Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ vị TRÍ, VAI TRÒ KINH tế TRI THỨC THỰC TRẠNG, QUAN điểm và GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH tế TRI THỨC ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.55 KB, 22 trang )

1
MỞ ĐẦU
Vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với
phát triển kinh tế tri thức lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Thực chất là quá trình CNH, HĐH “rút
ngắn” dựa trên tri thức; đó vừa là mục tiêu, vừa là phương thức để có thể thực
hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên việc “rút ngắn” quá
trình CNH, HĐH cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để
vừa có thể đi tắt, đón đầu, vừa giữ được tính bền vững trong từng bước phát
triển. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011-2020 và Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
khóa X được Ðại hội XI thông qua đều rút ra bài học trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức phải bảo đảm mục tiêu phát triển
bền vững nền kinh tế. Như vậy, Đảng ta đã chú ý nhiều hơn đến tính bền vững
trong quá trình thực hiện CNH, HĐH “rút ngắn” dựa trên tri thức. Đây là một
quan điểm mới, thể hiện sự đổi mới về tư duy lý luận của Đảng trong thực hiện
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung, phát triển năm 2011) phương hướng cơ bản để thực hiện các mục tiêu của
thời kỳ quá độ đó là: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện
CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi
trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn
kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…”
Nội hàm phát triển bền vững nền kinh tế ở nước ta, Ðại hội XI xác định:
Coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là yêu cầu ưu tiên hàng đầu,
chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Có sự kết hợp hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phải luôn coi trọng việc bảo vệ
và cải thiện môi trường sống. Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp đi lên xây




2
dựng CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hoá, để phát triển nền kinh tế tri thức cần
tiến hành đồng thời và lồng ghép hai quá trình: chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên
kinh tế công nghiệp và chuyển từ kinh tế nông - công nghiệp lên kinh tế tri thức
trong điều kiện chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá, tập trung quan liêu sang cơ
chế thị trường định hướng XHCN.
Trong thời đại kinh tế tri thức, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công
nghệ trung gian để đi ngay vào công nghệ tiên tiến, công nghệ cao. Song, điều
đó không có nghĩa cho phép chúng ta có thể chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai
đoạn mà bỏ qua những mục tiêu của phát triển bền vững.
Trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với tri thức và phát triển bền vững, nhằm đưa Nghị quyết vào cuộc sống đòi hỏi
chúng ta cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản trong quá trình phát triển kinh tế
tri thức ở Việt Nam giai đoạn hiện nay


3
NỘI DUNG
I. CÔNG NGHIỆP HÓA, QUAN NIÊM VỀ CNH, HĐH GẮN VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với phát triển
kinh tế tri thức lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng.
Vấn đề đặt ra là: Kinh tế tri thức là gì? vì sao và phải làm gì để đẩy mạnh
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức?
Thực ra, từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX cho tới nay, khoa học và công
nghệ đã có những bước phát triển kỳ diệu, đặc biệt là sự bùng nổ và sự hội tụ
của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, đúng như những tiên đoán của

C.Mác và Ph.Ăngghen từ giữa thế kỷ XIX “Tri thức sẽ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp”; “giá trị của lao động cơ bắp trong sản phẩm làm ra sẽ giảm còn
cực nhỏ”; “lực lượng sản xuất tinh thần”; “sự xuất hiện công nhân khoa
học”... thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi từ kinh tế công nghiệp sang kinh
tế tri thức.
Mặc dù xuất hiện từ khá sớm, nhưng thuật ngữ “kinh tế tri thức”
(knowledge economy) năm 1990 mới xuất hiện lần đầu tiên trong báo cáo của
một tổ chức quốc tế lớn là Liên hiệp quốc. Năm 1996, OECD đưa ra định nghĩa:
“Nền kinh tế tri thức là những nền kinh tế dựa trực tiếp vào sản xuất, phân phối
và sử dụng tri thức thông tin.
Đối với nước ta, sau hơn 25 năm đổi mới, với đường lối phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, kinh tế
Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng khá; kết hợp tốt tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội; đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt. Tuy vậy, kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất
nước. Nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào tài nguyên và lao động, giá trị do tri thức
tạo ra không đáng kể; chưa khơi dậy và phát huy tối đa năng lực sang tạo của con
người; nền kinh tế còn chứa đựng nhiều yếu tố phát triển không bền vững, đặc


