Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ PHƯƠNG PHÁP CHỦ yếu của c mác TRONG tác PHẨM tư bản và ý NGHĨA của VIỆC NGHIÊN cứu tác PHẨM TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.76 KB, 18 trang )

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHỦ YẾU CỦA C.MÁC
TRONG TÁC PHẨM “TƯ BẢN” VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
TÁC PHẨM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
MỞ ĐẦU

C.Mác nhà tư tưởng vĩ đại của giai cấp vô sản, nhà khoa học thiên tài, kiệt
xuất của nhân loại. Trong rất nhiều những đóng góp để lại cho nhân loại thì “Tư
bản” là một tác phẩm đồ sộ, vĩ đại nhất của C.Mác. Có thể coi “Tư bản” là tác
phẩm kinh điển, chủ yếu của chủ nghĩa Mác, nó có giá trị lịch sử to lớn nhất,
hàm chứa rất nhiều nội dung và gắn bó với C.Mác suốt 40 năm, kể từ năm 1843
đến năm 1883. Những nội dung chứa đựng trong bộ “Tư bản” đã để lại cho nhân
loại và đặc biệt để lại cho giai cấp vô sản trên toàn thế giới một kho tàng tri thức
khoa học đồ sộ, vũ khí tư tưởng – lý luận sắc bén để chống lại giai cấp tư sản.
Cụ thể, C.Mác đã chỉ rõ tính lịch sử tạm thời của CNTB, đồng thời chỉ rõ ngọn
nguồn quy luật giá trị thặng dư, thông qua đó vạch rõ bản chất bóc lột của
CNTB, nơi khởi nguồn của mọi áp bức; đồng thời C.Mác chỉ rõ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản là đánh đổ chế độ tư bản xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.v.v..
Để có được những thành quả to lớn chứa đựng trong bộ “Tư bản” là ở
chỗ C.Mác đã xây dựng cho mình phương pháp nghiên cứu khoa học. Trong
quá trình nghiên cứu chúng ta có thể liệt kê một số phương pháp nghiên cứu
chính mà C.Mác sử dụng trong tác phẩm bộ “Tư bản” như sau:
Trong bộ “Tư bản” phương pháp nghiên cứu khoa học được C.Mác sử
dụng một cách điêu luyện. Nói như V.I.Lênin: “C.Mác không để lại cho chúng ta
“lôgíc học” (với chữ L viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta lôgíc của “Tư
bản”, và cần phải tận dụng đầy đủ nhất lôgíc đó để giải quyết vấn đề mà chúng ta
đang nghiên cứu. Trong “Tư bản”, C.Mác áp dụng lôgíc, phép biện chứng và lý
luận nhận thức…của chủ nghĩa duy vật vào một khoa học duy nhất…”1
1

1.



. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, NxbTiến bộ, Mãtxcơva, 1981,tr.359


2
1.1. Phương pháp trừu tượng hoá khoa học
Mỗi một ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng do vậy phương
pháp nghiên cứu cũng có sự khác nhau. Trong “Lời tựa viết cho lần xuất bản
thứ nhất” quyển I bộ “Tư bản”, C.Mác đã nhấn mạnh: “…khi phân tích những
hình thái kinh tế, người ta không thể dùng kính hiển vi hay những chất phản
ứng hoá học được. Sức trừu tượng hoá phải thay thế cho cả hai cái đó”2.
Có thể khái quát phương pháp trừu tượng hoá khoa học mà C.Mác sử
dụng có nghĩa là, trong quá trình nghiên cứu một sự vật, hiện tượng nào đó
phải gạt bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu những cái ngẫu nhiên, tạm thời, thoáng
qua, cái không ổn định, cái không thuộc bản chất của nó, chỉ giữ lại những
quá trình, những hiện tượng vững chắc, ổn định, điển hình tiêu biểu cho bản
chất của đối tượng nghiên cứu, để không bị lầm lạc bởi những tình huống
phụ, xa lạ với tiến trình thật sự và làm rối loạn tiến trình ấy, cụ thể:
Ví dụ, khi phân tích về xã hội tư bản: để minh họa chủ yếu cho sự
trình bày lý luận của mình C.Mác đã không chọn nước Đức quê hương ông
mà lại chọn chọn nước Anh, bởi vì lúc đó nước Đức - nền kinh tế vẫn sản xuất
theo phương thức sản xuất phong kiến điển hình ở Châu Âu, mới manh nha,
xuất hiện những tiền đề của cuộc cách mạng công nghiệp; còn ở Anh là nước
TBCN điển hình nhất, phát triển nhất thời đó. Tuy nhiên trong xã hội Anh
cũng không có CNTB dưới dạng thuần tuý mà vẫn còn những tàn dư của các
phương thức sản xuất tiền TBCN, như kinh tế tự nhiên và sản xuất hàng hoá
nhỏ. Vì thế, để tìm ra những quy luật vận động của xã hội hiện đại, tức là xã
hội TBCN C.Mác đã vận dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để gạt
bỏ những tàn dư nói trên mà chỉ xét phương thức sản xuất TBCN dưới dạng
thuần tuý, trong đó toàn bộ của cải biểu hiện ra của nó là “một đống hàng hóa

khổng lồ”, tất cả các yếu tố đầu vào (kể cả sức lao động…) và đầu ra của sản
xuất đều là hàng hoá, đều phải được mua bán thông qua thị trường. Bởi vậy,
khi phân tích tư bản công nghiệp, trong rất nhiều giai tầng của xã hội tư bản
Anh lúc đó C.Mác chỉ đề cập quan hệ giữa hai giai cấp cơ bản đối lập nhau
2

