Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ lý LUẬN TIỀN CÔNG của các mác dưới CHỦ NGHĨA tư bản, vận DỤNG vào cải CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG KHU vực HÀNH CHÍNH ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.36 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
“Hòn đá tảng” trong học thuyết kinh tế Mác chính là học thuyết về giá
trị thặng dư. Trong đó, lý luận về hàng hóa sức lao động lại là cơ sở cho học
thuyết giá trị thặng dư của ông. C.Mác thấy rằng trong chế độ tư bản chủ
nghĩa (TBCN), để đạt được giá trị thặng dư, nhà tư bản bắt buộc phải tìm ra
trên thị trường một loại hàng hóa đặc thù, đó chính là sức lao động của con
người. Tuy nhiên để có được sự phục vụ của sức lao động đó nhà tư bản phải
bỏ tiền ra để trả công cho người lao động. Điều đó đã đưa C.Mác đi sâu
nghiên cứu về tiền công trong CNTB. Nhờ việc phân tích một cách khoa học
vấn đề tiền công dưới CNTB đã giúp ông vạch trần bản chất bóc lột của giai
cấp tư sản đối với giai cấp vô sản. Cho đến ngày nay, những quan điểm của
C.Mác về vấn đề tiền công dưới CNTB vẫn giữ nguyên giá trị và có một ý
nghĩa lý luận - thực tiễn lớn lao trong xem xét, cải cách chế độ tiền lương ở
nước ta hiện nay. Bởi lẽ, tiền lương là mối quan tâm hàng đầu và là động lực
làm việc của người lao động trong bất cứ tổ chức nào. Do vậy, việc xây dựng
một hệ thống tiền lương khoa học, hợp lý, làm đòn bẩy kích thích năng suất
và hiệu quả lao động luôn là nhiệm vụ lớn đặt ra cho các cơ quan nhà nước. Ở
nước ta, chính sách tiền lương nói chung và chính sách tiền lương hành chính
nhà nước nói riêng hiện nay còn nhiều hạn chế và bất hợp lý, ảnh hưởng
không nhỏ tới hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung. Do đó, thực hiện một chế độ, chính sách tiền lương
hành chính nhà nước phù hợp, đảm bảo tối đa lợi ích, nâng cao mức sống cho
người hưởng lương là một vấn đề quan trọng hàng đầu trong từng chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Với lý do đó tác giả chọn vấn đề nghiên
cứu: “Lý luận tiền công của C.Mác dưới chủ nghĩa tư bản. Vận dụng vào
cải cách chính sách tiền lương khu vực hành chính nhà nước ở nước ta hiện
nay” cho bài thu hoạch của mình.


2
NỘI DUNG


1. Một số nội dung cơ bản về lý luận tiền công của C.Mác dưới chủ
nghĩa tư bản
1.1. Các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển bàn về tiền công
Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, không phải C.Mác là người đầu
tiên nghiên cứu về tiền công dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB). Lý luận về tiền
công đã được các nhà kinh tế nghiên cứu từ rất lâu. Đánh dấu đầu tiên có thể
kể đến là W.Petty, ông lấy lý luận giá trị làm cơ sở cho lý luận tiền lương.
Ông xác định tiền lương là khoản giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết tối thiểu
cho người công nhân. Ông cho rằng: tiền lương tỷ lệ nghịch với giá trị tư liệu
sinh hoạt (ngược với kết luận của C.Mác sau này: tiền công tỷ lệ thuận với giá
trị sức lao động). Ông là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý
thuyết "quy luật sắt về tiền công". Theo ông: tiền lương không thể vượt quá
những tư liệu sinh hoạt cần thiết tối thiểu, nếu tiền lương nhiều thì công nhân
không muốn làm việc; do đó, muốn cho công nhân tích cực làm việc thì biện
pháp là hạ thấp tiền lương xuống mức tối thiểu, ông phê phán quan điểm tăng
tiền lương quá cao. Như vậy, mặc dù còn sai lầm, nhưng ông đã nêu được cơ
sở khoa học của tiền lương là giá trị các tư liệu sinh hoạt.
Sau W.Petty, A.Smith - nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh - đã có
nhiều cố gắng trong nghiên cứu về tiền công. Ông có hai quan điểm về tiền
lương: thứ nhất: tiền lương ngang với sản phẩm lao động; thứ hai: tiền lương là
sản phẩm cho công nhân, do lao động của công nhân tạo ra. Việc coi tiền lương
ngang bằng với sản phẩm của lao động có nghĩa là coi tiền lương là giá cả của
lao động. Ngược với quan điểm của W.Petty, ông cho rằng: công nhân mà lĩnh
được càng nhiều tiền công càng tốt, còn chủ thì muốn trả càng ít càng hay. Theo
ông: tiền công không thể hạ thấp quá giới hạn nhất định vì người lao động khó
có khả năng sống bằng lao động của mình. Ông tán thành trả lương cao, tiền


