Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

VAI TRÒ của các CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA đối với nền KINH tế THẾ GIỚI, tác ĐỘNG và GIẢI PHÁP THU hút sử DỤNG có HIỆU QUẢ sự THÂM NHẬP của các CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA vào VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.12 KB, 37 trang )

MỞ ĐẦU
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, kể từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai đến nay chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã đạt được những
bước tiến đáng kể, diện mạo có nhiều thay đổi. Một trong những nguyên nhân làm
nên sự thay đổi đó là sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia (XQG). Các
công ty XQG của CNTB hiện đại là những công ty tư bản độc quyền của một
quốc gia, thực hiện việc bành chướng quốc tế bằng hình thức thiết lập một hệ
thống chi nhánh ở nước ngoài để phân chia thị trường thế giới, nhằm tìm kiếm lợi
nhuận độc quyền. Còn nếu xét dưới góc độ rộng hơn, công ty XQG chính là hình
thức vận động của quan hệ sản xuất quốc tế, là hình thức tổ chức xí nghiệp quốc tế
trong điều kiện lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao và có tính quốc tế hoá.
Ngày nay, các công ty XQG có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế thế
giới và ngày càng trở thành lực lượng cơ bản vận hành nền kinh tế toàn cầu. Bởi
thế, nó đã thu hút được sự quan tâm của không chỉ các nhà nghiên cứu, mà cả các
doanh nhân và giới chính khách của hầu hết các quốc gia. Đối với nước ta, kể từ
khi chúng ta chính thức mở cửa thực hiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), các công ty XQG đã được chào
đón. Thực tế, sau 30 năm đổi mới, sự có mặt của các công ty XQG đã góp phần
quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước, tạo nên một diện mạo mới cho
nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam. Tuy nhiên việc thu hút đầu tư, hợp tác kinh
doanh với các công ty XQG cũng đang chịu ảnh hưởng của những tác động trái
chiều, mà những tác động đó ảnh hưởng đến tính bền vững trong sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam. Từ những vấn đề trên, tác giả chọn vấn đề: “Vai trò của
các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế thế giới. Tác động và giải pháp
giải pháp thu hút, sử dụng có hiệu quả sự thâm nhập của các công ty
xuyên quốc gia vào Việt Nam”.


2
NỘI DUNG
1. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế thế giới


1.1. Khái quát sự hình thành các công ty xuyên quốc gia
Cho đến nay, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về các công ty XQG,
nhưng về bản chất thì nó là các công ty tư bản độc quyền, có qui mô rộng lớn,
với một cơ cấu bao gồm hai bộ phận có tổ chức chặt chẽ bắt đầu từ một công
ty mẹ (mang quốc tịch một nước, còn gọi là công ty gốc- Parent Company),
để hình thành các công ty con (Subsidiary, Branch) nằm ở nước ngoài
(nước có các công ty nhánh đó gọi là nước chủ nhà- Hots Country), các chi
nhánh đó lại có nhiều thứ bậc khác nhau (cấp 1, cấp 2, cấp 3…).
Mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty nhánh hết sức phức tạp.
Trong đó công ty mẹ giữ vai trò chủ đạo về chiến lược sản xuất – kinh
doanh, về tài chính, về công nghệ…, còn các công ty nhánh có tính độc lập
tương đối. Cho nên, các công ty XQG vừa có tính tập trung hóa và vừa có
tính phi tập trung hóa cao. Như vậy có thể hiểu các công ty XQG đó là các
công ty của một quốc gia, thực hiện việc sản xuất - kinh doanh quốc tế
thông qua việc thiết lập hệ thống chi nhánh ở nước ngoài nhằm thực hiện
mở rộng thị trường và thu hút các nguồn lực.
Theo sự phát triển của lịch sử kinh tế thế giới: phân công lao động xã hội
càng phát triển thì quy mô sản xuất - kinh doanh trong các thực thể kinh tế ngày
càng lớn. Đến cuối thế kỷ XIX, quy mô sản - xuất kinh doanh đã phát triển đến
mức rất lớn, hình thành các tổ chức độc quyền, tiếp đó là sự xuất hiện hàng loạt các
tổ chức tư bản độc quyền lớn có số vốn từ hàng triệu đến vài chục triệu USD như:
Standard Oil, Rockerfeller… Cho đến nay, công ty XQG vẫn luôn phát triển không
ngừng và trở thành một trong những xu thế tất yếu của lịch sử và thời đại.


3
* Nguyên nhân hình thành các công ty XQG: Sự ra đời các công ty
XQG từ nguyên chính là do: tích tụ và tập trung sản xuất ngày càng cao tất yếu
dẫn đến sự hình thành các công ty XQG
Khi nghiên cứu về CNTB trong giai đoạn tự do cạnh tranh, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã dự báo rằng: tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tập trung sản xuất
và tập trung sản xuất dẫn đến độc quyền. CNTB là một lực lượng quốc tế; quốc tế
hoá sản xuất và trao đổi là xu hướng tất yếu. Các ông chỉ ra rằng: “…chế độ tín
dụng đẩy nhanh tốc độ phát triển các lực lượng sản xuất vật chất và sự hình thành
một thị trường thế giới”.1
Sau này, V.I.Lênin đã kế thừa dự báo khoa học trên của C.Mác và
Ph.Ăngghen trong giai đoạn lực lượng sản xuất phát triển cao làm cho CNTB phát
triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền đã phát triển luận điểm
đó và cho rằng: Tự do cạnh tranh dẫn đến tập trung sản xuất và khi tập trung sản
xuất đến một mức độ nhất định dẫn đến độc quyền - đây là quy luật phổ biến trong
giai đoạn phát triển của CNTB hiện nay. Tập trung sản xuất đến một mức độ nhất
định tức là khi đó chỉ còn một hay một số nhà tư bản nắm giữ hầu hết hoặc toàn bộ
việc sản xuất, tiêu thụ một hay một số mặt hàng nào đó trên thị trường dẫn tới độc
quyền. Độc quyền ra đời lại làm cho tập trung sản xuất diễn ra ở trình độ cao hơn.
Độc quyền ra đời từ thấp đến cao, từ lưu thông đến sản xuất, từ trong nước đến
quốc tế và khi độc quyền ra đời trên phạm vi quốc tế thì ra đời công ty XQG.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu thì trên thực tế các công ty XQG đã ra đời
cách nay khoảng 200 năm, trước khi tổ chức độc quyền ra đời. Theo một công trình
nghiên cứu kinh tế mới đây của PGS.TS Lê Văn Sang - Trung tâm Kinh tế châu Á Thái Bình Dương- đăng trên Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số
10 (138), năm 2007 cho thấy, công ty XQG xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, trước khi CNTB chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang độc quyền.
1

C.Mác và Ph. Ăgghen: Toàn tập, Nxb. CTQG., Hà Nội, 1994, t. 25, ph. I, tr. 674.


4
Như vậy, suy đến cùng, việc ra đời của các công ty XQG là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất và dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cùng với quá trình phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất
cao độ.