4
biệt đang có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác; để tiếp tục đưa đất
nước phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc chuyển
nền kinh tế sang hướng phát triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết,
không thể trì hoãn. Bỏ lỡ thời cơ lớn Việt Nam sẽ tụt hậu xa hơn và đó là tổn hại
của Quốc gia.
Trong báo cáo chính trị tại Đại Hội X của Đảng đã chỉ ra: “Tranh thủ cơ
hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút
ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển

kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH,
HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt
Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.” dự thảo dự thảo Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm
động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế
tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”
Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta là quá trình vận dụng tri thức mới,
công nghệ mới vào tất cả các ngành kinh tế, làm tăng nhanh giá trị gia tăng của
sản phẩm; giảm thiểu tiêu hao nguyên liệu và lao động; tăng hiệu quả sản xuất
và chất lượng sản phẩm; dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại
hoá. Giải pháp có tính đột phá cho thành công của chiến lược này là giải phóng
các nguồn lực, quan trong nhất là nguồn lực con người, phát huy năng lực sáng
tạo đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN. Bởi, sáng
tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, là năng lực nội
sinh của nền kinh tế tri thức ngày nay.
Việt Nam là một nước nông nghiệp đi lên, trong bối cảnh toàn cầu hoá, để
phát triển nền kinh tế tri thức cần tiến hành đồng thời và lồng ghép hai quá trình:
quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và quá trình
chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp lên kinh tế tri thức trong điều kiện chuyển


5
đổi cơ chế từ kế hoạch hoá, từ tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định
hướng XHCN. Đây là cả một sự nghiệp vô cùng khó khăn. Trong khi đối với các
nước đi trước đó là hai quá trình kế tiếp nhau. Nền kinh tế Việt nam do đó phải
theo theo mô hình kinh tế hai tốc độ, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước
phát triển nhảy vọt. Một mặt tận dụng lao động, cơ sở vật chất hiện có, sử dụng

tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập.
Mặt khác đi thẳng vào hiện đại ở những khâu, những lĩnh vực, những ngành có
lợi thế, phát triển các ngành, các vùng kinh tế mũi nhọn tạo thành đầu tàu có sức
kéo lôi mạnh toàn bộ nền kinh tế đi lên.
Trong thời đại kinh tế tri thức, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công
nghệ trung gian để đi ngay vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, không lệ
thuộc vào cơ sở hạ tầng đã có. Trong các lĩnh vực công nghiệp dựa vào tri thức,
nhất là công nghệ thông tin, Việt Nam có thể chọn một số lĩnh vực để bứt phá
lên trước.
Nhiệm vụ trung tâm là sử dụng tri thức mới, công nghệ mới của thời đại
kết hợp với sáng tạo tri thức mới, công nghệ mới để nhanh chong chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ hàm
lượng tri thức cao, giá trị gia tăng cao. Đây chính là yêu cầu và nội dung của
công cuộc CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta đòi hỏi tiến hành một cuộc đổi mới
mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc hơn nữa, một cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó trọng tâm là: Đổi mới tư duy và cách thức phát triển kinh tế; đổi mới
giáo dục đào tạo; đổi mới các hoạt động khoa học và công nghệ; đổi mới thể
chế, chính sách và cơ chế quản lý.
Những nội dung cần đổi mới toàn diện, cần tập trung trọng tâm vào việc
nhận thức lại và thực hiện đúng chức năng, vai trò của nhà nước đối với phát
triển kinh tế, từ điều khiển, chỉ huy sang là “kiến trúc sư” của nền kinh tế tri
thức, định hướng phát triển, tạo môi trường thuận lợi và động viên mọi nguồn
lực để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.


6
1. Quan niệm về kinh tế tri thức
* Quan niệm trên thế giới về kinh tế tri thức
Trên thế giới hiện nay vẫn đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về kinh