3
lương cao sẽ làm tăng của cải và cũng là nguyên nhân tăng dân số. Ông còn cho

rằng: tiền công của loại công nhân bậc thấp do hai nhân tố quyết định là lượng
cầu về lao động và giá cả thông thường hay trung bình của lương thực. Tiền
công chịu sự tác động của nhân khẩu và quy mô của tư bản quyết định tiền công.
Ông là người đã phân biệt tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế (giá cả bằng
tiền và giá cả thực tế của công lao động).
Tuy vậy, dù đã có nhiều cố gắng song A.Smith đã mắc sai lầm về lý luận
tiền công như: coi tiền công là giá cả của lao động, là phạm trù đặc trưng cho tất
cả các giai đoạn phát triển kinh tế.
Tiếp thu, kế thừa có phê phán các quan điểm của W.Petty và A.Smith,
D.Ricardo - nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh - đã có những đóng góp
lớn trong lý luận về tiền công. Ông đưa ra kết luận quan trọng về sự đối
kháng giữa tiền lương và lợi nhuận; ông nhận thấy quy luật của tư bản: năng
xuất lao động tăng lên, tiền lương giảm và lợi nhuận thì tăng. Ông đã phân
tích được tiền công thực tế và xác định nó như là một phạm trù kinh tế rằng:
Lượng hàng hóa người công nhân mua được bằng tiền công, chưa quyết định
được địa vị xã hội của người đó, sự quyết định tình cảnh của công nhân phụ
thuộc vào mối tương quan giữa tiền lương và lợi nhuận. Ông cho rằng: tiền
công cao sẽ làm cho nhân khẩu tăng nhanh, dẫn đến cung về lao động lớn hơn
cầu về lao động, theo đó tiền công sẽ giảm xuống, đời sống công nhân xấu đi.
Theo lý luận của các nhà kinh tế học tiểu tư sản: tiền công phụ thuộc
vào tích lũy tư bản vào số lượng công nhân, cung – cầu về lao động. Thất
nghiệp là hiện tượng thường xuyên do sự gia tăng của tiền công và dân số.
Nguyên nhân trực tiếp của đời sống công nhân giảm sút là do giảm giá lao
động, do áp dụng máy móc tối tân. Như vậy về thực chất họ cũng không
hiểu bản chất tiền lương.


4
Như vậy, lý luận tiền công đã được nhiều nhà kinh tế học trước C.Mác
nghiên cứu, nhưng những quan điểm của họ không làm rõ được bản chất của

tiền công, các luận điểm còn mang tính chất phiến diện thiếu cơ sở khoa học,
mang tính chất chủ quan xa rời thực tiễn. Không hiểu bản chất tiền công nên
những lý luận về tiền công của họ không phản ánh đúng bản chất của nền
kinh tế TBCN cũng như bản chất của nền sản xuất hàng hóa.
1.2. Nội dung cơ bản về lý luận tiền công của C.Mác.
1.2.1. C.Mác đã làm rõ bản chất tiền công dưới CNTB
Lý luận về tiền công của C.Mác là sự tiếp tục phát triển có phê phán
lý luận về tiền công của các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Lý luận tiền
công của Mác đã vạch rõ bản chất của tiền công dưới CNTB đã bị che đậy
- tiền công là giá cả của sức lao động.
Lý luận về tiền công được Mác trình bày ở phần thứ sáu (từ chương XVII
đến chương XX) của quyển thứ nhất trong bộ “tư bản”. Sở dĩ phải trình bày lý
luận về tiền công sau khi đã hoàn tất việc nghiên cứu giá trị thặng dư là bởi vì:
giá trị thặng dư được hao phí lao động trừu tượng của người công nhân làm
thuê kết tinh trong quá trình sản xuất bị nhà tư bản chiếm đoạt. Do có sự
tách rời giữa hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động; để tiến hành sản
xuất diễn ra phải trên cơ sở mua bán hàng hóa sức lao động. Nhưng trên bề
mặt xã hội, tiền công lại biểu hiện ra là giá cả của lao động chứ không phải
giá cả sức lao động. Vì thế cần phải làm rõ tiền công là sự biểu hiện và là
hình thức chuyển hóa của giá trị sức lao động. Cho nên, việc phân tích tiền
công phải được bắt đầu từ việc giải quyết mâu thuẫn giữa phạm trù giá trị
lao động và phạm trù giá cả sức lao động với phạm trù giá cả lao động.
Theo C.Mác, bản chất của tiền công dưới CNTB tiền công là biểu hiện
bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, là giá cả của hàng hoá sức lao
động. Theo C. Mác, “Ở trên bề mặt của xã hội tư sản, tiền công của người


5
công nhân thể hiện ra thành giá cả của lao động, thành một số lượng tiền nhất
định trả cho một số lượng lao động nhất định”1

Như vậy, công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nào đó thì
nhận được số tiền trả công nhất định. Số lượng tiền công nhiều hay ít được
xác định theo thời gian lao động hoặc số, chất lượng sản phẩm sản xuất ra.
Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng, tiền công là giá cả lao động.
Sự thật thì tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động. Vì lao
động không phải là hàng hoá và không thể là đối tượng mua bán. Bởi vì: sức
lao động là toàn bộ những tiềm năng, khả năng về thể lực và trí lực lao động
tồn tại dưới dạng tiềm tàng trong một con người bình thường. Còn lao động là
quá trình tiêu dùng sức lao động đó dưới hình thức cụ thể để tạo ra một giá trị
sử dụng nào đó. Cho nên:
Một là: nếu lao động là hàng hoá thì nó phải có trước, phải được vật hoá
trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền để cho lao động có thể “vật hoá”
được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất
thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất, chứ không bán “lao động”. Người
công nhân không thể bán cái mình không có. Mặt khác, nhà tư bản mua hàng
hóa sức lao động bởi vì: nhà tư bản chỉ trả tiền công cho công nhân sau khi
công nhân đã hao phí sức lao động để sản xuất ra hàng hoá.
Hai là: việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu
thuẫn về lý luận sau đây: Nếu lao động là hàng hoá và được trao đổi ngang
giá, thì nhà tư bản không thu được giá trị thặng dư- điều này phủ nhận sự tồn
tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Còn nếu hàng
hoá được trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì
sẽ phủ nhận quy luật giá trị.

1

C.Mác và PH. Ăng – Ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb. CTQG., HN., 1993, tr. 754.


