Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

BÀN về NĂNG lực PHÁP LUẬT NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.42 KB, 10 trang )

Bàn về năng lực pháp luật của ngân hàng
thương mại
TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN – ĐH LUẬT HÀ NỘI
1. Quan niệm về năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại
Năng lực pháp luật của một chủ thể pháp luật nói chung, được hiểu là khả
năng hành động trong đời sống pháp luật. Khả năng này của chủ thể pháp luật bao
gồm hai thành tố cơ bản: năng lực hưởng quyền và năng lực thực hiện các quyền
đó bằng hành vi của mình (năng lực hành vi) (1). Đối với các thể nhân – với tư
cách là chủ thể tự nhiên của pháp luật, trong pháp luật dân sự có sự phân biệt rất rõ
ràng giữa năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Còn đối với các
pháp nhân – với tư cách là chủ thể nhân tạo của pháp luật thì vấn đề cấu trúc năng
lực pháp luật của pháp nhân có sự khác biệt nhất định. Sự khác biệt này thể hiện ở
chỗ, do pháp nhân không phải là con người tự nhiên, không có đời sống tâm lý và
sinh lý, không có nhận thức và tất nhiên cũng không có những hoạt động ý thức
giống như con người nên trong khoa học pháp lý, người ta sử dụng khái niệm
“năng lực pháp luật của pháp nhân” với dụng ý chỉ khả năng hưởng quyền của
pháp nhân cũng như khả năng thực hiện các quyền đó thông qua những người đại
diện hợp pháp của pháp nhân. Việc pháp nhân luôn luôn và chỉ có thể thực hiện các
quyền của mình thông qua những người đại diện hợp pháp, chính là một trong
những đặc trưng quan trọng để phân biệt năng lực pháp luật của pháp nhân với
năng lực pháp luật của thể nhân trong đời sống pháp luật. Về thực chất, do ngân
hàng thương mại cũng là một pháp nhân nên đặc trưng này hiển nhiên cũng đúng
với ngân hàng thương mại.
Giống như mọi pháp nhân, năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại
luôn phụ thuộc trước hết vào mục đích và phạm vi chức năng hoạt động của nó,
bởi vì, theo quy định của pháp luật thì năng lực pháp luật của pháp nhân là khả
năng để chủ thể này có các quyền và nghĩa vụ pháp lý phù hợp với mục đích và
phạm vi hoạt động của mình (2). Điều này có nghĩa là, nếu mục đích hoạt động của


ngân hàng thương mại là đa dạng và phạm vi chức năng hoạt động của ngân hàng


thương mại là rộng lớn thì về nguyên tắc, ngân hàng thương mại phải có được
nhiều quyền năng hơn (phạm vi năng lực pháp luật rộng hơn) để đủ sức thực hiện
được các chức năng và mục đích đó của mình. Ngược lại, nếu một ngân hàng
thương mại có mục đích và phạm vi hoạt động nhỏ hẹp thì phạm vi các quyền năng
pháp lý mà nó được hưởng cũng sẽ bị hạn chế tương ứng. Sự ảnh hưởng này, đặc
biệt rõ ràng trong trường hợp ngân hàng thương mại thay đổi mục đích hoạt động
hoặc thay đổi chức năng hoạt động. Sự thay đổi này, tất yếu sẽ làm cho phạm vi
năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại bị thay đổi theo. Thậm chí, trong
trường hợp có bằng chứng rõ ràng chứng minh mục đích hoạt động hay chức năng
hoạt động của ngân hàng thương mại là bất hợp pháp thì khi đó, ngân hàng thương
mại không thể được Nhà nước thừa nhận năng lực pháp luật. Một cách khái quát,
có thể kết luận rằng năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại luôn phụ thuộc
trước hết vào ý chí của các thành viên hợp thành pháp nhân ngân hàng thương mại,
bởi lẽ ý chí này thường được thể hiện tập trung nhất ở mục đích và phạm vi chức
năng hoạt động của ngân hàng thương mại như đã được ghi trong Điều lệ của ngân
hàng thương mại.
Ngoài yếu tố mục đích và phạm vi chức năng hoạt động, năng lực pháp luật
của ngân hàng thương mại còn phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Điều này thể
hiện ở chỗ, Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền thừa nhận hoặc không thừa
nhận khả năng hành động trong đời sống pháp luật (năng lực pháp luật) của một
chủ thể pháp luật. Đồng thời, Nhà nước cũng là chủ thể duy nhất có quyền mở rộng
hoặc thu hẹp nội dung năng lực pháp luật của chủ thể pháp luật đó trong những
hoàn cảnh lịch sử nhất định vì lợi ích chung và trật tự công cộng.
Trên các diễn đàn khoa học pháp lý, tuy giới học giả ít quan tâm đến tính
đặc thù trong cơ chế hình thành, thay đổi và chấm dứt năng lực pháp luật của ngân
hàng thương mại nhưng sự thật thì việc nghiên cứu vấn đề này cũng có ít nhiều tác
dụng, nhất là đối với việc xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật vào các hoạt
động kinh doanh ngân hàng trong thực tiễn.



Năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại thường được gắn liền với khái
niệm tư cách pháp nhân của ngân hàng thương mại. Do hoạt động nghề nghiệp
kinh doanh của ngân hàng thương mại có nhiều nét đặc thù so với hoạt động nghề
nghiệp kinh doanh của các chủ thể khác (chẳng hạn như tính rủi ro cao, tính nhạy
cảm và tính ảnh hưởng dây chuyền đối với quyền lợi của nhiều chủ thể khác nhau
trong xã hội…) nên ngoài các quy định chung của pháp luật về vấn đề năng lực
pháp luật của pháp nhân, pháp luật ngân hàng của nước ta và pháp luật ngân hàng
của nhiều nước còn có những quy định riêng mang tính chuyên biệt, thể hiện rõ nét
tính đặc thù trong cơ chế hình thành, thay đổi và chấm dứt năng lực pháp luật của
pháp nhân ngân hàng thương mại.
Trong cơ chế hình thành năng lực pháp luật của pháp nhân ngân hàng
thương mại, điểm khác biệt đáng kể nhất chính là việc áp dụng những thủ tục pháp
lý riêng biệt trong quá trình thành lập các ngân hàng thương mại và những tổ chức
khác có hoạt động ngân hàng. Trong số các thủ tục này, quan trọng nhất là thủ tục
cấp giấy phép thành lập – hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành việc cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Việc quy định thủ tục cấp giấy phép thành lập và
hoạt động ngân hàng được lý giải là nhằm mục đích giúp Nhà nước chọn lọc được
những ngân hàng thương mại có đủ tiêu chuẩn hành nghề một cách an toàn và hiệu
quả trên thương trường. Còn việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lại
nhằm mục đích công nhận tư cách pháp nhân cho ngân hàng thương mại. Hai thủ
tục này, có tác dụng bổ sung và hỗ trợ cho nhau nhằm giúp Nhà nước kiểm soát tốt
hơn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng và thông qua đó, góp phần đảm bảo
sự an toàn pháp lý trong giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại. Ngoài
quy định về thủ tục cấp giấy phép thành lập – hoạt động ngân hàng và thủ tục đăng
ký kinh doanh, pháp luật còn đòi hỏi ngân hàng thương mại phải thực hiện một số
nghĩa vụ pháp lý khác nữa, chẳng hạn như nghĩa vụ mở tài khoản giao dịch tại
Ngân hàng Trung ương, trước khi bắt đầu hoạt động giao dịch với khách hàng. Tất
cả những quy định chuyên biệt này, đều nhằm mục đích chung là đảm bảo sự an
toàn và hiệu quả cho các giao dịch của ngân hàng thương mại khi chúng được xác
lập và thực hiện.



