cả những người thoát ly hoạt động kháng chiến
trong bộ máy đảng, chính quyền, đoàn thể, quân đội phân biệt với nhân dân.
tuy vậy, xung quanh khái niệm cán bộ cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác
nhau:
Ở nước ta theo cách hiểu thông thường cán bộ được coi là tất cả
những người thoát lý, làm việc trong bộ máy chính quyền đảng, đoàn
thể, quân đội. Trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi như những
người có mức lương từ cán sự (cũ) trở lên để phân biệt với nhân viên
có mức lương thấp hơn cán sự một [58, tr.16].
Trong đại từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (Trung tâm từ điển
học) có đưa ra khái niệm cán bộ có hai nghĩa: “cán bộ 1. Người làm công tác
có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước - cán bộ nhà nước; 2.
Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với
người bình thường không có chức vụ” [62, Tr.109].
Từ điển bách khoa toàn thư tại Website: www.bachkhoatoanthu.gov.vn,
định nghĩa: “Cán bộ - thuật ngữ thường dùng ở Việt Nam và một số nước trên


8

thế giới, chỉ những người được bầu hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong
các tổ chức (đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân) thuộc hệ thống chính trị của
quốc gia, ở các cấp từ trung ương tới cơ sở”.
Từ đó, có hai cách hiểu cơ bản về cán bộ:
Một là, Cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước làm việc

trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh
nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ trung ương đến cơ sở.
Hai là, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một tổ chức hay một
cơ quan để phân biệt với người không có chức vụ.
Trong những năm gần đây, nhất là khi có pháp lệnh cán bộ, công chức
năm 1998 nay là Luật cán bộ, công chức 2008, khái niệm cán bộ, công chức
được xác định rất cụ thể.
Theo điều 4, Luật cán bộ, công chức:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối


9

với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.

3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công
dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. [55, Điều 4]
Như vậy, theo quan niệm chung nhất: Cán bộ là khái niệm chỉ những
người làm công ăn lương Nhà nước, có chức vụ, vai trò và cương vị trong một
tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ
trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển
của tổ chức.
+ Khái niệm về cán bộ chủ chốt và cán bộ chủ chốt cấp xã
* Cán bộ chủ chốt
Theo từ điển tiếng Việt - 2005, “Chủ chốt” có nghĩa là “quan trọng
nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào” [62, tr.174].
Mỗi cơ quan, tổ chức,…dù ở cấp trung ương, địa phương hay cơ sở đều
có người lãnh đạo, quản lý, có tổ chức, có tập thể lãnh đạo, nhưng trong tập
thể lãnh đạo có một người đứng đầu. người đứng đầu đó là người chủ chốt có
quyền ra quyết định về các chủ trương, có trách nhiệm và quyền điều hành
một đơn vị, một tổ chức, một tập thể… để thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, tổ
chức, tập thể đó.
Vậy, cán bộ chủ chốt được hiểu là người có chức vụ cao nhất, nắm giữ
các vị trí quan trọng nhất, có quyền quyết định, điều hành, chịu trách nhiệm
chính của một tổ chức, đơn vị hoặc một địa phương… với tư cách là nhân tố


10

then chốt, chủ yếu, có tác dụng làm nòng cốt trong việc thực hiện nhiệm vụ
của tổ chức, đơn vị, địa phương đó.

Việc xác định cán bộ chủ chốt cần căn cứ vào chức trách cụ thể của mỗi
người cán bộ và được đặt trong mối quan hệ với hệ thống tổ chức. Có cán bộ
ở cương vị này và trong tổ chức này là chủ chốt, nhưng trong các mối quan hệ
khác, vị trí khác thì không còn là chủ chốt nữa. Ví dụ: Một bí thư đảng ủy xã
là cán bộ chủ chốt cấp xã nhưng không phải là cán bộ chủ chốt của huyện,
mặc dù anh ta cũng có thể tham gia vào Ban chấp hành của huyện, là huyện
ủy viên. Vì vậy nói cán bộ lãnh đạo chủ chốt chỉ là tương đối.
* Cán bộ lãnh đạo: Theo nghĩa rộng “bao gồm những ai giữ chức vụ và
trách nhiệm cao trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ
chức, của bộ máy, có vai trò tham gia định hướng, điều khiển hoạt động của
cả bộ máy” [58, tr.33].
Ở nước ta khái niệm cán bộ lãnh đạo còn gắn liền với khái niệm cán bộ
quản lý, đó là những người có chức vụ và trách nhiệm điều hành, đứng đầu
trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp…. giám đốc, hiệu trưởng, viện
trưởng … Nội hàm khái niệm cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý có những điểm
giống nhau vì đều là những chủ thể ra quyết định điều khiển hoạt động của
một tổ chức do vậy vừa thực hiện chức năng lãnh đạo vừa thực hiện chức
năng quản lý. Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo và quản lý không hoàn toàn
đồng nhất với nhau. Hoạt động lãnh đạo chủ yếu là định hướng khách thể
thông qua hệ thống cơ chế, đường lối, chủ trương chính sách ….Còn hoạt
động quản lý mang tính điều khiển, vận hành thông qua những thiết chế có
tính pháp lệnh được quy định từ trước.
* Cán bộ lãnh đạo chủ chốt:
Đó là những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất
trong một tập thể, có quyền ra những quyết định và chủ trương, có
trách nhiệm và quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức,


