Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SÁNG KIẾN THI PHÁP TRUYỆN NGẮN QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA THẠCH LAM, NAM CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.17 KB, 25 trang )

CHUYÊN ĐỀ NGỮ VĂN

THI PHÁP TRUYỆN NGẮN QUA MỘT SỐ
TÁC PHẨM CỦA THẠCH LAM, NAM CAO

Tháng 6/2015


ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài:
Nghiên cứu văn học theo đặc trưng thi pháp thể loại đang là một nhu cầu,
một xu thế cấp thiết của giới nghiên cứu văn học hiện nay. Các thể loại văn học
Việt Nam giai đoạn 930- 945 cả về số lượng lẫn chất lượng đã góp phần xứng
đáng vào sự hiện đại hóa văn học dân tộc.
Nói đến thể loại văn học giai đoạn này, truyện ngắn xứng đáng được tôn
vinh trong dòng chảy truyện ngắn thời hiện đại và là đỉnh cao của tiến trình phát
triển thể loại. Thành tựu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này được tạo nên bởi
những cây bút tài năng với những phong cách nghệ thuật độc đáo như Nguyễn
Công oan, Nhất Linh, Khái ưng, Thạch Lam, Tô oài, Nguyên ồng, Nam Cao,
Nguyễn Tuân,…
Thạch Lam và Nam Cao là hai nhà văn đã tạo nên những lối đi,
giọng điệu riêng trong nền văn học dân tộc. Truyện ngắn của hai tác giả này đã thu
hút mạnh mẽ sự chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình nhưng vấn đề thi pháp
truyện ngắn của Thạch Lam và Nam Cao vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ. Nhìn nhận,
đánh giá truyện ngắn của Thạch Lam và Nam Cao từ góc độ thi pháp có ý nghĩa
thiết thực trong việc giảng dạy và học tập, góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy và học tập của giáo viên và học sinh trong nhà trường phổ thông, đặc biệt là
trường T PT chuyên.
II. Lịch sử vấn đề:
1. Tiến trình nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Thạch Lam
Từ khi những truyện ngắn Thạch Lam ra đời cho đến nay có rất nhiều công


trình nghiên cứu, phê bình có giá trị về thân thế, sự nghiệp, đặc biệt là truyện ngắn
của nhà văn.
- Các bài viết mang tính chất hồi tưởng, ghi lại chân dung nhà văn Thạch
lam của một số đồng nghiệp thân thiết như Thế Lữ, inh ùng,… Trong đó một số
bài viết đã ít nhiều quan tâm đến màu sắc văn chương Thạch Lam trên bình diện
khái quát chung như của Thế Uyên, ồ Dzếnh,…


- Các nghiên cứu về quan niệm sáng tác của Thạch Lam của Khái ưng,
Nguyễn Thành, Nguyễn Phúc,… đều đi đến kết luận chung: Chính quan niệm này
đã đưa nhân vật, nội tâm và cảm giác trong truyện Thạch Lam trở thành yếu tố
hàng đầu, yếu tố chủ yếu trong chỉnh thể nghệ thuật.
- Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật Thạch lam được đặc biệt chú ý.
Khái ưng, Vũ ức Phúc, à Minh ức, Nguyễn Tuân, Vũ Ngọc Phan,… đi sâu vào
những đặc trưng nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam. Mặt khác, còn có sự so
sánh, đối chiếu giữa phong cách Thạch Lam với các tác giả cùng thời như các
nghiên cứu của Nguyễn oành Khung, Phan Cự ệ, Phong Lê, Vương Trí Nhàn,…
- Những năm gần đây vấn đề nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Thạch Lam
đã trở thành phạm trù nghiên cứu lí thú của giới nghiên cứu, phê bình: Trương
Chính, Phạm Phú Phong, Ngô ương Giang, Phạm Xuân Thạch,… Các nghiên cứu
này đã đề cập đến thi pháp truyện ngắn Thạch Lam từ quan niệm nghệ thuật, hình
tượng nghệ thuật đến cốt truyện, ngôn ngữ,… Tuy nhiên những luận điểm trên
những luận điểm trên mới dừng lại ở tính khái quát chung chứ chưa đi vào tìm
hiểu cụ thể.
2. Tiến trình nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Nam Cao
- Những năm 40: Lê Văn Trương là người đầu tiên phát hiện ra Nam Cao
“không bắt chước ai, không nói những cái người ta đã nói, không tả theo cái lối
người ta đã tả” ở Nam Cao.
- Những năm 50: Nguyễn ình Thi phát hiện ở nghệ thuật Nam Cao tính sinh
động, sâu sắc; tính điển hình và lối văn mới đậm đà bản sắc bình dân.

- Những năm 60: uệ Chi và Phong Lê khẳng định “Nam Cao đã xứng đáng
là nhà văn hiện thực.
- Những năm 70: Nguyễn oành Khung nhìn nhận Nam Cao đã ghi lại chân
thực hình ảnh bi hài của cuộc sống nghèo khổ, tủi cực của người tiểu tư sản nghèo
và nông dân nghèo trong xã hội cũ với một bản lính nghệ thuật già dặn, một phong
cách đa dạng, mới mẻ, độc đáo. Phan Cự ệ khẳng định Nam Cao đặc sắc ở nghệ
thuật miêu tả tâm lí. Nguyễn ăng Mạnh nhìn nhận Chí Phèo là một tính cách thật


độc đáo, vừa là một gã mất trí, một công cụ nguy hiểm trong tay giai cấp thống trị,
vừa là đầu óc sáng sủa nhất làng Vũ ại.
- Giai đoạn những năm 80: à Minh ức tập trung khai thác nghệ thuật sáng
tạo tâm lý của Nam Cao. Nguyễn ăng Mạnh khẳng định Nam Cao tiêu biểu cho xu
hướng văn học hiện thục phê phán nước ta thời kì 940-1945.
- Giai đoạn từ sau năm 90: nghiên cứu về Nam Cao đặc biệt được quan tâm,
chú ý. à Minh ức, Nguyễn Văn ạnh đi sâu tìm hiểu chủ nghĩa hiện thực và chủ
nghĩa nhân đạo Nam Cao. Vũ Tuấn Anh, à Minh ức, Phong Lê đi sâu tìm hiểu
phong cách nghệ thuật Nam Cao. Phan Diễm Phương, Nguyễn Thái òa, Lại
Nguyên Ân hướng sự chú ý vào tìm hiểu nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nam

Cao. Nhiều nhà nghiên cứu như à Minh ức, Phong Lê, Nguyễn oành Khung,
Nguyễn ăng Mạnh, Phan Cự ệ,… đã dành nhiều công sức để nghiên cứu thi pháp
Nam Cao.
3. Tiến trình nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, Nam Cao
Nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, Nam Cao trong cái nhìn so
sánh là hướng đi đã được đề cập nhưng thường trong tương quan với các tác giả
khác. Chuyên đề hướng đến so sánh thi pháp truyện ngắn của hai tác giả cùng thời,
có những lối đi riêng, đặc trưng thi pháp khác nhau nhằm khám phá những đóng
góp mới mẻ của từng tác giả vào công cuộc hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỉ
XX cũng như sự đa dạng, phong phú mà họ đem tới cho văn học.



