Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế đối NGOẠI PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH KINH tế đối NGOẠI của VIỆT NAM TRONG NHỮNG năm QUA, một số BIỆN PHÁP cần THỰC HIỆN TRONG QUÁ TRÌNH hội NHẬP KINH tế QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.33 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

2

1

3

Chính sách kinh tế đối ngoại và tình hình kinh tế đối ngoại
của Việt Nam trong những năm qua.

1.1

Chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam.

3

1.2

Tình hình kinh tế đối ngoại củaViệt Nam trong những năm qua.

5

1.3

Liên hệ chính sách kinh tế đối ngoại của Chính phủ Việt Nam với

11


các cam kết khi gia nhập WTO.
2

Một số nhiệm vụ và biện pháp cần thực hiện trong quá trình

15

hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1

Một số nhiệm vụ quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế

15

quốc tế.
2.2

Những biện pháp bổ trợ cần thực hiện trong quá trình hội nhập.

18

KẾT LUẬN

27

TÀI LIỆU THAM KHẢO

28

MỞ ĐẦU

Sự phát triển kinh tế đối ngoại nước ta trong thời gian vừa qua đã có ý
nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế


2

của nước ta. Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu cả về tăng trưởng xuất nhập
khẩu, thu hút vốn nước ngoài và phát triển du lịch.
Những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong hai thập kỷ đổi mới vừa qua đã
mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam
đã tạo ra được một mơi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng
động hơn bao giờ hết. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến
khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động các nguồn lực xã hội
phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thơng
thống hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển thêm một số lĩnh
vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như du lịch, xuất khẩu
lao động, tiếp nhận kiều hối...
Sự phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại thúc đẩy kinh tế trong nước phát
triển và sự phát triển các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự phát triển của
lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc phát triển mạnh của lĩnh vực kinh tế đối ngoại
làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một mắt khâu quan trọng trong chuỗi giá
trị toàn cầu và do đó, sự tăng trưởng kinh tế tồn cầu làm tăng giá trị nền kinh
tế. Động lực phát triển kinh tế tồn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng
trưởng trực tiếp của nền kinh tế.
Từ những lý do trên tơi xin chọn chủ đề: “Phân tích chính sách kinh tế
đối ngoại của Việt Nam trong những năm qua và một số nhiệm vụ và biện pháp
cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” làm bài tiểu luận của
môn học Kinh tế đối ngoại


NỘI DUNG
1. Chính sách kinh tế đối ngoại và tình hình kinh tế đối ngoại của Việt
Nam trong những năm qua.


3

1.1. Chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với
các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất
nước làm mục tiêu cao nhất.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với
chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để
ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan
hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái
Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các
đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách
thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi,
bổ sung, hồn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn
định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn FDI,
ODA, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác định đúng mục tiêu sử
dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến phương thức quản
lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỉ lệ vay
nợ nước ngồi hợp lý, an toàn. Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật, bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ
quốc tế. Cải thiện môi trường đầu tư, chú trọng cải cách hành chính, đào tạo
nguồn nhân lực, tạo lập những điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh vốn đầu tư
quốc tế. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng
của nền kinh tế Việt Nam, được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam.

Phấn đấu để vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình
thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn
kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả
nguồn FDI. Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn ODA, đẩy nhanh tốc độ giải ngân,
nâng cao hiệu quả sử dụng, kiểm soát chặt chẽ, chống thất thốt và có kế hoạch
đảm bảo trả nợ. Từng bước mở rộng đầu tư gián tiếp của nước ngồi. Có chính
sách thu hút mạnh kiều hối vào phát triển kinh tế, xã hội.


4

Phát huy vai trị chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và
đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến
khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước
ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngồi.
Đẩy mạnh cơng tác văn hố, thơng tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự
hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước.
Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao,
có đạo đức và phẩm chất tốt.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự
tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Ðẩy mạnh xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến
có giá trị tăng thêm cao, giàu hàm lượng công nghệ, tạo thêm các sản phẩm xuất
khẩu chủ lực, hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và
nông sản chưa qua chế biến. Bằng các biện pháp ổn định và mở rộng thị trường
xuất khẩu, phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới lên hơn hai lần 5
năm trước. Chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu.

Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại
của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và
kinh tế đối ngoại; đối ngoại quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông
tin trong nước.
Thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến
năm 2020. Chính sách nhập khẩu của Nhà nước trong những năm tới là:
- Trước mắt dành một lượng ngoại tệ nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu phục
vụ sản xuất trong nước. Về lâu dài, một số nguyên liệu có thể tự lực cung cấp
bằng nguồn lực trong nước như xăng dầu, phân bón, bơng sợi …
- Ưu tiên nhập khẩu máy móc, thiết bị, cơng nghệ mới phục vụ cho việc
thực hiện những mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cho tăng
trưởng xuất khẩu. Chú ý nhập khẩu dụng cụ, phụ tùng thay thế đúng chủng loại.


5

- Tiết kiệm ngoại tệ, chỉ nhập khẩu vật tư phục vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hàng tiêu dùng để giảm thiểu nhu cầu nhu khẩu.
- Dành một tỉ lệ ngoại tệ thích hợp để nhập khẩu tư liệu tiêu dùng thiết yếu.
- Báo cáo chính đáng sản xuất nội địa.
- Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế
theo phương châm "Việt nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
1.2. Tình hình kinh tế đối ngoại củaViệt Nam trong những năm qua.
1.2.1.Hoạt động xuất nhập khẩu.
* Thành tựu:
Hoạt động xuất-nhập khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh và tốc
độ tăng trưởng trung bình (15-20%) cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân GDP

(7-8%) kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế. Điều đó thể hiện mức độ
hội nhập của nền kinh tế Việt Nam ngày càng lớn vào nền kinh tế thế giới và
khẳng định xu hường hội nhập thông thể đảo ngược của Việt Nam mà trước hết
và trực tiếp là lĩnh vực xuất - nhập khẩu.