tế tri thức, có thể phân loại một cách tương đối các cách hiểu khác nhau về kinh
tế tri thức vào ba cách tiếp cận sau:
Cách hiểu kinh tế tri thức dựa trên khía cạnh hẹp về tri thức. Có hai cách:
Hiểu “tri thức” với nghĩa hẹp, tức đồng nghĩa tri thức với khoa học và
công nghệ, hoặc đôi khi còn coi "tri thức" chủ yếu là cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, trong đó 4 công nghệ trụ cột là công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ không gian vũ trụ. Cách hiểu
này khá phổ biến ở Mỹ vào cách đay khoảng 7, 8 năm, như có thể thấy qua các
tài liệu của thượng nghị viện Mỹ (2000). Một số nước như Ấn Độ, Philippin
cũng đã có lúc chấp nhận cách hiểu này.
Cách tiếp cận ngành - Tách biệt nền kinh tế quốc dân thành hai bộ phận là
khu vực kinh tế tri thức và khu vực kinh tế cũ.
Theo quan niệm này khu vực kinh tế tri thức bao gồm các ngành được gọi
là các ngành dựa trên tri thức (theo phân loại của OECD). Hai khu vực kinh tế
này hoạt động với những cơ chế, qui luật và kết quả khác hẳn nhau. Nền kinh tế
tri thức phát triển tới trình độ càng cao khi các ngành kinh tế dựa trên tri thức
chiếm phần ngày càng lớn trong nền kinh tế. Có hai cột mốc cho thấy nền kinh
tế đã chuyển sang giai đoạn kinh tế tri thức:
Một là, Tỷ trong của khu vực công nghiệp và nông nghiệp lên đến điểm
cực đại và ngày càng giảm đi. Điểm mốc này đã xuất hiện ở các nước tiên tiến
nhất cách đây khoảng 30 năm.
Hai là, Tỷ trọng của các ngành dựa trên tri thức lớn hơn 70% (theo phân
loại của OECD 1996).
Cách tiếp cận rộng
Cách tiếp cận này dựa trên cách hiểu rộng về tri thức: Tri thức bao gồm
mọi hiểu biết của con người đối với bản thân và thế giới. OECD đã phân ra 4
loại tri thức quan trọng là biết cái gì, biết tại sao, biết như thế nào, biết ai. Kinh


7

tế tri thức không chỉ có nguồn gốc từ sự tiến bộ vượt bậc của các công nghệ mới
mà là kết quả tập hợp của ba nhóm nguyên nhân trực tiếp tác động tương tác lẫn
nhau bao gồm tiến bộ khoa học kỹ thuật; nền kinh tế toàn cầu hoá và cạnh tranh
quyết liệt; và các biến đổi văn hoá, chính trị, tư tưởng của chủ nghĩa tư bản hiện
đại. Cách tiếp cận nà cũng có hai nhánh tiếp cận tương tự nhau:
Từ khía cạnh lực lượng sản xuất: Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao
của lực lượng sản xuất. Cách hiểu này nhấn mạnh kinh tế tri thức chỉ là một nấc
thang phát triển của lực lượng sản xuất, không liên quan tới một hình thái kinh
tế - xã hội mới (xem các tài liệu của Đặng Hữu, 2001 và Nguyễn Cảnh Hổ,
2000).
Từ khía cạnh sự đóng góp của tri thức vào phát triển kinh tế. Cách quan
niệm này diễn giải định nghĩa của OECD đã nêu ở trên theo đúng nghĩa đen của
nó, tức là tri thức hay cụ thể hơn là những hoạt động sản xuất, truyền bá và sử
dụng tri thức, đã vượt qua vốn và lao động để trở thành nguồn lực chi phối mọi
hoạt động tạo ra của cải trong nền kinh tế tri thức. Trong đó tri thức là một khái
niệm rất rộng bao trùm mọi hiểu biết của con người.
Cách tiếp cận bao trùm. Theo cách tiếp cận này kinh tế tri thức thực chất
lf một loại môi trường kinh tế - văn hoá - xã hội mới có những đặc tính phù hợp
và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việ học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi
trường đó, tri thức tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất đóng góp
vào sự phát triển kinh tế và hàm lượng tri thức được nâng cao trong mọi hoạt
động kinh tế, văn hoá, xã hội. Do vậy cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế
tri thức, không chỉ đơn thuần là phát triển khoa học - công nghệ mà là phát triển
một nền văn hoá đổi mới, sáng tạo thể hiện trong cách nghĩ, cách làm của mọi
tác nhân kinh tế, xã hội để tạo thuận lợi nhất cho việc sản xuất, khai thác và sử
dụng mọi tri thức, mọi loại hiểu biết của loài người, cũng như xây dựng và phổ
biến các năng lực tri thức nội sinh.
Xét theo nghĩa này, kinh tế tri thức có thể được hiểu như một giai đoạn
phát triển mới của toàn bộ nền kinh tế, hoặc nói rộng hơn điều này sẽ dẫn tới
một giai đoạn phát triển mới của xã hội nói chung. Cách tiếp cận này ngày càng