6

Ba là: nếu lao động là hàng hoá thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị.
Nhưng thước đo nội tại của giá trị là lao động. Như vậy, giá trị của lao động
đo bằng lao động, đó là một sự luẩn quẩn vô nghĩa. Lao động không phải là
hàng hoá, cái mà công nhân bán và nhà tư bản mua không phải là lao động
mà chính là sức lao động. Do đó, tiền công mà nhà tư bản trả cho công
nhân là giá cả của sức lao động, chứ không phải giá cả lao động.
Nhưng trong xã hội tư bản thì người ta dễ lầm tưởng rằng tiền công
lại thể hiện ra như là giá cả lao động và nó lại che dấu quan hệ bóc lột của
nhà tư bản đối với lao động làm thuê. Bởi vì:
Nhìn bề ngoài người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao động
do người công nhân chỉ nhận được số tiền công sau khi đã lao động (kết
hợp sức lao động của mình với tư liệu sản xuất của nhà tư bản) để tạo ra
một giá trị sử dụng có chứa giá trị mới tăng thêm cho nhà tư bản. Tức là:
nhà tư bản chỉ trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã hao phí
sức lao động để sản xuất ra hàng hoá, họ tưởng đấy là tiền công lao động
của người công nhân. Mặt khác, đó là số tiền công mà nhà tư bản trả cho
công nhân theo thời gian (giờ, ngày, tuần, tháng); hoặc theo số l ượng, chất
lượng hàng hoá mà người công nhân sản xuất ra. Từ đó nhìn bề ngoài dường như toàn bộ lao động mà công nhân đã hao phí đều được nhà tư bản
trả công đầy đủ chứ không có sự bóc lột.
Nhưng thực ra tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động vì
lao động không phải là hàng hoá nên bản thân nó không có giá trị. Hơn nữa,
cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao động mà là sức lao
động vì lao động diễn ra sau khi có sự mua bán giữa nhà tư bản và công nhân.
Hơn nữa, việc mua bán sức lao động là mua bán chịu; mà đặc điểm của
hàng hoá sức lao động không bao giời tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được
giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua (tức là lao động cho nhà


7
tư bản), do đó nhìn bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động. Mặt

khác, đối với công nhân thì toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để
có tiền sinh sống. Do đó, bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao
động; còn đối với nhà tư bản việc bỏ tiền ra để có lao động, nên cũng nghĩ
rằng cái mà họ mua là lao động. Đồng thời, do cách thức trả công điều đó
khiến người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao động.
Rõ ràng tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia thời gian
ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư;
lao động được trả công và lao động không được trả công; theo đó đã che đậy
quan hệ bóc lột của tư bản và lao động.
1.2.2. C.Mác đã nghiên cứu làm rõ hình thức tính tiền công dưới CNTB
Tùy theo tính chất lao động của công việc mà nhà tư bản vận dụng hình
thức trả công nào cho phù hợp nhằm kính thích người lao động hăng say sản
xuất. C.Mác đã chỉ rõ tiền công trong CNTB thường có các hình thức cơ bản:
Tiền công tính theo thời gian, là hình thức tiền công mà số lượng của nó
ít hay nhiều tuỳ thuộc theo thời gian lao động của công nhân dài hay ngắn.
Phải phân biệt tổng tiền công ngày, tiền công tuần với giá cả sức lao
động. Muốn biết giá cả sức lao động thì lấy giá trị trung bình hàng ngày của
sức lao động chia cho số giờ trung bình của ngày lao động dùng làm đơn vị để
đo giá cả sức lao động.
Quy luật chung về tiền công tính theo thời gian là phụ thuộc vào số
lượng lao động (độ dài ngày lao động) và vào giá cả lao động, còn bản thân
giá cả lao động lại biến đổi theo giá trị sức lao động. Nếu số lượng lao động
hàng ngày, hàng tuần không đổi, thì tiền công ngày hay tuần là do giá cả lao
động quyết định. Ngược lại, nếu giá cả lao động không đổi, thì tiền công lại
do số lượng lao động hàng ngày, hàng tuần quyết định. Do đó, không những
tiền công hạ xuống có hại cho công nhân mà giá cả lao động giảm xuống cũng


8
có hại như thế. Nếu số lượng lao động hàng ngày, hàng tuần không đổi, thì

tiền công ngày hay tuần là do giá cả lao động quyết định
Như vậy, tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của
nó phụ thuộc vào thời gian lao động của công nhân (giời, ngày, tuần, tháng). Cần
phân biệt lương giờ, lương ngày, lương tháng. Giá cả của một giờ lao động là thước
đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian. Tiền công ngày và lương tuần chưa
nói rõ được mức tiền công đó thấp hay cao, vì còn tuỳ thuộc theo ngày lao động dài
hay ngắn. Do đó, muốn đánh giá đúng mức tiền công không chỉ căn cứ vào lượng
tiền, mà còn căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động.
Thực hiện chế độ tiền công theo thời gian, nhà tư bản có thể không thay
đổi lương ngày, lương tuần, mà vẫn hạ thấp được giá cả lao dộng do kéo dài
ngày lao động hoặc tăng cường độ lao động. Trả lương kéo dài thời gian còn
có lợi cho nhà tư bản khi tình hình thị trường thuận lợi, hàng hoá tiêu thụ dễ
dàng, thực hiện lối làm việc thêm giờ, tức là làm việc ngoài số giời quy định
của ngày lao động. Còn khi thị trường không thuận lợi buộc phải thu hẹp sản
xuất, nhà tư bản sẽ rút ngắn ngày lao động và thực hiện lối trả công theo giờ,
do đó hạ thấp tiền công xuống rất nhiều.
Như vậy, công nhân không những bị thiệt thòi khi ngày lao động bị kéo
dài quá độ, mà còn bị thiệt cả khi phải làm việc bớt giờ. Mác viết: “Từ quy
luật “với giá cả lao động đã cho sẵn thì tiền công ngày hay tiền công tuần phụ
thuộc vào số lượng lao động đã cung cấp”, trước hết có thể rút ra kết luận nói
rằng, giá cả lao động càng thấp thì số lượng lao động lại phải càng lớn, hoặc
ngày lao động lại phải càng dài, để đảm bảo cho người công nhân có được dù
là một số tiền công trung bình thảm hại” 2. Dù tiền công có thể tăng và giá cả
lao động có thể giữ nguyên trên danh nghĩa, nhưng thực tế thì giá cả lao động
lại bị tụt xuống. Giá cả lao động càng thấp thì số lượng lao động phải càng
2

Sđd., tr. 773.