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ qua một số năm
(nguồn: Tổng cục Thống kê)
Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam đạt con số kỷ lục là 36,74 tỷ USD vào
năm 2005 và đạt 44,98 tỷ USD vào năm 2006.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2010 đạt trên 72 tỷ USD, tăng 26,2%
so với năm trước. Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ đạt xấp xỉ 7,5 tỷ USD, tăng


6

29,4%. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ đạt xấp xỉ 79,5 tỷ USD,
cao nhất từ trước tới nay.
Như vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ năm 2010 cao
gấp 30,6 lần năm 1990 (xấp xỉ 18,7%/năm); cao gấp gần 10,5 lần năm 1995
(tăng 17%/năm); cao gấp trên 4,6 lần năm 2000 (tăng 16,5%/năm); cao gấp 2,2
lần năm 2005 (tăng 17,1%/năm); tăng 26,6% so với năm 2009.
Trong 18 nhóm mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên, có 10 nhóm
mặt hàng đạt từ 2 tỷ USD trở lên, có 8 nhóm mặt hàng đạt trên 3 tỷ USD, có 4
nhóm mặt hàng đạt từ 4 tỷ USD trở lên, có 3 nhóm mặt hàng đạt từ 5 tỷ USD trở
lên (dệt may, giày dép, thuỷ sản, trong đó dệt may đạt trên 11,2 tỷ USD). Tỷ lệ
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ so với GDP năm 2010 cũng đạt mức
cao nhất từ trước tới nay.
Tỷ lệ trên của Việt Nam cao thứ 3 trong khu vực (sau Singapore,
Malaysia), cao thứ 4 ở châu Á (thêm Hongkong) và cao thứ 5 trên thế giới (thêm
Bỉ) chứng tỏ độ mở của nền kinh tế Việt Nam là khá rộng.


Xuất khẩu hàng hố và dịch vụ bình qn đầu người
Kim ngạch xuất khẩu hàng hố và dịch vụ bình qn đầu người năm 2010
đạt 915 USD, tuy còn thấp hơn mức trung bình của khu vực, châu Á và thế giới,
nhưng đã cao hơn nhiều so với các năm trước đây. Năm 2010 đạt mức cao nhất từ
trước tới nay, cao gấp trên 23,3 lần năm 199; gấp gần 8,7 lần năm 1995; gấp trên
4,1 lần năm 2000; gấp gần 2,1 lần năm 2005 và tăng 25,1% so với năm 2009.


7

Với các điểm vượt trội trên, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là định hướng,
là lối ra và là động lực của tăng trưởng kinh tế, góp phần làm cho tăng trưởng
kinh tế tương đối cao, tăng liên tục, tăng trong thời gian dài như vừa qua; đạt
được tốc độ tăng cao ngay cả khi thế giới chưa hoàn tồn phục hồi sau cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu là nỗ lực của Việt Nam
nhằm đón đầu cơ hội phục hồi của thị trường thế giới.
Mục tiêu xuất khẩu hàng hoá đề ra cho năm 2011 là tăng 10%. Tháng 1 đã
tăng 18,1%, trong đó có một số mặt hàng kim ngạch tăng cao hơn (như cao su,
xăng dầu, sắt thép, hạt điều, cà phê, sắn và sản phẩm sắn, dệt may, điện tử, máy
tính, dây điện và cáp điện, phương tiện vận tải và phụ tùng,…), với giá xuất
khẩu tính bằng USD của hầu hết các mặt hàng cao hơn cùng kỳ năm trước
(trong đó có loại tăng rất cao, như cao su, hạt tiêu, hạt điều, cà phê, than đá, sắn
và sản phẩm sắn, dầu thô, xăng dầu,…). Đồng thời, với sự hỗ trợ của đợt tăng tỷ
giá mới đây - đó sẽ là những tín hiệu khả quan để cả năm xuất khẩu có thể vượt
mục tiêu đề ra và tiếp tục đạt kỷ lục mới.
* Hạn chế:
Bên cạnh những thành công đạt được, hoạt động xuất - nhập khẩu vẫn bộc
lộ những hạn chế. Trước hết, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu còn lạc hậu, chủ
yếu là các mặt hàng dễ sản xuất, hàm lượng giá trị tăng thêm thấp và là mặt

hàng sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và lao động giản đơn như dầu khí,
hàng nơng sản nhiệt đới, hàng dệt may…Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn như hồ tiêu, gạo, cà phê…có khả năng chi
phối đến giá cả thế giới nhưng thiếu cơ chế thực hiện.
Do tỷ trọng quá cao của khu vực đầu tư nước ngoài trong tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước cho nên có thể đánh giá khả năng xuất khẩu của khu vực kinh
tế trong nước khá hạn chế. Các mặt hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu là các mặt hàng
có giá trị gia tăng thấp mà thực chất là bán rẻ tài nguyên và lao động. Các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn còn gặp khá nhiều hạn chế về thơng tin thị trường nước
ngồi, kỹ năng đàm phán và chưa thật quen thuộc với những thông lệ quốc tế
cho nên phải chịu những thua thiệt khi bị kiện (vụ kiện bán phá giá cá basa Việt


8

Nam trên thị trường Mỹ và vụ kiện bán phá giá giày mũ da trên thị trường Liên
minh châu Âu) hoặc chịu nhiều thiệt hại do gặp rủi ro khác.
1.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Năm 1987, Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành. Đầu tư nước
ngồi trực tiếp khơng chỉ tăng thêm nguồn vốn mà quan trọng hơn là giúp chúng
ta nâng cao kỹ thuật quản lý, trình độ cơng nghệ, đào tạo nghề, thị trường và giải
quyết một phần vấn đề việc làm.
Sau hơn 20 năm mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, đối tác đầu tư hơn 70
quốc gia và vùng lãnh thổ đã có mặt tại Việt Nam. Đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam mà đặc biệt là đầu tư trực tiếp có xu hướng tăng nhanh trong những năm
gần đây do thực hiện những cải thiện quan trọng của môi trường đầu tư trong
nước đã làm tăng mức hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài đặc biệt là việc
loại bỏ dần các rào cản trong đầu tư như cam kết có liên quan đến Hiệp định về
các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), Hiệp định Thương mại
Việt-Mỹ, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt-Nhật, mở cửa thị

trường, sự thay đổi trong chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư nướcn goài và
những thay đổi trong quan hệ quốc tế trong khu vực…
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2010, số đăng ký đạt 18,6 tỷ USD,
tuy thấp hơn năm trước, nhưng số thực hiện đạt 11 tỷ USD, tăng 1 tỷ USD, cao
thứ hai từ trước tới nay (sau mức 11,5 tỷ USD của năm 2008).
Tính đến cuối năm 2010, cả nước có 12,2 nghìn dự án FDI còn hiệu lực,
với tổng số vốn đăng ký 192,9 tỷ USD. Hiện đã có 63/63 địa phương trên cả nước
đều có dự án FDI, trong đó có 25 địa bàn đạt từ 1 tỷ USD trở lên, ngoài các địa
bàn thuộc các vùng động lực, quen thuộc, đã xuất hiện nhiều địa bàn đáng lưu ý
có số vốn FDI đăng ký cao như: Ninh Thuận, Quảng Nam, Hà Tĩnh, Thanh Hoá,
Phú Yên, Quảng Ngãi, Kiên Giang, Hưng Yên, Nghệ An, Bình Thuận,…
Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định tránh đánh thuế trùng,
hiệp định bảo hộ đầu tư với nhiều quốc gia đối tác quan trọng trong đầu tư của
Việt Nam…Các hoạt động đầu tư nước ngồi đang dần dần có vai trị ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và là khu vực đi tiên phong trong cạnh
tranh quốc tế so với các lĩnh vực khác của kinh tế đối ngoại. Khả năng gia tăng