* Các nguyên nhân khác
Ngoài nguyên nhân cơ bản trên thì các công ty XQG ra đời bởi:
+ Đây là một biện pháp kinh tế của các nước tư bản nhằm chiếm lại thuộc
địa cũ đã mất - Đây còn gọi là chính sách thực dân kinh tế. Nếu chính sách thực
dân cũ đưa quân đi xâm chiếm thuộc địa để bóc lột, chính sách thực dân mới
dùng người bản xứ để thực hiện sự bóc lột, thì chính sách thực dân kinh tế là
dùng các công ty XQG để thực hiện chính sách “biên giới mềm”. Chúng ta đều
biết, tình hình thế giới nửa cuối thế kỷ XX, nhất là từ sau chiến tranh thế giới
thứ Hai, đã có những thay đổi cơ bản, phong trào giải phóng dân tộc ở các lục
địa Á - Phi - Mỹ La tinh phát triển mạnh mẽ đưa đến sự ra đời hàng loạt nước
độc lập dân tộc, thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm phá sản
CNTB cũ, song về nền kinh tế lại gặp những khó khăn lớn. Do vậy để thực
hiện việc “nắm lại” những khu vực đã mất, chủ nghĩa đế quốc thực hiện
nhiều biện pháp, trong đó sự thâm nhập bằng cách thông qua hoạt động của
các công ty công ty XQG là một trong những cách có thể mang lại hiệu quả.
+ Các công ty XQG ra đời còn do chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước
tư bản độc quyền, khuyến khích các công ty mở rộng đầu tư ra nước ngoài thông qua
thực hiện các chính sách ưu đãi về vốn tín dụng, khoa học – công nghệ, đào tạo…
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – chính trị của Nhà Nước tư bản độc quyền.
Chính sự điều tiết của CNTB độc quyền nhà nước với quá trình kinh tế, đặc biệt
là kinh tế đối ngoại, như hỗ trợ thông tin, ưu đãi tín dụng, thuế, thông qua ngoại
giao kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi để các công ty XQG vượt biên giới quốc
gia, thực hiện kinh doanh quốc tế. Có thể nó các công ty XQG thật sự được sinh


5
ra từ chính sách của Nhà nước và Nhà nước có một ý nghĩa không thể thiếu
được đối với sự ra đời của nó.
1.2. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế thế
giới

Hiện nay, trên thế giới có trên 70.000 công ty mẹ và trên 600.000 công
ty chi nhánh, hoạt động rải khắp gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Với số
lượng lớn như vậy, các công ty XQG đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế toàn cầu. Hiện các công ty XQG đang kiểm soát 40% sản lượng công
nghiệp, 60% ngoại thương, 80% kỹ thuật mới của thế giới tư bản chủ nghĩa.
Có thể nói các công ty XQG là lực lượng cơ bản của CNTB hiện đại. Chúng
tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội của thế giới. Vai trò đối với
nền kinh tế thế giới của các công ty XQG thể hiện trên những nội dung cơ bản
sau đây:
* Thực hiện sự phân công lao động quốc tế
Nét điển hình của quốc tế hoá đời sống kinh tế trên thế giới ngày nay là
sự phân công chuyên môn hoá mà các công ty XQG là lực lượng thực hiện cơ
bản. Đặc điểm của sự phân công này là chuyên môn hoá hẹp. Về hình thức bề
ngoài, giống như kiểu công trường thủ công của thế kỷ trước, nhưng nội
dung, hình thức và quy mô hoàn toàn mới. Điểm nổi bật là quy trình công
nghệ được phân chia thành những công đoạn và phân công cho xí nghiệp, chi
nhánh đóng tại các nước trên thế giới tuỳ theo điều kiện cụ thể về trình độ lao
động, nguyên liệu, thị trường… Và như vậy, vị trí của người công nhân bộ
phận trong công trường thủ công cổ điển đã được thay thế bằng cả một xí
nghiệp chi nhánh nằm ở nước chủ nhà.
Theo thường lệ, công ty mẹ và các công ty chi nhánh ở các nước TBCN
phát triển đảm nhiệm những khâu đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao,
công đoạn phức tạp của dây chuyền công nghệ cao, còn các chi nhánh ở các


6
nước đang phát triển tuỳ điều kiện cụ thể có thể đảm nhiệm các khâu ít phức
tạp hơn, hoặc chỉ đòi hỏi lao động giản đơn. Có thể dẫn chứng bằng một vài
ví dụ cụ thể như:
+ Việc sản xuất máy tính, điện tử hiện nay của các công ty XQG Nhật,

Mỹ, Cộng hoà liên bang Đức việc sản xuất “phần mềm”, “phần cứng” và
việc lắp ráp các bộ phận đầu, cuối được thực hiện theo cách trên. Công ty
Honda, Kaoashaki, Yamaha, Mitshubishi, Suzuki (Nhật Bản) cũng thực hiện
việc phân công chuyên môn hoá theo cách đó đối với các nước chủ nhà Ấn
Độ, Baraxin và các nước ASEAN.
+ Trong ngành bán dẫn điện tử, tình hình cũng diễn ra tương tự. Chẳng
hạn Công ty Matsushita đã thực hiện việc phân công chuyên môn hoá trong
dây chuyền sản xuất Audio như sau: chi nhánh ở Xingapo sản xuất các bộ
phận điều khiển từ xa, động cơ, linh kiện điện, điện tử, chi nhánh ở Đài Loan
sản xuất ăngten, linh kiện điện tử.
+ Việc sản xuất tivi màu của hãng Thomson cũng dựa trên những mô hình
trên. Cụ thể, chi nhánh ở Đài Loan sản xuất đèn hình, các bộ phận bằng kim loại,
một số linh kiện điện tử; chi nhánh ở Hàn Quốc sản xuất đèn hình; chi nhánh ở
Indônexia sản xuất một số phụ kiện điện tử; chi nhánh ở Xingapo và chi nhánh ở
Mailaixia sản xuất mạch tổ hợp IC, các bộ phận bằng kim loại và nhựa. Với
hãng Seagade trong việc sản xuất đầu video có sự phân công như sau: chi nhánh
ở Nhật Bản sản xuất các bộ phận từ tính, động cơ, đầu từ; các chi nhánh ở Hồng
Kông sản xuất đầu từ; chi nhánh ở Thái Lan sản xuất các linh kiện điện tử; chi
nhánh ở Đài Loan sản xuất các bộ phận bằng kim loại; chi nhánh ở Hàn Quốc
sản xuất IC.
Trong nội bộ của một tổng công ty XQG, việc thực hiện chuyên môn
hoá trong phân công lao động quốc tế đã được chỉ đạo một cách hết sức chặt
chẽ, đặc biệt là bảo đảm tính nghiêm ngặt về kỹ thuật. Vì vậy, sản phẩm


7
thường đạt chất lượng cao, năng suất lao động tăng và hoạt động kinh doanh
có hiệu quả, sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đồng thời thị
trường tiêu thụ cũng được mở rộng.
Tuy mỗi công ty XQG đều có chiến lược riêng của mình gắn với đặc