11


để thực hiện những nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có
thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định. [58,
tr.33].
* Đội ngũ: Theo sách tra cứu các mục từ về tổ chức thì:
Đội ngũ: 1. Nhóm đông người được tập hợp lại thành một lực lượng để
thực hiện một công việc nào đó như đội ngũ tập luyện quân sự tại thao
trường hoặc chiến đấu chống quân thù tại mặt trận; 2. Tập hợp gồm số
đông người có chung lý tưởng, mục tiêu phấn đấu hoặc cùng nghề
nghiệp, giai cấp, tầng lớp xã hội .… như đội ngũ đảng viên, đội ngũ
đoàn viên, đội ngũ những người viết báo, đội ngũ giai cấp công nhân,
đội ngũ trí thức [56, tr.271].
Vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt của một địa phương, một đơn vị …là tập
hợp số đông cán bộ lãnh đạo chủ chốt (không phải một vài chức danh riêng
lẻ) của các tổ chức trụ cột trong một hệ thống bộ máy tổ chức của địa phương,
đơn vị đó, cùng nhau lãnh đạo, điều hành tổ chức của mình để hoàn thành
nhiệm vụ chung.
* Cán bộ chủ chốt cấp xã
Từ khái niệm cán bộ chủ chốt có thể hiểu cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cở sở cấp xã là những người đứng đầu giữ vị trí quyết định trong các
cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị cơ sở, có tác
động chi phối việc chấp hành chủ trương, nghị quyết của Đảng chính sách,
pháp luật của nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức các nhiệm vụ kinh
tế - xã hội trên địa bàn nông thôn mà họ phụ trách.
Theo đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức, thành phố
Hà Nội được đề tài tiến hành khảo sát điều tra bao gồm: Bí thư, phó bí thư
(Thường trực Đảng ủy), Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND, chủ tịch mặt
trận tổ quốc Việt Nam, chủ tịch Hội phụ nữ, Bí thư đoàn thanh niên Cộng sản


12


Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội cựu chiến binh, Chủ tịch Hội nông dân xã, thị
trấn.
1.1.1.2. Khái niệm về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
- Khái niệm về chất lượng
Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng nhất trong mọi lĩnh vực hoạt
động của con người. Việc phấn đấu nâng cao chất lượng bao giờ cũng được
xem là nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ một hoạt động nào. Mặc dù có tầm
quan trọng như vậy, nhưng chất lượng vẫn là một khái niệm khó định nghĩa
và cách hiều về nó cũng khác nhau.
Tuy vậy, không phải chất lượng là một khái niệm quá trừu tượng đến
mức người ta khồng thể đi đến một cách diễn giải tương đối thống nhất, mặc
dù sẽ còn luôn luôn thay đổi. Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ISO, trong dự
thảo DIS 9000:2000, đã đưa ra định nghĩa sau: “Chất lượng là khả năng của
tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các
yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”. Trong đề tài nghiên cứu
“Công tác đào tạo sau đại học của Học viên báo chí và tuyên truyền - Thực
trạng giải pháp đổi mới” do TS. Trần Thị Anh Đào chủ nhiệm đã có nhiều
cách tiếp cận khái niệm “chất lượng”:
Quan niệm xem xét chất lượng theo thang bậc giá trị từ thấp đến cao
với hệ chuẩn mực định trước cho rằng: “Sản phẩm hoặc dịch vụ được coi là
có chất lượng khi chúng đạt những chuẩn mực nhất định được quy định trước.
Chất lượng không được coi là cái đích mà nó được coi là phương tiện, theo đó
sản phẩm hoặc dịch vụ được đánh giá”.
Theo quan niệm đánh giá chất lượng từ sự hài lòng về khả năng đáp
ứng nhu cầu người sử dụng sản phẩm, dịch vụ cho rằng: “Chất lượng là sự
đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc chất lượng là sự phù hợp với mục
đích”. Cũng có quan niệm cho rằng: “Chất lượng thường được định nghĩa như
là sự tuân thủ toàn bộ các đặc tính của sản phẩm mà làm cho việc đánh giá nó



