Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ lý LUẬN về HAI PHƯƠNG PHÁP sản XUẤN GIÁ TRỊ THẶNG dư của các mác sự vận DỤNG vào sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.46 KB, 24 trang )

LÝ LUẬN VỀ HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
CỦA MÁC VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LỜI MỞ ĐẦU
Kế thừa có chọn lọc những hạt nhân hợp lý trong tư tưởng kinh tế của nhân
loại, đặc biệt là trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển, mà đại biểu chính là
David Ricardo, Karx Marx và Engels đã xây dựng nên trường phái kinh tế chính trị
Macxít và sau này được Lênin bảo vệ và phát triển; Kinh tế chính trị Mac - Lênin
đã đưa ra những luận chứng có tính chất quá độ lịch sử của chủ nghĩa tư bản và tất
yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Quyển I của
bộ tư bản có tựa đề là “Về tư bản” được K.Marx cho xuất bản năm 1867, trong tác
phẩm này K.Marx đã trình bày một cách khoa học hệ thống các phạm trù kinh tế
chính trị tư bản mà trước đó, chưa ai có thể làm được, nó được đánh giá như “tiếng
sét nổ giữa bầu trời quang đãng của chủ nghĩa tư bản”, một trong số các học thuyết
được nêu ra là thuyết giá trị thặng dư, nhờ có học thuyết này mà toàn bộ bí mật của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được vạch trần, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được nêu ra một cách chính xác, mà trong đó hai phương pháp sản xuất chính
là phương pháp giá trị thặng dư tương đối và phương pháp giá trị thặng dư tuyệt
đối được áp dụng rộng rãi nhất, nhằm tạo ra tư bản để tích luỹ và tái mở rộng sản
xuất, đưa xã hội tư bản ngày càng phát triển. Hai phương pháp này đã được đưa
vào ứng dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Sau ngày đất
nước dành được độc lập, đảng và nhà nước ta đã nhận định rằng để đưa đất nước
phát triển thì con đường duy nhất để đưa nước ta phát triển là đưa nước ta trở thành
một nước có nền kinh tế hiện đại, để làm được điều đó trước hết chúng ta phải tiến


hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mới từng bước đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại. Do vận dụng không hợp lý những nguyên tắc trong
từng thời kì khác nhau của đất nước nên chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong
quá trình xây dựng đất nước, đạt được ít thành quả trong quá trình xây đựng đất


nước. Nhưng từ khi bước vào thời kì đổi mới năm 1986, từ những kinh nghiệm thu
được sau nhiều năm và kinh nghiệm của thế giới, đảng ta đã có quan điểm hết sức
rõ ràng (tại đại hội giữa nhiệm khoá VII): “Những tiến bộ về kinh tế, xã hội cùng
với sự mở rộng và tăng cường hợp tác phát triển với các nước, các tổ chức quốc tế
cho phép chúng ta đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế, từng bước cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Đây là
nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là con đường thoát khỏi tụt hậu xa hơn so với các nước xung
quanh, giữ được ổn định chính trị và xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và
định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa”. Trong giai đoạn đẩy mạnh Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay, việc nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư của Mac có ý nghĩa lý luân và thực tiễn vô cùng to lớn.


PHẦN NỘI DUNG
Chương I. Lý luận về hai phương pháp sản xuất giá trị thăng dư
1. Giá trị thặng dư
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến lớn nhất mà Mác đã
đóng góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của K.Marx vẫn
giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên nó cần được phát triển phù hợp với thực tiễn ngày
nay. Đã có nhiều người đưa ra phạm trù giá trị thặng dư, nhưng họ không chỉ ra
được sự đúng đắn của phạm trù này, K.Marx là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh
học thuyết giá trị thặng dư.Và theo K.Marx thì “giá trị thặng dư là giá trị do sức lao
động của công nhân tạo ra ngoài giá trị sức lao động và bị nhà tư bản chiếm đoạt”,
nó là kêt quả lao động không công của người công nhân làm thuê. Khi nói đến tư
bản người ta thường liên tưởng đến tiền, đến tư liệu sản xuất, nhưng không phải
như vậy, mà tư bản là quan hệ sản xuất hàng hoá, là mối quan hệ sản xuất giữa giữa
giai cấp tư sản và giai cấp công nhân làm thuê, tư bản là giá trị mang lại giá trị
thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. Bởi vậy,