điểm của nước mẹ và nước cắm nhánh, song xu hướng chung là tập trung vào
các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, và chuyển giao các ngành cổ
truyền, ngành mà hàm lượng lao động thủ công cao, đã gây ô nhiễm, kém
hiệu quả sang các nước đang phát triển. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc
thực hiện phân công theo chiều ngang. Chẳng hạn, vào những năm 1970 1980 sau khi đã xác đinh rõ những xu hướng phát triển của các ngành, các
công ty XQG Nhật Bản đã thực hiện chuyển giao các ngành công nghiệp
“trắng” (như: giấy, gỗ, diêm, mỳ chính, dệt may mặc…sang các nước Đông
Á), tạo nên làn sóng “công nghiệp hoá theo đàn ngỗng bay” trong khu vực.
Việc phân công chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi thế giới là một
tiến bộ có tính chất lịch sử, nó đã khai thác được tiềm năng và thế mạnh của
từng nước, từng khu vực, tạo ra mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và phản ánh
quá trình tất yếu kinh tế kỹ thuật. Song, do phân công theo kiểu TBCN với
mục tiêu lợi nhuận là trên hết, nên không thể tránh khỏi những hậu quả như:
làm “què quặt” sự phát triển kinh tế của một số nước, tạo ra sự phụ thuộc
nặng nề, mà thực chất là các nước tư bản chủ nghĩa thực hiện khai thác các
nước đang phát triển để tăng hiệu suất của tư bản.
Về mặt nào đó, các nước đang phát triển cũng có lợi ích kinh tế trong
sự phân công này, như giải quyết được phần nào vấn đề thất nghiệp, có thêm
nguồn thu ngoại tệ…song nếu không có đường lối chiến lược đúng thì tất yếu
phải trả giá cao về sự tụt hậu và cái “mất” sẽ lớn hơn cái “được”. Do vậy,
vấn đề đặt ra là cần chấp nhận sự phân công này ở mức độ nào và biết cách


8
chuyển hoá để nắm những khâu công nghệ tiên tiến, khắc phục những tiêu
cực do các công ty XQG gây nên.
* Thúc đẩy sự phát triển khoa học - công nghệ
Với mục đích cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận, với thế lực kinh tế và
tiềm lực khoa học công nghệ đã được tích luỹ trong nhiều thập kỷ, các công
ty XQG đang đi đầu trong việc nghiên cứu, thử nghiệm những dây chuyền

công nghệ tiên tiến.
Nhiều sản phẩm mới đạt trình độ tiên tiến nhất, nhiều dạng năng lượng
nguyên liệu mới được nghiên cứu và áp dụng với từng mức độ, nhiều dây
chuyền công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu đã ra đời, phương pháp
tự động hoá sử dụng người máy, phương pháp điều khiển từ xa trong quản
lý… đã được áp dụng ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa và một số chi nhánh ở
các nước đang phát triển có trình độ tiên tiến hơn. Theo tính toán của các
chuyên gia Liên hợp quốc, các công ty XQG kiểm soát tới 80% các phát sinh
sáng chế của thế giới. Do vậy, chúng trở thành người có vai trò ngày càng lớn
trong việc thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, làm cho các
nước tư bản phát triển có ưu thế trong cuộc cạnh tranh kinh tế, khoa học công
nghệ hiện nay, và thích nghi với điều kiện lịch sử mới. Đồng thời, chúng cũng
chiếm giữ một vị trí to lớn trong việc thực hiện cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ và quá trình công nghiệp hoá của các nước đang phát triển. Điều
đó đòi hỏi các quốc gia này phải có chiến lược kinh tế đúng đắn để sử dụng
được thành tựu khoa học công nghệ của loài người mà phần chủ yếu hiện
đang nằm trong tay các công ty XQG, đồng thời tránh nguy cơ tụt hậu, rút
ngắn khoảng cách lịch sử trong cuộc chạy đua kinh tế.
Nắm trong tay lực lượng khoa học và công nghệ của thế giới, các công
ty XQG cũng buộc phải chấp nhận những tất yếu kinh tế, thực hiện sự chuyển
giao công nghệ sang các nước khác, mà chủ yếu là sang các nước đang phát


9
triển. Đứng trên góc độ đó, các công ty XQG đang đóng vai trò người “trợ
thủ” quan trọng trong sự phát triển khoa học công nghệ.
Đối với những nước lạc hậu, vai trò này được biểu hiện trên nhiều khía
cạnh như: thực hiện chuyển giao công nghệ từ công ty mẹ sang công ty chi
nhánh, cũng như từ nước mẹ sang các nước chủ nhà; thực hiện đào tạo cán bộ
quản lý và công nhân làng nghề. Hầu hết ở các công ty lớn như GMC, Nestlé,

GEC, GDC… đều có các trường đại học riêng của mình làm công việc đào
tạo và những trung tâm nghiên cứu khoa học thực hiện triển khai… Chính vì
vậy mà chúng đã góp phần đáng kể trong việc phát triển nguồn nhân lực có trí
tuệ.
Ngoài ra, các công ty XQG còn tham gia vào việc thúc đẩy hợp tác giữa
các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học các nước. Nhiều công ty lớn đã
thực hiện tài trợ thông qua các quỹ của mình đối với một số dự án. Trong số
đó các công ty Ford, Toyota, Mitsubishi, Sumitomo… có vai trò khá nổi bật
đối với nhiều nước Đông Nam Á. Tuy nhiên, các công ty XQG thực hiện việc
làm của mình với mục đích và phương thức riêng nằm trong chiến lược chung
của các nước mẹ. Vì vậy, quá trình chuyển giao công nghệ, phát triển khoa học
công nghệ là một quá trình chứa đựng nhiều mâu thuẫn và hậu quả mà các nước
nhập khẩu công nghệ phải gánh chịu không hề nhỏ. Chẳng hạn, thông thường
họ phải chấp nhận kỹ thuật, công nghệ hạng hai trong quá trình chuyển giao
công nghệ và sử dụng công nghệ chuyển giao, các công ty XQG ít quan tâm
đến việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Đồng thời trong quá trình chuyển giao công nghệ, với những phương
thức riêng, mỗi công ty XQG cũng đã khống chế một phần kỹ thuật công
nghệ của nước chủ nhà. Chẳng hạn chuyển giao công nghệ nhưng với những
hợp đồng phụ kèm theo tạo ra sự phụ thuộc của nước chủ nhà, hoặc giữ lại bí
quyết để tiếp tục thao túng trình độ thấp hoặc trung bình, mà ngay cả với


10
NIES. Do vậy, A.Vernon - chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về các công ty
XQG - đã cho rằng việc chuyển giao kỹ thuật công nghệ của các công ty
XQG đã không làm tăng thêm tiềm lực khoa học - công nghệ của nước tiếp
nhận, trừ trường hợp hết sức đặc biệt.
Mặc dù có đào tạo công nhân, bổ nhiệm cán bộ quản lý song sự đào tạo hết
sức phiến diện, phần lớn chỉ phục vụ những nhu cầu trước mắt chứ ít khi có tính

chiến lược lâu dài. Còn những chức vụ được bổ nhiệm cũng hầu hết chỉ dừng lại
những vị trí thứ yếu, với ý đồ tránh sự lớn mạnh của nước chủ nhà, ngăn chặn sự
xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh mới. Đặc biệt trong hầu hết các ngành, các
công ty XQG từ chối việc thiết lập các trung tâm R&D ở nước chủ nhà, các trung
tâm này thường được đặt ở nước mẹ, còn ở các chi nhánh có chăng chỉ là những
phòng thí nghiệm nhỏ với nhiệm vụ kiểm soát chất lượng đầu vào và đầu ra… Từ
đó đặt ra vấn đề là các nước chủ nhà cần phải có luật đầu tư chặt chẽ, chính sách
khôn ngoan để hạn chế những tiêu cực, và nhất là phái xây dựng chiến lược dài
hạn với những hướng đi thích hợp nhằm nâng cao các yếu tố bên trong, biến
chúng thành nội lực để thu hút có hiệu quả công nghệ chuyển giao, tránh những
hậu quả xấu đối với nền kinh tế đất nước, đặc biệt là tránh sự tụt hậu và những hậu
quả khó lường về môi trường sinh thái.
* Góp phần đẩy mạnh quan hệ hàng hoá - tiền tệ trên phạm vi toàn
thế giới
Với hàng trăm nghìn chi nhánh trải rộng khắp thế giới, các công ty
XQG trở thành một lực lượng đông đảo nắm giữ nguồn hàng hoá thế giới.
Hiện nay các công ty XQG đã kiểm soát 60% buôn bán quốc tế. Trong nhiều
ngành hàng, các công ty này đã kiểm soát hầu như toàn bộ buôn bán quốc tế.
Chẳng hạn, với một số nông sản phẩm như chè, cà phê, ca cao, các công ty
XQG đã kiểm soát tới 80% - 90% buôn bán quốc tế.