Thực tiễn cho thấy, do đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng
như nhu cầu đảm bảo sự an toàn trong kinh doanh ngân hàng mà đôi khi Nhà nước
phải thay đổi nội dung năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại. Đây chính là
một trong những điểm đặc thù trong cơ chế thay đổi năng lực pháp luật của ngân
hàng thương mại. Sự điều chỉnh nội dung năng lực pháp luật của ngân hàng thương
mại thường được đặt ra khi có những biến động bất lợi trong quá trình hoạt động
của hệ thống ngân hàng và thường liên quan đến các vấn đề rất cụ thể như sự thay
đổi nội dung quyền hoạt động kinh doanh ngân hàng hoặc thay đổi mức vốn pháp
định; thay đổi về giới hạn huy động vốn và cho vay; điều chỉnh mức dự trữ bắt
buộc đối với ngân hàng thương mại… Nhìn chung, những thay đổi về nội dung
năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại thường được khởi nguồn từ phía Nhà
nước nhằm mục đích bảo vệ cho lợi ích chung của nền kinh tế, cũng như lợi ích
riêng của chính ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có nhiều
trường hợp sự thay đổi các yếu tố cấu thành năng lực pháp luật lại bắt nguồn từ ý
chí của ngân hàng thương mại chứ không phải chỉ từ phía Nhà nước. Chẳng hạn,
khi ngân hàng thương mại xin thay đổi tên gọi, trụ sở giao dịch hay thay đổi quốc
tịch của mình thì sự kiện đó, sẽ dẫn đến việc thay đổi nội dung năng lực pháp luật
của pháp nhân ngân hàng thương mại. Theo quy định hiện hành, sự thay đổi về tên
gọi và trụ sở giao dịch sẽ chỉ có giá trị pháp lý sau khi đã được Ngân hàng Nhà
nước chấp thuận bằng văn bản (3).
So với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, sự chấm dứt năng
lực chủ thể (được hiểu đồng nghĩa với việc chấm dứt hoạt động) của mỗi ngân
hàng thương mại thường có những ảnh hưởng trực tiếp đối với đời sống kinh tế –
xã hội. Do vậy, pháp luật cần có một số quy định đặc biệt để áp dụng riêng cho
việc chấm dứt năng lực chủ thể của ngân hàng thương mại nhằm tránh các hậu quả
bất lợi có thể xảy ra cho nền kinh tế do sự kiện này gây ra. Điều này, thể hiện tính
đặc thù trong cơ chế chấm dứt năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại. Nét
đặc trưng trong cơ chế chấm dứt năng lực chủ thể của ngân hàng thương mại so

với các loại hình doanh nghiệp khác thể hiện ở chỗ, trong hầu hết các trường hợp
chấm dứt hoạt động của ngân hàng thương mại (chia, tách, hợp nhất, sáp nhập,


mua lại, giải thể ngân hàng hàng thương mại), pháp luật quy định phải có ý kiến
chấp thuận bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước (4). Riêng đối với trường hợp
chấm dứt hoạt động của ngân hàng thương mại bằng thủ tục phá sản thì trước khi
tiến hành thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản tại Toà án, nhất thiết phải có
văn bản của Ngân hàng Nhà nước về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng
các biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với ngân hàng thương mại (5). Đây là một
trong những điều kiện để Toà án thụ lý hồ sơ vụ phá sản ngân hàng thương mại.
2. Đại diện hợp pháp của ngân hàng thương mại và các tiêu chí xác định
người đại diện hợp pháp của ngân hàng thương mại
Trên nguyên tắc, vì pháp nhân ngân hàng thương mại không phải là một chủ
thể tự nhiên của pháp luật nên chủ thể này, chỉ có thể thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình thông qua những thể nhân có tư cách là đại diện của pháp nhân. Xuất
phát từ nguyên tắc tự định đoạt, việc lựa chọn các thể nhân là đại diện hợp pháp
cho pháp nhân ngân hàng thương mại, trước hết phải thuộc quyền của các thành
viên pháp nhân và sự lựa chọn này sẽ được thể hiện trong bản Điều lệ của pháp
nhân ngân hàng thương mại. Vai trò chủ yếu của Nhà nước ở đây là thừa nhận hay
không thừa nhận giá trị pháp lý của sự lựa chọn đó bằng thủ tục phê chuẩn Điều lệ
và quy định các nguyên tắc xác định người đại diện hợp pháp cho ngân hàng
thương mại.
Theo quy định hiện hành, đại diện hợp pháp của pháp nhân nói chung và
pháp nhân ngân hàng thương mại nói riêng bao gồm hai hình thức: đại diện theo
pháp luật và đại diện theo ủy quyền (6). Đại diện theo pháp luật của ngân hàng
thương mại là người được chỉ định trong Điều lệ ngân hàng thương mại hoặc trong
quyết định thành lập ngân hàng thương mại. Còn đại diện theo ủy quyền của ngân
hàng thương mại là tất cả những cá nhân được người đại diện theo pháp luật của
ngân hàng thương mại ủy quyền hợp lệ. Về nguyên tắc, đại diện theo pháp luật của