13

là một sản phẩm có chất lượng. Chất lượng không chỉ là một đặc tính riêng lẻ
mà là toàn bộ các đặc tính quyết định mức độ đáp ứng các yêu cầu của khách
hàng” [11, tr.13].
Từ những khái niệm nêu trên, theo chúng tôi chất lượng được đo bởi sự
thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng sản phẩm, dịch vụ. Nếu một sản phẩm vì
lý do nào đó mà không đáp ứng được nhu cầu chấp nhận thì phải bị coi là có
chất lượng kém, cho dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể
rất hiện đại. Đây là cơ sở để các nhà doanh nghiệp định ra chính sách, chiến
lược kinh doanh của mình. Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu,
mà nhu cầu luôn luôn biến động theo thời gian, không gian, điều kiện sử
dụng, vì vậy chất lượng cũng không cố định, mà cũng luôn luôn biến đổi phù
hợp với nhu cầu đó.
Như vậy, có thể hiểu: Chất lượng là khái niệm chỉ toàn bộ các đặc tính
quyết định mức độ hài lòng của cá nhân, tổ chức sử dụng sản phẩm, dịch vụ.
- Khái niệm về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Từ khái niệm về cán bộ và chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
nêu trên và từ lý luận, thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng ta cho ta
thấy, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp nói chung, chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng không phải là phép cộng đơn giản từ
chất lượng của từng cán bộ mà là kết quả của sự tác động tổng hợp, biện
chứng giữa các yếu tố chính là: chất lượng cán bộ, số lượng cán bộ và cơ cấu
đội ngũ cán bộ.
Trong ba yếu tố trên, yếu tố chất lượng cán bộ là hạt nhân, cốt lõi và
quan trọng nhất. Bởi vì con người là nhân tố cơ bản nhất, năng động nhất của
tổ chức; từng người mạnh làm cho tổ chức mạnh, hệ thống mạnh. Chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã phụ thuộc trước hết chất lượng cán bộ. Vì vậy
mối quan tâm hàng đầu của Đảng là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói

chung, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng.


14

Cũng như chất lượng cán bộ chủ chốt các cấp, chất lượng cán bộ chủ
chốt cấp xã có nội dung rất toàn diện, bao gồm cả phẩm chất đạo đức cách
mạng, uy tín, cả tri thức và năng lực hoạt động thực tiễn của mỗi cán bộ. Đó
là sự tổng hợp các yếu tố tạo nên phẩm chất và năng lực của mỗi cán bộ.
Trước tiên chất lượng cán bộ là sự tổng hợp các yếu tố tạo nên phẩm chất
chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ: Tức là uy tín, lòng trung
thành, sự giác ngộ và niềm tin vào mục đích, lý tưởng của Đảng ta, được thể
hiện bằng hành động của cán bộ trong việc gương mẫu, đi đầu trong các
phong trào cách mạng của quần chúng; vận động, lôi cuốn, hướng dẫn, tổ
chức quần chúng tham gia các hoạt động cách mạng, thực hiện tốt các nhiệm
vụ chính trị của địa phương; là khả năng chấp hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước và là khả năng vận động gia đình, người thân và quần
chúng nhân dân. Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã còn là sự tổng
hợp các yêu tố năng lực, trí tuệ, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, năng
lực lãnh đạo và tổ chức thực tiễn. Những kiến thức, năng lực và trình độ đó có
được một mặt do thông qua các quá trình đào tạo ở các nhà trường một cách
có hệ thống, bài bản trong hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống giáo dục
trong các học viện, các trường của Đảng. Mặt khác, nhờ quá trình trải nghiệm,
rèn luyện trong thực tiễn cuộc sống, thực tiễn cách mạng. Nhờ được đào tạo
trong các trường và thực tiễn cách mạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tiếp
cận và lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm để làm việc với tinh thần năng động, chủ
động, tự giác, sáng tạo; thêm vào đó là sự thể hiện thái độ tích cực, nêu gương
về mọi mặt trước cán bộ, đảng viên, hội viên và quần chúng nhân dân, xác lập
và sáng tạo được các phương pháp, cách thức hợp lý để có thể vận động, cổ

vũ giáo dục, hướng dẫn, lôi cuốn và tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo được cán bộ,
đảng viên, hội viên và quần chúng hăng hái thực hiện các nhiệm vụ chính trị
đạt kết quả cao nhất.