11
Với mạng lưới chi nhánh dày đặc, các công ty XQG đã khai thác được
mọi nguồn hàng tiềm tàng của thế giới và có thể nói mọi sản phẩm của thế
giới được chúng lôi cuốn vào thị trường và cùng với việc phân công chuyên
môn hoá, các công ty XQG đã khai thác được thị trường tại chỗ, giảm chi phí
vận chuyển, hạ giá thành. Cùng với những sản phẩm hàng hoá được bổ sung
hàng loạt các mặt hàng mới dưới tác động của các công ty XQG. Ngay cả tri
thức con người được thể hiện trong phát minh sáng chế cũng được trao đổi

dưới hình thức hàng hoá.
Có thể nói các công ty XQG thực hiện “hàng hoá hoá” mọi sản phẩm,
tạo ra sự đa dạng trong trao đổi trên phạm vi quốc tế. Chẳng hạn như phương
thức cho thuê các thiết bị và phương tiện kỹ thuật mua bán nợ nước ngoài…
đặc biệt là với những hàng hoá đa dạng, phong phú, chất lượng cao, giá hạ đã
chẳng khác gì những viên đạn trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý
trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường
cũng phải hàng phục. Bằng cách đó chúng đã phá bỏ những hàng rào biên
giới quốc gia vốn đã từng kìm hãm quá trình quốc tế hoá lưu thông. Điều đó
góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao trình độ xã hội
hoá.
Tuy nhiên, một điều không thể tránh khỏi là do quá chạy theo mục đích
lợi nhuận, các công ty XQG đã làm biến dạng mối quan hệ hàng hoá tiền tệ,
gây ra những hiện tượng tiêu cực với quy mô thế giới. Cụ thể là dựa vào tiềm
lực kinh tế to lớn, với hàng trăm tỷ đôla trong tay, với những nguồn nguyên
liệu, nhiên liệu dồi dào đặt dưới sự kiểm soát của mình, các công ty XQG đã
thực hiện những hoạt động đầu cơ, nâng giá, trao đổi nội bộ giữa các chi
nhánh mà khối lượng trao đổi này thường rất lớn, có khi chiếm tới 60% tổng
khối lượng hàng hoá luân chuyển của các công ty XQG. Điều đó gây nên tình
hình mất ổn định trong lưu thông hàng hoá, cũng như nền tài chính - tiền tệ


12
của thế giới. Người ta có nhận xét rằng các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền
tệ, như khủng hoảng thi trường chứng khoán, cũng như sự bùng nổ về nợ nần
của thế giới thứ ba… đều có nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự lũng
đoạn của các công ty XQG. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, việc
tự do đầu tư vào thị trường cổ phiếu, một mặt giúp cho các nước chủ nhà có
thêm nguồn vốn đầu tư lớn, song điều rủi ro gặp phải là các công ty XQG rất
dễ dàng thực hiện hành vi “ảo thuật” trên thị trường này để kiếm lời. Ngay cả

đối với cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997 diễn ra ở các nước châu Á
cũng không loại trừ nguyên nhân đó. Chính vì vậy, không những các nước
đang phát triển mà ngay cả các nước tư bản phát triển đều hết sức quan tâm
đến việc đưa ra những luật lệ ngăn cấm sự lộng hành của các công ty XQG,
trong đó lĩnh vực lưu thông hàng hoá và tiền tệ được nhấn mạnh nhiều nhất.
* Thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế
Nguồn đầu tư chính ra nước ngoài là các nước phát triển, trước hết là
các nước G7 và một số nước châu Âu. Thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư
nước ngoài đều thực hiện qua kênh công ty XQG. Nói cách khác, các công ty
XQG là lực lượng cơ bản trong việc thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài (hiện nay
chúng chiếm khoảng 90% lượng FDI). Với lợi thế về vốn, kỹ thuật hiện đại, quản lý
tiên tiến và mạng lưới thị trường rộng lớn, các công ty XQG luôn tích cực đầu ta ra
nước ngoài nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu.
Mặc dù tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp của các công ty XQG trong tổng vốn đầu tư
của từng nước chủ nhà không cao (khoảng 5%). Song đây là nguồn vốn quan trọng
khó có thể thay thế vì nó tạo ra những kết quả phát sinh khác, như chuyển giao công
nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển dịch vụ và các nguồn thu phụ thêm (thuế các loại,
sản phẩm được phân chia theo hợp đồng, và các khoản thu khác). Tuy thế, cũng phải
thấy rõ tính chất hai mặt của đầu tư trực tiếp mà các công ty XQG thực hiện: một


13
mặt, tăng thêm nguồn vốn cho nước chủ nhà và các hệ quả lợi ích khác, song mặt
khác, nếu không quản lý giỏi thì chính qua đó cũng để lại những hậu quả ngoài mong
muốn. Thực tế của các nước đã chứng minh điều đó.
Tác động của FDI đi liền với sự biến đổi cơ cấu kinh tế của nước chủ
nhà và chính là do sự biến đổi cơ cấu đầu tư. Nhìn chung, xu hướng đầu tư có
sự biến đổi như sau: đầu tư vào ngành dịch vụ tăng lên tương đối và tuyệt đối,
đầu tư vào công nghiệp chế biến tăng lên tuyệt đối và có chiều hướng giảm nhẹ

về tương đối, còn đầu tư vào nông nghiệp tăng tuyệt đối nhưng giảm đi tương
đối. Việc biến đổi đó đã dẫn đến làm biến đổi tỷ trọng và giá trị của các ngành
trong nền kinh tế của nước chủ nhà. Đồng thời sự tập trung cao vốn đầu tư vào
các ngành công nghiệp chế biến đã tác động dây chuyền đến các ngành khác
theo mối quan hệ liên ngành, làm tăng tỷ trọng của xuất khẩu và làm cơ cấu xuất
nhập khẩu thay đổi theo.
Cùng với sự biến đổi cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu vùng cũng
có sự biến đổi, trong đó có việc hình thành các trung tâm thương mại, công
nghiệp kỹ thuật cao, đồng thời đội ngũ lao động và cơ cấu nghề nghiệp cũng
biến đổi theo. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế có tác động lớn đối với quá trình
tăng trưởng kinh tế của các nước chủ nhà và nếu các nước này có được chiến
lược đúng đắn sử dụng được lợi thế của mình sẽ có thể thúc đẩy sự phát triển
cơ cấu theo hướng tiến bộ mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra.
* Giải quyết thêm nhiều việc làm mới và nâng cao tay nghề người lao
động
Việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ là
vấn đề tất yếu đối với mọi doanh nghiệp, vì người lao động là một yếu tố cần
thiết của quá trình sản xuất. Thiếu yếu tố đó hoặc có nhưng chất lượng kém
thì hoặc là không có quá trình sản xuất diễn ra, hoặc sản phẩm tạo ra sẽ không
có sức cạnh tranh. Do vậy, các công ty XQG luôn luôn quan tâm đến tay nghề