III. Phương pháp nghiên cứu:
- Dựa vào đặc trưng của thể loại truyện ngắn
- Vận dụng các thao tác: so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá
- Sử dụng phương pháp: hệ thống


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Văn học so sánh
So sánh là một thuật ngữ quen thuộc dùng trong nhiều lĩnh vực. Văn học so
sánh ở buổi khai sinh của nó được coi là một môn khoa học nghiên cứu các mối
quan hệ trực tiếp giữa các nền văn học khác nhau. Cùng với sự phát triển, văn học
so sánh có thể được định nghĩa như một bộ môn khoa học nhiên cứu các mối quan
hệ giữa các nền văn học dân tộc. So sánh còn là một phương pháp để xác định,
đánh giá các hiện tượng văn học trong mối quan hệ văn học giữa chúng với nhau.
2. Khái niệm thi pháp
-

ệ thống những nguyên tắc, cách thức xây dựng hình tượng, lựa chọn và

sử dụng, tổ chức các phương tiện ngôn ngữ để làm nên tác phẩm văn học- nghĩa là
toàn bộ hình thức nghệ thuậtđược nhà văn sáng tạo nhằm thể hiện nội dung tác
phẩm được gọi là thi pháp.
- Thi pháp là tất cả những gì làm nên tính độc đáo, riêng biệt về phương
diện phẩm chất nghệ thuật của tác phẩm, tác giả (hoặc cảu trào lưu, trường phái).
3. Thi pháp truyện ngắn 1930 - 1945
Trong quan niệm phổ biến, truyện ngắn được xem là hình thức tự sự cỡ nhỏ.
Truyện ngắn tất phải ngắn. Ngắn ở đây không phải chỉ là số lượng câu chữ, mà

trước hết là dung lượng đời sống hiện thực được phản ánh trong tác phẩm. Thông
thường khi xét đặc trưng truyện ngắn, người ta vẫn so sánh nó với tiểu thuyết. Nếu
tiểu thuyết có thể phản ánh toàn bộ quá trình đời sống thì truyện ngắn chỉ phản ánh
một khâu của quá trình ấy. Nếu tiểu thuyết có thể kể về hàng loạt sự kiện, biến cố,
với sự tham gia của hàng trăm nhân vật, thì truyện ngắn chỉ chọn lấy một hai biến
cố gắn với số phận của vài ba nhân vật làm nòng cốt cho tác phẩm. Nếu tiểu thuyết
có thể khai thác trọn vẹn một tính cách, thì truyện ngắn chỉ tập trung làm nổi bật
một vài khía cạnh của tính cách mà thôi…
Truyện ngắn có thể kể về một cuộc đời nhưng đa phần là một đoạn đời, một
sự kiện hay một "chốc lát" trong cuộc sống nhân vật. Cái chính của truyện ngắn


không phải là hệ thống sự kiện mà là cái nhìn tự sự đối với cuộc đời. Tác giả
truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất
trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người.
Truyện ngắn khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ XX còn thể hiện rõ tính chất
giao thời, ngoại trừ các truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc viết trong những năm 20
ở Pháp đã có tính hiện đại. Sang những năm 930- 945, truyện ngắn phát triển
phong phú, đổi mới nhanh chóng và hình thành nhiều phong cách. Truyện ngắn
trào phúng của Nguyễn Công Hoan, truyện ngắn Thạch Lam, Thanh Tịnh lại giàu
chất trữ tình, cốt truyện thường rất đơn giản, không khai thác các xung đột xã hội
mà thiên về biểu hiện tâm trạng với những cảm xúc, cảm giác nhẹ nhàng, tinh tế
trong đời sống thường nhật của con người. Truyện ngắn Nguyễn Tuân thể hiện một
nhà văn có cá tính độc đáo. Truyện ngắn Nam Cao đi sâu miêu tả sự tha hóa của
con người cả về thể xác lẫn tinh thần.
II. THI PHÁP TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM
1.Quan niệm văn chương
Xưa nay, có rất nhiều quan niệm về văn chương. Nhà văn hiện thực Nga nổi
tiếng M.Gorki đã từng nói: Văn học là nhân học. Vào thập kỉ ba mươi của thế kỉ
XX, ở nước ta có nhiều nhà thơ, nhà văn có những quan điểm rất khác nhau về vấn

đề này, thậm chí hình thành hẳn hai trường phái đối lập: Nghệ thuật vị nhân sinh
và nghệ thuật vị nghệ thuật. Nam Cao, cây bút xuất sắc của trào lưu văn học hiện
thực phê phán cho rằng: Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối… Vũ
Trọng Phụng viết:… Tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời. Là một nhà văn lãng
mạn tiến bộ, Thạch Lam cũng góp ý kiến bằng một quan điểm tích cực: ối với tôi,
văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự
quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có,
để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng
người được thêm trong sạch và phong phú hơn.
Trong quan niệm này, Thạch Lam phủ nhận thứ văn chương đơn thuần chỉ
là trò giải trí để giết thời gian, làm cho con người thoát li hiện thực, quay lưng với
đời sống xã hội. ay nói như Nam Cao, đó là thứ văn chương chỉ dành cho những


kẻ lắm của, nhiều tiền, các bà các cô vô công rồi nghề, chỉ có việc chăm sóc thịt da
và chẳng làm gì cả.
Từ thực tế sáng tác phức tạp trong những năm 30 - 40, Thạch Lam thấy
không ít tác phẩm chỉ đem đến cho người ta sự thoát li hay sự quên như những
loại truyện đậm màu mê tín, dị đoan, những truyện võ hiệp, kiếm hiệp hoặc những
truyện rẻ tiền nhan nhản trên sách báo mà dư luận đương thời mỉa mai gọi là loại
truyện ba xu… Tệ hại hơn, có nhà thơ đã lớn tiếng ngợi ca những thú vui trụy lạc,
những cơn say triền miên: Say, say nữa, và quên, quên hết. Say tửu, say sắc, say
thuốc phiện để quên lãng trách nhiệm làm người, làm dân, để hủy hoại cả bản thân
và hủy hoại cuộc đời bao kẻ khác. Thậm chí có nhà văn, nhà thơ coi cuộc đời là vô
nghĩa, muốn trốn vào tháp ngà văn chương để quên đi hiện thực phũ phàng xung
quanh.
Những biểu hiện trên xét ở mặt nào đó thì có thể coi là một trong những
hình thức phản kháng lại xã hội, nhưng là sự phản kháng yếu ớt, bất lực và nguy
hại. Phê phán loại văn chương đó, Thạch Lam đưa ra quan niệm: Văn chương là
một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi

một cải thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và
phong phú hơn.
Thạch Lam đã nhận thức một cách hết sức khoa học về các chức năng văn
học. Quan điểm trên của ông đề cập đến tính nhận thức và tính giáo dục của văn
chương. Sống trong xã hội đầy rẫy bất công đương thời, nhà văn xác định rõ ràng
là ngòi bút phải phanh phui, tố cáo cái xấu, cái ác để góp phần thay đổi một cái thế
giới giả dối và tàn ác, giúp mọi người nhận thức được rằng cái xã hội thối tha, đen
tối ấy phải bị đập tan, xóa bỏ để xây dựng một xã hội mới công bằng, tốt đẹp hơn.
Nhấn mạnh vai trò xã hội của văn chương, song Thạch Lam không quên chú
trọng tới tác dụng bồi đắp tâm hồn con người của nó. Văn chương đích thực làm
giàu đời sống tinh thần, khiến cho tình cảm con người trở nên trong sáng hơn,
phong phú hơn.
Thực tế sáng tác của Thạch Lam cho thấy lời nói và việc làm của ông thống
nhất với nhau. Những truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn thường đi sâu vào phân


tích đời sống tâm hồn của con người, phản ánh quá trình đấu tranh gay go giữa
cái xấu và cái tốt (Sợi tóc), ca ngợi tình cảm thanh cao, đằm thắm (Dưới bóng
hoàng lan), ca ngợi đức hi sinh (Nhà mẹ Lê)… Thái độ cảm thông, thương xót
chân thành của Thạch Lam đối với những kiếp người cùng khổ khiến cho mỗi tác
phẩm đều thấm đượm tính nhân văn. Nét đáng quý, đáng trân trọng của ngòi bút
Thạch Lam là ở đó.
Quan niệm trên đây của Thạch Lam hoàn toàn đúng. Nó khẳng định vai trò
to lớn của văn chương đối với con người và xã hội. Nó không chỉ có tác dụng tích
cực đối với xã hội đương thời mà còn đúng với mọi thời đại. Tuy nhiên quan điểm
ấy cũng có chỗ cần bàn lại. Nếu hiểu sự thoát li hay sự quên là nhất thời rời bỏ
cảnh đời phức tạp chung quanh, quên đi mọi nỗi nhọc nhằn, éo le của cuộc sống
bản thân trước mắt để đi vào thế giới văn chương với mục đích giải trí, làm cho
tâm hồn thư thái, miễn là tác phẩm không có gì độc hại thì mục đích ấy là chính
đáng và thơ văn ấy không phải hoàn toàn vô ích. Ngày nay, lí luận đã công nhận

giải trí cũng là một chức năng của văn học.
2. Cốt truyện và kết cấu
Nếu Nguyễn Công oan chú trọng tới việc xây dựng cốt truyện hấp dẫn, giàu
kịch tính thì Thạch Lam lại quan tâm khai thác những diễn biến rất bình thường,
thầm lặng của cuộc sống. Thạch Lam lựa chọn kiểu truyện phi cốt truyện, lấy
trung tâm chú ý của sáng tạo nghệ thuật là khắc họa những khoảnh khắc của cảm
xúc và tâm trạng, phô diễn cảm giác thành thực hay các động thái tâm lý mà nhân
vật thâu nhận được bên trong tâm hồn họ. iều này chi phối cách dựng và kể chuyện
ở khá nhiều truyện ngắn của Thạch Lam như: Hai đứa trẻ, Buổi sớm, Sợi tóc, Tố
ba mươi, Dưới bóng hoàng lan, Bên kia sông,…
Không giống như các nhà văn hiện thực Nguyễn Công oan, Ngô Tất Tố,
Nguyên ồng chú trọng quan sát và phản ánh mối quan hệ giữa người và người,
Thạch Lam là nhà văn của nội tâm cảm giác. Vì thế truyện ngắn của Thạch Lam
thường không có cốt truyện hoặc cốt truyện rất đơn giản. Có thể nói mỗi truyện
ngắn của Thạch lam là một cảm giác sâu kín, vi diệu dù là truyện về trẻ thơ hay
người dân nghèo, người trí thức tiểu tư sản…. yếu tố làm nên sức hấp dẫn của Tối


ba mươi không phải là tình tiết lâm li mà chính là cảm giác bẽ bàng trước cảnh
sống trụy lạc, ở nỗi nhớ thương đau đáu về quê hương, cha mẹ, gia đình khi đứng
trước thềm năm mới. Bên kia sông không hấp dẫn người đọc bằng những đỉnh
điểm, thắt nút, mở nút mà bằng những chiều cổ tích ngọt ngào đẫm màu sắc huyền
thoại, bằng những gì bình dị, đơn sơ nhưng chứa đầy sức nặng giúp con người
hiểu và trân trọng sự sống của chính mình.
Có thể nói kiểu truyện phi cốt truyện là một phương tiện hữu hiệu để nhà
văn đi sâu vào thế giới bên trong của con người và phô diễn một cách thành thực
những cảm giác rất đỗi mong manh của nhân vật. Bởi vậy nhiều truyện ngắn của
Thạch lam đẹp như một bài thơ trữ tình , đem đến cho người đọc những rung cảm
trong lành, mát dịu.
Bên cạnh đó Thạch Lam cũng không hoàn toàn chối bỏ các biến cố, sự kiện,

xung đột, hành động. Nhà văn rất chú ý đến những hành động, sự kiện khi chúng
có thể trở thành những tình huống khơi mở những trạng thái sống mơ hồ của con
người. Yếu tố nghệ thuật này đã phát huy được hiệu quả nghệ thuật lớn trong rất
nhiều truyện ngắn của Thạch Lam: Một đời người, Đói, Người bạn trẻ, Nhà mẹ
Lê, Nắng trong vườn,… Trong truyện Nhà mẹ Lê, nhân vật mẹ Lê được đặt vào
cảnh huống dữ dội: không đành lòng nhìn mười một đứa con nhịn đói, bà liều lĩnh
đến nhà ông Bá xin gạo nhưng lại bịn cậu Phúc con ông Bá thả chó ra cắn, dẫn đến
cái chết đầy oan ức, khổ sở. Nếu tước đi những “pha” dữ dội ấy, ý nghĩa câu
chuyện có thể thay đổi nhưng ý tưởng sâu xa về kiếp người và ấn tượng về vẻ đẹp
bên trong của những con người nghèo khổ có thể bị giảm đi nhiều.
Tuy nhiên, dù có nói đến những mặt trái, những gay gắt của cuộc đời thì
thực chất nhà văn chỉ sử dụng nó như một dạng thức biểu đạt thích hợp nhất cho
những trạng thái sống của nhân vật, đi vào những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc,
cảm giác. Chính điều này làm nên dấu ấn riêng cho những trang văn của Thạch
Lam.
Cũng như cốt truyện, kết cấu là là một yếu tố quan trọng của hình thức nghệ
thuật góp phần làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Bất kì một tác phẩm văn học
nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của