8
dành được nhiều sự ủng hộ (xem các tài liệu của Ngân hàng thế giới 1998, Bộ
Công nghiệp, Giáo dục và Tài nguyên Australia, 1999, 2000)...
* Cách tiếp cận của Việt Nam về kinh tế tri thức
Ở Việt nam, từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước, vấn đề kinh tế tri
thức đã được giới các nhà khoa học, những người hoạch định chính sách, các
nhà quản lý đưa ra bàn luận khá nhiều. Kinh tế tri thức được nhìn nhận dưới
nhiều góc độ khác nhau, với những tầm mức và phạm vi khác nhau.
Trong không ít hội thảo, hội nghị, người ta đã bàn đến không ít các định
nghĩa khác nhau về kinh tế tri thức, tuy nhiên trong các vă bản chính thức của
đảng và nhà nước, chưa có văn bản nào nêu ra định nghĩa về kinh tế tri thức.
Mặc dù vậy trong số các định nghĩa về kinh tế tri thức được bàn đến, dường như
có một định nghĩa nổi lên và được công nhận bởi nhiều người. Đó là định nghĩa
của OECD và APEC nêu ra năm 2000. Định nghĩa rằng: “ Kinh tế tri thức là
nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực
chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo của cải, tạo việc làm trong tất cả các
ngành kinh tế”.
2. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
Thứ nhất, Tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý
nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu quyết định sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
Thứ hai, Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt
động kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng, trong đó cơ cấu sản xuất
dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ,
đặc biệt là công nghệ cao.
Thứ ba, Cơ cấu lao động trong kinh tế tri thức có những biến đổi so với nền
kinh tế tri thức trước đó: Lao động tri thức chiếm tỷ trọng cao (70-90%), nguồn
nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành

nhu cầu thường xuyên đối với mọi người.


9
Thứ tư, Trong nền kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày
càng cao, quyền sở hữu đối với tri thức trở nên quan trọng hơn những yếu tố như
tài nguyên, đất đai.
Thứ năm, Mọi hoạt động của kinh tế tri thức đều liên quan đến vấn đề toàn
cầu hóa, có tác động sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc
gia và trên toàn thế giới.
Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, các quốc gia có nền kinh tế và khoa
học công nghệ phát triển đã đề ra những chương trình, chiến lược nhằm hướng
nền kinh tế phát triển theo những đặc trưng của kinh tế tri thức. Có thể kể đến
những ví dụ tiêu biểu như: từ 1984 đến nay, mỗi năm chính phủ Mỹ chi hàng
trăm tỷ USD cho hoạt động khoa học, công nghệ. Từ những năm 80 của thế kỷ
XX, chính phủ Nhật đã dành cho chương trình vi điện tử hơn 100 tỷ USD.
Những năm 90 đến nay, nước Nhật đã dành khoảng 3% tổng sản phẩm quốc dân
cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Các nước Tây Âu cũng đẩy mạnh hoạt
động vào lĩnh vực công nghệ cao, như: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin,
công nghệ vật liệu mới, điển hình là các nước Đức, Pháp, Italia, Anh, Ba Lan...
Hiện nay theo số liệu của Ngân hàng thế giới, nếu xét chỉ số chi tiết và tổng hợp
của kinh tế tri thức thì các nước Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Singapore, Hồng
Công…. đều ở vị trí hàng đầu. Chỉ số kinh tế tri thức (KEI) của Mỹ là 9,02;
Nhật Bản là 8,42; Hồng Công là 8,33. Chỉ số sáng tạo của Mỹ là cao nhất: 9,47.
Theo quy định một ngành, một nước có thể nói là đã trở thành Kinh tế tri
thức khi tỉ lệ đóng góp của yếu tố tri thức trong tăng trưởng kinh tế, sản xuất các
sản phẩm, dịch vụ chiếm từ 70% trở lên. Có người đưa ra quy định tiêu chí của
Kinh tế tri thức được thể hiện ở 4 con số trên 70%.
Trên 70 % GDP là do các ngành sản xuất và dịch vụ sử dụng công nghệ cao
mang lại.

Trên 70 % cơ cấu giá trị gia tăng là do kết quả của lao động trí óc.
Trên 70 % lực lượng lao động là công nhân trí thức.
Trên 70 % tư bản là tư bản con người.


10
Từ năm 2000 ở một số nước phát triển nhất như Mỹ, Nhật Bản, Canađa,
kinh tế tri thức chiếm tỉ lệ trên 50%. Cũng từ năm 2000 trong các nước OECD
công nhân trí thức chiếm trên 35% lực lượng lao động.
II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC TRONG QUÁ TRÌNH ĐẨY
MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC.
Mỗi quốc gia dân tộc đều phải trải qua thời kỳ công nghiệp hoá đất nước.
Ở Việt Nam từ Đại hội III (1960) đến Đại hội V (1982) về đường lối xây dựng
kinh tế, Đảng ta chủ trương ''tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng
về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa,
trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ”.
Tại Đại hội V và Đại hội VI, Đảng ta đưa ra khái niệm: ''chặng đường trước
mắt'', ''chặng đường đầu tiên'' của thời kỳ quá độ. Theo đó: ''Chặng đường đầu
tiên là một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn''. Độ dài và vị trí của chặng
đường này được khẳng định trong Văn kiện Đại hội V: ''Chặng đường trước mắt
bao gồm thời kỳ đầu 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài đến năm 1990, là khoảng
thời gian có tầm quan trọng đặc biệt''
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V, đến Đại hội VI, Đảng ''Xác định
nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội trong chặng đường tiếp theo”
Đại hội VII (1991) của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh 1991, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa. Cương lĩnh viết: “Phát

triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời
sống nhân dân”.
Tháng 1-1994, Đảng ta tiến hành Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII. Trên cơ sở đánh giá khách quan những thành tựu và hạn chế của


11
đất nước, Hội nghị cho rằng: “Mặc dù còn nhiều yếu kém phải khắc phục,
nhưng thành tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất
nước chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Đại hội VIII (1996) của Đảng khẳng định những thành tựu sau 10 năm đổi
mới (1986-1996) đề ra phương hướng phát triển cho chặng đường tiếp theo. Văn
kiện Đại hội VIII viết: Công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thế và lực của nước ta về chất đã có sự chuyển
biến về chất. “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nghiêm trọng và
kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền
đề cần thiết chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”. Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa được
Đảng ta khẳng định từ Đại hội VIII, tiếp tục được bổ sung, phát triển trong các
văn kiện Đại hội IX, X, XI và các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư các khóa VIII, IX, X.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn còn những nhận thức khác nhau về đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hóa:
Tại Đại hội X của Đảng có ý kiến cho rằng chúng ta bàn nhiều về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng đến nay vẫn chưa thực sự đưa ra được những
tiêu chí cơ bản của một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa để làm mục tiêu
phấn đấu. Giải trình vấn đề này, Đoàn chủ tịch Đại hội X cho biết xin tiếp thu bổ

sung vào văn kiện Đại hội, tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để làm rõ những tiêu chí
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong quá trình xây dựng chiến lược
phát triển đất nước giai đoạn 2010 - 2020.
Năm 2011, tại Đại hội XI vẫn còn ý kiến đề nghị làm rõ các tiêu chí của
mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, xác định rõ nội dung cụm từ “nước công nghiệp”.
Việc ghi các chỉ tiêu định lượng vào mục tiêu phấn đấu trong văn kiện Đại
hội X có 3 loại ý kiến khác nhau:
+ Không ghi các chỉ tiêu đó vào trong Nghị quyết Đại hội.


12
+ Nhiều chỉ tiêu đề ra là quá cao, khó thực hiện.
+ Một số chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết còn thấp chưa tương xứng với
mục tiêu phấn đấu trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Giải trình những ý kiến trên, Đoàn Chủ tịch Đại hội XI cho biết trong quá
trình chuẩn bị văn kiện Đại hội XI, Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã chỉ
đạo nghiên cứu, tính toán, cân nhắc kỹ để xác định mục tiêu tổng quát, các mục
tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế xã hội, môi trường đến năm 2020.
Mục tiêu tổng quát mà chúng ta cần đạt được là “phấn đấu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, chính trị - xã
hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ được giữ vững, vị trí của Việt Nam được tiếp tục nâng lên, tạo tiền đề vững
chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.
Từ mục tiêu tổng quát nêu trên, Đại hội XI còn đề ra những mục tiêu chủ
yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường đến năm 2020: GDP năm
2020 bằng khoảng 2,2 lần so với 2010, GDP bình quân đầu người khoảng 3,5 lần
so với năm 2010, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85 %
trong GDP, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm khoảng 30 - 35 % lao động xã

hội, chỉ số phát triển con người HDI đạt nhóm trung bình của thế giới, tuổi thọ
bình quân đạt 75 tuổi, lao động qua đào tạo đạt từ 70%, đào tạo nghề đạt 55%
tổng lao động xã hội, số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân. Điểm mới trong văn
kiện Đại hội XI là Đảng đã đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu về bảo vệ môi trường:
Đến năm 2020 tỉ lệ che phủ rừng đạt 45 %, hầu hết dân cư ở cả thành thị và nông
thôn được sử dụng nước sạch, trên 80 % các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có
đạt tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.
Có thể nói với Đại hội XI của Đảng, mục tiêu tổng quát và những mục tiêu
chủ yếu về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường của nước Việt Nam đến năm
2020 đã được xác định trên những nét chủ yếu.
Một trong nhĩmg nhân tố quan trọng nhất để đạt các mục tiêu trên là đội
ngũ trí thức - nguồn lực chất lượng cao chủ yếu của đất nước.