14
của người lao động thông qua các hình thức đào tạo dài hạn, ngắn hạn, chính
quy hoặc tại chức. Về mặt cán bộ quản lý đã được các công ty XQG đặt lên vị
trí hàng đầu, nhất là những cán bộ quản lý ở cấp chiến lược.
Song trong việc đào tạo tay nghề cũng như phân bổ, bồi dưỡng cán bộ
quản lý thường tồn tại trong các xu hướng mâu thuẫn. Một mặt không đào tạo
và bồi dưỡng có nghĩa là không thể tồn tại, song mặt khác, đào tạo, bồi dưỡng
cũng có nghĩa là góp phần tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình. Do vậy,

các công ty XQG luôn luôn có sự lựa chọn phương án thích hợp. Thông
thường đào tạo chủ yếu để giải quyết công việc ngày hôm nay, còn việc đào
tạo dài hạn phải hết sức cân nhắc và có những biện pháp bảo vệ để tránh thất
thoát. Đối với cán bộ quản lý, việc lựa chọn cũng được thực hiện nghiêm
ngặt, đặc biệt là những cán bộ chủ chốt thường không để người có quốc tịch
của nước chủ nhà đảm nhận và việc đào tạo, bồi dưỡng bao giờ cũng gắn liền
với việc quản lý, tránh tình trạng chuyển sang các xí nghiệp nước chủ nhà.
Cho đến nay, các công ty XQG đã tạo ra một khối lượng việc làm tương
đối lớn. Thống kê cho thấy, các công ty XQG đã tạo được khoảng 45 triệu lao
động vào giữa những năm 1970 và 10 năm sau đạt được gần 65 triệu lao
động, con số này tăng lên đến 70 triệu vào giữa những năm thuộc thập kỷ 90
của thế kỷ XX. Nhìn chung, công ty XQG thường tạo việc làm ở các ngành
công nghiệp và dịch vụ nhiều hơn là trong ngành nông nghiệp và các ngành
khác. Một số việc làm được tạo ra một cách gián tiếp thông qua các liên kết
kinh tế cung cấp dịch vụ của các công ty nội địa
Theo K.Sauvant, các công ty XQG đã tạo ra khoảng 1% việc làm cho
dân số trong độ tuổi lao động ở các nước đang phát triển. Chỉ riêng 500 công
ty hàng đầu tính đến năm 1996 đã tạo ra hơn 35,5 triệu lao động, nhiều công
ty có số lao động hàng trăm nghìn người (chẳng hạn: năm 1996, GMC có số
lao động lớn nhất là 647.000 người còn Ford Motor là 371 nghìn người,


15
Unilever là 306 nghìn người, US Postal Service là 887 nghìn người…). Đặc
biệt, ở một số nước đang phát triển, tỷ lệ việc làm mà các công ty XQG tạo ra
khá lớn, chẳng hạn năm 1999: 5,9% ở Malaixia, 8,67% ở Philippin và 54,6%
ở Xingapo.
* Góp phần điều tiết nền kinh tế thế giới
Đã có thời gian người ta tranh luận nhiều về vai trò của các công ty
XQG đối với vấn đề chương trình hoá nền kinh tế thế giới. Có người cho

rằng, với sự có mặt ở nhiều nước trên thế giới, thông qua chiến lược cắm
nhánh mà bản thân mỗi công ty XQG có tính kế hoạch rất cao nên điều đó sẽ
là tiền đề cho việc thực hiện kế hoạch hoá kinh tế quốc tế.
Những ý kiến phản bác lại thì cho rằng, điều đó chỉ làm tăng thêm tính vô
chính phủ của nền kinh tế thế giới, bởi vì không có một sức mạnh nào hoặc trung
tâm nào có thể điều phối được hàng chục nghìn các công ty mẹ và hàng trăm nghìn
chi nhánh. Khi chúng đã vượt biên giới ra ngoài thì chúng trở thành một lực lượng
độc lập và chỉ có lợi nhuận mới là mục tiêu mà chúng theo đuổi và phục tùng.
Các ý kiến trên đều có tính hợp lý, song không tránh khỏi tính cực
đoan. Thực tế, các công ty XQG đã tạo ra những nhân tố mới trong việc phát
triển nền kinh tế thế giới theo những chương trình kế hoạch định trước của
mình và nền kinh tế thế giới nói chung, kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa nói
riêng, đã có những bước tiến mới trong việc điều chỉnh hoạt động theo hướng
“tháp hợp”. Trước hết, mỗi công ty XQG là một “phức hợp” gồm nhiều ngành
khác nhau, hoạt động tại nhiều nước dưới sự điều chỉnh từ một trung tâm, đó
là công ty mẹ. Với những tiến bộ về thông tin và bằng những phương pháp
quản lý mới, các công ty XQG đã từng bước điều khiển hoạt động của mình
một cách có kế hoạch. Đây là nhân tố mới, làm cân đối cục bộ nền kinh tế thế
giới trong giai đoạn mà tính hoàn chỉnh của thế giới đã được xác lập. Cũng


16
chính bằng hoạt động của mình các công ty XQG đã trở thành người làm
giảm áp lực của những cuộc khủng hoảng kinh tế từ trung tâm.
Thực tế đã chứng minh rằng trong nhiều trường hợp các công ty XQG
đã điều tiết sản phẩm thừa từ chính quốc sang chi nhánh, hoặc từ chi nhánh
này sang chi nhánh khác, làm cho tính chất gay gắt của khủng hoảng chu kỳ
giảm đi và tính chất phá hoại của giai đoạn khủng hoảng không nghiêm trọng
như trước.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, với cơ chế “tháp hợp”, trong đó việc tổ chức

và điều hành đều dựa theo những chỉ tiêu cơ bản của chương trình đặt ra, đồng
thời mở rộng tính độc lập cho các chi nhánh, các công ty XQG đã dễ dàng thích
ứng với những biến đổi của thị trường. Cũng do phương thức thực hiện kế hoạch
định hướng (chương trình) mà tính năng động của các chi nhánh được nâng cao
làm cho các công ty XQG trở thành doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đứng
vững trên thị trường với những khối lượng lợi nhuận khổng lồ, tỷ suất lợi nhuận
cao, thậm chí tới 25,2% doanh số bán và 22,1% tài sản (chẳng hạn như với
Petronas và Glaxo Wellcome vào năm 1998). Có thể nói chương trình hoá trong
từng công ty XQG và nhất là từng xí nghiệp chi nhánh được thực hiện nghiêm
ngặt, có hiệu quả. Song cũng không tránh khỏi sự hoạt động vô chính phủ. Tính
vô chính phủ đó biểu hiện ở việc các chi nhánh tự do hoạt động, có khi thoát
khỏi sự chỉ đạo của công ty mẹ. Đồng thời, tính kế hoạch của một tập đoàn XQG
lại mâu thuẫn với sự cạnh tranh vô chính phủ của cả hệ thống các công ty XQG.
Chỉ cần để cập đến sự hoạt động vô chính phủ của 500 công ty cỡ lớn mà mỗi
công ty có vốn ngang với tổng sản phẩm xã hội của một nước tư bản chủ nghĩa
trung bình, lại có hàng nghìn chi nhánh ở hàng trăm nước trên thế giới…cũng
đủ thấy tính chất phức tạp và khó khăn trong việc kế hoạch hoá hoặc chương
trình hoá nền kinh tế cũng như mức độ nghiêm trọng của hoạt động vô chính
phủ trong nền kinh tế thế giới dưới sự tác động của các công ty XQG. Thực tế