khái quát nghệ thuật. Do đặc trưng phương thức phản ánh mà Thạch Lam đã lựa
chọn, nhà văn tuân theo lối kết cấu tâm lí. Nhà văn đã lấy những trạng thái tâm lí
kết hợp với nhau và tác động lẫn nhau làm cơ sở cho việc tổ chức kết cấu. Kiểu kết
cấu này xuất hiện ở hầu hết những truyện ngắn của Thạch Lam.
Nhân vật của Thạch Lam được xây dựng không phải bằng hành động hay sự
kiện, cũng không phải bằng các chi tiết ngoại hình, cá tính mạnh mẽ, gân guốc,
góc cạnh, mà bằng những diễn biến tâm lí của nhân vật trong các trạng thái sống.
ó là những nhân vật có đời sống nội tâm sâu sắc, dễ rung động trước những biến
thái tinh vi của tạo vật, của lòng người và luôn khát khao vươn đến sự hoàn thiện
(Hai đứa trẻ, Một cơn giận, Gió lạnh đầu mùa,…). Cách thức xây dựng nhân vật

như thế đã thể hiện một khuynh hướng tìm tòi, sáng tạo trong việc tổ chức kết cấu
tác phẩm. Cúng nhờ lối kết cấu tâm lí mà một số tác phẩm như Tối ba mươi, cô
hàng xén, Tình xưa, Sợi tóc có thể xếp vào hàng “những đoản thiên tiểu thuyết”
hay nhất trong văn chương Việt Nam. Kiểu kết cấu này còn góp phần quan trọng
trong việc tạo nên những trang viết thẫm đẫm chất thơ của truyện ngắn Thạch
Lam.
3. Thế giới nhân vật
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam chủ yếu hướng về hai đối
tượng: phụ nữ và trẻ thơ. ó là những kiếp người nhỏ bé, dưới đáy xã hội, dễ bị tổn
thương nhiều nhất và họ cần nhiều tình yêu thương của đồng loại để chia sẻ, cảm
thông.
Trong tác phẩm Thạch Lam ta bắt gặp nhiều những khuôn mặt trẻ thơ.
Trong "Nhà mẹ Lê", đàn con mười một đứa của mẹ Lê sống triền miên trong cảnh
đói rét thương tâm. Cái đói, cái rét dường như cùng kéo đến, cùng xúm lại mà
hành hạ chúng "Mấy đứa nhỏ nhất: con Tý, thằng ún, thằng y mà con chị nó bế,
chúng khóc lả đi không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó cứ thâm
tím lại vì rét như thịt con trâu chết". Trong "Gió lạnh đầu mùa", điều Thạch Lam
quan tâm trước hết khi gió lanh mùa đông thổi tới là những đứa trẻ không có quần
áo mặc. Nhưng hình ảnh trẻ thơ để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Liên
và An. Nếu như gương mặt trẻ thơ trong "Nhà mẹ Lê", "Gió lạnh đầu mùa" là


những nhân vật phụ, những hình ảnh lướt qua, thì ở " ai đứa trẻ" toàn bộ câu
chuyện là tâm trạng xao xác, bâng khuâng của hai đứa trẻ. ai đứa trẻ là câu chuyện
không có cốt truyện nhưng lại có sức gợi sâu xa. ai chị em Liên được mẹ giao
trông nommột gian hàng nhỏ ở một phố huyện nghèo nàn. êm nào cũng
vâỵ, hai chị em Liên và An cũng cố thức đợi bằng được chuyến tàu từ à Nội về rồi
mới ngủ. Chúng đợi đoàn tàu đi qua không phải đón người nhà, không phải để bán
hàng mà việc đợi tàu đã trở thành một nhu cầu bức thiết về mặt tinh thần của hai
đứa trẻ. oàn tàu huyên náo, rực rỡ ánh sáng như từ một thế giới xa xăm nào đến,

đối lập hoàn toàn với cảnh tù đọng tràn ngập bóng tối tù mù ánh đèn dầu của phố
huyện. Từ bóng tối, hai chị em nhìn đoàn tàu sang trọng để rồi mơ tưởng đến một
thế giới khác, mơ đến à Nội "vui vẻ, sáng rực và huyên náo". oàn tàu đến
rồi lại vụt đi, nó đem lại cho hai đứa trẻ một thoáng bâng khuâng, xao động trong
tâm hồn, rồi lại mang theo nỗi buồn ấy khuất dần vào đêm tối. Chỉ còn lại hai chị
em với đêm tối dày đặc hơn, tĩnh mịch hơn bao bọc xung quanh. ình ảnh Liên ngồi
lặng lẽ "đôi mắt ... bóng tối ngập đầy dần" gợi cho người đọc niềm yêu thương,
thông cảm co nỗi buồn mênh mông của những đứa trẻ sống trong một cuộc sống
ảm đạm, buồn tẻ nơi phố huyện nghèo.
4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Thạch Lam đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật với những cảm xúc mơ hồ,
mong manh, tinh tế. Nhân vật chủ yếu được khắc họa ở đời sống tâm hồn trong
trẻo, thơ ngây nhưng rất phong phú và bí ẩn.
5. Không- thời gian nghệ thuật
Người đọc đến với Thạch Lam, họ quên và hầu như không cần thiết xem
ông là nhà văn lãng mạn hay hiện thực mà điều hấp dẫn đối với họ là toàn bộ bức
tranh nhân gian của ông với sự hiện diện của đủ mọi hạng người, đặc biệt là những
con người nghèo khổ. ó là đặc điểm không gian, thời gian nghệ thuậtlà những khía
cạnh quan trọng để nhà văn thể hiện tư tưởng và quan niệm nghệ thuật về con
người.
Thạch Lam quan tâm hàng đầu đến không gian hiện thực hằng ngày. Ông ít
tô vẽ và cách điệu nó, bởi vì, như ông nói: “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi


khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn
là phát biểu cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật”. Chính vì thế, không gian hiện
thực hằng ngày trong tác phẩm Thạch Lam là một xóm chợ, một ngõ hẻm, một ga
xép, một phố huyện nghèo nàn hoặc một con đường làng vùng nông thôn nào đó.
Ở đây, các nhân vật của ông bị tù túng, luẩn quẩn với những đói nghèo, lo âu, dằn
vặt thường nhật. ọ luôn bị ám ảnh bởi miếng cơm, manh áo hoặc day dứt với