.C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 25, phần I, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tr.592-593


3
của xã hội tư bản là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, chỉ khi nghiên cứu
sự chuyển hoá lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô TBCN trong quyển III mới
xét thêm quan hệ với chủ sở hữu ruộng đất.
Ví dụ khác: khi mới lập ra doanh nghiệp, quy mô còn nhỏ, có thể nhà
tư bản kiêm nhiệm cả chức năng quản lý, trực tiếp làm giám đốc. Nhưng chức
năng này thuộc phạm trù lao động trí óc, không thuộc về bản chất của nhà tư
bản. Bởi vậy, C.Mác gạt bỏ chức năng giám đốc, chỉ xét nhà tư bản với tư
cách là chủ sở hữu tư bản. Đồng thời, C.Mác nhấn mạnh không được lầm lẫn
tiền công quản lý với lợi nhuận doanh nghiệp. Bởi vì, khi quy mô doanh
nghiệp đủ lớn, nhà tư bản chỉ cần bỏ ra một món thù lao nhỏ mọn là có thể
trút gánh nặng quản lý cho những viên giám đốc làm thuê, lúc đó hắn ta sẽ
hiện nguyên hình là người chủ sở hữu tư bản và chiếm đoạt giá trị thặng dư
(hay lợi nhuận). Vì thế, C.Mác không nghiên cứu từng nhà tư bản cụ thể mà
“chỉ nói đến những con người trong chừng mực mà họ là hiện thân của
những phạm trù kinh tế, là kẻ đại biểu cho những quan hệ và những lợi ích
giai cấp nhất định”3.
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học được C.Mác sử dụng biểu hiệu
rõ trong các giả định khoa học. Vì thế, khi nghiên cứu những nguyên lý trong
tác phẩm “Tư bản”, phải đặc biệt chú ý những giả định. Khi giả định thay đổi
thì kết luận thay đổi. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua các ví dụ cụ thể

sau:
Ví dụ về giá trị hàng hoá:
Khi giả định chỉ xét quá trình sản xuất trực tiếp (quyển I), thì: chỉ có lượng
lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy.
Nhưng khi xét quá trình tái sản xuất (đến quyển II), lại đi đến kết luận
mới: “Giá trị của mọi hàng hoá - và do giá trị của những hàng hoá cấu thành
tư bản cũng vậy, không phải là do thời gian lao động cần thiết chứa đựng
trong bản thân hàng hoá đó quyết định, mà là do thời gian lao động xã hội
3.

Sđd, tập 23, Nxb CTQG, Hà Nội, 1993, tr.21


4
cần thiết để tái sản xuất ra hàng hoá đó quyết định. Việc tái sản xuất đó có
thể tiến hành trong những điều kiện hoặc thuận lợi hơn, hoặc khó khăn hơn,
không giống như những điều kiện sản xuất ban đầu”4
Khi gắn với cạnh tranh trong nội bộ ngành và quan hệ cung cầu C.Mác
lại chỉ ra: giá thị trường, tức là giá trị trung bình của những hàng hoá được
sản xuất trong một khu vực sản xuất nào đó, mới là cái trục mà giá cả thị
trường xoay quanh. Khi xét cả cạnh tranh giữa các ngành lại đi đến kết luận
mới: giá cả sản xuất (bao gồm chi phí sản xuất cộng lợi nhuận bình quân),
mới là trung tâm mà xung quanh nó giá cả thị trường lên xuống (Quyển III)
Ví dụ về phân tích nhân tố ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá, như giá
trị của hàng hoá, giá tri của tiền (vàng), quan hệ cung cầu.
Giả định cung bằng cầu, giá trị của tiền không đổi, còn giá trị của hàng
hoá thay đổi, rút ra kết luận: giá cả hàng hoá biến đổi tỷ lệ thuận với giá trị
của hàng hoá.
Giả định cung bằng cầu, giá trị của hàng hoá không đổi, giá trị của tiền thay

đổi cho ta đi đến kết luận: Giá cả hàng hoá biến đổi tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền.
Cuối cùng giả định giá trị của hàng hoá và giá trị của tiền không đổi
quan hệ cung cầu biến đổi. Nếu cung lớn hơn cầu giá cả thị trường của hàng
hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó; nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị
trường của hàng hoá cao hơn giá trị thị trường của nó.
Ví dụ về quy luật lưu thông tiền tệ: Khi chỉ xét riêng chức năng
phương tiện lưu thông, với giả định “giá trị của vàng là một đại lượng nhất
định”5, khối lượng tiền làm chức năng phương tiện lưu thông bằng tổng số giá
cả hàng hoá chia cho số vòng quay của những đồng tiền cùng tên gọi.
Nhưng nếu giả định, “với một tổng số giá trị hàng hoá nhất định và với
một tốc độ trung bình nhất định của những biến đổi hình thái của các hàng
hoá”6 thì “số lượng tiền hay vật liệu tiền đang lưu thông sẽ phụ thuộc vào
44.