17
những thập kỷ qua cho thấy, các cuộc khủng hoảng cơ cấu, tiền tệ, năng
lượng, nguyên liệu…đều có vai trò “ngòi nổ” của các công ty này.
Vì vậy, một mặt cần thấy được những nhân tố mới trong việc điều chỉnh hoạt
động của nền kinh tế thế giới theo những chương trình lớn mà các công ty XQG đã
mang lại. Những nhân tố này có tính khách quan trong thời đại cách mạng khoa học
và công nghệ. Mỗi quốc gia đều có thể khai thác nhân tố này một cách có lợi cho
mình. Mặt khác, không nên quá ảo tưởng vào một nền kinh tế thế giới hoàn chỉnh
theo ý nghĩa đầy đủ của nó, và càng không nên đặt hy vọng quá nhiều vào sự điều

tiết từ một trung tâm. Bởi vì các trung tâm điều tiết kinh tế quốc tế hiện nay mới chỉ
là những tiền đề song lại không phải là trung tâm thuộc các công ty XQG, mà là
những hình thức liên quốc gia trong sự điều tiết, như các hội nghị G7, G3, hoặc các
tổ chức quốc tế, trong đó lại có những mục đích điều tiết các hoạt động của các
công ty XQG, tránh những hoạt động tiêu cực mà việc hoạt động vô chính phủ là
một mặt.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng các công ty XQG, bằng hoạt động quốc
tế của mình, đã đưa các nhân tố mới - nhân tố quốc tế - vào các nền kinh tế
của mỗi quốc gia, làm cho chương trình kinh tế của mỗi quốc gia gắn liền với
quốc tế và khu vực. Do vậy khi xây dựng chương trình kinh tế, mỗi quốc gia
cần phải tính tới các yếu tố quốc tế, đặc biệt là vai trò XQG. Vai trò này nhiều
khi có tính quyết định đối với việc thực hiện các chương trình kinh tế. Chẳng
hạn với Xingapo - một quốc gia đảo với hơn 3 triệu dân nhưng có tới 3.000
công ty XQG của nhiều nước và các công ty này đã nắm giữ vị trí quan trọng
của các ngành công nghiệp chủ chốt (80% năng lực sản xuất) và tham gia tới
70% kim ngạch xuất khẩu. Còn ở Malaixia, các công ty XQG đã tham gia vào
60% xí nghiệp, 70% tổng sản phẩm xã hội và 70% kim ngạch xuất khẩu... Với
vị trí như vậy, khi xây dựng chương trình kinh tế, các quốc gia này, không thể


18
không tính tới vị trí của các công ty XQG, thậm chí nó còn có cả tính chất
quyết định đối với việc thực hiện các chương trình kinh tế quốc gia.
* Vấn đề phương pháp luận rút ra từ việc phân tích vai trò của các
công ty XQG đối với nền kinh tế thế giới
Một là, sự ra đời, tồn tại và phát triển của các công ty XQG là một tất
yếu kinh tế. Dù muốn hay không, các công ty XQG vẫn xuất hiện, tồn tại và
phát triển do sự tập trung sản xuất đạt đến trình độ cao dưới tác động của cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Ngày nay, không ai có thể phủ nhận về
thực lực kinh tế của các công ty XQG.

Có thể đưa ra một vài số liệu để chứng minh tính chất hùng hậu về kinh
tế của các công ty XQG trong nền kinh tế toàn cầu: Về sở hữu tài sản, các
công ty XQG ngày nay nắm trong tay hàng chục ngàn tỉ USD, gấp hơn hai lần
toàn bộ ngân sách của 7 nước giàu nhất hành thế giới; sở hữu của một công ty
XQG trong nhóm 10 công ty XQG hàng đầu thế giới đã có tài sản kinh doanh trị
giá tương đương với GDP của một quốc gia trung bình trên thế giới; về số lượng,
các công ty XQG phát triển rất nhanh, từ 7000 công ty XQG cách đây 30 năm,
đến nay đã tăng lên tới trên 70.000 với số lượng chi nhánh trên 600.000 bám
rễ vào hầu hết các nước trên thế giới; các công ty XQG nắm phần lớn FDI, là
lực lượng nòng cốt thúc đẩy FDI thế giới tăng trưởng nhanh, làm cho tốc độ
tăng FDI vượt xa tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới.
Hai là, với số lượng lớn và thực lực kinh tế mạnh như trên, các công ty XQG
đóng vai trò quan trọng trên nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là sự phát triển kinh
tế toàn cầu. Ngày nay, với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá mà các công ty
XQG là một lực lượng thúc đẩy, đã mở ra nhiều khả năng mới để mỗi quốc gia
tranh thủ sử dụng nguồn lực quốc tế. Đối với các nước đang phát triển, chậm
phát triển, việc hợp tác với các công ty XQG để tranh thủ vốn, tiếp thu khoa
học - công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến qua đó đẩy nhanh tiến


19
trình phát triển tế, khắc phục dần tình trạng nghèo nàn, lạc hậu được coi là một
vấn đề mang tính khách quan. Tuy nhiên, quá trình hợp tác, liên doanh, liên kết
cũng cần nhận rõ sự tác động của các công ty XQG không chỉ có mặt tích cực
mà còn chứa đựng những yếu tố tiêu cực. Điều này đòi hỏi nước chủ nhà cần
phải có chiến lược phù hợp, sách lược mềm dẻo vừa tận dụng được những
đóng góp của các công ty XQG phục vụ mục tiêu tăng trưởng, phát triển vừa
hạn chế tối đa những mặt tiêu cực do chúng gây ra.
Ba là, nghiên cứu về các công ty XQG của CNTB hiện đại cần tránh hai
khuynh hướng sau: hoặc là tuyệt đối hoá những tác động tích cực của chúng đối

với sự phát triển kinh tế dẫn đến chủ quan, dễ chuốc lấy thất bại; hoặc là chỉ thấy
những tác động tiêu cực của các công ty XQG dẫn đến tình trạng cô lập, bất hợp
tác không phù hợp với xu thế chung của thời đại - xu thế toàn cầu hoá.
Bốn là, việc nghiên cứu vai trò của các công ty XQG có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc nhìn nhận đánh giá về hoạt động của các công ty XQG
tại Việt Nam hiện nay. Để có cách thức đối xử phù hợp, trên tinh thần chung
là hợp tác để phát triển kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, song luôn cảnh giác với
những tác động bất lợi của các TNC đối với sự nghiệp quốc kế, dân sinh.
2. Sự tác động và giải pháp thu hút, sử dụng có hiệu quả sự thâm
nhập của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam
2.1. Tình hình hoạt động của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam
hiện nay
Các công ty XQG đang hoạt động ở Việt Nam có nguồn gốc từ nhiều
nước, nhưng phổ biến là từ các nước TBCN phát triển. Thực tiễn hoạt động
của các công ty XQG trên thế giới cho thấy, có đến 90% số công ty có nguồn
gốc từ một nước. Do đó, căn cứ vào danh sách tên các quốc gia, vùng lãnh thổ