15

Như vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có thể được hiểu
đó là sự tổng hợp toàn bộ các giá trị về phẩm chất và năng lực của cán bộ. Đó
là tổng thể những khả năng thực lực của cán bộ biểu hiện thông qua kết quả
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ do cấp ủy Đảng,
chính quyền phân công và Mặt trận tổ quốc, đoàn thể tín nhiệm giao.
Cần nhận thức rõ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chất lượng
mỗi cán bộ và đội ngũ cán bộ trong sự cấu thành chất lượng đội ngũ cán bộ.
Từng cán bộ có chất lượng sẽ tạo nên đội ngũ cán bộ có chất lượng. Nhưng
phải có một số lượng cán bộ chủ chốt nhất định mới xây dựng được tổ chức,
mới có đủ lực lượng để bố trí công tác, mới có thể thực hiện tốt từng nội dung
cụ thể của nhiệm vụ chính trị, qua đó mà phát huy được sức mạnh tổng hợp
của cả đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Với ý nghĩa đó, số lượng có quan hệ chặt chẽ với chất lượng. Điều đó
có nghĩa là chất lượng cán bộ và số lượng cán bộ tồn tại trong liên hệ ràng
buộc, phụ thuộc lẫn nhau để tạo thành chất lượng đội ngũ cán bộ.
Cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là cách thức tổ chức, sắp xếp, bố
trí các thành phần trong đội ngũ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ được phân
công. Xác định cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hợp lý là phương pháp
bố trí, sắp xếp các thành phần trong đội ngũ sao cho ngày càng thật khoa học,
tạo ra một tỷ lệ cân đối, hợp lý hài hòa về số lượng và chất lượng; vừa chú
trọng đảm bảo ngày càng tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất
khoa học và cách mạng của Đảng, tăng cường lực lượng cán bộ trẻ, giàu tiềm
năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, lại vừa

luôn giữ vững thế ổn định, bền vững và liên tục phát triển của Đảng bộ, chính
quyền, Mặt trận tổ quốc và các ban, nghành, đoàn thể.
Như vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay được hiểu
là một chỉnh thể các yếu tố, được cố kết, tạo thành từ sựu tác động biện
chứng, tổng hợp và toàn diện của cả hệ thống gồm nhiều mặt, nhiều mối liên


16

hệ phong phú, trong đó chủ yếu xoay quanh ba yếu tố chính là: Chất lượng
cán bộ, số lượng cán bộ và cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, mà yếu tố
quan trọng hàng đầu là chất lượng cán bộ. Cũng cần chú ý rằng, đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã chỉ có thể có chất lượng và phát huy sức mạnh thực sự khi
nó được tồn tại trong một điều kiện tổ chức nhất định. Nếu không như vậy, rất
có thể chẳng những trong thực tế cả đội ngũ sẽ không mạnh lên mà thậm chí
còn yếu đi ngay trong trường hợp từng yếu tố chính cấu thành chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã căn bản đã thỏa mãn các yêu cầu cần thiết. Ngoài
ra còn phải hết sức lưu ý những dấu hiệu chủ yếu đáng tin cậy trong việc xác
định mức độ lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã, đó là: Mức độ dân chủ thực sự cả trong nội bộ mỗi tổ chức và
ngoài quần chúng; mức độ lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các
nhiệm vụ chính trị của các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể giao, mức độ chấp hành kỷ luật của Đảng, pháp luật của nhà nước và
mức độ tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, hội viên và quần chúng nhân dân đối
với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Từ những phân tích trên ta có thể hiểu: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã là sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực của từng thành viên
với số lượng và cơ cấu các thành viên trong tổ chức cấp xã một cách hợp lý
nhằm phát huy cao nhất kết quả lãnh đạo, chỉ đạo, hoàn thành các nhiệm vụ
chính trị ở tổ chức đó trong từng thời kỳ cụ thể.

Vậy, một đội ngũ cán bộ có chất lượng cao là đội ngũ có đủ bản lĩnh,
phẩm chất và năng lực nắm bắt được những yêu cầu của thời đại, có đủ tài
năng, đạo đức và ý chý để thiết kế và tổ chức thực hiện những kế hoạch của
tiến trình CNH, HĐH đất nước, xây dựng nông thôn mới trên mọi lĩnh vực,
bảo đảm thực hiện có hiệu quả mục tiêu của cách mạng đề ra.
Cán bộ luôn gắn với tổ chức. Muốn có cán bộ tốt thì phải có tổ chức
vững mạnh. Điều đó đúng với toàn Đảng, từng tổ chức Đảng, cho đến từng