Sđd, tập 23, Nxb CTQG, Hà Nội, 1993, tr.68.
Sđd, tập 25, phầnI, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tr.213
6
Sđd , tập 23, tr.181, tr.183.
5


5
bản thân giá trị của vật liệu này”7. Khi xét thêm chức năng phương tiện thanh
toán, lại thấy: “Với một tốc độ chu chuyển nhất định của các phương tiện lưu
thông và phương tiện thanh toán tổng số tiền ấy sẽ bằng tổng số giá cả hàng
hoá cần được thực hiện, cộng với tổng số các khoản thanh toán đến hạn, trừ
đi các khoản thanh toán đã bù trừ lẫn cho nhau, và cuối cùng trừ đi tổng số
vòng quay, trong đó cũng có những đồng tiền ấy lần lượt khi thì làm chức
năng phương tiện lưu thông, khi thì làm chức năng phương tiện thanh toán”8.
Ví dụ khác: Khi phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng

phương tiện lưu thông, như sự vận động của giá cả, khối lượng hàng hoá đang
lưu thông và tốc độ lưu thông của tiền, thay đổi theo những hướng khác nhau
và những tỷ lệ khác nhau.
Khi giá cả hàng hoá không đổi thì khối lượng phương tiện lưu thông có
thể tăng lên, nếu như khối lượng hàng hoá lưu thông tăng lên hay tốc độ lưu
thông của tiền giảm xuống, hoặc cả hai tình hình cùng tác động. Ngược lại,
khối lượng phương tiện lưu thông có thể giảm xuống, nếu như khối lượng
hàng hoá giảm xuống hay tốc độ lưu thông tăng lên.
Khi giá cả hàng hoá tăng lên một cách phổ biến thì khối lượng các
phương tiện lưu thông có thể không thay đổi như khối lượng hàng hoá lưu
thông giảm xuống theo cùng một tỷ lệ tăng lên của giá cả các hàng hoá đó,
hoặc tốc độ lưu thông của tiền cũng tăng lên nhanh như tỷ lệ tăng của giá cả,
trong khi khối lượng các hàng hoá đang lưu thông vẫn không thay đổi. Khối
lượng các phương tiện lưu thông có thể giảm xuống, nếu như khối lượng hàng
hoá giảm xuống hay tốc độ lưu thông tăng lên nhanh hơn giá cả.
Khi giá cả các hàng hoá giảm xuống một cách phổ biến thì khối lượng
các phương tiện lưu thông có thể thay đổi nếu như khối lượng các hàng hoá
tăng lên theo cùng một tỷ lệ giảm xuống của giá cả những hàng hoá đó, hay
nếu như tốc độ lưu thông của tiền giảm xuống theo cùng một tỷ lệ với giá cả.
Khối lượng các phương tiện lưu thông có thể tăng lên, nếu như khối lượng
7
8

Sđd , tập 23, tr.181, tr.188.
. Sđd, tập 23, tr.210


6
các hàng hoá tăng lên, hay nếu như tốc độ lưu thông giảm xuống nhanh hơn
giá cả các hàng hoá.

Những sự biến đổi của các nhân tố khác nhau có thể bù trừ lẫn nhau
khiến cho tổng số giá cả các hàng hoá phải thực hiện vẫn không thay đổi, và
do đó khối lượng tiền lưu thông cũng không thay đổi, mặc dù những nhân tố
ấy biến động không ngừng9.
Ví dụ về địa tô tư bản chủ nghĩa: Địa tô TBCN được C.Mác nghiên
cứu xuất phát từ giả thiết cho rằng nông nghiệp, cũng như công nghiệp chế
tạo, đều bị phương thức sản xuất TBCN chi phối. Người lao động nông
nghiệp bị tước đoạt mất ruộng đất và phải phục tùng một nhà tư bản kinh
doanh nông nghiệp nhằm mục đích kiếm lợi nhuận, ở đây chỉ giới hạn trong
việc đầu tư tư bản vào nông nghiệp theo nghĩa hẹp, nghĩa là vào ngành sản
xuất ra một sản phẩm thực vật chủ yếu, nuôi sống cả một dân cư.
Như vậy, trong nông nghiệp TBCN đã tập hợp ba giai cấp cấu thành bộ
xương sống của xã hội cận đại: người công nhân làm thuê, nhà tư bản kiến
trúc Phéc-mi-ê và địa chủ. Tuy nhiên, ở đây, hoàn thành tách ruộng đất đối
với tư cách là tư liệu lao động khỏi quyền sở hữu ruộng đất và người sở hữu
ruộng đất đối với người này thì ruộng đất không có ý nghĩa gì khác hơn là
một khoản thuế bằng tiền mà độc quyền của hắn thu được của nhà tư bản
công nghiệp, tức là người Phéc-mi-ê; phương thức sản xuất TBCN đã cắt đứt
mọi mỗi liên hệ với người sở hữu ruộng đất với ruộng đất. Ở đây, C.Mác đã
không bàn trường hợp người thuê ruộng không phải là nhà tư bản (thực tế họ
có thể là tiểu nông), vì cái gì mà người tiểu nông nộp cho người chủ dưới hình
thức thái tiền thuê ruộng nhiều khi không những nuốt hết lợi nhận của anh ta
mà còn ngốn mất một phần tiên công bình thường nữa. Như vậy, để phân tích
địa tô một cách khoa học, trên cơ sở phương thức TBCN, C.Mác “Đã xét địa tô
dưới cái hình thái thuần tuý của nó, gạt bỏ mọi cái pha tạp làm xuyên tạc bản
chất của địa tô đi và làm cho nó lu mờ đi”10
9

. Sđd, tập 23, tr.186.
. Sđd, tập 25 phần II, tr. 239.