9

của dòng vốn đầu tư trực tiếp này còn rất lớn trong thời gian tới vì những cơ hội
thị trường đầu tư của Việt Nam cịn rất lớn, nhiều hình thức đầu tư mới đã được
pháp luật Việt Nam cho phép vận hành sáp nhập và mua lại (M & A), đầu tư
gián tiếp, cho phép việc mua cổ phần, việc mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản, mạng lưới phân
phối. Các phương thức tổ chức đầu tư như thành lập khu công nghiệp tập trung,
khu chế xuất, thành phố mở cửa, khu cơng nghệ cao đang góp phần thúc đẩy
mạnh mẽ hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Một số công ty xuyên
quốc gia và chi nhánh của chúng đã xuất hiện ở Việt Nam. Điều đặc biệt là Việt
Nam đã có các quy định pháp luật rõ ràng về đầu tư nước ngoài, dấu hiệu khẳng

định sự trưởng thành của các doanh nghiệp Việt Nam. Đã tiếp nhận đáng kể
nguồn vốn đầu tư, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nhà đầu tư nước
ngồi, phục vụ trực tiếp cho q trình đổi mới kinh tế, giải quyết gần 1 triệu việc
làm trực tiếp và thúc đẩy xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, các nhà đầu tư lớn nhất
vào Việt Nam chủ yếu đến từ Châu Á (Đài Loan, Xingapore và Nhật Bản là 3
nước đứng đầu về lượng vốn đầu tư vào Việt Nam) khơng phải là những nhà đầu
tư có cơng nghệ nguồn, điều này cùng với việc các công ty xuyên quốc gia luôn
hạn chế chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài là yếu tố cản trở lớn khả đến năng đuổi kịp về công nghệ của các
doanh nghiệp Việt Nam.
1.2.3. Viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Từ năm 1990, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, EC, các nước
thuộc OECD và các nước Châu Á đã nối lại viện trợ cho Việt Nam. Nguồn vốn
ODA song phương đã tăng từ 75 triệu USD/năm trong giai đoạn 1985-1990 lên
khoảng 350 triệu USD năm 1992. Tuy nhiên, quan hệ với các tổ chức tín dụng
quốc tế chỉ được chính thức nối lại từ năm 1993 với Hội nghị các nhà tài trợ
dành cho Việt Nam tại Paris (sau này là Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ
dành cho Việt Nam - Hội nghị CG).
Sau 10 Hội nghị CG (từ 1993 đến 2003, các nhà tài trợ đã cam kết dành
cho Việt Nam tổng cộng là 25,39 tỷ USD (năm 2003 các nhà tài trợ đã cam kết
hỗ trợ Việt Nam 2,84 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay. Tổng giá trị vốn


10

ODA đã được hợp thức hoá bằng các hiệp định ký kết đạt khoảng 16,6 tỷ USD
(trong đó đã giải ngân khoảng 11 tỷ), bằng 83% tổng nguồn vốn ODA đã cam
kết, tập trung vào giao thông vận tải và điện.
Trong khi ODA trên thế giới ngày càng giảm, nhiều nhà tài trợ cắt giảm
ODA do yêu cầu trong nước, ODA cam kết dành cho Việt Nam vẫn tăng. Các

nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam là Nhật Bản, WB và ACB, chiếm khoảng 70%
tổng giá trị các hiệp định đã ký kết.
Thách thức về ODA đối với ta có nhiều, trong đó có những thách thức
hiện nay gồm giải ngân, đấu thầu, giá cả cạnh tranh .... Và thách thức về lâu dài
là hiệu quả các cơng trình ODA, việc trả nợ và tín nhiệm về kinh tế của ta đối
với cộng đồng quốc tế.
1.2.4. Chuyển giao công nghệ.
Pháp luật bảo vệc quyền sở hữu công nghiệp được hồn thiện dần, nhiều
hình thức chuyển giao cơng nghệ đã được áp dụng và có xu hướng thúc đẩy sự
phát triển của thị trường cơng nghệ Việt Nam. Hình thức cấp giấy phép, nhượng
quyền thương mại, đấu thầu quốc tế, các hoạt động xây dựng và phát triển
thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm và dịch vụ đang có xu hướng phát triển
mạnh. Hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi đã được thực hiện. Các công nghệ lắp ráp, sửa chữa ô tơ, xe
máy, các sản phẩm cơ khí, điện tử…đang được chuyển giao sang phía Việt Nam.
Tuy nhiên, có thể thấy đây là những công nghệ đơn giản, Việt Nam vẫn thiếu
cơng nghệ nguồn và bí quyết cơng nghệ là yếu tố kiến tạo thế mạnh cốt lõi và
năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Việc phát triển doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài làm giảm khả năng học hỏi và tiếp nhận bí quyết cơng nghệ. Tình trạng vi
phạm bản quyền, nạn hàng giả, buôn lậu…cũng là yếu tố cản trở khá lớn hoạt
động chuyển giao công nghệ.
1.2.5. Nguồn kiều hối.
Nguồn kiều hối (do kiều bào gửi về và do lao động làm việc ở nước ngoài
gửi về) tăng khá và đạt mức cao (8,1 tỷ USD) trong năm 2010. Khả năng có thể
đạt cao hơn cùng với sự phục hồi của kinh tế thế giới, cùng với việc thực hiện kế