những bi kịch tinh thần. Không gian hiện thực ở đây được bó hẹp lại trong không
gian đời tư, không gian cá nhân chứ không phải trong không gian xã hội rộng lớn,
nên không gian càng dồn nén, thu nhỏ, đông lại, càng hiu hắt hơn. Chính không
gian hẹp đó, nhân vật bộc lộ bản chất, hành vi, suy nghĩ của mình một cách cụ thể,
chân thật nhất – và khi họ thấy bất lực trước hoàn cảnh thì lập tức ngôn ngữ độc
thoại, ngôn ngữ giấc mơ hiện ra, khi ấy không gian hồi tưởng xuất hiện. Không
gian hẹp mà Thạch Lam quan tâm miêu tả giúp cho nhân vật tự vấn, tự ý thức để
đối chiếu, so sánh niềm vui, nỗi buồn của mình trong từng thời gian một cách cụ
thể. Dung (truyện ngắn “ ai lần chết”) hiểu rõ nỗi bất hạnh của mình, cứ sau mỗi
lần vùng vẫy, ước mơ thì lại bị nhấn chìm xuống đáy, nhưng khổ nỗi, không thể
chết được, dù toại nguyện mà lại cứ phải sống trong buồn đau, trói buộc.
Từ không gian hiện thực trên, đã kéo theo một đặc điểm khác trong quan
niệm về không gian nghệ thuật của Thạch Lam. ó là không gian hòa quyện thời
gian. Chính kiểu không gian này giúp nhà văn lý giải một cách biện chứng quá
trình phát triển tính cách nhân vật và biểu hiện tập trung tư tưởng nghệ thuật của
mình. Bằng tài năng quan sát tinh tế và biết phát hiện ở một tọa độ không gian-thời
gian hỗ tương hợp lý, Thạch Lam đã đặt không gian hiện thực hằng ngày trong sự
kết hợp hòa quyện chặt chẽ của thời gian tương ứng. Do vậy, thời gian đã thành
ngôn ngữ, thành môi trường cộng hưởng để nhân vật hoạt động. Chính kiểu không
gian hòa quyện thời gian đã làm cho tình huống dồn nén, gấp gáp, đẩy số phận bi
kịch của nhân vật vào con đường cùng, và quá trình tiếp theo được diễn ra bằng
tiếng than, tiếng kêu thất thanh hòa lẫn tiếng khóc hờn giận là điều không thể khác
trong kết thúc truyện ngắn của Thạch Lam. Trong truyện ngắn “Cô hàng xén”, bên
cạnh cảnh náo nhiệt của buổi chợ mà Tâm ngày nào cũng chứng kiến,


còn lại là tâm trạng. Tâm ra về trên con đường làng lúc đêm tối “sương mù ảm
đạm phủ cả cánh đồng và gió lạnh nổi lên, lòng se mệt”, khiến Tâm mơ hồ, miên
man nghĩ về em, về mẹ và những nỗi niềm riêng tư, uẩn khúc. Chính không gian
và thời gian tối đen thăm thẳm ấy giúp Tâm hiểu được cuộc đời mình như “một

tấm vải thô”, ngày nào cũng như ngày nào và “nàng phải chạy vào cái khoảng tối
dày đặc ấy để trốn cái tai ương mà nàng sắp đón nhận”.
Thạch Lam là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Ông không thể không an ủi và
mong muốn con người được sung sướng và hạnh phúc. Lòng nhân ái ấy bàng bạc
trong tác phẩm của ông, hé ra một chút ánh sáng và hy vọng cho con người, dù
mong manh. Trong không gian trầm mặc, u tối, tiếng tàu xình xịch với hồi còi inh
ỏi (truyện ngắn " ai đứa trẻ"), tiếng tre kĩu kịt ngỡ là tiếng chim trong đêm mưa
(truyện ngắn "Tiếng chim kêu"), tiếng rao đêm của anh xích lô vắng khách (truyện
ngắn " iều ân hận")... ó chính là không gian khát vọng, không gian nhân bản mà
tác giả thấp thoáng nhìn thấy và đưa vào tác phẩm như một thủ pháp nghệ thuật,
tạm gọi thủ pháp xả hơi an toàn để tạo cho không gian không khí êm dịu, đỡ ngột
ngạt, căng thẳng và tạo niềm vui an ủi con người. ó là điều mà Thạch Lam hằng
tâm niệm: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có
thể vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng
người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
6. Ngôn ngữ và giọng điệu
Tác phẩm Thạch Lam càng đọc càng bị lôi cuốn, càng đọc càng say. Ông đã
biết chọn cho mình một lối ngôn ngữ rất riêng, rất độc đáo. Ngôn ngữ là chất liệu,
là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Nhưng không phải bất
cứ ngôn ngữ nào cũng là ngôn ngữ của văn học. Chỉ trong ngôn ngữ đời sống được
trau dồi, mài dũa kỹ mới chuyển tải được một cách nghệ thuật cuộc sống hàng
ngày. Và mỗi nhà văn có phong cách đều để lại một dấu ấn riêng về ngôn ngữ trên
văn đàn. Thạch Lam đã lựa chọn ngôn ngữ thể hiện mình bằng ngôn từ giản dị,
trong sáng, mượt mà nhưng sâu lắng, đằm thắm và thấm đượm tình người. Văn
Thạch Lam nhẹ nhàng nhưng sức gợi mở lớn và có khả năng khơi sâu tìm vào cảm
giác. Ông đã dùng thủ pháp so sánh để miêu tả tâm hồn nhân vật. Sử dụng


nhiều thủ pháp so sánh nhưng không nhàm chán, ngược lại, rất đắt, rất hay. Nó làm
cho câu văn giàu hình tượng và sức biểu cảm. So sánh cùng với cảnh ngắt nhịp câu

dài, ngắn nhịp nhàng uyển chuyển tạo cho tác phẩm giàu nhạc điệu:“Chiều, chiều
rồi. Một chiều êm ả như ru…” (Hai đứa trẻ)… tất cả đều tạo nên một âm thanh
dịu nhẹ, trong trẻo, man mác khiến cho lòng người vừa thanh thản, bằng lặng vừa
níu kéo, ám ảnh khôn nguôi.
Trong truyện ngắn Thạch Lam, nhân vật thường sống bằng thế giới cảm giác
với những khoảng không gian, thời gian mang tính tâm trạng, khơi mạch tâm trạng
và thường tìm vào thế giới nội tâm chìm khuất bên trong của những con người nhỏ
bé, đời thường trong sự bủa vây của cuộc sống tàn úa, mòn mỏi để lột tả những
biến thái tinh vi sâu sắc của cuộc đời mà vẫn giữ được vẻ đẹp thanh cao. Và vì
vậy, giọng điệu ở đó thường là giọng điệu trữ tình êm ái với lối ngôn ngữ biểu
cảm, giàu hình tượng.
III. THI PHÁP TRUYỆN NGẮN NAM CAO
1. Quan niệm sáng tác
Trong quá trình sáng tác, Nam Cao đã để lại nhiều quan điểm sáng tác.
Những quan điểm của ông được coi là tuyên ngôn của những người cầm bút viết
văn chân chính.
Nam Cao đề cập tính sáng tạo trong văn chương. Ông không chấp nhận lối
văn xáo mòn chỉ đi theo con đường cũ kĩ. Theo ông một nhà văn phải xông pha
trên con đường mới, phải: "uống nước nã, gặm bánh mì" để lao động cực nhọc trên
trang viết. Quan điểm này được thể hiện rõ trong tác phẩm " ời thừa" qua tuyên
ngôn của văn sĩ ộ: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay chỉ biết
làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết
đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa
có".
Cũng như những nhà văn khác, Nam Cao luôn coi trọng tính chân thực trong
một tác phẩm văn học. Quan điểm này được Nam Cao thể hiện rất rõ trong tuyên
ngôn "Trăng sáng" thông qua nhân vật iền: "Chao ôi! Nghệ thuật không nên là


ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có

thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than".
Theo Nam Cao là một tác phẩm văn học chân chính phải là tác phẩm thấm
đẫm tình nhân đạo: "Tác phẩm ấy phải là một tác phẩm chung cho cả loài người.
Nó phải chứa đựng một cái gì đó vừa lớn lao, vừa mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa
phấn khởi, nó ca tụng tình thương, lòng bác ái, sự công bình, nó làm cho người
gần người hơn" ( ời thừa). Muốn đạt được điều này nhà văn phải: "Đứng trong
đau khổ để mở lòng ra đón những tiếng vang động của cuộc đời".
Với ba quan điểm trên, Nam Cao xứng đáng là thư kí trung thành của thời
đại, là một nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc, là cánh tay đắc lực cho trường
phái "nghệ thuật vị nhân sinh" trong cuộc tranh luận với trường phái "nghệ thuật
vị nghệ thuật".
2. Cốt truyện, kết cấu
Kết cấu truyện ngắn Nam Cao có nhiều nét khác lạ và mới mẻ so với truyện
ngắn trước đó và đương thời. Nếu truyện ngắn của Thạch Lam gần với thơ, truyện
ngắn Nguyễn Công oan gần với kịch, thì truyện ngắn của Nam Cao là một dòng
xám buồn của chất văn xuôi- đời thường. Nguyên tắc về cái chốc lát của truyện
ngắn, hoặc thắt nút, mở nút dùng để xây dựng truyện ngắn cũng bị phá vỡ căn bản.
Cấu trúc truyện Nam Cao thường nương theo trục thời gian, dõi theo cuộc đời
nhân vật hoặc một chặng đường dài của đời. Truyện Nam Cao thường có 3 loại
hình cấu trúc quen thuộc: kết cấu theo số phận nhân vật (Chí Phèo, Nửa đêm, Dì
Hảo, Điếu văn,…); kết cấu theo tâm lí nhân vật (Đời thừa, Những truyện không
muốn viết,…); hoặc kết cấu quanh một triết lí, một tính cách (Ở hiền, Tư cách mõ,
Nhỏ nhen,…)
3. Thế giới nhân vật
Nhân vật trong văn chương là sản phẩm của những điểm nhìn, góc nhìn hoặc
của tác giả, hoặc của những nhân vật khác, hoặc là do sự tự nhìn nhận của nhân vật.
Trong truyện ngắn Nam Cao xuất hiện hai loại nhân vật: nhân vật xấu xí, dị dạng kết
quả của điểm nhìn định kiến và nhân vật tư tưởng, nhân vật tự ý thức gửi gắm những
suy tư, trăn trở của người trí thức, trong đó có chính Nam Cao.



Nam Cao có một loạt những nhân vật xấu xí về nhân hình, xấu xí đến mức ghê
tởm. Nam Cao miêu tả cái xấu xí của Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, mụ Lợi, ức,
Nhi,… trong cái nhìn đầy định kiến của người dân làng Vũ ại. Phải chăng
Nam Cao muốn nhấn mạnh tính chất khốc liệt và tàn bạo của xã hội Việt Nam trong
thời kì đen tối nhất? Sự bế tắc đến mức dồn nén đã xô đẩy con người vào ngõ cụt của
cuộc đời. Nó đã làm méo mó đi, dị dạng đi cả tâm hồn và thể xác của bao người dân
hiền lành, lương thiện và vô tội. Tất cả đều được Nam Cao đưa vào tác phẩm một
cách khách quan, sinh động như chính sự hiện diện của nó ở đời.

iện thực xã hội vì thế được phản ánh sâu sắc và toàn diện hơn, tính chất tố cáo
vì thế thâm thúy hơn. Một xã hội đen tối, tàn nhẫn đến mức đã tước đi tất cả vẻ
đẹp hình thức và tinh thần của con người, biến con người thành đần độn, ngơ
ngẩn, hoặc tàn bạo như con quỷ dữ - xã hội ấy liệu có thể tồn tại?
Những nhân vật tư tưởng, nhân vật tự ý thức trong truyện ngắn Nam Cao
thường là các nhân vật trí thức tiểu tư sản. Các nhân vật tiểu tư sản trong truyện
ngăn Thạch Lam cũng có nhiều suy tư đầy cảm động nhưng đến Nam Cao, ông
mới đưa được vấn đề tự ý thức của nhân vật lên đến mức sâu sắc, thường trực,
nhất quán. Nhân vật của Nam Cao luôn có ước muốn vương lên đến tầm cao, ước
muốn hoàn thiện nhân cách mình. ó là lý do, là cái đích để nhiều nhân vật tiểu tư
sản của Nam Cao hướng đến. iền (Trăng sáng), ộ (Đời thừa),… là những con
người như thế. iền nghĩ đến “những tính tình tươi đẹp của người ta” mà “cái khổ
làm héo đi một phần lớn”. ộ băn khoăn về một lẽ sống nhân đạo, biết “giúp đỡ kẻ
khác trên đôi vai mình”. Cuộc đấu tranh vươn tới lẽ sống nhân đạo ở các nhân vật
tiểu tư sản của Nam Cao không có đổ máu, hi sinh nhưng không phải là không có
nhiều mất mát, bi kịch. Nhiều nhân vật tiểu tư sản của Nam Cao đã đổ không ít
nước mắt trong những cuộc đấu tranh dai dẳng và quyết liệt ấy. Nhưng cũng chính
nhờ cái tâm hồn luôn “nặng gấp nhiều lần thể xác” ấy, người tiểu tư sản của Nam
Cao luôn trụ vững trên lẽ sống nhân đạo, cho dù cuộc sống đang từng giờ, từng
ngày đẩy họ vào tình trạng tha hóa. Ánh sáng của sự tự ý thức giúp cho họ có đủ

sự tỉnh táo cần thiết, có lương tri và tinh thần trách nhiệm trước cuộc đời (Đời
thừa, Trăng sáng, Nước mắt,…)


4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhân vật được soi chiếu từ nhiều điểm nhìn với sự đa chiều trong tính cách.
Nhân vật chịu sự chi phối của hoàn cảnh và các mối quan hệ trong xã hội.
5. Không gian và thời gian nghệ thuật
Một trong những nét đặc sắc của thời gian nghệ thuật trong sáng tác của
Nam Cao là đã tạo ra một kiểu thời gian hiện thực hàng ngày. Trong đó các nhân
vật của ông dường như bị giam hãm, tù túng, luẩn quẩn trong những lo âu thường
nhật (chuyện nhà cửa, miếng cơm, manh áo,…). Các nhân vật của Nam Cao bị
hành hạ, giày vò, ám ảnh bởi cái đói. Cả thế giới nhân vật bị “áo cơm ghì sát đất”
xuôi đi trong cái vòng luẩn quẩn của thời gian hàng ngày mòn mỏi.
Trong nhiều truyện ngắn của Nam Cao, ông sáng tạo nên kiểu thời gian hồi
tưởng, nó tạo ra khả năng đối chiếu giữa quá khứ và hiện tại và có thể nhìn thấy
những viễn cảnh của tương lai. ộ trong “ ời thừa” thường quay về quá khứ, với
những hồi ức của mình. Và những kỉ niệm cũ hiện về chỉ làm tăng thêm nỗi buồn
chán, đau khổ trước mắt. Thời gian đối với hộ như chiếc bào đang bào mòn đi
những mơ ước, những dự định, tương lai tốt đẹp. Với Chí Phèo, thời gian không
chỉ tàn phá nhân hình mà còn hủy hoại cả nhân tính. Ở truyện ngắn Nam Cao, quá
khứ thường hội tụ trong hiện tại và hiện tại như gợi lại những hình ảnh của quá
khứ. iện tại và quá khứ soi sáng cho nhau tạo nên sự sự cộng hưởng về cảm xúc và
ấn tượng cho người đọc. Tuy nhiên, Nam Cao đặc biệt chú ý tới thời gian hiện tại,
thời gian nếm trải những đau khổ, bế tắc, buồn chán, tuyệt vọng … mà các nhân
vật của ông phải đối mặt. Thời gian hiện tại làm trang viết của Nam Cao có sức ám
ảnh, giúp người đọc khám phá thế giới bên trong, thế giới tâm hồn nhân vật.
Trong mối liên hệ với thời gian, Nam Cao thường xây dựng kiểu không gian
tương ứng. ó là vùng nông thôn, những căn nhà nơi thôn dã, những con đường
làng,… không gian thành thị nếu được nói đến như à Nội, Sài Gòn – dù được gửi