10


7
Tóm lại, để rút ra được những kết luận mang tính chất kinh điển, phản
ánh đầy đủ bản chất của mỗi sự vật hiện tượng, gạt bỏ những yếu tố thoáng
qua, không bản chất v.v… trong quá trình nghiên cứu cụ thể là C.Mác tìm ra
bản chất thực sự của CNTB… qua đó chúng ta mới thấy hết sức mạnh của
phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Do đó, trong qua trình học tập, nghiên
cứu chúng ta cần vận dụng sáng tạo linh hoạt phương pháp này.
1.2. Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Đây là phương pháp duy nhất khoa học để nhận thức quy luật tự nhiên, xã hội
và tư duy. Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội đều cần thiết phải áp
dụng phương pháp nghiên cứu trên. Chính C.Mác là người đầu tiên áp dụng
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử vào nghiên cứu kinh tế
chính trị nói chung và nghiên cứu bộ “Tư bản” nói riêng. Nhờ phương pháp
luận khoa học này mà C.Mác đã luận giải một cách khoa học những vấn đề cơ
bản cốt lõi, bản chất, bí mật nhất của xã hội tư bản nói riêng cũng như tất cả
các xã hội trong lịch sử nói chung.
Trước C.Mác, đã có rất nhiều học giả tư sản không coi sự biến hóa của xã
hội loài người là quá trình khách quan, có quy luật khách quan chi phối, mà do
những nhân tố tâm lý như: lý tính, đạo dức, lương tâm,… của con người quyết
định, họ hoàn toàn dùng ý thức của con người để giải thích hiện tượng xã hội. Vì
vậy, họ là những người theo chủ nghĩa duy tâm về lịch sử. Trong bộ “Tư bản’
C.Mác đã quy các hiện tượng xã hội của xã hội tư bản phức tạp về những quan
hệ kinh tế - tức các quan hệ sản xuất; đồng thời C.Mác lại quy sự thay đổi của
các quan hệ sản xuất về sự thay đổi của sức sản xuất. Cho nên C.Mác đã không
mượn ý thức đạo đức, ý thức lương tâm để thuyết minh cho sự thay đổi xã hội tư
bản nói riêng và các xã hội trong lịch sử nói chung; C.Mác xuất phát từ trình độ

sản xuất khách quan mà chỉ ra quy luật khách quan của mọi sự biến đổi trong xã
hội.
Trong nghiên cứu của mình, C.Mác luôn chú trọng từ mối quan hệ nội tại
tác động qua lại lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng và


8
quan hệ sản xuất, trình bày rõ cơ chế biến đổi quan hệ sản xuất và quy luật phát
triển của nó, chú trọng nghiên cứu đối với quyền lợi kinh tế, chế độ kinh tế và
biến thiên lịch sử của nó. Phương pháp phân tích khoa học này của C.Mác đã
khác xa với phương pháp duy tâm về lịch sử, coi quan hệ sản xuất và chế độ
kinh tế TBCN là phạm trù chung và vĩnh hằng của kinh tế chính trị học tư sản.
1.3. Phương pháp kết hợp lôgíc với lịch sử
Ph.Ăngghen viết: “…về thực chất, phương pháp này chẳng qua cũng
là phương pháp lịch sử, có điều là đã thoát khỏi hình thái lịch sử và khỏi
những hiện tượng ngẫu nhiên gây trở ngại mà thôi. Lịch sử bắt đầu từ đâu thì
quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó, và sự vận động tiếp tục của nó
chẳng qua là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thái trừu tượng và
nhất quán về lý luận: Nó là sự phản ánh đã được uốn nắn, nhưng uốn nắn
theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử hiện thực đã cung cấp…”11
Theo quan điểm của Ph.Ăngghen có thể khái quát thành 3 vấn đề trong
xem xét, nghiên cứu về phương pháp được sử dụng trong bộ “Tư bản” của C.Mác.
- Cần hiểu phương pháp nghiên cứu lôgíc về thực chất chỉ là phương
pháp lịch sử đã thoát khỏi hình thái lịch sử và những hiện tượng ngẫu nhiên.
Có thể nhận thấy rằng những phạm trù kinh tế được xem xét không phải là
quá trình tư duy trừu tượng chỉ diễn ra trong đầu óc chúng ta mà cũng là quá
trình hiện thực đã xuất hiện trong tiến trình lịch sử theo một trình tự y như
trong tiến trình phát triển lôgíc vậy. Nhưng lịch sử thường phát triển qua
những bước khúc khuỷu, quanh co và những bước nhảy vọt, nếu đi theo nó thì
không những sẽ phải nêu lên nhiều tài liệu không quan trọng mà thường

thường còn phải ngắt đoạn tiến trình tư tưởng nữa.
Trong bộ “Tư bản” việc nghiên cứu phương thức sản xuất TBCN bắt
đầu từ sự phân tích hàng hoá, bởi vì tiền đề lịch sử của sự xuất hiện tư bản
cũng là sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển đến một trình độ nhất định.
Hơn nữa, một mặt, sản xuất hàng hóa là khởi điểm ra đời của CNTB; mặt
khác, sản xuất TBCN là một nền sản xuất hàng hóa phát triển cao, hàng hóa là
11