11

hoạch xuất khẩu lao động cao hơn và giá USD tại Việt Nam tăng, lãi suất gửi tiết

kiệm bằng ngoại tệ cao hơn ở nước ngoài.
1.2.6.Ngành du lịch.
Lượng ngoại tệ thu được từ khách quốc tế đến Việt Nam năm 2010 đạt kỷ
lục mới và tăng khá cao so với các năm trước.
Lượng ngoại tệ năm 2010 thu được tăng cao (45,9%), do lượng khách
đến tăng khá (34,8%) và do số tiền chi tiêu bình quân một khách cao hơn
(khoảng 881,2 USD/người so với 813,9 USD/người, tăng 8,3%). Năm 2012 có
khả năng đạt và tăng cao hơn cùng với đà phục hồi của kinh tế thế giới và tỷ giá
VND/USD tăng sớm.
1.3. Liên hệ chính sách kinh tế đối ngoại của Chính phủ Việt Nam với
các cam kết khi gia nhập WTO.
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Đây là một quá trình vận động quan trọng mở ra cho Việt Nam
nhiều cơ hội và buộc Việt Nam phải đối mặt với những áp lực điều chỉnh cơ cấu
kinh tế và cơ chế quản lý với những thách thức to lớn và tất yếu.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là tổ chức thương mại lớn nhất toàn
cầu, chiếm hơn 90% thương mại thế giới. Hoạt động của tổ chức này được điều
tiết bởi 16 hiệp định chính. Đó là Hiệp định chung về thương mại và thuế quan
(GATT 1947), Hiệp định nông nghiệp, Hiệp định về thương mại hàng dệt - may,
Hiệp định thực thi Điều VII về trị giá tính thuế hải quan, Hiệp định về quy tắc
xuất xứ, Hiệp định thực thi Điều VI về chống bán phá giá và thuế đối kháng,
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng và Điều XVI của GATT, Hiệp
định về các biện pháp tự vệ và Điều XIX của GATT, Hiệp định về các biện pháp
đầu tư liên quan thương mại (TRIMS), Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm
dịch động, thực vật, Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại, Hiệp định
về giám định hàng hóa trước khi xếp hàng, Hiệp định về cấp phép nhập khẩu và
Điều VIII của GATT, Hiệp định về mua sắm của chính phủ, Hiệp định chung về
thương mại dịch vụ (GATS), Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí
tuệ liên quan thương mại (TRIPS).
Ðối với kinh tế đối ngoại và vị thế quốc tế của Việt Nam, cùng với việc

trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ


12

2008 - 2009, việc gia nhập WTO góp phần nâng cao đáng kể vị thế của ta trên
trường quốc tế và khẳng định với thế giới về chính sách đối ngoại chủ động, tích
cực và có trách nhiệm của Việt Nam. Với tư cách là thành viên WTO, ta có điều
kiện để tham gia tích cực và tăng cường vai trị trong hệ thống thương mại đa
phương, góp phần bảo vệ hiệu quả và mở rộng các lợi ích của đất nước, thể hiện
cụ thể trên các khía cạnh sau:
Thơng qua việc chủ động và tích cực tham gia đàm phán tại Vịng Ðơ-ha,
nhất là trong khn khổ Nhóm RAMs, ta có điều kiện cùng các nước đang phát
triển đấu tranh nhằm thiết lập một hệ thống thương mại đa phương cơng bằng,
cân bằng hơn và tính đến lợi ích của các nước đang và kém phát triển. Tiến trình
này đến nay đã đạt kết quả bước đầu: nhiều khả năng Việt Nam, cùng một số
thành viên mới gia nhập khác, sẽ được miễn trừ các nghĩa vụ mới về mở cửa thị
trường khi Vịng Ðơ-ha kết thúc.
Với tư cách thành viên WTO, chúng ta có điều kiện chủ động yêu cầu
đàm phán song phương với một số đối tác xin gia nhập WTO, qua đó góp phần
giải quyết các vướng mắc trong quan hệ kinh tế thương mại của ta với các đối
tác này.
Sau khi ta gia nhập WTO, nhiều đối tác kinh tế thương mại chủ chốt,
trong đó có Mỹ, EU, Nhật Bản, Ca-na-đa v.v., ngày càng nhìn nhận Việt Nam
như một đối tác giàu tiềm năng và quan trọng tại khu vực Ðông Nam Á. Chúng
ta cũng tận dụng các mối quan hệ mở rộng để đẩy mạnh triển khai liên kết kinh
tế song phương và khu vực. Theo đó, chúng ta đã ký và thực hiện Hiệp định
khung về thương mại và đầu tư với Mỹ (TIFA), hoàn tất đàm phán Hiệp định
Ðối tác Kinh tế (EPA) với Nhật Bản; đang đàm phán Hiệp định Mậu dịch Tự do
(FTA) với Chi-lê, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương (FIPA)

với Ca-na-đa, Hiệp định Ðối tác và Hợp tác (PCA) với EU; dự kiến sẽ khởi
động đàm phán Hiệp định đầu tư song phương (BIT) với Mỹ...
Tuy nhiên, việc gia nhập WTO và hội nhập sâu rộng cũng đặt ra những
thách thức cho kinh tế đối ngoại của ta. Trong cam kết gia nhập WTO, ta phải
chấp nhận thời hạn 12 năm trước khi được cơng nhận là nước có nền kinh tế thị
trường đầy đủ. Ðiều này tạo ra sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp và


13

ngành kinh tế của ta khi xảy ra các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp
do các đối tác nước ngoài khởi xướng. Do vậy, việc vận động các nước sớm
công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam là một ưu tiên của ta sau
khi gia nhập WTO. Bên cạnh đó, việc tham gia hàng loạt các tiến trình liên kết
kinh tế song phương và khu vực trong thời gian qua cũng hàm chứa khơng ít
thách thức, đặc biệt về nguồn lực đàm phán và khả năng tranh thủ các lợi ích do
hội nhập kinh tế quốc tế mang lại.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang có những đột biến khó lường, tiếp
tục tác động không thuận đến kinh tế trong nước, để tăng cường hiệu quả việc
thực thi các cam kết với WTO trong thời gian tới, qua đó phục vụ đắc lực sự
phát triển bền vững của đất nước, cần tập trung vào một số định hướng sau:
Thứ nhất, để sớm ổn định kinh tế vĩ mô, các bộ, ngành, địa phương và
doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ, đẩy mạnh việc thực hiện tám nhóm giải
pháp kinh tế nhằm sớm kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, đồng thời triển khai
những đối sách thích hợp để hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
thế giới hiện nay. Các biện pháp áp dụng cần phù hợp các tiêu chuẩn quốc tế và
quy định của WTO.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện đầy đủ các cam kết gia nhập WTO, đi đơi với
chủ động, tích cực tham gia đàm phán thương mại đa phương, nỗ lực cùng các
thành viên WTO với những kết quả cơng bằng, cân bằng và vì mục tiêu phát triển.