gắm bao nhiêu mơ ước, hy vọng nhưng cuối cùng cũng dần bị chết dần, chết mòn.
Như một quy luật, họ buộc phải quay trở về quê hương mang theo sự nghèo đói,
sự suy sụp về tinh thần cũng như thể xác. Thường xuyên hơn cả, ta bắt gặp trong


sáng tác của Nam Cao cái làng Vũ ại, nơi xa huyện xa tỉnh, bọn cường hào, ác bá
ra sức ức hiếp dân lành.
Không gian trong sáng tác Nam Cao ít được sử dụng làm nền cho những
xung đột xã hội mà chủ yếu là không gian riêng tư, cá nhân, khống gian sinh tồn
của một làng quê cổ hủ. Trong cái không gian tù hãm biết bao nhân vật của Nam
Cao bị cầm tù, bị đày ải, tủi nhục (Dì Hảo, Nghèo, Điếu văn, Lão Hạc,…)
Không gian trung tâm trong sáng tác của Nam Cao là không gian nhà ở, căn
buồng. Chính không gian này tương ứng với thời gian cá nhân hằng ngày đã tạo
điều kiện cho Nam Cao triệt để khai thác cái hằng ngày của đời sống. ời sống của
các nhân vật hiện lên cụ thể, chân thực, sinh động. Nhân vật phải đối diện với chất
văn xuôi đời thường có nguy cơ làm xói mòn, tan vỡ những mơ ước, khát vọng
của ộ ( ời thừa). ọ cố vượt thoát khỏi không gian ngột ngạt, bế tắc nhưng đành bất
lực…
Cùng với việc đổi thay không gian, thời gian nghệ thuật cũng được mở ra
nhiều chiều nhờ những hồi tưởng, ước mơ và suy tưởng của nhân vật. Nó phù hợp
với lối kết cấu tâm lí – một thủ pháp kết cấu cơ bản nhất trong truyện ngắn Nam
Cao.
6. Ngôn ngữ và giọng điệu
Nam Cao là một trong số ít nhà văn có ý thức sâu sắc xem ngôn ngữ là đối
tượng miêu tả của mình. Nam Cao thường viết những câu rất ngắn, cộc. Câu ngắn
làm cho mạch văn đi nhanh, giọng văn đanh lại. ọc Nam Cao ít khi gặp giọng
mềm mỏng, âu yếm. Nam Cao nói toạc ra hết, không kiêng nể mà cũng chẳng giữ
gìn, ý tứ. ôi khi ngôn ngữ Nam Cao trở nên khắc nghiệt, tàn nhẫn “Từ yêu chồng
bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi” (Đời
thừa). Ông diễn tả nỗi đau thương của một người phụ nữ khi tình nhân chết “Và

khi trông thấy tình nhân, mụ rú lên. Mụ vật vã người, khóc rống như một con chó
chưa quen xích” (Lang Rận)…
ọc truyện ngắn Nam Cao, ta bắt gặp rất nhiều những từ ngữ đặc biệt của
nông dân Bắc Bộ. Những từ ngữ trong sinh hoạt hàng ngày, những cách so sánh,
ví von, chẳng hạn “chõ mồm vào”, “buồn cười chửa, có vậy mà gắt như mắm


thối”… Ngôn ngữ này là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên phong
cách truyện ngắn Nam Cao.
Nam Cao tỏ ra đã làm chủ và phát huy triệt để phương diện đối tượng miêu
tả của ngôn ngữ văn chương. Nam Cao đã tạo ra trong truyện ngắn của mình thứ
ngôn ngữ bên trong, góp phần tích cực và hiệu quả vào quá trình phân tích tâm lí
nhân vật.Trong truyện ngắn Nam Cao ta rất khó phân biệt đâu là độc thoại của
nhân vật, đâu là ngôn ngữ trần thuật của tác giả vì văn Nam Cao luôn có sự
chuyển dịch từ lời này sang lời khác một cách sinh động và biến hóa.
Giọng điệu trong truyện ngắn Nam Cao là giọng đa thanh, đối thoại, bề
ngoài dửng dưng, khách quan, lạnh lùng nhưng bên trong thấm đẫm tình cảm
thương yêu dành cho nhân vật.
IV. So sánh thi pháp truyện ngắn Thạch Lam và Nam Cao
1. Những điểm tương đồng
- Về quan niệm văn chương: hai nhà văn gặp gỡ nhau ở tư tưởng nhân đạo
tiến bộ, sâu sắc, làm cho lòng người “thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch
Lam), cho người “gần người hơn” (Nam Cao).
- Về đối tượng: truyện ngắn của Thạch Lam và Nam Cao đều miêu tả về
cuộc sống con người dưới chế độ xã hội thực dân, phong kiếnvà biểu hiện sự đồng
cảm của nhà văn đối với cuộc sống của người nông dân.
- Về cốt truyện và kết cấu: Trong nhiều truyện ngắn Thạch Lam và Nam
Cao đều lựa chọn kiểu truyện phi cốt truyện. Nếu Thạch Lam thường chú ý khắc
họa những khoảnh khắc của cảm xúc và tâm trạng trong đời sống tâm hồn con
người thì Nam Cao quan tâm đến những chuyện đời thuwonhg, hàng ngày đang

diễn ra với những dằn vặt, băn khoăn, trăn trở. ai nhà văn cũng thường chọn lối kết
cấu tâm lí để xây dựng truyện ngắn của mình.
- Về không gian, thời gian: đều miêu tả thời gian hiện thực hàng ngày, miêu
tả một vùng quê nông thôn vắng lặng, xác xơ vì nghèo đói. Các nhân vật trong tác
phẩm dường như muốn thoát ra khỏi không gian ngột ngạt, tù túng nhưng đành bất
lực, không gian cứ như một sợi dây vô hình trói buộc con người.