20
có vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, chúng ta có thể nhận diện một cách đầy
đủ nguồn gốc của các công ty XQG. Từ năm 1988 - 1997, phần đầu tư của
các công ty XQG Đông Á chiếm tới 64,8% trong số 10 nước đầu tư lớn nhất
vào Việt Nam. Năm 1998, kinh tế Đông Á lâm vào khủng hoảng tài chính tiền
tệ thì mức này vẫn chiếm tới 44,9% và năm 1999, sau sự phục hồi của các nền
kinh tế Đông Á, mức này đã tăng trở lại với 60,4%. Trong số các công ty
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thì các nhà đầu tư thuộc ASEAN chiếm vị trí
quan trọng. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến cuối năm 2004 đã
có các công ty của 8 nước ASEAN đầu tư tại Việt Nam (659 dự án, tổng số

vốn đăng ký đạt 11,087 tỷ USD) chiếm 24,14% tổng số vốn đăng ký, trong đó
Xingapo là nước có số vốn đầu tư đứng đầu các nước ASEAN và các quốc gia
khác tại Việt Nam với số vốn đăng ký đạt 7,988 tỷ USD, chiếm 73,4% tổng số
vốn đăng ký của ASEAN và 17,3% tổng số vốn đăng ký toàn quốc về FDI.
Như vậy, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam có nguồn gốc chủ
yếu là các nền kinh tế châu Á. Các công ty XQG châu Á phần lớn nằm ở các
nước có nền kinh tế đang phát triển và hầu hết các nước này đều chịu sự tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ năm 1997 mà dư âm của nó
không dễ gì đã kết thúc trong vòng một vài năm. Sự khó khăn của các công ty
XQG này đã kéo theo sự thu hẹp các khoản đầu tư mới cũng như sự trì trệ
trong việc thực hiện số vốn đầu tư đã cam kết. Cũng vì thế, tuy tổng mức vốn
cam kết đầu tư của các công ty XQG ở châu Á là rất lớn, song mức vốn thực
hiện lại rất thất thường chỉ đạt bình quân 20%, trong khi mức thực hiện này từ
các công ty XQG Âu - Mỹ thường đạt từ 38 - 70% thậm chí có công ty đạt
trên mức vốn đã cam kết. Có nhiều lý do liên quan đến vấn đề này, trong đó
năng lực tài chính yếu kém và công nghệ kỹ thuật luôn là những vấn đề nổi
cộm từ các các công ty XQG thuộc các nước đang phát triển hoặc các công ty
XQG đầu tư vào Việt Nam không xuất phát từ công ty mẹ mà là từ các công


21
ty thuộc thế hệ thứ hai nghĩa là từ các công ty chi nhánh ở nước thứ hai đầu tư
vào nước thứ ba. Điều này phản ánh một thực tế mới của sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và phân công lao động toàn cầu trong nội bộ các công ty XQG
hiện nay. Do quy mô không lớn và trình độ công nghệ không cao, những công ty
này thâm nhập vào Việt Nam theo một chiến lược kinh doanh đa dạng hoá do
công ty mẹ điều chỉnh nhằm hoặc để chuyển một phần năng lực sản xuất thừa
sang khu vực lãnh thổ khác, hoặc phân tán rủi ro, giảm bớt tổn thất kinh doanh,
hoặc thừa hành cắm nhánh theo hiệu ứng làn sóng trong chuyển dịch cơ cấu để
tận dụng các lợi thế so sánh ở nước đối tác với hy vọng đảm bảo chắc chắn cho

hoạt động sản xuất kinh doanh. Các công ty XQG châu Á luôn coi thị trường
Đông Nam Á trong đó có Việt Nam là thị trường truyền thống của họ, do đó sự
phổ biến của các công ty XQG châu Á ở Việt Nam cũng là điều có thể giải thích
được. Đây là đặc điểm bao quát vừa tạo thuận lợi, song cũng đặt ra với chúng ta
nhiều khó khăn trong xử lý các quan hệ lợi ích khi hai bên đều khá hiểu nhau do
gần gũi về địa lý và có nhiều nét tương đồng về văn hóa.
Trong số các công ty XQG đang hoạt động tại Việt Nam, chưa có nhiều
công ty thuộc loại hình doanh nghiệp lớn. Trong 500 tập đoàn lớn nhất được
bình chọn hàng năm, ở Việt Nam cho đến nay mới chỉ có trên 15% trong số đó
có dự án đầu tư và thiết lập các quan hệ giao thương hàng hoá, dịch vụ và công
nghệ. Thực tế này do các nguyên nhân chủ yếu là: Lợi thế so sánh chủ yếu của
Việt Nam hiện tại chủ yếu là lao động rẻ, nguyên liệu rẻ và thị trường rộng lớn,
những ngành sản xuất tận dụng các lợi thế này chủ yếu là những ngành sử dụng
nhiều lao động và công nghệ chuyển giao thường không cao. Trong điều kiện
toàn cầu hoá, khi lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế đã chuyển trọng tâm
sang các ngành đòi hỏi có hàm lượng cao về công nghệ và tri thức thì lôgic của
sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu xâm nhập sâu vào thị trường Việt Nam
chủ yếu không phải là các doanh nghiệp lớn và rất lớn. Như trên đã phân tích,


22
phần đầu tư và chu chuyển thương mại ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu bởi
các công ty XQG châu Á. Sự yếu kém về hạ tầng cơ sở, về môi trường đầu tư,
về năng lực thẩm định dự án đầu tư của phía Việt Nam đang có nhiều bất cập so
với đòi hỏi từ các phía đối tác nước ngoài là các tập đoàn XQG lớn. Cho đến nay
Việt Nam mới đang ở những bước đầu tiên của tiến trình hội nhập quốc tế, kinh
nghiệm ra biển lớn chưa nhiều, đang trong quá trình vừa làm, vừa học hỏi.
Hiện nay Việt Nam đã thu hút công ty XQG vào hầu hết các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, trong đó lĩnh vực công nghệ khai thác, khách sạn du lịch và
mới đây là bất động sản được coi là những địa bàn hấp dẫn và thu hút nhiều

nhất các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu năm 1999, Việt Nam đã cấp 33
giấy phép cho các tập đoàn dầu khí lớn nhất thế giới của cả 4 châu lục Bắc
Mỹ châu Âu châu Úc và châu Á theo các hợp đồng phân chia sản phẩm để
thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam. Lĩnh vực khách sạn và
du lịch cũng tỏ ra là một đối tượng hấp dẫn các công ty XQG vì các lĩnh vực
này đầu tư vốn ít, thu hồi vốn nhanh, lợi nhuận cao, đặc biệt phù hợp với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ tính đến cuối năm 2005 việt nam đã có gần 400
dự án đầu tư xây dựng khách sạn. Việt Nam cũng đã chú trọng phát triển và
thu hút các công ty XQG đầu tư vào lĩnh vực bưu chính viễn thông - một lĩnh
vực mà chúng ta có thể thực hiện phương châm đi tắt, đón đầu để thu hút những
công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất trên thế giới. Gần đây, các công ty XQG rất
chú trọng đến việc đầu tư vào thị trường bất động sản tại Việt Nam, thị trường có
diễn biến hết sức phức tạp kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á,
nhất là từ năm 2000 trở lại đây. Theo thống kê, 9 tháng đầu năm 2008, tổng số vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký ở nước ta là gần 50 tỉ USD thì số đầu tư vào
thị trường bất động sản chiếm khoảng 20%. Sự hiện diện của các công ty XQG ở
Việt Nam thông qua cơ chế đầu tư, thời gian gần đây tồn tại dưới hình thức 100% vốn