13
Quán triệt quan điểm Hồ Chí Minh: Trí thức là vốn liếng quý báu của dân
tộc, trong đấu tranh giành chính quyền cần trí thức, kháng chiến, kiến quốc cần
trí thức, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội càng cần trí thức hơn, Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định. “Đội ngũ cán bộ khoa học, đặc biệt là cán bộ có trình
độ khoa học cao là vốn quý báu của dân tộc”.
Ngay từ Đại hội VIII - Đại hội xác định nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng đã chỉ rõ: Cùng với khoa học công nghệ,
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hóa. Văn kiện Đại hội III yêu cầu: Phát triển và kết hợp chặt chẽ các
ngành khoa học phục vụ việc xác định phương hướng, bước đi của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng pháp luật, chính sách, kế hoạch, chương trình kinh
tế xã hội.
Trong văn kiện Đại hội XI từ đổi mới mô hình tăng trưởng đến phát triển
nhanh gắn với phát triển bền vững. Đảng ta đều chú trọng làm nổi bật vị trí, vai

trò của trí thức. Đảng ta khẳng định phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định
để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước.
1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức.
Đảng ta quan niệm kinh tế tri thức là một xu thế khách quan, một trình độ
phát triển mới của lực lượng sản xuất. Việc nước ta tích cực, chủ động tiếp thu
kinh tế tri thức phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như là một biểu
hiện cụ thể của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Với chủ trương đó, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Văn kiện Đại hội IX khẳng định: Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là nhiệm vụ trung tâm. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần
và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần
tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy lợi thế của đất nước, tranh thủ áp dụng ngày


14
càng nhiều hơn, ở mức cao hơn, phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học
công nghệ, từng bước phát triển kinh tế Kinh tế tri thức.
Mười năm sau, nhận thức của Đảng ta về Kinh tế tri thức đối với công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có bước tiến rõ rệt. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
XI viết: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên
môi trường”.
Cũng như vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề Kinh tế tri thức
mấy năm gần đây trong Đảng và ngoài xã hội còn những nhận thức khác nhau:
Một số ý kiến cho rằng trong điều kiện nước ta, chưa nên gắn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa với Kinh tế tri thức. Bởi vì, cho đến nay nước ta vẫn còn là
nước nông nghiệp, hơn 70% dân cư vẫn sống ở địa bàn nông thôn. Nên chỉ

dùng cụm từ “từng bước phát triển Kinh tế tri thức như chủ trương tại Đại hội
IX của Đảng”.
Một số ý kiến khác bày tỏ quan điểm không nên coi Kinh tế tri thức là
chiếc đũa thần có thể giải quyết được mọi việc. Quá chú trọng đầu tư vào lĩnh
vực này là vượt quá khả năng của nước nhà.
Cần nhận thức rằng chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển Kinh tế tri thức là cần thiết và có tính khả thi vì:
Kinh tế tri thức là xu thế phát triển mới của thế giới hiện nay. Tất cả mọi
quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế chung mà
cần tích cực, chủ động phát triển Kinh tế tri thức phù hợp với điều kiện bên
trong và xu thế bên ngoài.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển Kinh tế tri
thức vừa thể hiện bước tiến trong nhận thức của Đảng vừa đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước. Ở Việt Nam, phát triển Kinh tế tri thức thực chất là thực hiện
chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn dựa trên tri thức.
Trên thực tế, những năm gần đây ở nước ta đã xuất hiện những mô hình
phát triển mới dựa vào tri thức. Đó là Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Đó là


15
việc ứng dụng những công nghệ cao trong một số cơ sở sản xuất công nghiệp
như đóng tàu, dầu khí, nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Việc phát triển Kinh tế tri thức đã đặt người trí thức vào vị trí trung tâm
của sự phát triển đó. Văn kiện Đại hội XI viết: “Thực hiện các chương trình, đề
án đào tạo nhân lực chất lượng cao, đổi mới các ngành, lĩnh vực chủ yếu mũi
nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho
phát triển kinh tế tri thức”. Văn kiện Đại hội XI còn chỉ ra những ngành, những
lĩnh vực khoa học công nghệ làm nền tảng cho phát triển Kinh tế tri thức cần tập
trung để phát triển là: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ môi trường.