Thứ ba, sớm xây dựng và hoàn thiện chiến lược hội nhập kinh tế tổng thể
trong giai đoạn tới với những trọng tâm, ưu tiên rõ ràng và phù hợp điều kiện
phát triển của Việt Nam, trong đó thống nhất định hướng tham gia chủ động, tích
cực và cân bằng vào hội nhập đa phương và liên kết khu vực, song phương.
Chiến lược này cần bảo đảm các điều kiện thuận lợi nhất cho công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội bền vững ở trong nước, điều hòa được mối quan hệ phức
tạp, đan xen giữa các cam kết quốc tế của Việt Nam nhằm tăng cường tác động
bổ trợ lẫn nhau giữa các cam kết này, đồng thời nâng vai trò của Việt Nam trong
quá trình hoạch định chính sách thương mại tồn cầu.
Thứ tư, đẩy mạnh việc vận động chính trị và đàm phán kỹ thuật với các
đối tác về quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, góp phần giảm thiểu sự phân


14

biệt đối xử và tác động tiêu cực của các tranh chấp thương mại do các đối tác
nước ngoài khởi kiện nhằm vào các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng các
tiêu chuẩn ngày càng cao của giai đoạn hội nhập sâu rộng; đẩy mạnh việc tuyên
truyền, phổ biến thông tin để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và của toàn
xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ khi Việt Nam là thành viên WTO. Kinh tế Việt
Nam phát triển khả quan nhờ những yếu tố bên ngồi thuận lợi và chính sách vĩ
mơ thận trọng. Trong khi đó những trở ngại bên trong đã và đang làm giảm bớt
tốc độ phát triển. Một nguy cơ Việt Nam đang phải đối phó là sự phát triển thiếu
quân bình giữa các vùng và giữa hai giới giàu nghèo. Việc gia nhập WTO sẽ
giúp kinh tế phát triển thêm nhưng đồng thời sẽ làm cho sự phân hoá xã hội
ngày càng trầm trọng nếu Việt Nam không sẵn sàng đáp ứng với những xáo trộn
do sự hội nhập kinh tế toàn cầu tạo ra. Việc gia nhập WTO đánh dấu một giai
đoạn đổi mới thực sự. Nó địi hỏi Việt Nam thực hiện những cải tổ kinh tế sâu
rộng và khó khăn hơn những gì đã làm trong hai thập niên vừa qua. Việt Nam

cần phải chú trọng hơn về sự phát triển hạ tầng cơ sở và chất lượng của sự phát
triển thay vì chỉ máy móc nhắm vào những chỉ tiêu. Với đà phát triển hiện nay,
Việt Nam vẫn khơng có cơ may để thốt khỏi tình trạng tụt hậu và tham nhũng
so với những nước láng giềng, dù mức độ phát triển của những nước này thua
kém Việt Nam.
Việc gia nhập WTO đã đánh dấu quá trình tham gia sâu rộng của nền
kinh tế nước ta vào hệ thống kinh tế quốc tế, với những cơ hội và thách thức,
những tác động cả thuận và không thuận đối với công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ðặc biệt, quá trình này diễn ra trong bối cảnh kinh tế khu
vực và kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường và tác động sâu
rộng đến các nền kinh tế trên thế giới. Những thành tựu to lớn trong công cuộc
đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước trong hơn hai thập kỷ qua, cùng với cam
kết mạnh mẽ của Ðảng và Nhà nước ta tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, như sự
chủ động và quyết tâm của Chính phủ và của tồn xã hội trong việc tận dụng tối
đa các cơ hội và vượt qua các thách thức, là cơ sở vững chắc để chúng ta tin
tưởng vào những bước phát triển mới của đất nước trong thời gian tới.


15

2. Một số nhiệm vụ và biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
2.1. Một số nhiệm vụ quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể mang lại nhiều lợi ích kinh tế. Việc nhập
khẩu các sản phẩm trung gian và thu hút đầu tư mà trong nước không thể cung
cấp với giá tương ứng, việc chuyển giao công nghệ và các ý tưởng từ những
nước phát triển hơn, và việc tiếp cận thị trường vốn và hàng hóa quốc tế có thể
giúp chúng ta giải quyết một số hạn chế cố hữu để tăng trưởng và phát triển
nhanh hơn. Nhưng đó là những lợi ích tiềm năng chỉ có thể phát huy đầy đủ tác
dụng khi trong nước chúng ta có nội lực vững mạnh với những chính sách và thể
chế bổ trợ. Kinh nghiệm của những nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế

cao từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là phải kết hợp tốt giữa việc mở
cửa tự do hóa với việc duy trì mức tiết kiệm - đầu tư cao, ổn định kinh tế vĩ mô,
phát triển nguồn nhân lực và quản lý nhà nước tốt.
Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị Khóa IX: "Về hội nhập kinh
tế quốc tế" đã đề ra 9 nhiệm vụ quan trọng cần được thực hiện trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế:
1. Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các
tổ chức đảng, chính quyền, đồn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp
nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội
nhập kinh tế quốc tế, coi đó là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản và lâu dài của
nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân dân
ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà
nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ
thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và
nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả.
Trong khi hình thành chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự
phát triển của các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thơng... là những
lĩnh vực quan trọng mà ta cịn yếu kém.


16

3. Chủ động và khẩn trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới
cơng nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa
lợi thế so sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng,
hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị
trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hóa và
dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn ở trong nước cũng như trên thế
giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tiến trình điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản
phẩm, từng dịch vụ, từng doanh nghiệp, từng địa phương để có biện pháp thiết
thực nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh. Gắn quá trình
thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa IX về tiếp tục, sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước với quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình hội nhập cần quan tâm tranh thủ những tiến bộ mới của
khoa học, công nghệ; không nhập khẩu những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm
môi trường.
Đi đôi với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch
vụ của các doanh nghiệp, cần ra sức cải thiện môi trường kinh doanh, khả năng
cạnh tranh quốc gia thông qua việc khẩn trương đổi mới và xây dựng đồng bộ hệ
thống pháp luật phù hợp với đường lối của Đảng, với thông lệ quốc tế, phát triển
mạnh kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng
bộ máy nhà nước trong sạch về phẩm chất, vững mạnh về chuyên môn.
4. Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hồn
thiện các loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công nghệ,
vốn, bất động sản...; tạo mơi trường kinh doanh thơng thống, bình đẳng cho
mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế của Nhà
nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài
chính, ngân hàng.
5. Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, vững
vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo


17

đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong cơng nghiệp và
tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những tiêu chuẩn

chung nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh hiểu
biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những
chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm được kỹ năng
thương thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó, cần hết sức coi trọng
việc đào tạo đội ngũ cơng nhân có trình độ tay nghề cao.
Cùng với việc đào tạo nguồn nhân lực, cần có chính sách thu hút, bảo vệ
và sử dụng nhân tài; bố trí, sử dụng cán bộ đúng với ngành nghề được đào tạo và
với sở trường năng lực từng người.
6. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại.
Cũng như trong lĩnh vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và
hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa
phương hóa, đa dạng hóa thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức
quốc tế. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh
vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ
kinh tế quốc tế bình đẳng, cơng bằng, cùng có lợi, bảo đảm lợi ích của các nước
đang phát triển và chậm phát triển.
Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cần coi việc phục vụ công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu.
7. Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an
ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như
trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ quan quốc
phịng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho
q trình hội nhập.
8. Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) theo các phương án và lộ trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh của nước
ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi
cơ chế kinh tế. Gắn kết quá trình đàm phán với quá trình đổi mới mọi mặt hoạt
động kinh tế ở trong nước.