9
lớn để cho công nhân có được một số lượng tiền công đủ sống; rồi tiền công
thấp sẽ kích thích kéo dài thêm ngày lao động.
Tiền công tính theo sản phẩm, là hình thức tiền công mà số lượng của
nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm đã làm ra hoặc số lượng công việc đã
hoàn thành trong một thời gian nhất định.
C.Mác cho rằng: “Tiền công tính theo sản phẩm chẳng qua chỉ là hình
thức chuyển hóa của tiền công tính theo thời gian” 3. Mỗi sản phẩm được trả
công theo một đơn giá nhất định gọi là đơn giá tiền công. Đơn giá tiền công là
giá trả công cho mỗi đơn vị sản phẩm đã sản xuất ra theo giá biểu nhất định.
Khi quy định đơn giá, người ta lấy tiền công trung bình của công nhân trong
ngày chia cho số lượng sản phẩm mà công nhân sản xuất ra trong 1 ngày bình
thường. Do đó, về thực chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho một thời
gian cần thiết nhất định để sản xuất một sản phẩm. Vì thế, tiền công tính theo
sản phẩm chỉ là hình thức chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian.
Hình thức tiền công theo sản phẩm càng che giấu và xuyên tạc bản chất
của tiền công hơn so với hình thức tiền công tính theo thời gian. Việc thực
hiện hình thức tiền công tính theo sản phẩm một mặt làm cho nhà tư bản dễ
dàng kiểm soát công nhân; mặt khác, đẻ ra sự cạnh tranh giữa công nhân kích
thích công nhân phải lao động tích cực nâng cao cường độ lao động, tạo ra
nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn. Vì vậy, chế độ tiền công
dưới chủ nghĩa tư bản thường dẫn đến tình trạng lao động khẩn trương quá
mức, làm kiệt sức người lao động. Tiền công tính theo sản phẩm giúp cho nhà
tư bản dễ kiểm soát lao động, chất lượng lao động được kiểm tra bằng chính
bản thân sản phẩm; đồng thời qua đó còn giúp cho nhà tư bản có một thước
đo chính xác cường độ lao động của công nhân, giúp cho nhà tư bản dễ nâng
cao cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
3

Sđd., tr. 777.



10
Về mặt lịch sử, tiền công tính theo thời gian được áp dụng rộng rãi trong
giai đoạn đầu phát triển của chủ nghĩa tư bản, còn ở giai đoạn sau thì tiền
công tính theo sản phẩm được áp dụng rộng rãi hơn. Hiện nay, hình thức tiền
công tính theo thời gian ngày càng được mở rộng. Mác viết: “tiền công tính
theo sản phẩm là hình thức tiền công thích hợp nhất với phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa”4.
1.2.3. C.Mác đã làm rõ tiền danh nghĩa và tiền công thực tế.
Tiền công danh nghĩa, là số tiền mà người công nhân nhận được do bán
sức lao động của mình cho nhà tư bản. Thực chất, tiền công danh nghĩa là tiền
công mà người công nhân nhận được dưới hình thái giá trị (tiền mặt). Tiền
công danh nghĩa là giá cả của hàng hoá sức lao động, nó có thể tăng lên hay
hay giảm xuống tuỳ theo quan hệ cung cầu về hàng hoá sức lao động trên thị
trường. Tiền công danh nghĩa không phản ánh đầy đủ thu nhập và mức sống
thực tế của người công nhân; không phản ánh chính xác chất lượng bù đắp và
tái sản xuất ra sức lao động. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất ra sức lao
động; do đó, tiền công danh nghĩa phải được chuyển hoá thành tiền công thực
tế.
Tiền công thực tế, là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tư liệu
sinh hoạt và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa.
Thực chất, đó là số tiền mà người công nhân nhận được bằng giá trị tư liệu
sinh hoạt (giá trị hiện vật) để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống, để bù đắp và tái
sản xuất ra sức lao động. Tiền công thực tế mới phản ánh chính xác, đầy đủ
thu nhập, mức sống và chất lượng bù đắp và tái sản xuất sức lao động của
người công nhân, nó phản ánh số và chất lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết mà
người công nhân nhận được.

4


Sđd., tr. 785.


11
Mối quan hệ giữa hai loại tiền công: Tiền công danh nghĩa và tiền công
thực tế quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng không chồng khít lên nhau. Tiền công
danh nghĩa là giá cả của hàng hoá sức lao động, nó có thể tăng lên hay hay giảm
xuống tuỳ theo quan hệ cung cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường.
Trong một thời gian nào đó số lượng tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên nhưng giá cả tư liệu sinh hoạt và dịch vụ tăng lên hay giảm xuống thì tiền công thực
tế cũng giảm xuống hay tăng lên. Tiền công thực tế lại phụ thuộc và số lượng
tiền công danh nghĩa và phụ thuộc vào giá trị các tư liệu sinh hoạt, cũng như
điều kiện cụ thể của mỗi nước, mỗi địa phương… C.Mác đã chỉ ra rằng: trước
hết phải tính đến những điều kiện cụ thể và lịch sử quyết định giá trị sức lao
động trong một nước (khối lượng nhu cầu bình thường cho đời sống công nhân,
giá cả tư liệu sinh hoạt, chi phí đào tạo, vai trò phụ nữ, trẻ em, năng suất và
cường độ lao động…)
Do vậy, phải quy tiền công trung bình trong một ngành công nghiệp của
các nước khác nhau theo một ngày lao động dài như nhau, sau đó lại quy định
ra tiền công sản phẩm. Vì chỉ có tiền công sản phẩm mới làm thước đo năng
suất và cường độ lao động được. Ngoài ra lại phải xét đến vấn đề tiền công
theo quan điểm của quy luật giá trị trên phạm vi quốc tế. Ở đây, mức cường
độ trung bình trong nước không được tính theo phạm vi quốc gia thì vẫn còn
được tính trên phạm vi quốc tế nếu mức cường độ đó còn cao hơn cường độ ở
nước khác. Điều quan trọng hơn là lao động ở nước có năng suất cao hơn
cũng được xem là tạo ra nhiều giá trị hơn, giống như trường hợp lao động có
trình độ cao hơn. Theo đó, có thể tiền công danh nghĩa của nước có trình độ
phát triển cao có tiền công danh nghĩa cao hơn tiền công danh nghĩa ở các
nước có trình độ phát triển thấp hơn. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng: tiền
công thực tế (số lượng và chất lượng tư liệu sinh hoạt mà tiền công thực tế đó