ngân hàng thương mại chỉ có một người duy nhất – đó là cá nhân được Điều lệ
hoặc pháp luật chỉ định là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, trong khi
người đại diện theo ủy quyền thì rất nhiều, có thể là bất kỳ ai được người đại diện
theo pháp luật ủy quyền hợp lệ. Thông thường, người đại diện theo ủy quyền của


ngân hàng thương mại chính là những cá nhân đang làm việc trong ngân hàng
thương mại (bao gồm người có chức vụ quản lý trong ngân hàng và các nhân viên
ngân hàng). Tuy nhiên, trong một số trường hợp, ngân hàng thương mại có thể ủy
quyền cho người không phải là cán bộ quản lý ngân hàng hoặc nhân viên của ngân
hàng tham gia vào một số quan hệ pháp luật nhất định, chẳng hạn như ủy quyền
cho luật sư tham gia tranh tụng tại Tòa án hoặc Trọng tài với tư cách là người đại
diện hợp pháp để bảo vệ quyền lợi của ngân hàng trong các vụ án dân sự, lao động,
thương mại.
Trong thực tiễn giao dịch của ngân hàng, việc xác định ai là người đại diện
hợp pháp cho ngân hàng thương mại luôn là vấn đề phức tạp và thường gây nhiều
tranh luận. Theo ý kiến chúng tôi, có thể xác định người đại diện hợp pháp của
ngân hàng thương mại dựa vào các tiêu chí cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xác định xem người đại diện đó được chỉ định bằng phương thức
và bằng chứng nào: Pháp luật? Điều lệ của pháp nhân hay một văn bản uỷ quyền
hợp lệ khác? Đây là tiêu chí về mặt hình thức để xác định tư cách đại diện cho
pháp nhân ngân hàng thương mại của một thể nhân nào đó. Nếu không có bằng
chứng cụ thể về sự đại diện thì không thể xác định được một thể nhân nào đó có tư
cách là đại diện hợp pháp cho pháp nhân ngân hàng thương mại hay không. Thực
tiễn cho thấy, việc xác định các bằng chứng về sự đại diện luôn là một vấn đề rắc
rối và đôi khi gặp phải những khó khăn không thể giải quyết được do pháp luật
chưa quy định rõ ràng, đầy đủ về các hình thức văn bản uỷ quyền được coi là hợp
lệ. Thiết nghĩ, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên giao dịch cũng như đảm
bảo nguyên tắc tự định đoạt và tự do ý chí trong quá trình giao dịch, pháp luật cần
chấp nhận một nguyên tắc tập quán trong giao dịch thương mại là pháp nhân ngân

hàng thương mại có thể bày tỏ ý chí đích thực của mình trong việc lựa chọn người
đại diện bằng bất kỳ hình thức nào có thể chứng minh được. Với nguyên tắc này,
có thể chấp nhận các văn bản sau đây như là bằng chứng hợp lệ về việc uỷ quyền
đại diện:
1. Điều lệ của pháp nhân ngân hàng thương mại đã được chuẩn y;


2. Quyết định bổ nhiệm Phó Tổng Giám đốc; Giám đốc, Phó Giám đốc chi
nhánh; Trưởng, phó phòng nghiệp vụ;
3. Giấy uỷ quyền hoặc hợp đồng uỷ quyền cử đại diện cho pháp nhân ngân
hàng thương mại trong giao dịch với người thứ ba;
4. Văn bản phân công nhiệm vụ cho cá nhân là cán bộ quản lý, nhân viên
của ngân hàng thương mại;
5. Các văn bản khác thể hiện ý chí đích thực của pháp nhân ngân hàng
thương mại trong việc lựa chọn người đại diện cho mình.
Với các bằng chứng này, người đóng vai trò đại diện hợp pháp cho pháp
nhân ngân hàng thương mại trong giao dịch với khách hàng có thể là bất kỳ thể
nhân nào có năng lực pháp luật và năng lực hành vi để thực hiện các công việc
giao dịch nhân danh pháp nhân ngân hàng thương mại. Điều này, đồng nghĩa với
việc thừa nhận rằng người có khả năng tiếp nhận tư cách làm đại diện hợp pháp
cho pháp nhân ngân hàng thương mại không chỉ là Chủ tịch Hội đồng quản trị,
Tổng Giám đốc hay Giám đốc chi nhánh mà còn có thể là chính các nhân viên
ngân hàng đang thực hiện các công việc được giao bởi ngân hàng thương mại.
Đương nhiên, về khía cạnh địa vị pháp lý, do các nhân viên ngân hàng vốn không
phải là những người giữ chức vụ quản lý hay điều hành ngân hàng nên họ sẽ chỉ
được coi là người đại diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại trong một số khâu
của quá trình giao dịch, chẳng hạn như tiếp nhận hồ sơ vay vốn, thẩm định hồ sơ
và lập báo cáo thẩm định, xây dựng và gửi văn bản giao dịch cho khách hàng, tư
vấn hay trả lời cho khách hàng về các vấn đề liên quan đến nội dung công việc
giao dịch, chứ không có quyền trực tiếp ký kết các hợp đồng để tạo ra quyền, nghĩa