9. Kiện toàn ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm
quyền giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh


18

tế quốc tế.ủy ban gồm hai bộ phận: một bộ phận chuyên trách, một bộ phận kiêm
nhiệm bao gồm đại diện có thẩm quyền của các Bộ, Ban, ngành hữu quan.
2.2. Những biện pháp bổ trợ cần thực hiện trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ trên, chúng ta cũng cần tiến hành
các biện pháp bổ trợ sau đây nhằm tạo khả năng tốt nhất cho việc thực hiện các
cam kết hội nhập của ta và bảo đảm quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thực sự
đưa lại kết quả tích cực đối với sự phát triển của đất nước:
2.2.1. Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh
tế của Nhà nước
Đổi mới bên trong và hội nhập là hai q trình gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ
trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Đổi mới bên trong tạo tiền đề và điều kiện thúc đẩy hội
nhập kinh tế quốc tế. Ngược lại, hội nhập một mặt đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh
đổi mới, cải cách bên trong, mặt khác cũng tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy q
trình đổi mới đó. Để hội nhập đạt được kết quả tích cực, cần tiếp tục đẩy mạnh
quá trình đổi mới, cải cách thị trường theo những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại
thị trường, đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có
hoặc cịn sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất
động sản, thị trường khoa học - công nghệ. Phát triển thị trường hàng hóa và
dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước
cả ở thành thị và nông thôn; mở rộng thêm thị trường mới ở nước ngoài; xác
định thời hạn bảo hộ hợp lý và có điều kiện với một số sản phẩm quan trọng,
tích cực chuẩn bị để hội nhập thị trường quốc tế; xóa bỏ độc quyền kinh doanh

của các doanh nghiệp lớn. Mở rộng thị trường lao động trong nước và đẩy mạnh
xuất khẩu lao động; hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách để tạo cơ hội
bình đẳng về việc làm cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến
khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo lại và học nghề
mới. Sớm tổ chức thị trường khoa học - cơng nghệ và bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy
mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyển giao công nghệ. Phát triển
nhanh thị trường vốn, nhất là vốn dài hạn và trung hạn; vận hành thị trường


19

chứng khốn an tồn và hiệu quả; hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ; tăng khả
năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Tổ chức, phát triển thị trường bất động
sản; Nhà nước giao quyền sử dụng đất dài hạn cho người sản xuất, kinh doanh
và cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường theo quy định của
pháp luật.
Thứ hai, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những yếu kém hiện nay, gỡ bỏ những
vướng mắc cản trở sự phát triển. Cơ chế quản lý kinh tế cần được đổi mới sâu
rộng, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao
cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mơ của Nhà
nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tiêu cực, lãng phí, tham nhũng,
gây phiền hà. Nhà nước tạo mơi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các
doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; định hướng phát triển kinh tế xã hội; duy trì ổn định kinh tế vĩ mơ; điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm soát mọi
hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế. Cơ chế thị trường kết hợp với cơ chế kế hoạch, quy hoạch; tăng cường
công tác thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác thống kê; ứng
dụng các thành tựu khoa học - công nghệ trong công tác dự báo; kiểm tra tình
hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Chi ngân sách nhà nước cần bảo

đảm tính minh bạch, cơng bằng; gắn chi ngân sách với tốc độ tăng trưởng kinh
tế và hiệu quả quản lý kinh tế, tài chính. Nhà nước đầu tư vốn phát triển từ ngân
sách nhà nước căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội thông qua các công ty đầu tư;
chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay nhà nước mang tính hành chính sang có
chế cho vay theo ngun tắc thị trường, xóa bỏ bao cấp thơng qua tín dụng đầu
tư. Hệ thống thuế tiếp tục được cải cách phù hợp với tình hình đất nước và các
cam kết quốc tế; đơn giản hóa các sắc thuế; từng bước áp dụng hệ thống thuế
thống nhất không phân biệt đầu tư trong nước và nước ngoài; hiện đại hóa cơng
tác quản lý thuế. Cải tổ các ngân hàng thương mại quốc doanh thành những
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có sức cạnh tranh; xóa bỏ sự can thiệp hành
chính đối với các hoạt động cho vay của các ngân hàng này; mở rộng để tiến tới


20

xóa bỏ quy định khung lãi suất, tự do hóa lãi suất đi đơi với việc hình thành thị
trường tiền tệ hoạt động theo cung cầu; thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt
theo cung cầu ngoại tệ, từng bước tự do hóa tỷ giá hối đối; nâng cao năng lực
giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
2.2.2. Cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Về lâu dài, đầu tư và tích tụ vốn có ý nghĩa quyết định đối với đối với sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đối với một nước có trình độ phát triển thấp,
đầu tư tư nhân cịn yếu và cơ cấu sản xuất chưa phát triển đa dạng như Việt
Nam, theo kinh nghiệm quốc tế, mức đầu tư trong nước phải cao hơn mức tích
lũy nội bộ 25% GDP của ta hiện nay. Mở cửa hội nhập có tác động thúc đẩy đầu
tư, nhưng một mình nó khơng quyết định được mức đầu tư và tích tụ vốn. Do
đó, cần phải bổ trợ cho định hướng hội nhập bằng một chiến lược đầu tư đồng
bộ trong nước nhằm làm tăng hiệu suất đầu tư cho các doanh nghiệp, khơi dậy
và phát huy ý thức tự chủ kinh doanh của họ. Các chính sách khuyến khích đầu
tư cần ưu tiên cho việc xóa bỏ các biện pháp, chính sách có tác động làm tăng