đem lại cho người lao động) ở các nước có trình độ phát triển cao lại cao hơn


12
tiền công thực tế ở các nước có trình độ phát triển thấp hơn. Bởi vì giá trị
tuyệt đối của tiền công thực tế ở các nước có trình độ thấp hơn lại thấp hơn so
với các nước có trình độ phát triển. Tiền công thực tế phụ thuộc vào tiền
lương danh nghĩa, phụ thuộc vào giá cả tư liệu sinh hoạt…
Như vậy, lý luận tiền công của C.Mác không những đã lột tả rõ ràng bản
chất tiền công, mà qua đó còn lột tả đầy đủ bản chất bóc lột của tư bản đối với
lao động làm thuê trong nền sản xuất TBCN. Nhưng đồng thời lý luận tiền
công của C.Mác cũng còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong quá trình xây
dựng, phát triển hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay.
2. Vận dụng lý luận tiền công của C.Mác dưới CNTB vào cải cách chính
sách tiền lương khu vực hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay
Tiền lương trong khu vực hành chính nhà nước không phải là tiền lương
trả theo cơ chế thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động mà
chịu sự chi phối trực tiếp của Nhà nước. Nhà nước là người quyết định về mô
hình tổ chức bộ máy, định biên chế và xây dựng các chính sách, chế độ tiền
lương cho hành chính, do đó, tiền lương trong khu vực này có tính độc lập
nhất định với tiền lương trên thị trường. Tuy nhiên, xét trong dài hạn, tiền
lương trong khu vực hành chính Nhà nước cũng phải chịu sự chi phối chung
của cơ chế thị trường, vì Nhà nước ban hành các mức lương công chức trên
cơ sở tham khảo giá nhân công trên thị trường lao động.
2.1.Thực trạng chính sách tiền lương khu vực hành chính nhà nước
ở nước ta
Hiện nay, cả nước có trên 1,7 triệu viên chức sự nghiệp, với gần 400
ngàn công chức hành chính, cơ quan Đảng, đoàn thể và khoảng trên 300 ngàn
cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã... Hàng năm, ngân sách nhà nước chi

khoảng 200 ngàn tỉ đồng tiền lương. Để xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng


13
yêu cầu của công cuộc đổi mới, thì "công cụ" tiền lương vẫn được coi là giải
pháp quan trọng và luôn là thách thức lớn đối với các cơ quan chức năng.
Trong hệ thống tiền lương khu vực hành chính Nhà nước hiện nay, mức
lương thấp nhất được xác định là hệ số bậc 1 của nhân viên phục vụ, tạp vụ
(bằng tiền lương tối thiểu chung), tuy nhiên đây không phải là mức tiền lương
thấp nhất của công chức. Mức tiền lương thấp nhất của công chức là tiền
lương của chức danh nhân viên kế toán sơ cấp (ngạch C3, hệ số lương 1,35 so
với tiền lương tối thiểu).
Qua lần cải cách năm 2004, số lượng bảng lương khu vực hành chính Nhà
nước đã được rút bớt từ 21 xuống 7 bảng lương, số lượng các bậc trong các bảng
lương không nhiều. Quan hệ tiền lương được xác định theo quan hệ: tối thiểu trung bình - tối đa theo các chức danh: nhân viên tạp vụ - chuyên viên tốt
nghiệp đại học hết tập sự - chủ tịch nước, tương ứng là 1 - 2,34 - 13,0. Đồng
thời, trong xây dựng bảng lương cho các ngạch công chức, đã sử dụng phương
pháp phân tích, chuyên gia để xác định mức độ phức tạp lao động của các chức
danh. Các mức tiền lương là thang giá trị, làm căn cứ trả lương cho công chức và
tính toán các khoản chịu thuế, đóng bảo hiểm xã hội.
Cán bộ, công chức bổ nhiệm trong các cơ quan hành chính, bầu cử, tư
pháp, Đảng, đoàn thể được xếp theo bảng lương chuyên môn nghiệp vụ, phần
tiền lương chức vụ không nằm trong cơ cấu bảng lương mà được quy định
bằng phụ cấp chức vụ tương ứng (hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo tính so với
tiền lương tối thiểu) cho đến khi thôi ở vị trí lãnh đạo.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước luôn coi cải cách chính
sách tiền lương là ưu tiên hàng đầu trong bất cứ giai đoạn phát triển nào của
đất nước. Đảng và Nhà nước luôn khẳng định: Tiền lương phải cơ bản đảm
bảo đủ sống cho người lao động và phù hợp với sự phát triển kinh tế; tiền
lương công chức phải “tương xứng với nhiệm vụ, công vụ được giao”; điều