17

chi bộ và các tổ chức đoàn thể cũng như cơ quan nhà nước. Cho nên, khi xem
xét chất lượng cán bộ ở một tổ chức cơ quan nào đó phải căn cứ vào chất
lượng của tổ chức đó. Chất lượng cán bộ phản ánh toàn bộ chất lượng cao hay
thấp, tốt hay kém của công tác cán bộ. Nếu tất cả các khâu của công tác cán
bộ đều làm tốt thì sẽ có đội ngũ cán bộ chất lượng tốt. Chỉ cần một trong
những khâu đó bị xem nhẹ, làm không đến nơi, đến chốn, sẽ khiến cho chất
lượng đội ngũ cán bộ yếu kém.
Mỗi chức danh, mỗi cương vị và mỗi loại cán bộ khác nhau lại có yêu
cầu chất lượng ở mức độ khác nhau. Từ đó hình thành nên tiêu chuẩn của
từng loại cán bộ cụ thể.
1.1.2. Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
1.1.2.1. Tiêu chuẩn cán bộ
Tiêu chuẩn cán bộ là căn cứ để lựa chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, đánh giá sửu dụng cán bộ. Có tiêu chuẩn cán bộ đúng mới có cơ sở để
rà soát, đánh giá khách quan đội ngũ cán bộ hiện có, sắp xếp cán bộ phù hợp
cũng như loại bỏ những cán bộ cơ hội, thoái hóa biến chất. Mặt khác, căn cứ
vào tiêu chuẩn chung đã quy định, để từng cán bộ tự nỗ lực phấn đấu hoàn
thiện bản thân mình.
Đảng ta đã xác định tiêu chuẩn cán bộ là một yêu cầu khách quan, có

tính lịch sử, cụ thể phản ánh những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách
mạng do Đảng lãnh đạo. Tiêu chuẩn cán bộ không ngừng vận động và phát
triển phù hợp với sự vận động và phát triển của sự nghiệp cách mạng. Tuy
nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, tiêu chuẩn cán bộ có tính ổn định
tương đối làm căn cứ để xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn đó. Từ nhận thức chung như
vậy, tiêu chuẩn cán bộ được hiểu “Là những tiêu chí thể hiện yêu cầu về
phẩm chất và năng lực của cán bộ để hoàn thành nhiệm vụ, phải luôn được
bổ sung, cụ thể hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cách mạng”.


18

Như vậy, khi nói đến tiêu chuẩn cán bộ là nói về những quy định người
cán bộ phải có về phẩm chất và năng lực tương ứng với chức trách, nhiệm vụ
họ phải đảm nhiệm trong giai đoạn cách mạng nhất định. Những quy định đó
không nhất thành bất biến mà được bổ sung phát triển, thậm chí thay đổi khi
hoàn cảnh, nhiệm vụ đó hoàn toàn thay đổi.
1.1.2.2. Tiêu chuẩn về phẩm chất cán bộ chủ chốt cấp xã
Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước nêu rõ tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới. Những tiêu chuẩn chung
đó là: có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; cần, kiệm, liêm chính,
chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng;
có ý thức tổ chức kỷ luật; trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân
dân được nhân dân tín nhiệm; có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước; có trình độ
văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Trên cơ sở xác định tiêu chuẩn chung đó.
Đảng ta xác định tiêu chuẩn đối với cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn
thể nhân dân (cán bộ chủ chốt) cần phải:
Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công
nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Có năng lực dự báo và định hướng
sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính
sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức
và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước. Gương mẫu về đạo đức, lối sống. Có


19

tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn
kết cán bộ. Có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý; đã học tập
có hệ thống ở các trường của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân;
trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả.[17, tr.79-80].
Đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã, mặc dù là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo thấp nhất trong tổ chức hệ thống chính trị, đội ngũ này cũng là những cán
bộ lãnh đạo chính trị, vì vậy cũng phải đạt những tiêu chuẩn cơ bản trên. Tuy
nhiên, do mức độ yêu cầu cụ thể có tính lịch sử ở cấp xã, một số mặt về trình
độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, năng lực dự báo, định hướng phát
triển.... Có thể còn ở mức thấp hơn. Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị Trung
ương5 (Khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cấp
xã, phường, thị trấn; Nghị định 114/2013/NĐ-CP ngày 10 -10 - 2003 của
Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Quyết định 04/04/QĐBNV ngày 16-01-2004 của Bộ trưởng Bộ nội vụ về tiêu chuẩn đối với cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn và theo chúng tôi, nói đến phẩm chất, năng lực
đối với đội ngũ này cần nhấn mạnh những đặc thù sau:
Một là, do trực tiếp với quần chúng nhân dân, là người đại diện cho

Đảng, Nhà nước và các nghành, các lĩnh vực ở địa phương, mỗi cán bộ phải
thể hiện đúng vai trò của mình, phải biết giữ uy tín của Đảng, Nhà nước trước
dân; đồng thời cũng để giữ vững lòng tin của dân đối với Đảng, Nhà nước. Do
đó phẩm chất chính trị - tư tưởng phải được coi trọng.
Hai là, ở môi trường chủ yếu là các cùng nông thôn quan hệ xã hội
mang tính cổ truyền là thân tộc, cán bộ hầu hết xuất thân từ nông dân. Để giữ
đúng vai trò, vị trí của mình, mỗi cán bộ phải rèn luyện để có bản lĩnh chính
trị vững vàng; vì lợi ích của tập thể, đặt lợi ích của tập thể lên trên hết, gạt bỏ
lợi ích cá nhân.