cũng dễ hiểu khi mục đích của giai cấp tư sản là giá trị thặng dư. Nhưng để sản
xuất giá trị thặng dư, trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra hàng hoá có giá trị sử
dụng, vì giá trị sử dụng là nội dung vật chất của hàng hoá, là vật mang giá trị và giá
trị thặng dư. Đây cũng là quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá sức lao động và
tư liệu sản xuất để sản xuất giá trị thặng dư. Bởi thế mỗi sản phẩm được làm ra đều
được kiểm soát bởi nhà tư bản và thuộc sở hữu của nhà tư bản. Trong quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của mình công nhân lao động làm thuê
sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào hàng hoá, bằng lao động
trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn
đó là giá trị thặng dư. Ví dụ sau sẽ minh hoạ rõ về giá trị thặng dư:


Giả sử để chế tạo 1kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền là 20.000 đơn vị tiền tệ
mua 1kg bông, 3.000 đơn vị cho hao phí máy móc và 5.000 đơn vị mua sức lao
động của công nhân điều khiển máy móc trong 10 giờ. Tổng cộng số tiền ứng ra là
28.000 đơn vị tiền tệ. Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể công nhân sử
dụng máy móc để chuyển 1kg bông thành 1kg sợi, Theo đó giá trị của bông và hao
mòn của máy móc được chuyển vào sợi, bằng lao động trừu tượng công nhân tạo ra
giá trị mới nhập vào sợi. Trong 5 giờ công nhân đã chuyển được 1kg bông thành
1kg sợi thì giá trị của 1kg sợi là:
+ Giá trị 1kg bông chuyển vào:

20.000 đơn vị

+ Hao mòn máy móc:

3.000 đơn vị

+ Giá trị mới tạo ra (bằng giá trị sức lao động):


5.000 đơn vị

Tổng cộng: 28.000 đơn vị
Nếu quá trình lao động dừng ở đây thì nhà tư bản không thu được ít giá trị thặng dư
nào. Nhưng nhà tư bản đã mua sức lao động trong 10 giờ nên 5 giờ tiếp theo nhà tư
bản không phải trả công nữa mà chỉ cần phải chi thêm 2.000 đơn vị tiền tệ để mua
1kg bông và 3.000 đơn vị hao mòn máy móc nhưng sẽ có thêm 1kg sợi.
Tổng số tiền nhà tư bản bỏ ra để có 2kg sợi:
+ Tiền mua bông: 20.000 x 20

= 40.000 đơn vị

+ Hao mòn máy móc trong 10 tiếng 3.000 x 2

= 6.000 đơn vị

+ Tiền lương cả ngày 10 tiếng:

= 5.000 đơn vị

Tổng cộng:

= 51.000 đơn vị

Giá trị sợi nhà tư bản thu được 28.000*2 = 56.000 đơn vị
Như vậy nhà tư bản thu được giá trị thặng dư = 56.000 - 51.000 = 5.000 đơn vị
Từ ví dụ trên đây có thể thấy đích xác được giá trị thặng dư từ đâu mà có, cái mà
nhà tư bản thu được là cái gì, nguồn gốc sâu xa của nó. Đó là cơ sở của sự giàu có
của giai cấp tư sản, cho nên K.Marx đã viết “Bí quyết của sự tăng thêm giá trị của



tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao động không công
nhất định của người khác”. Nhà tư bản làm được điều đó vì họ có trong tay tư liệu
sản xuất, còn người lao động không có tư liệu sản xuất chỉ có sức khoẻ, điều duy
nhất người công nhân có thể làm là bán sức lao động của mình để lấy tiền luôi sống
bản thân và gia đình của họ. Khi đó sức lao động trở thành hàng hoá, giá trị sức lao
động là điều kiện quan trọng để sản xuất ra giá trị thặng dư. Như vậy, theo K.Marx
giá trị sản phẩm được khái quát theo công thức sau:
c+v+m
Trong đó:
c: giá trị tư liệu sản xuất
v: giá trị của sức lao động
m: giá trị thặng dư
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D.Ricardo cũng
không giải thích được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư
bản vẫn thu được lợi nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hoá C.Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng
trong quá trình sản xuất hàng hoá lao động cụ thể của công nhân chuyển giá trị của
tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang sản phẩm, đồng thời lao động trừu tượng
của người đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động của
mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra ngoài khoản bù lại giá trị sức lao động,
C.Mác gọi là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Công nhân chỉ được tiếp
tục làm thuê chừng nào còn tạo ra được khối lượng giá trị mới lớn hơn giá trị sức
lao động mà nhà tư bản đã trả cho người đó dưới hình thức tiền công, nếu không sẽ
bị sa thải.


Theo đó Giá trị thặng dư là giá trị rôi ra ngoài giá trị sức lao động do công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Nhà tư bản giành một phần giá trị thặng dư này cho sự hưởng thụ của mình và gia

đình mình, phần còn lại được tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Khoản tích luỹ này
lại trở thành điều kiện vật chất để thu hút thêm nhiều gái trị thặng dư hơn nữa.
Chính lòng ham mê giá trị thặng dư là động lực thúc đẩy nhà tư bản dám mạo hiểm
bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh.
2. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng hai
phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối và
phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương pháp đại diện cho một trình
độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như những giai đoạn lịch sử khác nhau của
xã hội.
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa tư bản, thời kì này nền kinh tế sản xuất chủ yếu là sử dụng lao động thủ công,
hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở các công trường thủ công. Đó là sự
gia tăng về mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Bởi phương pháp
giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt
quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và
thời gian lao động tất yếu là không thay đổi. Có nghĩa là khi nhà tư bản muốn tăng
giá trị thặng dư, thì nhà tư bản sẽ mua thêm máy móc mua, thêm tư liệu sản xuât,
thuê thêm công nhân để sản xuất ra hàng hóa; nhưng móc, chỉ mua thêm nguyên
liệu sản xuất, và bắt công nhân hiện có phải cung cấp thêm một lượng lao động,
đồng thời tận dụng triệt để công suất của máy móc hiện có. Cái lợi ở đây là nhà tư
bản không cần ứng thêm tư bản, thuê thêm công nhân, mua thêm máy móc thiết bị,


đồng thời máy móc sẽ được khấu hao nhanh hơn, hao mòn và chi phí bảo quản
giảm đi rất nhiều, thời gian thu lợi nhuận sẽ dài hơn. VD: Một ngày người công
nhân lao động 8 giờ, trong đó thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động
thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10.000 đơn vị tiền tệ,
thì trong một ngày người công nhân tạo ra một lượng giá trị mới là 80.000, bao
gồm 40.000 là chi phí sản phẩm và 40.000 là giá trị thặng dư tuyệt đối, tỷ suất giá

trị thặng dư là 100%. Nhưng khi kéo dài thời gian lao động ra thêm 2 giờ với điều
kiện các yếu tố khác không đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên là 60.000, nhà
tư bản được lợi thêm 20.000 đơn vị so với trước đó, tỷ suất thặng dư là 150%.(Tỷ
suất giá trị thặng dư biểu hiện của trình độ bóc lột giá trị thặng dư).
Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày công lao động của người công nhân
làm thuê, nhưng thực tế thì không cho phép họ làm như vậy trong một thời gian quá
dài. Vì những việc làm đó là vượt quá giớ hạn sinh lí của người công nhân, một
người có thể duy trì mãi một cường độ lao động với năng suất cao trong một thời
gian dài là điều không thể có được, họ cần phải có thời gian ăn ngủ, nghỉ ngơi giải
trí nhằm hồi phục sức khoẻ. Thật dễ hiểu khi giai cấp tư bản gặp phải sự kháng cự
của giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản muốn kéo dài thời gian lao động trong
ngày, còn giai cấp công nhân muốn rút ngắn thời gian lao động, do đó độ dài ngày
lao động có thể co giãn và việc xác định độ dài ngắn ấy phụ thuộc vào so sánh lực
lượng trong cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đó. Điểm dừng của độ dài ngày lao
động là điểm mà ở đó lợi ích kinh tế của nhà tư bản và lợi ích kinh tế của người lao
động được thực hiện theo một thoả hiệp tạm thời.
Khi độ dài ngày lao động đã được xác định, nhà tư bản sẽ tìm mọi cách để
tăng cường độ lao động của người công nhân. Tăng cường độ lao động có nghĩa là
chi phí nhiều sức lao động trong một khoảng thời gian nhất định, nên về thực chất
cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày. Nhà tư bản có thể tăng thêm