giá các tư liệu sản xuất, trong đó có các biện pháp hạn chế thương mại; tăng các
biện pháp trợ cấp cho đầu tư sản xuất được áp dụng theo nguyên tắc không phân
biệt đối xử; đơn giản hóa chế độ khuyến khích đầu tư theo hướng làm rõ các
mục tiêu, cơng khai hóa và giảm bớt thủ tục hành chính; chú ý hơn đến đầu tư
sản xuất các ngành hàng phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; đa
dạng hóa cơ cấu nền kinh tế; đầu tư nhà nước vào cơ sở hạ tầng, thủy lợi, cảng
và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất có tác dụng khuyến khích đầu tư tư nhân
phát triển; kết hợp tốt giữa các biện pháp tăng cường xuất khẩu với thay thế
nhập khẩu ở một số lĩnh vực nhất định.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư cần phải dựa trên việc phát
huy các thế mạnh, các lợi thế so sánh quốc tế của đất nước, gắn với nhu cầu thị
trường trong nước và ngồi nước thì mới phát huy được hiệu quả và hỗ trợ cho
tiến trình hội nhập. Việc xây dựng chương trình chuyển dịch cơ cấu địi hỏi phải
xác định được về cơ bản cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong 10-20 năm tới (bao
gồm cả cơ cấu ngành, hàng và cơ cấu vùng), xác định được những ngành mũi
nhọn, những ngành cần ưu tiên phát triển trong một thời gian nào đó, những


21

ngành cần chun mơn hóa... để làm cơ sở xây dựng các lộ trình mở cửa và các
chính sách bảo hộ cụ thể theo phương châm có chọn lọc, hợp lý và có thời hạn.
Ngược lại, sự chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư,
lao động... với nước ngồi cũng sẽ tác động tích cực tới sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nước. Xây dựng chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế phải gắn
với việc thành lập cơ chế rà soát và điều chỉnh các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trung và dài hạn, các hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2010
và năm 2020 cho phù hợp hơn với các lợi thế so sánh tĩnh và động của ta nhằm
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam để cuối cùng xác định rõ các
ngành, hàng, lĩnh vực nào sẽ mở, mặt hàng, lĩnh vực nào cần được bảo hộ và
lịch trình của quá trình mở cửa đối với từng lĩnh vực, từng mặt hàng đó. Trước

mắt, chính sách đầu tư và phát triển kinh tế cần phải khai thác mọi nguồn lực
hiện có (lợi thế so sánh tĩnh), đặc biệt lao động dôi dư để đẩy mạnh xuất khâut
và tạo thêm công ăn việc làm là một yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa quan trọng
không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị - xã hội. Về trung và dài hạn, sự chuyển
dịch cơ cấu cần thuận chiều với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế thế giới, bám
sát với tín hiệu của thị trường, phù hợp với nhu cầu khơng ngừng biến đổi của
người tiêu dùng trong và ngồi nước. Theo đó, chính sách chuyển dịch cơ cấu
sản xuất trong nước phải làm cho tỷ trọng hàng thô hoặc sơ chế không ngừng
giảm tương đối, sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo tăng mạnh, dịch vụ
và sản phẩm của các ngành có cơng nghệ cao, hàm lượng chất xám nhiều chiếm
vị trí ngày một tăng. Hơn nữa, biện pháp để thực hiện sự chuyển dịch này là phải
không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng thiết bị vật tư nội địa chứ
không thể trông chờ vào sự bảo hộ quá mức.
2.2.3. Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng
nâng cao tính chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Việc đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước có một ý nghĩa rất
quan trọng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và việc nâng cao
khả năng cạnh tranh hội nhập của bản thân các doanh nghiệp nhà nước. Điều
này thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, chúng ta không thể hội nhập thực sự nếu cứ duy trì mãi cơ chế
quản lý hành chính, bao cấp đối với các hoạt động của các doanh nghiệp nhà


22

nước, vì như vậy là vi phạm "luật chơi chung" quy định là không phân biệt đối
xử, nhất là đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên, đối xử cơng
bằng và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, và các doanh nghiệp nhà nước
phải hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh;
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước cũng không thể hội nhập được nếu

không được tự chủ hạch tốn kinh doanh và kinh doanh khơng có hiệu quả, bởi
vì hiện nay trong số 5.429 doanh nghiệp nhà nước, tuy 71,1% báo cáo có lãi
nhưng chỉ có 40% là có hiệu quả nếu tính thêm các yếu tố như thời gian kéo dài,
lượng lỗ lãi, tỷ lệ khấu hao;
Thứ ba, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng khó có điều kiện để
vươn lên dù làm ăn có hiệu quả vì bị phân biệt đối xử, đặc biệt trong vấn đề tiếp
cận các nguồn vốn, vay tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh...
Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường cải cách, đổi mới một cách
toàn diện các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính tự chủ, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này, góp phần thực hiện chủ
trương kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo, đồng thời tạo thuận lợi cho tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới. Theo đó, chúng ta cần thực
hiện một số giải pháp đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
theo các hướng sau đây:
Một là, về số lượng doanh nghiệp, xây dựng lịch trình hằng năm giảm bớt
số lượng doanh nghiệp, lĩnh vực và ngành/nghề hoạt động của các DNNN, trước
mắt phấn đấu chỉ cịn các doanh nghiệp cơng ích, các tổng cơng ty và các doanh
nghiệp độc lập có ý nghĩa quan trọng. Các DNNN chỉ nên tập trung hoạt động
trong các lĩnh vực, ngành/ nghề then chốt mà Nhà nước cần nắm hoặc tư nhân
khơng có khả năng làm, như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, một số ngành công
nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng và cơng nghiệp cơng nghệ cao.
Hai là, về hình thức sắp xếp, thực hiện cổ phần hóa hoặc đa dạng hóa sở
hữu ở các DNNN mà Nhà nước khơng cần giữ 100% vốn để huy động thêm
vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả; mở rộng việc
bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong và ngồi nước. Thực hiện việc bán, khốn,
cho thuê các DNNN loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải
thể, phá sản các DNNN hoạt động khơng có hiệu quả.