14
chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội, hệ thống
thang bậc lương bảo đảm tương quan hợp lý, khuyến khích người có tài,
người làm việc giỏi. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa X) đã coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư
cho phát triển, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần làm trong
sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; cải cách
chính sách tiền lương phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức
sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội... Gần đây nhất,
Luật cán bộ, công chức cũng khẳng định: công chức được Nhà nước bảo đảm
tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều
kiện kinh tế xã hội của đất nước.
Thực tế, trong các năm qua, do tác động của tăng trưởng kinh tế và sự
biến động tăng lên của chỉ số giá sinh hoạt, mức lương tối thiểu đã được Nhà
nước điều chỉnh tăng dần. Từ tháng 10/2005 mức lương tối thiểu là 290 nghìn
đồng/tháng đến 1/5/2011 tăng lên 830 nghìn đồng/tháng. Hiện nay, mức lương
tối thiểu chung được dùng làm cơ sở cho tính toán các mức lương trong hệ
thống lương khu vực hành chính Nhà nước. Với những lộ trình tăng lương tối
thiểu đó cũng đã phần nào đáp ứng được niềm mong mỏi của đội ngũ cán bộ,
công nhân viên chức nhà nước. Tuy vậy, nếu thu nhập của họ chỉ tính bằng
lương tối thiểu nhân với hệ số theo công việc mà họ đảm nhận thì lương đại
bộ phận công chức nhà nước không đủ cho cuộc sống với những nhu cầu thiết
yếu nhất của họ. Đó cũng là bất cập trong chính sách tiền lương hành chính
nhà nước ở nước ta.
* Những bất cập và tồn tại:
Trước những thay đổi phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội, cùng với
quá trình phát triển và từng bước hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh



15
tế khu vực và thế giới; thì chính sách tiền lương và hệ thống lương hành chính
nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn đang còn bộc lộ những bất cập, làm ảnh
hưởng tới nhiều vấn đề kinh tế – xã hội.
- Hiện nay mức lương tối thiểu là cơ sở để tính toán tiền lương của cán
bộ, công chức khu vực hành chính nhà nước, tuy nhiên, lương tối thiểu chưa
đáp ứng được mức sống tối thiểu của đại bộ phận cán bộ, công nhân viên
chức nhà nước, đặc biệt là chức danh lao động phục phụ, tạp vụ. Tăng lương
tối thiểu nhưng không kịp với tình hình trượt giá và mức sống thực tế hiện
nay của hầu hết đội ngũ cán bộ, công chức, lao động hợp đồng trong cơ quan
hành chính nhà nước, lương không đủ để bảo đảm tái sản xuất sức lao động.
Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng 12,63%, 2008: 22,97%, 2009: 8,22%,
2010: 11,75%), làm cho tiền lương thực tế của công chức giảm nhanh. Một số
mặt hàng tăng với tốc độ rất nhanh, như tăng giá vàng, thực phẩm, xăng dầu,
điện... trong khi giá cả các mặt hàng này có liên quan đến nhu cầu hàng hoá
để đảm bảo nâng cao mức sống của cán bộ, công chức.
- Cơ chế "bình quân chủ nghĩa", "đến hẹn lại lên" trong cách trả lương
và tăng lương cho công chức cũng là một điểm yếu trong chính sách tiền
lương hiện nay. Nhiều người có tuổi nhưng thiếu năng lực vẫn nghiễm nhiên
được hưởng mức lương cao gấp hai, gấp ba những công chức trẻ có năng lực
thật sự. Không có sự khác nhau rõ ràng trong cơ chế trả lương cho những
công chức làm việc với chất lượng và hiệu quả khác nhau. Dù làm nhiều hay
ít, hiệu quả hay không, miễn là không bị kỷ luật, công chức vẫn sẽ được trả
lương theo ngạch, bậc hay bằng cấp và thâm niên. Thực tế đầy mâu thuẫn này
vô hình chung làm triệt tiêu động lực phát triển của công chức.
- Trong cải cách tiền lương năm 2004, việc tiền tệ hoá tiền nhà vào lương
có tác dụng nâng cao vai trò tiền lương trong nền kinh tế. Tuy nhiên, do mức
lương thấp và cơ cấu tiền nhà trong tiền lương rất thấp nên không ý nghĩa nhiều



16
đối với khả năng thuê, mua nhà ở của công chức trên thị trường bất động sản.
Ngoài ra, do chưa tiền tệ hoá đầy đủ vào lương của công chức các dịch vụ công
vụ nên chưa thể hiện được hết thực chất tiền lương của một bộ phận chức danh
công chức.
Những bất cập và tồn tại trên dễ dẫn đến hậu quả là:
+ Công chức sẽ không đủ sống bằng lương sẽ tìm nhiều cách để tăng thu
nhập ngoài lương. Các khoản thu nhập ngoài lương có thể khác nhau giữa các
cơ quan nhà nước và giữa các vị trí công chức, nhưng nhìn chung Nhà nước
chưa quản lý được. Điều này dẫn đến hiện tượng không công bằng trong
chính sách tiền lương và thu nhập của công chức, đồng thời nảy sinh tâm lý
sẵn sàng "chạy chọt" để vào được những cơ quan hay những vị trí có thể
mang lại càng nhiều thu nhập ngoài lương càng tốt. Điều này không những là
nguyên nhân làm giảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước mà còn
là một trong những nguyên nhân dẫn đến tiêu cực, tham nhũng, hối lộ, biến
chất của một bộ phận công chức và nhiều vấn đề xã hội khác.
+ Khi tiền lương không còn là thu nhập chính của công chức, thì sẽ mất
dần tác dụng là động lực thúc đẩy công chức thực thi công vụ tốt, khiến
không ít công chức làm việc chiếu lệ chỉ để giữ chỗ trong cơ quan nhà nước,
dành sức để làm ngoài hoặc lợi dụng vị trí mà mình đang đảm đương trong cơ
quan nhà nước làm chỗ dựa để làm ngoài. Trong nhiều trường hợp, công chức
bỏ hẳn cơ quan nhà nước ra làm cho các doanh nghiệp nhà nước hoặc tổ chức
ngoài khu vực nhà nước với mức lương hấp dẫn hơn. Đây chính là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng "chảy máu chất xám". Ví như, so với
khu vực sự nghiệp Nhà nước có thu, tiền lương của công chức khu vực hành
chính Nhà nước thấp hơn, tạo ra khoảng cách bất hợp lý giữa những người lao
động cùng làm những công việc, ngành nghề như nhau. Thực tế cho thấy, tiền