. Sđd, tập 13, Nxb CTQG, Hà Nội, 1993, tr.614


9
hình thái tế bào kinh tế của xã hội tư bản. Hàng hóa mà C.Mác lấy làm xuất
phát điểm nghiên cứu chứa sẵn mầm mống của quan hệ sản xuất TBCN và
mầm mống mâu thuẫn của phương thức sản xuất TBCN. Đó là phương pháp
nghiên cứu thực sự khoa học, vừa hợp với lôgíc vừa hợp với lịch sử.
Về lôgíc sự sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối tạo thành cơ sở chung
của chế độ TBCN và điểm xuất phát của sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương
đối. Về lịch sử sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối cũng chiếm ưu thế trong
thời kỳ đầu của CNTB, và cùng với tiến bộ khoa học, kỹ thuật, năng suất lao
động xã hội không ngừng tăng lên thì sản xuất giá trị thặng dư tương đối cũng
ngày càng chiếm ưu thế.
Sự phát triển lôgíc hoàn toàn không nhất thiết chỉ đóng khung trong
phạm vi trừu tượng thuần tuý mà nó đòi hỏi phải có những minh hoạ lịch sử,
phải thường xuyên tiếp xúc với hiện thực. Thí dụ: C.Mác đã dẫn ra nhiều tư
liệu lịch sử để minh hoạ hiệp tác giản đơn, hiệp tác có phân công trong công
trường thủ công, máy móc và đại công nghiệp và cái gọi là tích luỹ ban đầu…
Bởi vậy, khi nghiên cứu các tác phẩm kinh điển nói chung và tác phẩm
“Tư bản” nói riêng, phải tuân thủ nguyên tắc “lý luận liên hệ với thực tiễn”.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Thống nhất giữa lý luận và thực

tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa C.Mác-Lênin.”12
- Lịch sử bắt đầu từ đâu quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó. Có
thể hiểu luận điểm này là: Lịch sử của đối tượng nghiên cứu bắt đầu từ đâu thì
quá trình tư duy về đối tượng ấy cũng phải bắt đầu từ đó. Khi nghiên cứu bộ
“Tư bản” một số người đặt câu hỏi: Vì sao tư bản thương nghiệp là hình thái
tư bản xuất hiện đầu tiên trong lịch sử mà khi nghiên cứu CNTB C.Mác lại
bắt đầu từ tư bản công nghiệp và giả định tư bản công nghiệp là một thể thống
nhất, chỉ đến phần thứ tư, quyển III mới nghiên cứu tư bản thương nghiệp?
Đó là vì “bước quá độ từ phương thức sản xuất phong kiến được tiến hành
bằng hai cách. Người sản xuất trở thành thương nhân và nhà tư bản…Hoặc
12

. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H. 2000, tr.496


10
là thương nhân trực tiếp nắm lấy sản xuất…” 13. Nói một cách cụ thể hơn
“bước quá độ diễn ra theo ba cách. Một là, thương nhân trực tiếp trở thành
nhà công nghiệp; điều đó diễn ra trong những ngành thủ công dựa trên
thương nghiệp, đặc biệt là trong những ngành sản xuất hàng xa xỉ, trong
những ngành mà cả nguyên liệu lẫn công nhân đều do thương nhân đưa từ
nước ngoài vào…Hai là, thương nhân biến các tiểu chủ thành những người
trung gian của mình hoặc mua trực tiếp của người sản xuất độc lập; về danh
nghĩa thì hắn để cho người này độc lập và không đụng tới cách thức sản xuất
của người này. Ba là, nhà công nghiệp trở thành thương nhân và trực tiếp
sản xuất với quy mô lớn để buôn bán”14.
Như vậy, là thủa ban đầu các doanh nghiệp tư bản đều nắm cả sản xuất
và lưu thông, dù ra đời bằng cách nào. Chỉ về sau mới diễn ra sự phân công xã
hội, tách riêng tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay… Bởi thế, sự phân tích
lôgíc cũng phải bắt đầu từ giả định tư bản công nghiệp là một thể thống nhất.

- Sự vận động xã hội như là một quá trình lịch sử tự nhiên. Trong “Lời
bài viết cho lần xuất bản thứ hai”, quyển I “Tư bản”, C.Mác đã trích dẫn bài
bình luận về phương pháp của quyển “Tư bản” đăng trên tạp chí “Người
truyền tin Châu Âu” ở Pê-téc-bua mà C.Mác coi là mô tả đúng: “Đối với
C.Mác, chỉ có điều này là quan trọng; tìm ra quy luật của những hiện tượng
mà ông nghiên cứu. Hơn nữa, điều quan trọng đối với ông không phải chỉ là
cái quy luật chi phối những hiện tượng ấy trong lúc đang ở dưới một hình
thái nhất định mà đang nằm trong mối quan hệ qua lại mà ông quan sát được
trong một lúc nhất định. Đối với ông điều quan trọng hơn cả là quy luật biến
hoá của các hiện tượng, quy luật phát triển của chúng, tức là sự chuyển hoá
từ một hình thái này sang một hình thái khác, từ một trật tự quan hệ qua lại
này sang một trật tư quan hệ qua lại khác. Một khi đã phát hiện ra quy luật
đó, ông liền xem xét tỉ mỉ hơn nữa những hậu quả mà thông qua đó, quy luật
ấy biểu hiện ra trong đời sống xã hội…” và “…khi chứng minh tính tất yếu
13
14