vụ pháp lý cho ngân hàng thương mại trong quá trình giao dịch.
Để tránh các quan điểm tranh luận không cần thiết về việc xác định người
đại diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại khi giao dịch với khách hàng, có lẽ
pháp luật cần có những quy định theo hướng bắt buộc các ngân hàng thương mại
phải công khai hoá cho khách hàng biết về những người đại diện hợp pháp cho
mình cũng như phạm vi thẩm quyền đại diện của những người đó. Như thế, khách
hàng mặc nhiên sẽ bị coi như đã biết hoặc buộc phải biết về những người đại diện


hợp pháp của ngân hàng thương mại và do vậy, họ có thể tự quyết định về việc có
xác lập giao dịch hay không với ngân hàng thương mại.
Thứ hai, xác định xem người đại diện đó nhân danh ai khi tiến hành các giao
dịch với người thứ ba: Nhân danh pháp nhân ngân hàng thương mại hay nhân danh
chính họ? Đây là một trong số các tiêu chí quan trọng về nội dung để xác định tư
cách đại diện của một thể nhân cho pháp nhân ngân hàng thương mại. Sở dĩ như
vậy là bởi vì, về nguyên tắc người đại diện phải nhân danh người được đại diện để
hành xử vì quyền lợi hợp pháp của người được đại diện (7). Khi một thể nhân tiếp
nhận tư cách là đại diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại (có thể là đại diện
theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền) thì mặc nhiên họ phải hiểu rằng mình
có nghĩa vụ nhân danh ngân hàng thương mại để hành động. Vì thế, nếu có bằng
chứng chứng minh rằng người đại diện (ví dụ: Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc chi
nhánh của ngân hàng thương mại) đã không nhân danh pháp nhân ngân hàng
thương mại mà nhân danh chính mình khi thực hiện các công việc giao dịch thì
trong trường hợp đó, họ không phải là người đại diện cho pháp nhân ngân hàng
thương mại. Khi đó, pháp nhân ngân hàng thương mại hoàn toàn không bị ràng
buộc với giao dịch pháp lý do người này xác lập và thực hiện. Ngoài ra, việc xác
định người được uỷ quyền nhân danh ai khi xác lập và thực hiện giao dịch còn là
căn cứ để phân biệt sự khác nhau giữa trường hợp uỷ quyền đại diện của ngân hàng
thương mại cho các thể nhân (ví dụ: Tổng Giám đốc uỷ quyền cho Giám đốc chi
nhánh của ngân hàng thương mại) với trường hợp uỷ quyền không đại diện (ví dụ:

ngân hàng thương mại A ký hợp đồng đại lý với ngân hàng thương mại B trong
việc thực hiện dịch vụ thanh toán cho khách hàng mở tài khoản) (8).
Thứ ba, xác định xem người đại diện đó hành xử có phù hợp với phạm vi và
thẩm quyền đại diện hay không? Trên nguyên tắc, người đại diện phải hành động
phù hợp với phạm vi công việc được uỷ quyền đại diện (9). Mặc dù vậy, trong thực
tiễn giao dịch của ngân hàng thương mại, vẫn có thể xảy ra trường hợp người đại
diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại đã xác lập và thực hiện một giao dịch
thương mại vượt quá thẩm quyền đại diện hoặc hoàn toàn không có thẩm quyền
đại diện. Trong những trường hợp như vậy, nhà làm luật cho rằng pháp nhân ngân