tư liệu lao động, yêu cầu hay thoả thuận người lao động lao động với cường độ cao
mức bình thường, yêu cầu khi người lao động là họ phải tập trung làm việc hơn,
các thao tác làm việc phải nhanh hơn… những việc đó sẽ tốn nhiều sức lao động
hơn so với bình thường, và cũng tạo ra nhiều sản phẩm hơn. Nhưng việc tăng
cường độ lao động khó hơn việc tăng thời gian lao động của người công nhân. vì
việc này muốn thực hiện đựoc thì nhà tư bản phải thay đổi máy móc.
Việc áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối ngoài việc gặp
khó khăn như ở trên đã đề cập, theo D.Ricardo “với sự tăng thêm của một nhân tố

sản xuất nào đó, trong điều kiện các nhân tố sản xuất khác là không thay đổi, năng
suất của của nhân tố tăng thêm sẽ giảm đi”. Bởi vậy, việc gia tăng các nguyên liệu
sản xuất trong khi các điều kiện sản xuất khác không đổi, là việc làm không hiệu
quả khi mà nhà tư bản muốn tăng thu thêm giá trị thặng dư.
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối gặp
phải thì nhà tư bản đã áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối vào
sản xuất. Phương pháp này có tiến bộ vượt bậc so với phương pháp giá trị thặng dư
tuyệt đối, thể hiện trình độ sản xuất cũng như trình độ xã hội đã được nâng lên một
tầm cao hơn. Phương pháp giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được
do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ
đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động
vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động được quyết định bởi các tư liệu tiêu dùng và
dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao động, nên muốn hạ thấp giá trị sức lao
động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người lao
động. Điều đó chỉ được thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động xã hội cho các
ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất
ra các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ. VD: Giả sử ngày lao động là 8 giờ, nó được chia
ra 4 giờ là thời gian lao động tất yếu, 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi này


tỷ suất thăng dư là 100%.Nhưng khi máy móc được thay đổi, ngày lao động không
thay đổi, thời gian lao động tất yếu của người công nhân chỉ còn lại là 3 giờ, thời
gian lao động thặng dư đã tăng lên là 5 giờ, vì vậy tỷ suất thặng dư đã tăng lên là
166%. (Đồng nghĩa với trình độ bóc lột tăng lên).
Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất lao
động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các công cụ thủ
công, vì công cụ thủ công là công cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng bằng
sức lao động nên bị hạn chế bởi khả năng sinh lý của con người, nhưng khi lao
động bằng máy móc sẽ không gặp phải những hạn chế đó. Vì thế, việc sử dụng
máy móc làm năng suất lao động tăng lên rất cao, làm giảm giá trị tư liệu sinh hoạt,

làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao động, rút ngắn thời gian lao động tất yếu kéo
dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư
hơn. Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày càng được nâng cao do các cuộc
cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển với
tốc độ vũ bão, đem lại sự phát triển chưa từng có trong lịch sử loài người, nó khác
với cuộc cách mạng khoa học là dẫn đến sự hình thành các nguyên lý công nghệ
sản xuất mới, chứ không đơn thuần về công cụ sản xuất như cách mạng khoa học,
do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao, đưa xã hội loài người bước sang một nền văn
minh mới - nền văn minh trí tuệ.
Phương pháp giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất theo chiều
sâu, lao động phức tạp tăng lên và thay thế cho lao động giản đơn. Để có lợi cho
mình có lợi cho mình các nhà tư bản buộc phải chú trọng đến nhân cách sáng tạo
của lao động làm thuê. Điều đó đã chứng minh rằng lao động trí óc, lao động có
trình độ kĩ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định tới việc sản xuất giá trị thặng
dư và tầng lớp công nhân này có mức sống tương đối cao. Chính những điều đó dã
làm cho một số người lao động nhầm tưởng rằng họ không bị bóc lột sức lao động,


sức lao động của họ được trả một cách thoả đáng, họ an tâm làm việc mà không
không biết rằng một khối lượng lớn giá trị mới do sức lao động của mình tạo ra đã
bị nhà tư bản chiếm đoạt. Hơn nữa, với tốc độ phát triển chóng mặt của máy móc
công nghệ, tác hại của sóng điện từ từ những thiết bị tin học hiện đại làm cho người
lao động bị hao phí rất nhiều sức lực, phát sinh nhiều bệnh nghề nghiệp, các bệnh
này có thể phát sinh ngay trong quá trình còn đang lao động của người công nhân
nhưng cũng có thể để lại di chứng sau một thời gian dài mới biều hiện bệnh.
Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu ngạch, đây là
cái đích hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng
dư thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp
hơn giá trị xã hội của nó. Xét trong từng trường hợp giá trị thặng dư siêu ngạch là
hiện tượng tạm thời, nó sẽ bị mất đi khi công nghệ đó đã được phổ biến rrộng dãi,

nhưng xét theo phạm vi toàn xã hội thì đây một hiện tượng thường xuyên. Theo
đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là kì vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất
thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao
động, làm cho năng suất xã hội tăng lên nhanh chóng. Bởi vậy K.Marx gọi giá trị
thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Thực ra, hai phương pháp giá trị thặng dư đó không hề bị tách dời nhau, mà
chỉ trong mỗi thời kì khác nhau sự vận dụng hai phương pháp là nhiều hay ít mà
thôi, trong thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản thì phương pháp giá trị thặng dư tuyệt
đối được sử dụng nhiều hơn so với phương pháp giá trị thặng dư tương đối, còn
trong thời kì sau của chủ nghĩa tư bản thì ngược lại. Trong xã hội hiện đại ngày nay,
việc nhà tư bản kết hợp tốt hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã tạo ra ngày
càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản, bằng cách tăng cường các phương tiện
kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều sức lao động làm thuê. Máy móc
hiện đại được áp dụng, các lao động chân tay bị cắt giảm nhưng điều đó không đi


đôi với giảm nhẹ cường độ lao động của người công nhân, mà trái lại do việc áp
dụng máy móc không đồng bộ nên khi máy móc chạy với tốc độ cao, có thể chạy
với tốc độ liên tục buộc người công nhân phải chạy theo tốc độ vận hành máy làm
cho cường độ lao động tăng lên, năng suất lao động tăng, ngoài ra nền sản xuất
hiện đại áp dụng tự động hoá cao cường độ lao động người công nhân tăng lên với
hình thức mới đó là cường độ lao động thần kinh thay thế cho cường độ lao động
cơ bắp, tạo ra sản phẩm chứa nhiều chất xám có giá trị lớn. Nên sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong diều kiện hiện đại là sự kết hợp tinh vi của hai phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối.
Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích và tính chất của
chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có thể vận
dụng trong các danh nghệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao
động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản

xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu
sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức
làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của
nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn
lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng
việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.