. Sđd, tập 25, phần I, tr.510
. Sđd, tập 25, phần I, tr.512


11
của trật tự hiện thời, ông chứng minh luôn cả tính tất yếu của một trật tự
khác mà trật tự hiện thời nhất thiết phải chuyển sang, dù người ta có nghĩ
đến hay không nghĩ đến điều đó, dù người ta có ý thức hay không có ý thức về
điều đó. Ông coi sự vận động xã hội như là một quá trình lịch sử tự
nhiên”15… Trong “Lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất” quyển I “Tư bản”,
C.Mác cũng nhấn mạnh: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tếxã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên…”16.
Có thể nhận thức rõ những quá trình lịch sử tự nhiên ấy khi nghiên cứu
sự tác động của quy luật giá trị làm phân hoá những người sản xuất hàng hoá

nhỏ thành những người chủ tiền và chủ hàng hoá ở một bên, còn bên kia là
những người làm chủ chỉ có sức lao động của mình. Hay là, việc sản xuất ra
giá trị thặng dư không hề vi phạm quy luật của trao đổi hàng hoá mà luôn
luôn tuân thủ quy tắc “vật ngang giá được trao đổi lấy vật ngang giá”.
Hoặc giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước, mang hình thái chuyển hoá là lợi nhuận. Lợi nhuận chẳng qua chỉ là
một hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư, hình thái mà phương thức sản
xuất TBCN tất nhiên phải đẻ ra…
1.4. Phương pháp kết hợp định tính với định lượng
Chất và lượng là hai thể thống nhất tồn tại dựa vào nhau, mọi sự vật
đều bao gồm hai mặt chất và lượng. Muốn chỉ ra được đầy đủ bản chất
cũng như quy luật vận động của quá trình vận hành kinh tế xã hội và quan
hệ kinh tế của loài người, trình bày một cách khách quan hình thức biểu
hiện của nó và mối quan hệ giữa các loại biến đổi về lượng, thì cần phải
tiến hành khảo sát cả hai mặt chất và lượng, kết hợp phân tích định tính với
phân tích định lượng.
Phương pháp nghiên phân tích định lượng là phương pháp sử dụng toán
học và thống kê, chỉ ra mối quan hệ số lượng mang tính quy luật được phản
ánh trong các hiện tượng kinh tế và quá trình kinh tế, chỉ ra quan hệ kinh tế
15
16

. Sđd, tập 23, tr.33
. Sđd, tập 23, tr.33


12
cùng những quy định và giới hạn số lượng chất được phản ánh trong sự phát
triển biến hóa của nó.
Không phải ngẫu nhiên mà C.Mác quy công lao của W.Petty, cha đẻ của

kinh tế chính trị tư sản cổ điển, vì W.Petty “không phải… đã đem xếp một
chuỗi những từ ở cấp so sánh và cấp tuyệt đối và những lý lẽ thuần túy lý luận,
mà ông ta đã quyết định nói bằng những con số, trọng lượng và thước đo”17
Trong bộ “Tư bản” của mình, C.Mác đã tích cực và là mẫu mực vận
dụng toán học để nghiên cứu toàn diện những khuôn mẫu về quan hệ kinh tế
và vận hành kinh tế, vượt xa tất cả những nhà kinh tế chính trị học tư sản.
Thực ra không có một phần nào trong tác phẩm đó, lại không sử dụng phương
pháp toán học bằng cách này hay cách khác.
Ví dụ như C.Mác dùng các công thức toán học của mình để tính toán tỉ
suất giá trị thặng dư. Sau khi bỏ ra tư bản ứng ra ban đầu K= c + v, qua quá
trình sản xuất thu được giá trị hàng hóa K’= c + v + m (m: là giá trị thặng dư).
Bằng cách tính toán của mình, C.Mác đã chứng minh được tỉ suất giá trị thặng
dư được xác định bởi tỉ suất giá trị thặng dư với tư bản khả biến m’= m/v.
Bên cạnh đó trong cả 3 quyển của bộ “Tư bản” C.Mác đã rất nhiều lần
sử dụng các công thức toán học để chứng minh cho những luận điểm khoa
học của mình như lý luận về giá trị thặng dư tương đối, sự chuyển hóa giá trị
thặng dư thành lợi nhuận, chu chuyển của hai tư bản khả biến được gọi là v1,
v2. Ngoài những ví dụ kể trên, có thể dẫn ra nhiều ví dụ về cách giải quyết
các vấn đề trong quyển I như việc biểu hiện giá trị sản phẩm trong các phần
tương đối của nó, sự phân tích những công thức khác nhau về tỉ suất giá trị
thặng dư, ảnh hưởng của sự thay đổi cấu tạo hữu cơ của tư bản đối với sự thay
đổi yêu cầu về sức lao động; trong quyển II- ảnh hưởng của thời gian chu
chuyển đối với số lượng tư bản ứng trước, những sơ đồ trừu tượng nổi tiếng
về tái sản xuất toàn bộ tư bản xã hội và những công thức đại số biểu thị quan
hệ tỉ lệ cần thiết để thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn và
17

. C.Mác, Góp phần phê phán kinh tế chính trị học, tiếng Việt, Nxb. Sự thật, HN., 1971, tr. 55.