17
lương của viên chức khu vực sự nghiệp có thu có thể gấp từ 2 đến trên 4 lần
so với tiền lương quy định trong các bảng lương của Nhà nước.
Tóm lại, ở nước ta hiện nay, chính sách tiền lương hành chính nhà nước
mặc dù đã có đổi mới và tiến bộ không ngừng cùng với sự phát triển và hoàn
thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thì bên cạnh đó
còn tồn tại nhiều bất cập. Những bất cập đó có tác động rất lớn đến quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Việc tăng lương tối thiểu nhiều lần trong thời gian
qua là một nỗ lực lớn của Nhà nước trong cải cách chính sách tiền lương đối
với công chức, nhưng không mang lại những thay đổi đáng kể về lương thực
tế nếu gắn với tốc độ gia tăng giá tiêu dùng. Thực tế, chính sách tiền lương
hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay chưa phản ánh đúng bản chất nền
kinh tế thị trường, chưa phản ánh đúng giá trị hàng hóa sức lao động. Do đó,
việc nâng lương tối thiểu chưa có tác dụng nhiều để cải thiện hơn đời sống
của công chức và cũng không làm thay đổi được hiệu quả, chất lượng của
công việc theo chiều hướng tích cực hơn. Lương chưa thực sự tạo ra động lực
kích thích người lao động làm việc với năng xuất chất lượng hiệu quả cao và lại
càng không thể gắn kết trách nhiệm của người lao động với công việc.
2.2. Một số vấn đề cần được quan tâm trong cải cách chính sách
tiền lương hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay, việc giải quyết chính sách tiền lương là rất
phức tạp, khó khăn đòi hỏi chúng ta phải tính đến nhiều mặt, nhiều phương án
trên cơ sở khoa học và có bước đi thích hợp với điều kiện kinh tế của đất
nước trong từng giai đoạn cụ thể. Để hiện thực hoá những chủ trương nêu trên
của Đảng và Nhà nước và để tiền lương thực sự trở thành động lực khiến
công chức làm việc có hiệu quả, cần có sự thay đổi mạnh mẽ về tư duy trả
lương cho công chức, người hưởng lương từ nhân sách nhà nước. Để họ
không phải kiếm thêm thu nhập ngoài lương như hiện nay, chúng ta cần thay



18
đổi căn bản chính sách tiền lương cho phù hợp với nền kinh tế vận động theo
cơ chế kinh tế thị trường đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết.
* Trong thời gian tới cải cách chính sách tiền lương hành chính nhà
nước ở nước ta cần lưu ý đến đặc điểm:
Một là: Nền kinh tế còn nhiều khó khăn khoảng cách mức sống giữa
nước ta với nhiều nước vẫn còn rất lớn. Việc đổi mới các chính sách liên quan
đến vấn đề tiền lương trong thời gian qua, tuy đã có chuyển biến tích cực
song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của nhân dân.
Hai là: Đối tượng hưởng lương và trợ cấp từ ngân sách vẫn quá lớn và
ngày càng tăng (Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh ưu đãi người có công đã bổ sung
thêm rất nhiều đối tượng thụ hưởng); trong khi tiền lương của từng cá nhân
còn thấp nhưng tỉ trọng tiền lương và trợ cấp trong tổng chi ngân sách Nhà
nước lại quá lớn và đến nay việc kiểm soát thu nhập ngoài lương của người
lao động nói chung, của cán bộ, công chức vẫn chưa thực hiện được.
Ba là: Quá trình hội nhập quốc tế và khu vực cùng với những yêu cầu,
cam kết chung của Việt Nam với (WTO) đã đặt ra cho chúng ta nhiều bài toán
khó khăn, thách thức trong quá trình giải quyết thuộc lĩnh vực lao động, tiền
lương... Đặc biệt trong thời gian vừa qua, suy thoái kinh tế thế giới đã tác
động đến mọi ngành, mọi lĩnh vực của đất nước làm cho quá trình cải cách
chính sách tiền lương của Đảng, Nhà nước gặp không ít khó khăn.
* Cải cách tiền lương hành chính nhà nước phải được tiến hành dựa
trên các vấn đề có tính nguyên tắc sau:
Một là: Cải cách tiền lương hành chính nhà nước dựa trên cơ sở các
quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường và lý luận của C.Mác về
tiền công dưới CNTB. Tiền lương phải đáp ứng được yêu cầu tái sản xuất và