2. Những khâu đột phá chiến lược để khai thông điểm nghẽn và vị trí,
vai trò của tri thức.
Đối với Việt Nam việc gắn công nghiệp hoá với hiện đại hóa, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa với Kinh tế tri thức đều khá mới mẻ. Đi vào các lĩnh vực này
nảy sinh những khó khăn, vướng mắc cần phải tháo gỡ là một tất yếu. Các văn
kiện của Đảng trước Đại hội XI đã nhiều lần đề cập đến điểm nghẽn, khó khăn,
bất cập cần giải quyết. Đại hội Đảng lần thứ XI nêu lên 3 điểm nghẽn cản trở sự
phát triển đất nước
Thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện.
Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn
nhiều hạn chế, yếu kém.
Kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ.
Vấn đề đặt ra cần tháo gỡ ở điểm nghẽn thứ hai không phải là nguồn nhân
lực nói chung mà là chất lượng nguồn nhân lực. Có thể nói Việt Nam đang ở
trong tình trạng vừa thừa lao động vừa thiếu nhân lực: Thừa lao động phổ thông,
lao động giản đơn, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề,
nhất là trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu đàn. Văn kiện Hội nghị Trung ương 7,
khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nuớc chỉ rõ ở nước ta: “Trí thức tinh hoa và hiền tài còn ít”. Đây là một
nguyên nhân trực tiếp tạo nên điểm nghẽn thứ hai và tác động đến các điểm
nghẽn khác.


16
Để từng bước tháo gỡ 3 điểm nhấn nêu trên, Đại hội XI của Đảng đã xác
định 3 khâu đột phá chiến lược:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất luợng cao.
Thứ ba, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình

hiện đại.
Có thể coi ba khâu đột phá chiến lược như là những giải pháp để tháo gỡ
3 điểm nghẽn của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Từ việc giải quyết ba điểm ách tắc, nhất là điểm ách thứ hai, Đảng ta đã
khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức: “Ngày nay, cùng với sự phát triển
nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức
trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia
trong chiến lược phát triển”.
Như vậy, mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút
ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn nhân lực, tiềm năng trí tuệ của dân
tộc, đặc biệt năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.
III. THỰC TRẠNG, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định: “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn
ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước khác nhau”. Gần đây nhất, Đảng ta đã
xác định gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức: “Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi
trường”. (Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam), trong đó Đảng ta
khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của
quá trình phát triển nhanh và bền vững. Như vậy có thể thấy ngay từ thời kỳ đầu,
Đảng ta đã rất coi trọng việc tạo ra động lực cho việc hình thành và phát triển


17
kinh tế tri thức. Tuy nhiên, hiện nay về cơ bản nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền
kinh tế mang những dấu ấn của kinh tế nông nghiệp, đang chuyển dần sang kinh
tế công nghiệp. Vị trí của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức toàn cầu là rất

thấp. Những chỉ số về kinh tế tri thức của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng
xếp hạng. Chỉ số KEI của Việt Nam hiện đang là 3,51, trong đó chỉ số sáng tạo
chỉ là 2,72, trong khi đó chỉ số KEI của một số nước trong khu vực là rất cao:
Singapore là 8,44; Malaysia là 6,07; Thái Lan là 5,52.
Những yếu tố cho sự ra đời và phát triển kinh tế ở Việt Nam mới đang ở
thời kỳ hình thành
Xét phương diện những đặc trưng của nền kinh tế tri thức thì chúng ta thấy
cơ cấu kinh tế - lao động của Việt Nam hiện nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các
ngành dịch vụ, công nghiệp trong GDP còn hạn chế, ngành nông nghiệp còn
cao. Cơ cấu lao động cũng chưa chuyển biến mạnh mẽ: lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng rất cao, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế.
Trong khi đó hiện nay ở Mỹ khoảng 80% lực lượng lao động làm việc trong các
ngành dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng và triển khai.
Hiện nay, hàm lượng chất xám trong sản phẩm của Việt Nam là rất
thấp, “đến 2020 giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công
nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ chế tạo
chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản phẩm công nghiệp”. (Văn kiện Đại hội
XI Đảng Cộng sản Việt Nam).
Sự đầu tư cho khoa học, công nghệ ở Việt Nam so sánh tương quan với các
quốc gia trong khu vực là rất thấp. Hiện nay, Việt Nam chỉ dành khoảng 0,3%
GDP cho hoạt động khoa học, công nghệ, trong khi đó con số này ở Malaysia là
1%, Singapore là 3%.
Theo Robert Walter Global – một công ty chuyên về tuyển dụng: năm 2012
mặc dù kinh tế khó khăn, nhiều công ty phá sản hoặc giảm quy mô hoạt động,
Việt Nam vẫn “khát” nhân sự có trình độ. Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở
Việt Nam đạt khoảng 35%, đây là con số rất thấp so với các nước trong khu vực
và trên thế giới.