13
mở rộng; trong quyển III- sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa
tô, và nhiều vấn đề khác…
1.5. Sử dụng phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể
C.Mác đã viết: “Cố nhiên, về mặt hình thức, phương pháp trình bày này
phải khác với phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu thì phải nắm lấy vật liệu
với tất cả những chi tiết của nó, phải phân tích những chi tiết của nó, phải
phân tích các hình thác phát triển khác nhau của nó và phải tìm ra được mối
liên hệ bên trong của những hình thái đó, chỉ sau khi hoàn thành công việc đó
rồi mới có thể mô tả sự vận động thực tế một cách thích đáng được”18.
Phương pháp trình bày, hay là mô tả sự vận động thực tế của phương
thức sản xuất TBCN, là phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể. Mở đầu
quyển III “Tư bản”, C.Mác đã tóm tắt phương pháp trình bày đó như sau:
“Trong quyển I, chúng ta đã nghiên cứu các mặt của quá trình sản xuất tư
bản chủ nghĩa, nghiên cứu riêng bản thân quá trình đó với tư cách là quá
trình sản xuất trực tiếp và, trong sự nghiên cứu ấy, chúng ta đã không kể đến
tất cả những ảnh hưởng thứ yếu do những nhân tố ở bên ngoài quá trình ấy
gây ra. Nhưng đời sống của tư bản còn vượt ra ngoài quá trình sản xuất trực
tiếp ấy. Trong thế giới hiện thực, quá trình sản xuất trực tiếp còn được bổ
sung bằng quá trình lưu thông, quá trình này là đối tượng nghiên cứu quá
trình lưu thông về phương diện là một quá trình trung gian của quá trình tái
sản xuất xã hội- chúng ta đã thấy rằng quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa,
xét toàn bộ, là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông.
Trong quyển III này, không thể nào cứ nói những điểm chung chung về sự
thống nhất ấy nữa. Trái lại, cần phải tìm ra và mô tả được những hình thái cụ
thể để ra từ quá trình vận động của tư bản với tư cách là một chỉnh thể.
Chính dưới những hình thái cụ thể ấy mà các tư bản đã đối diện với nhau
trong sự vận động hiện thực của chúng, còn hình thái tư bản trong quá trình
sản xuất trực tiếp, cũng như hình thái của nó trong quá trình lưu thông, thì
chỉ là những giai đoạn cá biệt nếu đem so với những hình thái cụ thể đó. Vậy

18

. Sđd, tập 23, tr.34


14
những biến thể của tư bản, như chúng tôi trình bày trong quyển này, sẽ từng
bước một tiến gần đến cái hình thái mà chúng thể hiện ra ở bề mặt của xã
hội, trong sự tác động qua lại giữa các tư bản khác nhau, trong sự cạnh tranh
và trong ý thức thông thường của bản thân những nhân viên sản xuất”19
Trình bày tách riêng quá trình sản xuất trực tiếp (quyển I) hay tách
riêng quá trình lưu thông (quyển II) là một sự trừu tượng hoá, vì trong sản
xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, “quá trình sản xuất hoàn toàn dựa trên lưu
thông và lưu thông chỉ đơn giản là một yếu tố, một giai đoạn quá độ của sản
xuất, lưu thông chỉ đơn thuần là sự thực hiện sản phẩm đã được sản xuất ra
với tư cách là hàng hoá”20. Quyển III trình bày sự thống nhất giữa quá trình
sản xuất và quá trình lưu thông này với tư cách là một chỉnh thể, mô tả những
hình thái cụ thể để từ quá trình vận động hiện thực của tư bản.
Ví dụ: Xét phạm trù tư bản, việc giả định tư bản công nghiệp là một thể
thống nhất (Từ quyển I, quyển II đến phần thứ nhất, phần thứ hai và phần thứ
ba của quyển III) là một sự trừu tượng hoá. Phần thứ tư, quyển III, mới trình
bày thái chuyển hoá của một bộ phận tư bản lưu thông thành tư bản thương
nhân, một loại tư bản đặc biệt. Đến phần thứ năm quyển III, bàn thêm một
loại tư bản đặc biệt nữa là tư bản sinh lợi tức, phần thứ sáu, quyển III, đề cập
tư bản đầu tư vào nông nghiệp.
Ta xem xét phạm trù giá trị thặng dư thì giá trị thặng dư là một phạm trù
trừu tượng, nó biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thái lợi nhuận. Cạnh tranh trong
nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành dẫn tới sự san bằng lợi nhuận của các
tư bản cá biệt khác nhau, hình thành lợi nhuận bình quân. Lợi nhuận và lợi
nhuận bình quân tuy đã cụ thể hơn so với giá trị thặng dư, nhưng vẫn còn là

những phạm trù trừu tượng. Trong đời sống hiện thực giá trị thặng dư biểu hiện
thành lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức, địa tô…
Ngoài ra, trong bộ “Tư bản” C.Mác còn sử dụng nhiều thủ pháp nhận
thức khác như phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, phương pháp
19
20

. Sđd, tập 25, phần I, tr 47-48.
. Sđd, tập 25, phần I, tr500.


15
diễn dịch, phương pháp hệ thống, phương pháp thực chứng… những phương
pháp và phạm trù về hệ thống luận, luân lý học và tâm lý học… Tất cả những
nội dung này đã góp phần hình thành cấu trúc hệ thống phương pháp luận của
bộ “Tư bản”. Nhờ việc sử dụng đúng các phương pháp và các thủ thuật trong
quá trình nghiên cứu góp phần đưa bộ “Tư bản” trở thành tác phẩm vĩ đại,
kinh điển, đồ sộ nhất của C.Mác, nó có giá trị lịch sử to lớn nhất.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tác phẩm trong giai đoạn hiện nay
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang báo hiệu sự phá sản của các
học thuyết kinh tế TBCN, nhiều nền kinh tế, nhiều nguyên thủ quốc gia, thậm
chí nhiều người dân đã từ bỏ các học thuyết kinh tế TBCN để quay sang tìm
hiểu và áp dụng các nguyên lý kinh tế trong bộ “Tư bản” của C.Mác.
Hiện tại CNTB đã xuất hiện hàng loạt những thay đổi rất mới, sức sản
xuất phát triển nhanh, mức sống bình quân đầu người liên tục tăng cao nhưng
những mâu thuẫn cố hữu vốn có cũng vì thế mà phát triển theo. Bộ “Tư bản”
đã chỉ rõ CNTB cho dù có phát triển thế nào, cuối cùng cũng không thể thay
đổi bản chất thống trị, không thay đổi được tính chất của chế độ TBCN,
không thay đổi được quan hệ bóc lột giữa người lao động với chủ thuê nhân
công. Với tính chiến đấu cao, bộ “Tư bản” đã vạch rõ quá trình lịch sử sự phát