23


Ba là, xúc tiến thành lập cơ quan mua bán nợ để giải phóng nợ đọng cho
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp lành mạnh hóa tài chính và bảo
đảm sản xuất kinh doanh bình thường; nghiêm cấm các doanh nghiệp đi vay các
khoản vay ngắn hạn để đầu tư cho các dự án trung, dài hạn; nghiên cứu lại thời
hạn cho vay trung, dài hạn phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án.
Bốn là, xây dựng hệ thống chính sách để hồn thiện, nâng cao hiệu quả
và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước; từng bước tạo
khung pháp lý bình đẳng giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác, tiến tới xây dựng một luật chung cho các loại hình doanh
nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công
ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần; phân biệt quyền của chủ sở hữu
và quyền kinh doanh của doanh nghiệp; bảo đảm cho các doanh nghiệp có
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp như khi quyết định đầu tư, quyết định phương án kinh doanh, tự chủ về
tài chính, tự quyết về nhân sự và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Năm là, về đầu tư cho DNNN, thẩm định, kiểm tra thật chặt chẽ, nghiêm
ngặt việc thành lập mới các DNNN; thực hiện đầu tư cho DNNN thông qua
công ty đầu tư tài chính của Nhà nước và thơng qua thị trường vốn; giảm dần sự
ưu đãi, bao cấp và bảo hộ đối với các DNNN, đồng thời tạo điều kiện khuyến
khích và bảo đảm cho khu vực tư nhân phát triển trong sự cạnh tranh lành mạnh
và được đối xử bình đẳng như các doanh nghiệp quốc doanh;
Sáu là, bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển doanh
nghiệp nhà nước; hoàn thiện hệ thống đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ
quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là giám đốc; thực hiện chế độ tuyển chọn, bổ
nhiệm, gắn quyền lợi, nghĩa vụ của giám đốc với kết quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
2.2.4. Giải quyết vấn đề mất việc làm và thay đổi ngành nghề của người
lao động.
Hội nhập là mở cửa tham gia vào q trình tồn cầu hóa - cũng có nghĩa

là q trình cạnh tranh và phân cơng lao động quốc tế. Việc phá sản hoặc thu
hẹp sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô sử dụng lao động của một bộ phận


24

doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực, ngành nào đó kéo theo sự mất việc
của một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp đó là khơng thể tránh
khỏi. Tuy nhiên, bên cạnh việc có thể một hoặc một số ngành, nghề bị mất hoặc
teo đi, sẽ có những ngành, nghề mới ra đời hoặc được tập trung phát triển hơn,
thu hút lao động làm việc nhiều hơn trong các doanh nghiệp thuộc khu vực
ngành, nghề này. Như vậy, trong xã hội ở những thời điểm nhất định có thể sẽ có
tình trạng một bộ phận người lao động mất việc và phải tìm việc làm mới. Nhà
nước cần chủ động có chính sách và biện pháp thích hợp giải quyết vấn đề này,
tránh để nó trở thành một vấn đề có thể gây bùng nổ xã hội bằng việc hỗ trợ cho
sự hình thành mạng lưới an sinh xã hội nhằm giải quyết các nhu cầu của những
người khơng có khả năng tự lo cho mình và có các chương trình đầu tư xã hội để
giúp mọi người được đào tạo những kỹ năng cần phải có trong một nền kinh tế
hiện đại. Nhà nước cần sử dụng vai trò điều tiết phân phối lại thu nhập xã hội để
hỗ trợ những người bị thất nghiệp (Qũy bảo hiểm xã hội, Qũy hỗ trợ thất
nghiệp...) và có chính sách tái đào tạo nghề nghiệp giúp người lao động bị mất
việc có thể chuyển sang nghề khác.
Cần bổ sung điều chỉnh và chi tiết hóa các quy định của Luật Lao động về
các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm về hưu, bệnh tật, tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ, áp dụng cho các khu vực thành thị và các doanh
nghiệp. Luật chỉ quy định những nguyên tắc chung, còn các biện pháp tổ chức
thực hiện giao cho chính quyền các cấp xử lý. Về nguyên tắc, mỗi chế độ có một
qũy riêng. Nguồn qũy gồm hai khoản do người sử dụng lao động đóng được
chia thành hai tài khoản riêng gồm hai khoản trên và tài khoản chung chỉ do
doanh nghiệp đóng góp để chi dùng chung trong những trường hợp đặc biệt. Chỉ

khi nào mất cân đối thu - chi do các nguyên nhân bất khả kháng thì Nhà nước
mới hỗ trợ từ ngân sách, cịn bình thường thì doanh nghiệp và người lao động
phải bảo đảm. Với cách làm này, Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động
đều thấy rõ các khoản tiền của từng loại chủ thể, cơ bản khắc phục được tình
trạng sử dụng sai mục đích, lẫn lộn giữa qũy của chế độ này sang qũy của chế độ
khác, hoặc bị thất thốt. Vì mỗi cá nhân đều có tài khoản nên ngân hàng và bưu
điện chịu trách nhiệm chi trả các khoản bảo hiểm xã hội, không cần đến một hệ


25

thống chi trả đông người. Người lao động biết được mình có bao nhiêu tiền
trong các tài khoản bảo hiểm xã hội, số tiền đó trước sau họ cũng được hưởng
tồn bộ (nhất là tài khoản hưu trí) nên tự họ có sự điều chỉnh sử dụng thế nào
cho có hiệu quả, do đó tránh được tình trạng đóng ít hưởng nhiều hoặc đóng
nhiều mà khơng hưởng. Đồng thời, người lao động sẽ tích cực đóng góp hơn do
họ biết là tiền trong tài khoản cá nhân thực chất là tiền tích cóp và cịn được
hưởng phần quỹ chung.
2.2.5. Tăng cường cải cách hành chính.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã phân tích sâu sắc nội dung vấn đề cải
cách hành chính. Mặc dù cơng cuộc cải cách hành chính ở nước ta trong những
năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng vẫn còn một số tồn tại
chủ yếu sau:
- Thể chế hành chính vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của phát triển kinh
tế, xây dựng nhà nước, mở cửa hội nhập và phục vụ nhân dân, thể hiện ở thể chế
pháp luật không đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, trật tự kỷ cương bị vi phạm
nghiêm trọng; cải cách thủ tục hành chính chưa được tiến hành thường xuyên,
chậm tổng kết việc thực hiện "một cửa, một dấu", chậm công bố những văn bản
pháp luật hết hiệu lực hoặc khơng cịn phù hợp; số vụ khiếu nại, tố cáo hành
chính vẫn cịn tồn đọng nhiều; những phiền hà, sách nhiễu trong thực thi công

vụ chưa được khắc phục triệt để;
- Tổ chức bộ máy hành chính cịn cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng lớp
trung gian, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Đặc biệt, sự phân cấp thẩm
quyền trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa
phương chưa cụ thể, thiếu nhất quán, dẫn đến tranh chấp thẩm quyền, đùn đẩy
trách nhiệm và thiếu sự phối hợp giữa các ngành, các cấp;
- Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập. Đội ngũ đông nhưng
không mạnh, không đồng bộ, vừa thừa vừa thiếu; trình độ kiến thức, năng lực
lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ quản lý kinh tế thị
trường. Một bộ phận cán bộ thối hóa, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, cơ hội
trong thực thi cơng vụ. Chính sách đối với cán bộ, công chức, nhất là về tiền


×