23
nước ngoài là phổ biến chứ không phải hình thức liên doanh như những năm 80, 90
của thế kỷ XX.
Hiện nay, Việt Nam đã tạo dựng môi trường đầu tư nhằm hấp dẫn các
công ty XQG kinh doanh công nghiệp dịch vụ bằng việc thu hút đầu tư và
mở rộng mạnh mẽ các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ
cao. Việt Nam nhất thiết phải có những chiến lược của riêng mình để thu
hút hiệu quả hoạt động của các công ty XQG mà trước hết là khắc phục tình
trạng yếu kém về hạ tầng kỹ thuật nhằm làm cho các nhà đầu tư nước ngoài
có thể phát huy ngay hiệu quả đồng vốn, đồng thời được thụ hưởng các ưu
đãi của nhà nước. Chính phủ Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu của các công ty

XQG bằng việc phát triển đồng thời cả khu công nghiệp, khu chế xuất. Nếu
như khu chế xuất hướng chủ yếu vào thị trường xuất khẩu thì khu công
nghiệp cùng lúc có thể đáp ứng cả yêu cầu xuất khẩu và yêu cầu phục vụ
thị trường nội địa. Như vậy việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất
và khu công nghệ cao trở thành tầng cơ sở và khung môi trường đầu tư,
làm cho mọi công ty XQG lớn, vừa và nhỏ đều có thể thâm nhập vào thị
trường Việt Nam.
2.2. Sự tác động của các công ty XQG đối với nước ta hiện nay.
* Những tác động tích cực
- Các công ty XQG có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy tăng năng
suất lao động và thu nhập quốc dân ở Việt Nam thông qua đầu tư trực tiếp.
Do có công nghệ cùng với trình độ quản lý được nâng lên nên đối với
các ngành sản xuất thì việc tăng năng suất là điều tất yếu. Không những thế
những công nghệ này còn cho ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, tính
năng đa dạng hơn, bền hơn và với những mẫu mã đa dạng, hàng hoá lúc này
sẽ nhiều và tất nhiên sẽ rẻ hơn so với trước. Điều này chính là cung tăng lên
nhưng thực ra nó tăng lên để đáp ứng lại lượng cầu cũng tăng lên rất nhanh do
quá trình đầu tư có tác động vào. Tốc độ quay của vòng vốn tăng lên nhanh


24
hơn, do vậy sản phẩm cũng được sản xuất ra nhiều hơn và tiêu thụ cũng nhiều
hơn. Do sự tiêu thụ được tăng lên do vậy các ngành sản xuất, dịch vụ được
tiếp thêm một luồng sức sống mới, nhân lực, máy móc và các nguyên vật liệu
được đem ngay vào sản xuất, từ đó sức đóng góp của các ngành này vào GDP
cũng đã tăng lên. Việc có được những công ty có hiệu quả với khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới có thể đưa lại một sự khai thông quan trọng, tiềm
tàng cho việc chuyển giao các kỹ năng quản lý và công nghệ cho các nước
chủ nhà. Điều này có thể xảy ra ở bên trong một ngành công nghiệp riêng rẽ,
trong đó có những người cung ứng các đầu vào cho các chi nhánh nước ngoài,

những người tiêu dùng trong nước đối với các sản phẩm của chi nhánh này và
những đối thủ cạnh tranh của chúng, tất cả đều muốn lựa chọn những phương
pháp kỹ thuật có hiệu quả hơn. Nó cũng có thể diễn ra một cách rộng rãi hơn
trong nội bộ nền kinh tế thông qua sự tăng cường có kết quả công tác đào tạo
và kinh nghiệm của lực lượng lao động và thông qua sự khuyến khích có thể
có đối với các ngành hỗ trợ tài chính và kỹ thuật có khả năng dẫn tới sự hạ
thấp toàn bộ chi phí công nghiệp.
Trong thời gian vừa qua với sự hoạt động của các công ty XQG thông
qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào
ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô: mức đóng góp của khu vực kinh tế
này vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu
thô này đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm (2001-2005),
thu ngân sách trong khối doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt gần đạt
hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Các doanh nghiệp FDI đóng góp
vào GDP thời kỳ 2001-2005 là 14,5%, tăng lên 16,98% năm 2006, 17,96%
năm 2007, 18,43% năm 2008 và 18,33% năm 2009.
- Sự hiện diện của công ty XQG đồng nghĩa với việc cung cấp một
nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đây là điều cực kỳ cần thiết cho bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt đối với
nước ta khi mà chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều


25
kiện điểm xuất phát thấp, thực lực kinh tế còn nhiều hạn chế, bất cập. Có thể
thống kê số liệu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bổ sung vào nguồn vốn đầu
tư của toàn xã hội những năm gần đây như sau: 26% năm 1996, 28% năm
1997, 20,8% năm 1998, 17,3% năm 1999, 18,7% năm 2000, 18,4% năm
2001, 18,5% năm 2002, 17,8% năm 2003 và 17% năm 2004. Tổng số dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép từ năm 1988 đến năm 2008 đã lên
tới 10.981 dự án, đạt tổng số vốn đăng ký là hơn 163,607 tỉ USD. Riêng năm

2007, Việt Nam thu hút được 21,347 tỉ USD, trong đó giải ngân được 8,030 tỉ
USD; trong các năm 2008 và 2009 kết quả đạt được trong lĩnh vực này thứ tự
là 64 tỉ USD (vốn thực hiện gần 12 tỉ USD) và 21,482 tỉ USD (thực hiện được
10 tỉ USD); vốn thực hiện năm 2010 đạt 11 tỷ USD tăng 11% so năm 2009.
Không chỉ đạt được kết quả đáng ghi nhận về tốc độ giải ngân trong bối cảnh
vốn thu hút mới và vốn tăng thêm sụt giảm mà chúng ta còn tăng được số dự
án, quy mô vốn của dự án. Nếu quy mô vốn bình quân của 1 dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài năm 2007 chỉ là 12,12 triệu USD, thì đến năm 2008 quy mô
đó đạt 51,47 triệu USD, năm 2009 đạt 19,43 triệu USD.
- Các công ty XQG đã đóng góp phần tích cực trong việc thực hiện sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam
Đối với Việt Nam nguồn vốn của các công ty XQG góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp: Đến nay, khu
vực kinh tế có vốn FDI thuộc các công ty XQG chiếm khoảng 35% giá trị sản
xuất công nghiệp của cả nước. Đặc biệt ở một số địa phương (Bình Dương,
Đồng Nai, Vĩnh Phúc…) tỷ lệ này đạt đến 65-70%. Đầu tư của các công ty
XQG đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của
nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghiệp chế biến nông sản thực
phẩm, da giày, dệt may… Trong nông-lâm-ngư nghiệp, đã tạo ra một số sản
phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới; đồng thời đã
kích thích lĩnh vực dịch vụ Việt Nam nâng cao chất lượng và phát triển nhanh
hơn, nhất là trong các ngành viễn thông, du lịch, kinh doanh bất động sản,
giao thông vận tải, tài chính, ngân hàng…


×