triển của CNTB, từ đó chỉ ra những nhận thức chính xác về CNTB hiện đại,
giúp toàn thể nhân loại hiểu rõ các cung bậc khác nhau của CNTB, làm rõ
từng điểm mạnh, điểm yếu. Có thể nói đây là "cẩm nang", là chìa khóa để mở
ra cánh cửa chiến thắng của CNXH.
C.Mác chưa một lần chứng kiến sự thành công của CNXH, ông cũng
không thể đặt ra một kế hoạch tỉ mỉ cho từng xã hội cụ thể, nhiều điều trong
bộ “Tư bản” chưa giải thích hết hiện thực đang diễn ra, tuy nhiên điều quan
trọng là bộ “Tư bản” của Mác đã giải thích rõ từng vấn đề nhỏ nhất trong một
xã hội đầy biến động như hiện nay, giúp chúng ta hiểu rõ ưu điểm chủ nghĩa
Mác cùng những khiếm khuyết của CNTB.


16
Mặc dù tác phẩm “Tư bản” ra đời đã trên 100 năm, chủ nghĩa tư bản
cũng đã có nhiều biểu hiện mới khác với chủ nghĩa tư bản thế kỷ XVIII-XIX,
nhưng những “quy luật vận động kinh tế” của xã hội TBCN mà C.Mác đã phát
hiện và trình bày trong tác phẩm này vẫn còn ý nghĩa thực tiễn. Đó là những
vấn đề cần các thế hệ những nhà mácxít chân chính tiếp tục kế thừa, bổ sung
hoàn thiện như: Những quy luật về sản xuất hàng hoá nói chung và kinh tế thị
trường, trình độ cao của kinh tế hàng hoá, nói riêng; là tính thống nhất và mâu
thuẫn giữa tư bản và lao động; như các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá,
các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận, tác động của việc đẩy nhanh chu
chuyển tư bản đến hiệu quả kinh doanh… đều là những tri thức cần thiết cho
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Đọc “Tư bản”, chúng ta càng thấy được vai trò của phương pháp
nghiên cứu khoa học. Nó là kim chỉ nam, là bí quyết để chúng ta khám phá ra
được những chân lý sâu xa của tự nhiên, của xã hội và tư duy con người. Hiện
nay chúng ta đang ra sức phát triển, kinh tế hàng hoá, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần nhận thức rõ, vận dụng và
kế thừa những nguyên lý đó một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể ở nước

ta hiện nay. Bộ “Tư bản” là một kho tàng lý luận về quy luật giá trị quy luật
cơ bản của kinh tế hàng hoá về các quy luật phát sinh của quy luật giá trị như
quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ…
Tóm lại, trước những biến cố thăng trầm của lịch sử, với sự biến thiên
của thời gian, hình thức phát triển, quy luật phát triển của CNTB cũng biến
động không ngừng, nhiều khi không tuân theo quy luật phát triển của chính
CNTB nhưng những mâu thuẫn của CNTB mà C.Mác chỉ ra trong bộ “Tư
bản” sẽ không bao giờ trở nên lỗi thời, nó vẫn tràn đầy sức sống, tiếp tục tỏa
sáng, định hướng cho hành động cách mạng của các đảng cộng sản và giai
cấp công nhân trên toàn thế giới, trong đó có Đảng ta. Có thể nói, thực tiễn
cách mạng Việt Nam là một biểu hiện sinh động, đầy sức thuyết phục về sức


17
sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác nói chung cũng như sức sống của bộ “Tư
bản” nói riêng.
Mặc dù, trong điều kiện hiện nay các thế lực phản động ra sức công
kích, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Mác, chống phá các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại, thì việc nghiên cứu bộ “Tư bản” giúp cho chúng ta có thêm niềm tin
vững chắc dựa trên cơ sở khoa học rằng, CNTB không phải là hình thái kinh tế
- xã hội vĩnh cửu, CNTB càng phát triển càng tự dẫn đến gần hơn sự chín muồi
cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. Có thể nói lịch sử CNTB đã phát triển
nhiều thế kỷ, CNXH tuy đang còn khó khăn nhưng với ánh sáng của chủ nghĩa
Mác, khó khăn sẽ qua đi, tương lai sẽ tới, CNXH nhất định sẽ thành công như
C.Mác đã khẳng định. Đúng như trong lời tựa Ph.Ăngghen đã viết: “Trên lục
địa, người ta thường gọi quyển “Tư bản” là “kinh thánh của giai cấp công
nhân”21 và bộ “Tư bản” của C.Mác là một tác phẩm vĩ đại vô cùng quý giá đối
với sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


21

. Sđd, tập 23, Nxb CTQG, Hà Nội, 1993, tr.49.


18
1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1994.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1993.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1993.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1993.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 24, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1994.
6. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 25, phần I- II, Nxb. CTQG, Hà
Nội, 1995
7. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976.
8. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, NxbTiến bộ, Matxcơva, 1981.
9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H. 2000.
10. Phương pháp của bộ “Tư bản” và những vấn đề kinh tế chính trị
học về chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1974.
11. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Dùng cho khối ngành kinh
tế - quản trị kinh doanh trong các trường đại học,cao đẳng), Nxb. CTQG, Hà
Nội, 2003.
12. Giáo trình Lịch sử kinh tế, Nxb. ĐHKTQD, Hà Nội, 2009.
13. Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004.



×