Chương II. Vận dụng lý luận hai phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa nước ta hiện
nay
1. Giá trị thực tiễn của lý luận về hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
trong thời đại ngày nay
a. Sự cần thiết phải nhận thức lại, bổ sung và phát triển học thuyết GTTD.
Mặc dù những tư tưởng, nội dung và phương pháp nghiên cứu lý luận giá trị
thặng dư của Mác, về cơ bản, còn giá trị trong thời đại ngày nay, tuy nhiên vẫn cần
được nhận thức lại, bổ sung và phát triển. Ngày nay điều kiện lịch sử đã có nhiều
thay đổi khác xa so với điều kiện lịch sử của những năm sau chiến tranh thế giới
lần thứ hai, chứ chưa nói đến thế kỷ 19 mà Mác đã nghiên cứu. Do vậy, để tránh
mắc sai lầm mang tính giáo điều, rập khuôn, duy ý trí, một số kết luận của Mác
trong điều kiện lịch sử cũ lại dựa trên phương pháp giả định gắn với mục đích
nghiên cứu CNTB cổ điển không nên hiểu và vận dụng nguyên si. Hơn nữa, đọc và
hiểu đúng nội dung lý luận giá trị thặng dư trong bộ “Tư bản” là việc không phải ai
cũng làm được. Vì vậy mà phải có sự nghiên cứu cụ thể để rút ra những kết luận
mới cho những trường hợp cụ thể.
Ngày nay mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị
thặng dư nói riêng đã có sự thay đổi. Nếu trước đây mục đích nghiên cứu của kinh

tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá
trị thặng dư của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt
đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta còn có mục đích
nghiên cứu, khai thác bộ “Tư bản” với tư cách một sách phong phú và sâu sắc về
kinh tế thị trường để xây dựng và phát triển nền kinh tế – xã hội ở nước ta. Do đó
cần phải thay đổi một số yếu tố và phạm trù kinh tế phù hợp với hoàn cảnh hiện tại.
b. Tính thực tiễn của hai phương pháp sản xuất GTTD.


Trong thời đại ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học công nghệ; GCTS chủ
yếu thực hiện việc bóc lột những người lao động bằng hình thức bóc lột giá trị
thặng dư tương đối. Những người lao động làm thuê bị bóc lột ngày càng nhiều.
Cái gọi là “trung lưu hoá” một số bộ phận lao động làm thuê, về thực chất, cũng chỉ
là một biểu hiện mới của sự bóc lột TBCN.
Trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Thị trường lao động cũng
có sự biến đổi sâu sắc, sự di chuyển lao động từ nước này sang nước khác ngày
càng tăng. Tác động quy luật giá trị đối với thị trường này sẽ càng tăng lên mạnh
mẽ và tác động đến GTTD. Sự chuyển dịch mâu thuẫn giữa các quốc gia diễn ra
mạnh mẽ, sự phân cực xã hội cũng biến đổi, do đó điều kiện chín muồi về mâu
thuẫn cũng sẽ không đều giữa các quốc gia. Mặt khác trong điều kiện bành trướng
thị trường của các công ty xuyên quốc gia thì GTTD có những nét đặc thù và đặc
biệt mang tính quốc tế cao. Sự phân phối GTTD trong điều kiện quốc tế hoá đời
sống kinh tế diễn ra không chỉ ở trong điều kiện quốc gia mà cả trong phạm vi quốc
tế. Sự phân chia GTTD của Mác chủ yếu giới hạn trong các tập đoàn tư bản của
một quốc gia, bởi vì nhà nước hồi đó còn đứng ngoài quá trình kinh tế. Nhà nước
mới sử dụng quyền lực để “canh gác” cho các tư bản hoạt động, còn về cơ bản vẫn
tuân thủ sự can thiệp của bàn tay vô hình và thực hiện khẩu hiệu “để mặc cho người
ta làm”. Do vậy Mác cho rằng người công nhân làm thuê chỉ được hưởng phần tư
bản khả biến chứ không tham gia vào phần phân chia giá trị thặng dư.
Ngày nay với sự điều tiết của nhà nước, “chế độ tham dự” đã có sự thay đổi.