19

hơn thế là tái sản xuất mở rộng sức lao động trên các phương diện: thể lực, trí
lực, văn hóa tinh thần và chi phí đào tạo cho cả người lao động lẫn con cái họ.
Thực hiện tăng cả tiền lương danh nghĩa lẫn tiền lương thực tế, trong đó tăng
tiền lương thực tế là hướng trọng tâm.
Hai là: Cải cách tiền lương phải gắn liền với tốc độ tăng trưởng kinh tế
và tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Trong đó, một số chỉ tiêu quan
trọng cần tính đến trong thiết kế là tốc độ phát triển kinh tế, GDP/người, khả
năng tài chính của quốc gia, giá cả sức lao động trên thị trường lao động, chỉ
số giá sinh hoạt...
Ba là: Lương phải thể hiện sự đánh giá chính xác của xã hội đối với tài
năng, trí tuệ, năng lực, kết quả lao động và cống hiến của mỗi người. Tiền
lương phải thực hiện được vai trò kích thích tính năng động, sáng tạo, tính kỷ
luật, nâng cao hiệu quả và tăng năng xuất lao động đối với mỗi người, là giải
pháp tối ưu cho phòng, chống tham nhũng.
Bốn là: Cải cách chính sách tiền lương phải tiến tới bảo đảm cho cán
bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương từ ngân sách nhà nước sống
được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội. Trên cơ sở đó, hình
thành các cơ chế tiền lương ngày càng phù hợp với thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN và tạo động lực nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức nhà nước.
Năm là: Cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu
đãi người có công phải khắc phục được những bất hợp lý về quan hệ tiền
lương trong từng khu vực và giữa các khu vực: hành chính, sự nghiệp công
lập, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang. Cải cách chính sách tiền lương, bảo


20
hiểm xã hội và ưu đãi người có công phải gắn với việc bảo đảm tốt hơn đời
sống của người nghèo, đồng bào dân tộc, các đối tượng chính sách xã hội.
* Một số yêu cầu cần thực hiện cải cách chính sách tiền lương hành

chính nhà nước trong những năm tới
- Từng bước thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba, khóa X về
"xây dựng cơ chế tiền lương riêng đối với công chức hành chính", trên cơ sở
mức lương tối thiểu chung, tùy thuộc khả năng ngân sách và mức tăng trưởng
kinh tế để áp dụng mức lương tối thiểu cao hơn.
- Thực hiện chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức và lực
lượng vũ trang; căn cứ khả năng ngân sách nhà nước và điều tra mức sống
trung bình trong xã hội để xây dựng hệ số tiền lương tăng thêm đối với cán
bộ, công chức thuộc khu vực này; hay nói cách khác là đặt tiền lương khu vực
nhà nước trong mối tương quan với các khu vực khác trong xã hội và phù hợp
với mức tiền lương trung bình trên thị trường sức lao động.
- Tiếp tục nghiên cứu áp dụng chế độ phụ cấp thâm niên nghề cho phù
hợp đối với một số ngành, nghề (đặc biệt là đối với các ban tham mưu của cấp
uỷ Đảng các cấp còn lại) trong khả năng của ngân sách nhà nước cho phép.
- Tiếp tục phân cấp cho chính quyền địa phương về sử dụng biên chế
gắn với ngân sách trả lương đối với cán bộ, công chức trên địa bàn theo
hướng địa phương nào có nguồn thu, kinh tế phát triển thì ngoài quy định
chung được áp dụng thêm phụ cấp khoảng từ 30% – 50%.
- Tiếp tục điều chỉnh trợ cấp ưu đãi người có công trên cơ sở mức tiêu
dùng bình quân của xã hội và khả năng cân đối ngân sách nhà nước, bảo đảm


21
đời sống của người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của xã
hội.
Tóm lại, vấn đề cải cách và xây dựng chính sách tiền lương nói chung,
lương hành chính nhà nước nói riêng phải được nghiên cứu thấu đáo, dựa trên
cơ sở khoa học và thực tiễn và rất cần được thường xuyên nghiên cứu bổ sung
và hoàn thiện. Nó phải được xây dựng dựa trên các yếu tố, đặc điểm của mỗi
khu vực, mỗi thời điểm, trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Đặc biệt

chính sách tiền lương sẽ có tác động lớn đến hàng chục triệu người lao động
hưởng lương, vì vậy nếu xây dựng chính sách tiền lương đúng sẽ làm cho con
người, xã hội phát triển tốt, hay nói cách khác, chính sách tiền lương khoa học
sẽ là động lực để từng người, từng vị trí và từng tổ chức trong xã hội có điều
kiện phát triển đạt hiệu quả cao nhất.


22
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tiền lương không chỉ là
vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội chính trị sâu sắc. Chính sách tiền
lương cũng là một công cụ đòn bẩy để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Có chính sách tiền lương hợp lý, sẽ góp phần to lớn giải quyết các vấn đề an
sinh xã hội nhất là giải quyết việc làm, tăng thu nhập, ổn định và từng bước
nâng cao đời sống nhân dân, góp phần ổn định chính trị xã hội.
Trong thời gian tới đòi hỏi chính sách tiền lương xây dựng phải trên
cơ sở các quy luật khách quan của cơ chế thị trường. Cơ chế, chính sách
tiền lương phải bảo đảm tính linh hoạt, mềm dẻo tránh áp đặt chủ quan, có
sự phù hợp tương đối giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế.
Chính sách tiền lương phải trên cơ sở giá trị hàng hóa sức lao động, trả
lương phải căn cứ vào thời gian và chất lượng hiệu quả công việc. Đổi
mới chính sách tiền lương phải theo hướng bảo đảm bù đắp và không
ngừng tái sản xuất ra sức lao động với chất lượng ngày càng cao hơn.
Cải cách tiền lương hành chính nhà nước luôn là vấn đề phức tạp và
nhạy cảm trong bất cứ giai đoạn nào. Để thực hiện thành công, cải cách chính
sách tiền lương cần phải tiến hành đồng bộ với các nội dung cải cách khác
trong hệ thống hành chính nhà nước. Cải cách chính sách tiền lương không
đơn thuần là giải quyết vấn đề lương tối thiểu, mà cần phải đạt tới sự công
bằng và hợp lý trong việc trả lương cho công chức thông qua việc trả lương
căn cứ vào cơ chế thị trường, dựa trên vị trí công việc đảm nhận và theo kết

quả công việc. Có như vậy tiền lương mới thực sự trở thành động lực khuyến
khích công chức làm việc tốt, đóng góp ngày càng nhiều cho cơ quan, tổ chức



×