2. Những điểm khác biệt
Nếu trào lưu lãng mạn có khuynh hướng đi tìm chân trời lý tưởng, ngoài
hiện thực thì thái độ của nhà văn hiện thực là nhìn thẳng vào hiện thực, vạch trần,
tố cáo hiện thực... để phủ định thực tại. Như vậy, lối viết của Nam Cao là do ảnh
hưởng của lối viết hiện đại hóa văn học đầu thế kỉ XX trong khi đó lối viết của
Thạch Lam là lối viết văn xuôi lãng mạn.
- Về thế giới nhân vật: đối tượng Thạch Lam quan tâm là phụ nữ và trẻ em,
qua đó nhà văn gửi gắm cái nhìn đầy nhân hậu về con người và cuộc đời. Nam
Cao lại quan tâm đến những con người xấu xí, dị dạng, nhân vật tư tưởng, tự ý
thức từ đó thể hiến cái nhìn nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của một nhà nhân đạo lớn.
- Về không gian, thời gian nghệ thuật: trong khi Thạch Lam quan tâm đến
không gian hồi tưởng, khát vọng thì Nam Cao hướng sự chú ý đến không gian cá
nhân với nhà ở, căn buồng – nơi chứng kiến những ngột ngạt, bế tắc của nhân vật.
Vì thế truyện ngắn của Thạch Lam dù buồn vẫn không thôi hướng con người đến
viễn cảnh tươi sáng. Còn truyện ngắn Nam Cao đòi hỏi con người đối diện với sự
thực, từ đó bằng sự hướng thiện họ sẽ đấu tranh để tự vươn lên, hoàn thiện bản
thân.
- Về ngôn ngữ và giọng điệu: Nếu ngôn ngữ trong truyện ngắn Thạch Lam
giản dị, trong sáng, giàu chất thơ thì ngôn ngữ truyện ngắn Nam Cao gai góc, lạnh
lùng. Giọng điệu Thạch Lam nhẹ nhàng, đôn hậu thì Nam Cao đa thanh, đối thoại.
iiều này góp phàn tạo dựng nên giọng điệu riêng, phong cách độc đáo của từng
nhà văn.

3. Phương pháp giảng daỵ so sánh thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, Nam
Cao
So sánh là phương pháp giúp học sinh có cái nhìn bao quát hơn về những
dòng văn học mà mình muốn tìm hiểu. Do vậy trong quá trình giảng dạy cần chú
ý: có thể hướng dẫn học sinh làm bài tập nhóm, thuyết trình, thảo luận. Những vấn
đề đưa ra đều được giao và có sự chuẩn bị chu đáo từ trước để những giờ luyện
tập, thực hành phát huy được hiệu quả.
* Hướng dẫn học sinh so sánh đề tài, chủ đề trong tác phẩm


- ãy so sánh đề tài trong truyện ngắn Thạch Lam, Nam Cao?
- Cách lựa chọn đề tài, chủ đề đã thể hiện mối quan tâm gì của hai nhà văn?
* Hướng dẫn học sinh so sánh cốt truyện, kết cấu
- Cốt truyện và kết cấu trong truyện ngắn Thạch Lam, Nam Cao?
* Hướng dẫn học sinh so sánh nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn trong truyện ngắn Thạch Lam,
có gì khác so với truyện ngắn Nam Cao?
* Hướng dẫn học sinh so sánh ngôn ngữ và giọng điệu
- So sánh ngôn ngữ, giọng điệu của Thạch Lam và Nam Cao qua Hai đứa trẻ và
* Hướng dẫn học sinh so sánh không gian và thời gian
- Không gian và thời gian của truyện ngắn Hai đứa trẻ có gì khác so với truyện
ngắn Chí Phèo?


KẾT LUẬN
Văn học so sánh là một bộ môn khoa học ngày càng khẳng định vai trò và ý
nghĩa của mình trong lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy văn học. Việc vận dụng
những cơ sở lí luận của văn học so sánh vào giảng dạy nhằm kích thích tư duy và
khả năng chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh. So sánh theo hướng thi
pháp thể loại là lối đi mang tới những hiệu quả cho công tác giảng dạy, phát hiện

học sinh giỏi cũng như học tập của học sinh.
Thạch Lam và Nam Cao có thể coi là những “bậc thầy” về truyện ngắn.
Dưới góc nhìn thi pháp thể loại, những đóng góp mới mẻ của từng nhà văn đều
được ghi nhận và đánh giá cao. Với lối đi riêng, giọng điệu riêng, cách nhìn và
cách khám phá đời sống khác nhau, Thạch Lam và Nam Cao đã góp phần làm nên
diện mạo của văn xuôi 30 - 45 cũng như văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
Chuyên đề “Thi pháp truyện ngắn qua một số tác phẩm của Thạch Lam,
Nam Cao” có ý nghĩa thiết thực trong quá trình giảng dạy môn Văn trong nhà
trường phổ thông, đưa ra được hướng giảng dạy phù hợp để đọc hiểu sâu tác phẩm
đồng thời góp phần phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi.
Trong quá trình áp dụng chuyên đề cần kết hợp với các phương tiện dạy học
khác nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy như máy chiếu, tranh ảnh, một số kiến
thức bổ trợ về văn học 930-1945.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mikhail Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đôttoiepxki, Phạm Vĩnh Cư dịch,
2. Bích Thu (tuyển chọn), Nam Cao về tác gia và tác phẩm, Nxb GD, 1999
3. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (tuyển chọn), Thạch Lam về tác gia và tác phẩm,
Nxb GD, 2006
4. Nguyễn Văn Dân, Lí luận văn học so sánh, Nxb
5. Trần Thanh

ạm, Dẫn luận văn học so sánh, Tủ sách

QG

à Nội, 20
T


Tp CM,

995

6. Nhiều tác giả, Sách giáo khoa Ngữ văn 11 nâng cao, tập , Nxb Giáo dục,
2009
7. Nhiều tác giả, Sách giáo viên Ngữ văn 11 nâng cao, tập , Nxb Giáo dục, 2009
8. Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học văn theo loại thể, Nxb

SP, 2005

9. Nguyễn ải à, Thi pháp tiểu thuyết Leptônxtôi, NXB Giáo dục,

, 992

10. Nguyễn Thái òa, Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục,
11. Trần

, 2000

ình Sử, Tuyển tập Trần Đình Sử (2 tập), NXB Giáo dục, H, 2005


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận (5)
1. Văn học so sánh (5)
2. Khái niệm thi pháp (5)
3. Thi pháp truyện ngắn 930-1945 (5)

II. Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam (6)
1. Quan niệm văn chương (6)
2. Cốt truyện, kết cấu (8)
3. Thế giới nhân vật (10)
4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật(11)
5. Không gian và thời gian nghệ thuật (11)
6. Ngôn ngữ và giọng điệu (13)
III. Thi pháp truyện ngắn Nam Cao (14)
1. Quan niệm sáng tác (14)
2. Cốt truyện, kết cấu (15)
3. Thế giới nhân vật (15)
4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật (17)
5. Không gian và thời gian nghệ thuật (17)
6. Ngôn ngữ và giọng điệu (18)
IV.

So sánh thi pháp truyện ngắn Thạch Lam và Nam Cao (19)

1. Những điểm tương đồng (19)
2. Những điểm khác biệt (20)
3. Phương pháp giảng dạy so sánh thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, Nam Cao
(20)
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


×