20

Ba là, ở môi trường thực hiện sự lãnh đạo chính trị, lại đồng thời quản
lý các cơ sở vật chất, giám sát và thực hiện các chế độ chính sách do đó dễ tạo
cho cán bộ chủ chốt mắc những sai phạm, rơi vào các hiện tượng tiêu cực như
tham ô, nhận hối lộ, tham nhũng ....Vì vậy, để tránh được những sai lầm đó
đòi hỏi mỗi cán bộ phải rèn luyện để có đạo đức cách mạng chân chính.
Yêu cầu hiện nay đối với cán bộ chủ chốt cấp xã cần có những phẩm
chất, năng lực sau đây:
* Về phẩm chất chính trị - tư tưởng: có bản lĩnh chính trị vững vàng,
tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, tin tưởng tuyệt đối và
chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước, quyết tâm thực hiện đường lối, chính sách đó trong thực tiễn, phù hợp
với tình hình địa phương, cơ sở. Có lòng nhiệt thành cách mạng, thực sự tâm
huyết với cơ sở, có tinh thần trách nhiệm đối với địa phương, ngành mình,
lĩnh vực mình phụ trách; có nhận thức tư tưởng đúng đắn, lành mạnh, giữ tính
đảng, biết quan tâm đến cộng đồng, đồng chí, đồng nghiệp; dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm; vận dụng sáng tạo chủ trương, chính sách của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Đặc biệt, cán bộ chủ chốt cấp xã có

ý chý chiến đấu cao, can đảm và có khả năng đấu tranh với cái sai, bảo vệ cái
đúng, không xuê xoa, né tránh, buông xuôi sự lãnh đạo, chỉ đạo; kiên quyết
đấu tranh chống tư tưởng không lành mạnh.
* Phẩm chất đạo đức - lối sống: Phẩm chất hàng đầu của cán bộ chủ
chốt cấp xã hiện nay là phải hết lòng vì dân, sát dân, hiểu dân, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, không cửa quyền sách nhiễu dân dựa
vào dân để hành động, phải trung thực, thẳng thắn, cần kiệm, liêm chính, chí
công vô tư; làm gương cho cán bộ, đảng viên và cho nhân dân về đạo đức, lối
sống, không lợi dụng chức quyền để thu vén cá nhân, làm giàu bất chính,
không dung túng cho vợ con, gia đình, người thân làm giầu phi pháp; gương


21

mẫu thực hiện pháp luật và chính sách; không quan liêu, tham nhũng; kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng và các việc làm sai trái, tệ nạn xã hội;
không cục bộ, bè phái, địa phương, họ tộc chủ nghĩa; khiêm tốn, giản dị, tế
nhị trong ứng xử, biết làm chủ bản thân trong mọi tình huống. Cán bộ chủ
chốt cấp xã cần phải nói đi đôi với làm, nói hay làm giỏi; không sợ khó khăn,
gian khổ, tâm huyết công việc. Đặc biệt phải có tinh thần trách nhiệm cao
trước Đảng, trước dân, biết lắng nghe ý kiến của cán bộ dưới quyền, của đảng
viên, của hội viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở, kể cả những ý kiến trái
ngược với ý kiến của mình. Đối với đồng chí, đồng nghiệp phải thẳng thắng
góp ý làm rõ đúng sai; trong công việc phải thẳng thắn, trung thực, biết hy
sinh vì lợi ích chung. Trong điều hành chỉ đạo công việc phải công tâm, công
khai, rõ ràng, không thiên vị; có ý thức cầu thị, luôn “mở mình”cho tổ chức
và nhân dân kiểm tra, giám sát.
1.1.2.3. Tiêu chuẩn về năng lực cán bộ chủ chốt cấp xã
Người cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ chủ chốt nói riêng dù ở cấp
nào cũng phải có năng lực nhất định. Trong đó, năng lực trí tuệ và năng lực tổ

chức thực tiễn là hai nhân tố quan trọng nhất. Hai yếu tố này có quan hệ chặt
chẽ với nhau, không tách rời nhau. Không có năng lực trí tuệ thì không có khả
năng khái quát, sáng tạo, và vận dụng đúng đắn, linh hoạt các quy luật khách
quan. Ngược lại, không có năng lực thực tiễn thì sa vào bệnh giáo điều, chủ
quan, duy ý chí, quan liêu, mệnh lệnh xa rời thực tiễn, thoát lý cuộc sống đầy
sôi động đang cuộn chảy.
Cấp xã là cấp trực tiếp triển khai, tổ chức, vận động nhân dân thực thi
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đòi hỏi
đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị phải có năng lực toàn diện nhất
định trên nhiều lĩnh vực mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.