18

Một trong những tiêu chí quan trọng của kinh tế tri thức là sự ứng dụng
công nghệ vào sản xuất kinh doanh và quản lý. Phần lớn các doanh nghiệp ở
nước ta đều thiếu thông tin về công nghệ. Theo một khảo sát của Viện Nghiên
cứu và Quản lý trung ương trên 82 doanh nghiệp, chỉ có 16 doanh nghiệp có ý
tưởng đổi mới công nghệ. Xét một cách tổng quát, những yếu tố cho sự ra đời và
phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay đang ở thời kỳ hình thành.
2. Quan điểm phát triển của Đảng
Một là, Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền
vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược
Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng
đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng
kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát
triển kinh tế-xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động
ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu
phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở
để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững.
Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế
hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội. Phải đặc biệt coi trọng giữ vững
ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước
phát triển nhanh và bền vững.
Hai là, Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải
đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân



19
chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc
đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục
tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất
để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển.
Ba là, Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người
là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi
người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân
thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ
mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực
phát triển đất nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện
công bằng xã hội.
Bốn là, Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học,
công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải
phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học,
công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Phát
triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Phải
tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế
tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến
khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp

mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ
biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn
thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong


20
những động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
phát triển theo quy hoạch.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ,
hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế
quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội.
Năm là, Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều
kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời
tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển
nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Phải không ngừng
tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả.
Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu
mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị
trường ngoài nước, góp phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Trong hội
nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình,
bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
3. Giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đang quá độ sang kinh tế công nghiệp. Vì vậy, để tạo
điều kiện và thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển cần quán triệt và thực hiện một
số giải pháp sau:
Thứ nhất, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ và tri
thức. Sự phát triển của khoa học, công nghệ là điều kiện cần để hình thành và

phát triển kinh tế tri thức. Cần đầu tư hơn nữa cho khoa học, công nghệ; tạo ra
chính sách phát triển khoa học, công nghệ.
Thứ hai, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực cho kinh
tế tri thức. Nghiên cứu khoa học được coi là nền tảng của tăng trưởng kinh tế,
đóng vai trò quan trọng trong các quá trình hình thành kinh tế tri thức. Theo một
nghiên cứu mới nhất, hiện nay nếu không có gì thay đổi thì Việt Nam cần


21
khoảng thời gian là 60 năm mới có thể theo kịp về số lượng bài báo ở thời điểm
năm 2005. Việt Nam vẫn đang thiếu chuyên gia nghiên cứu khoa học tầm cỡ
quốc tế, chất lượng lao động Việt Nam đạt 4/10 điểm (theo WEF).
Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN hướng đến
việc phát huy vai trò của khoa học, công nghệ, hướng đến kinh tế tri thức. Cần tạo
ra môi trường pháp lý lành mạnh, thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo, khuyến khích các
chủ thể kinh tế phát huy tối đa tiềm năng của mình, trong đó nhấn mạnh các vấn
đề về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, bản quyền...
Thứ tư, tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ
chiều rộng sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với chiều sâu.
Cần kết hợp hợp lý phát triển kinh tế theo hai mô hình này, một mặt khai thác
những lợi thế sẵn có về lao động, tài nguyên; mặt khác phải “đi tắt, đón đầu”,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mô hình “hiện đại”, “rút ngắn” để
phát triển kinh tế tri thức.


22
KẾT LUẬN
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang phát triển mạnh
mẽ, sự phát triển nhanh chóng đó của khoa học công nghệ hiện đại đã làm biến
đổi sâu sắc nền kinh tế thế giới tạo ra một bước ngoặt mới trong lịch sử phát

triển của loài người. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế mở ra nhiều cơ hội với nhiều
quốc gia, dân tộc trong đó có Việt Nam, về phương diện phát triển lực lượng sản
xuất, tăng tưởng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, về chuyển giao ứng dụng của các
thành tựu khoa học kĩ thuật và công nghệ… Xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển
của nền kinh tế tri thức đang làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam và đòi hỏi công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phải đồng thời thực hiện hai quá trình: Xây dựng nền công nghiệp
theo hướng hiện đại và phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế mới đạt được mục tiêu đề ra theo tinh thần Nghị quyết các kỳ Đại hội
của Đảng.



×