hàng thương mại sẽ không bị ràng buộc về mặt pháp lý với giao dịch do người
được chỉ định làm đại diện cho mình xác lập; đồng thời, mọi hậu quả pháp lý xảy
ra cho các bên có liên quan đều do người xác lập giao dịch không có hoặc vượt quá
thẩm quyền đại diện chịu trách nhiệm trực tiếp đối với người thứ ba ngay tình. Tuy
nhiên, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, pháp luật và tập quán giao dịch đều chấp
nhận rằng nếu người được đại diện (ở đây ngụ ý chỉ pháp nhân ngân hàng thương
mại) đồng ý ràng buộc với giao dịch pháp lý do người đại diện xác lập vượt quá
phạm vi uỷ quyền (hoặc xác lập khi không có thẩm quyền đại diện) bằng cách hoàn
thành các thủ tục uỷ quyền cho hợp lệ thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực đối với
người được đại diện (pháp nhân ngân hàng thương mại). Giải pháp này, không
những có tác dụng củng cố nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên
trong quá trình giao dịch, mà còn góp phần hạn chế các thiệt hại về kinh tế không
cần thiết cho các bên giao dịch do việc Toà án tuyên bố giao dịch thương mại của
ngân hàng bị vô hiệu.
Thứ tư, xác định xem người đại diện đó có xác lập và thực hiện giao dịch vì
quyền lợi của pháp nhân ngân hàng thương mại không, hay vì quyền lợi chính họ?
Tiêu chí này tương đối khó xác định trong thực tiễn giao dịch pháp lý của ngân
hàng thương mại, bởi lẽ đôi khi quyền lợi của pháp nhân ngân hàng thương mại và
quyền lợi của cá nhân người đại diện cho nó không thể xác định ranh giới và tách

biệt rõ ràng. Hơn nữa, thực tiễn cho thấy có những giao dịch thương mại của ngân
hàng được người đại diện ngân hàng xác lập và thực hiện vì mục đích tư lợi nhưng
do quyền lợi cơ bản của ngân hàng vẫn được đảm bảo nên cơ quan quản trị ngân
hàng hoặc tập thể thành viên sở hữu ngân hàng vẫn chấp thuận ràng buộc giao dịch
đó đối với ngân hàng mình đang quản lý. Trong trường hợp như vậy, không thể nói
rằng giao dịch thương mại ngân hàng sẽ bị vô hiệu vì lý do người đại diện hợp
pháp đã xác lập giao dịch vì mục đích tư lợi (nghĩa là xác lập giao dịch trái với ý
muốn của ngân hàng). Thiết nghĩ, để xác định tiêu chí này được dễ dàng và thuận
lợi, pháp luật chỉ cần quy định một nguyên tắc chung là đối với các giao dịch
thương mại ngân hàng được người đại diện xác lập vì mục đích tư lợi thì giao dịch
đó, sẽ chỉ được xác lập và có giá trị ràng buộc đối với ngân hàng sau khi đã có sự


chấp thuận bằng văn bản của tập thể thành viên sở hữu ngân hàng hoặc của Hội
đồng quản trị ngân hàng. Quy định nguyên tắc này, sẽ có ý nghĩa thiết thực trong
việc đảm bảo lợi ích chính đáng của ngân hàng cũng như đảm bảo sự an toàn pháp
lý cho việc xác lập, thực hiện các giao dịch nói chung và giao dịch thương mại của
ngân hàng nói riêng.
(1) Xem: JEAN-CLAUDE RICCI, Nhập môn luật học, Nhà pháp luật Việt –
Pháp, Hà Nội, 2002, tr. 101.
(2) Xem: Khoản 1 Điều 86 Bộ luật Dân sự năm 2005.
(3) Xem thêm: Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997, được sửa đổi, bổ sung
năm 2004.
(4) Xem thêm: Điều 34 Luật các Tổ chức tín dụng 1997, được sửa đổi, bổ
sung năm 2004.
(5) Xem thêm: Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997, được sửa đổi, bổ sung
năm 2004.
(6) Xem thêm: Điều 91 Bộ luật Dân sự năm 2005.
(7) Xem: Khoản 1 Điều 144 Bộ luật Dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005, tr. 71.

(8) Xem: TS. Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận các hợp đồng thông dụng trong
luật dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr. 403.
(9) Xem: Khoản 2, 3 Điều 144 Bộ luật Dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005, tr. 71, 72.
NGUỒN: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 15, 8/2005



×