22

Ngoài ra, cán bộ chủ chốt cấp xã còn phải có năng lực sáng tạo, tính quyết
đoán và khả năng làm việc với con người.
Về năng lực trí tuệ: Cán bộ chủ chốt cấp xã phải là người có trình độ
hiểu biết tương đối toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...ở địa
phương; nhạy bén trong việc tiếp thu cái mới, cái hay, cái tiến bộ; nắm vững
quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước thuộc trách nhiệm được giao; có hiểu biết sâu rộng về điều kiện tự
nhiên, xã hội, phong tục, tập quán của địa bàn phụ trách; biết vận dụng lý
luận, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn
địa phương, cơ quan, đoàn thể mình; có khả năng vận dụng kiến thức, hiểu
biết để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra ở cơ sở.
Ngoài các yếu tố nêu trên, cán bộ chủ chốt cấp xã còn phải có sức khỏe
tốt, có khả năng làm việc bền bỉ, dẻo dai, kiên trì, có sức tập trung cao khi
nhiệm vụ yêu cầu; có khả năng chịu đựng được sức ép của công việc; sẵn sàn
đáp ứng nhiệm vụ khi có tình huống nảy sinh; có phẩm chất tâm lý, tinh thần
lành mạnh; có khả năng truyền cảm sự nhiệt tình, nghị lực của mình tới cộng

sự và nhân dân trên địa bàn.
Về năng lực lãnh đạo, quản lý:
- Năng lực hoạt động thực tiễn: khả năng thu nhận và xử lý thông tin
liên quan đến các mặt của đời sống xã hội ở cơ sở một cách nhanh chóng, kịp
thời và có hiệu quả; có khả năng đưa ra những quyết định có tính chất tình
huống cụ thể, chính xác và có tính khả thi; biết tổ chức thực hiện quyết định ,
tổ chức bộ máy, bố trí và phối hợp các lực lượng ở cơ sở; có khả năng đoàn
kết, quy tụ cán bộ, đảng viên xung quanh mình; có khả năng tập hợp và phát
huy sức mạnh của quần chúng; biết phát huy và khơi dậy sức mạnh cộng đồng
để thực hiện các phong trào ở cơ sở. Khả năng làm kinh tế và hiểu biết pháp
luật; lăn lộn trong phong trào thực tiễn ở cơ sở, xây dựng được mối quan hệ


23

mật thiết với dân, hiểu dân, tôn trọng dân, học tập dân và luôn xuất phát từ lợi
ích của dân để hành động. Có như thế “dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận
cán bộ đó là người lãnh đạo của họ”[44, tr.275]. Biết hình thành quy chế, biết
áp đặt và thực thi quy chế, biết cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng,
Nhà nước thành những quyết định phù hợp với điều kiện cụ thể của cơ sở đối
với ngành, lĩnh vực mình phụ trách; biết dựa vào dân để lựa chọn cán bộ và
quyết định các chủ trương, nhiệm vụ công tác lớn. Biết tổ chức công tác kiểm
tra, giám sát thực hiện các quyết định để duy trì, điều chỉnh tiến độ thực hiện
quyết định, phát hiện kịp thời những vấn đề mới nảy sinh để giải quyết; biết
tìm ra những sai sót, lệch lạc để sửa chữa, hoàn chỉnh quyết định, bảo đảm
quyết định được thực thi chính xác, hiệu quả.
- Năng lực sáng tạo, tính quyết đoán: Cán bộ chủ chốt cấp xã phải biết
phán đoán chính xác tình hình, đưa ra được quyết định chỉ đạo kịp thời, chính
xác trong những tình huống bất ngờ mà không có thời gian để phân tích dữ
kiện hoặc chưa có đủ dữ kiện cần thiết để phân tích; biết đưa ra quyết định

một cách dứt khoát và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; có khả năng
ngăn ngừa và giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong tập thể; biết xử lý điểm
nóng diễn ra trên địa bàn.
Thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở cơ sở cho thấy, có nhiều tình huống nảy
sinh đòi hỏi cán bộ chủ chốt cấp xã phải chủ động, sáng tạo trong giải quyết
công việc. Có những tình huống nảy sinh từ vấn đề lẫn chiếm, tranh chấp đất
đai, tài chính: thiếu kinh phí để hoạt động, kinh phí bị thất thoát, sử dụng sai
mục đích....tình huống nảy sinh khi ra những quyết định có những điểm trái
với văn bản của cấp trên; tình huống nảy sinh do thiên tai, địch họa, do va
chạm xóm giềng, dòng tộc...Do vậy, cán bộ chủ chốt phải nắm vững và biết
vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước


24

vào thực tiễn địa phương, cơ sở; phải am hiểu thực tế ở địa phương để giải
quyết đúng đắn, kịp thời các tình huống nảy sinh ở cơ sở.
- Năng lực làm việc với con người: Có khả năng tiếp xúc với các loại
đối tượng với nhiều tư cách khác nhau; có khả năng tác động vào con người
bằng tình cảm, ý chý, nhân cách của bản thân; biết thiết lập các mối quan hệ,
biết động viên, khuyến khích, tập hợp nhiều người tham gia vào công việc
chung. Biết đặt mình vào vị trí của người khác, biết khêu gợi tính tích cực của
đồng sự, của cấp dưới và của nhân dân; có thái độ điềm tĩnh, cư xử nhã nhặn,
lịch sự, tế nhị, khiêm tốn với dân, hiểu rõ tâm tư, tình cảm của họ, biết nghe
dân nói, biết nói cho dân nghe, biết khuyến khích cái hay, cái tốt của người
khác, biết tôn trọng, phát huy sáng kiến của dân. Khi tiếp dân phải khiêm tốn,
chu đáo, tận tụy và chân thành; giải quyết công việc dứt điểm, có lý, có tình,
không để dân đi lại nhiều lần hoặc gây khó dễ cho dân; khi sinh hoạt cùng dân
phải bình dị không xa cách, hòa đồng với dân trong ăn mặc, giao tiếp, ứng xử,
đi lại; tôn trọng, lắng nghe ý kiến phản ánh của dân thường xuyên rèn luyện

nâng cao năng lực để xứng đáng là người đại diện tin cậy của dân.
Tóm lại, cán bộ chủ chốt cấp xã phải có bản lĩnh chính trị vững vàng,
kiên định lập trường cách mạng, giữ vững nguyên tắc và có sự khôn khéo,
linh hoạt; vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, lối sống, biết tập
hợp, đoàn kết và thu hút được trí tuệ tập thể; phát huy dân chủ nội bộ, tôn
trọng tập thể, tuyệt đối không được độc đoán cá nhân, biết thuyết phục và
dám đấu tranh; biết lắng nghe và dám quyết đoán, biết trọng dân, gần dân, sát
dân, học dân, tôn trọng ý kiến của nhân dân.
1.1.2.4. Về cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có thể được xem là hợp lý khi
bố trí đội ngũ này đảm bảo được yêu cầu về chất lượng, số lượng hợp lý của
từng xã, thị trấn, trong đó chú trọng yêu cầu về trình độ năng lực chuyên môn,


25

nghiệp vụ, sở trường; giới tính, tuổi đời, tuổi Đảng, về chức vụ, thâm niên
công tác, dân tộc, tôn giáo....Chẳng hạn, ở xã có nhiều người dân tộc sinh
sống, khi bố trí cán bộ giữ cương vị chủ chốt ở xã ngoài tiêu chuần chung cần
chú ý đến các yếu tố đặc thù như: có lối sống giản dị, gần gũi quần chúng lao
động nông dân, biết tiếng nói, chữ viết, am hiểu văn hóa dân tộc đó, có kinh
nghiệm thực tế trong việc ứng dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công
nghệ vào đồng ruộng, tiểu thủ công nghiệp ở địa phương sẽ có kết quả tốt hơn
trong công tác lãnh đạo và quản lý ở cơ sở. Đối với những xã có người dân là
đồng bào công giáo cần bố trí những cán bộ chủ chốt xã có đặc điểm nổi trội
như bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm thật vững về quan điểm, chủ trương,
chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, am hiểu sâu sắc về những
đặc điểm của Công giáo.
Tóm lại, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nhất thiết
phải dựa chủ yếu vào sự tác động biện chứng giữa ba yếu tố đã nêu trên, đồng

thời nó được thể hiện rõ nét nhất qua việc hoàn thành nhiệm vụ trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, qua chất lượng
xây dựng, củng cố, kiện toàn các Đảng bộ, chính quyền Mặt trận tổ quốc, các
đoàn thể ở các xã, thị trấn đó, qua sự đoàn kết, thống nhất, dân chủ, kỷ luật,
kỷ cương và uy tín đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đối với nhân dân.
1.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về cán bộ và vai trò của cán bộ.
1.2.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin
Trong bất kỳ thời kỳ nào, giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng, cán
bộ và công tác cán bộ cũng đều giữ vững vị trí đăck biệt quan trọng, cán bộ là
một trong những nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng, quyết định việc nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đó là
khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động của Đảng, Chính vì vậy, các nhà kinh


×