Người công nhân đã được tham dự dù là một lượng rất nhỏ so với nhà tư bản về
phần GTTD thông qua quỹ phúc lợi xã hội và lợi tức cổ phần. Tuy nhiên với tỷ lệ
nhỏ chưa làm thay đổi về bản chất của GTTD phân chia.
Trong quá trình phát triển của CNTB, sản xuất ra GTTD được tiến hành
thông qua nhiều phương pháp thích ứng với từng giai đoạn và trình độ phát triển


của LLSX, NSLĐ, tương quan lực lượng giữa các giai cấp, trong đó “sự sản xuất ra
GTTD tuyệt đối tạo thành cái cơ sở chung của chế độ TBCN và là điểm xuất phát
của sự sản xuất ra GTTD tương đối”. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện của CNTB
và của GTTD tương đối phải dựa trên cơ sở NSLĐ xã hội đạt tới một trình độ nhất
định, cho phép ngày lao động của người công nhân đã có thể chia làm hai phần: lao
động tất yếu tạo ra giá trị ngang bằng với giá trị nhà tư bản trả cho anh ta dưới hình
thức tiền công – tiền lương hay giá cả lao động và lao động thặng dư, tạo ra GTTD
cho nhà tư bản để được nhà tư bản thuê. Khi năng suất lao động còn thấp, thời gian
lao động còn chiếm phần khá lớn, muốn có nhiều GTTD CNTB phải kéo dài ngày
lao động và tăng cường độ lao động để bòn rút được nhiều lao động không công
của công nhân làm thuê. Nhưng phương thức bóc lột GTTD tuyệt đối, do bị hạn
chế cả về mặt tự nhiên – sinh lý, xã hội, GCTS không thể đáp ứng nhu cầu thu
GTTD tối đa của GCCN. Cho nên khi luật công xưởng được ban hành, CNTB
không còn sử dụng phương pháp bóc lột GTTD tuyệt đối như là phương pháp chủ
yếu nữa. Khi đó, nhằm mục đích kéo dài lao động thặng dư, người ta rút ngắn lao
động cần thiết bằng những phương pháp cho phép sản xuất ra vật ngang giá với tiền
công, trong một thời gian ít hơn, tức là sản xuất GTTD tương đối. Vì thế, nếu việc
sản xuất ra GTTD tuyệt đối chỉ gắn với độ dài ngày lao động hay tăng cường độ lao
động, thì việc sản xuất ra GTTD tuyệt đối, cách mạng hoá đến tận gốc các quá trình
kỹ thuật của lao động cũng như những tập quán xã hội… Cho nên để hiểu rõ sự sản
xuất ra GTTD bằng cách biến lao động cần thiết thành lao động thặng dư thì phải
gạt bỏ quan niệm giản đơn cho rằng: tư bản vẫn nắm quá trình lao động dưới hình
thức do lịch sử để lại hay hiện có.

Dưới tác động của quy luật GTTD, CNTB đã vận động, phát triển qua ba
giai đoạn, từng bước thực hiện cuộc đảo lộn… có tác dụng đẩy nhanh tăng NSLĐ


xã hội để giảm thời gian lao động tất yếu xuống mức tối thiểu cần thiết, tăng tối đa
thời gian cho việc sản xuất GTTD.
Bước khởi đầu của quá trình đó diễn ra trong buổi “Bình minh” của CNTB
(vào cuối thế kỷ XV và nhiều thập niên đầu của thế kỷ XVI). Khi đó, các nhà tư
bản chỉ mới có vốn liếng ít ỏi và công cụ lao động thủ công lạc hậu, nhưng có khát
vọng thu được nhiều GTTD, CNTB đã khắc phục mâu thuẫn này bằng quá trình
cách mạng hoá tổ chức lao động – biến lao động cá thể, manh mún thành lao động
hiệp tác phù hợp với yêu cầu tất yếu kinh tế, tạo ra sức lao động của một số lao
động cá thể tương đương. Ưu thế đó của lao động hiệp tác, một mặt, làm cho
NSLĐ xã hội được nâng cao, cho phép giảm lao động tất yếu, tăng lao động thặng
dư, do đó mà tạo được nhiều GTTD cho nhà tư bản, mặt khác, tạo tiền đề cho
CNTB tiến lên giai đoạn cao hơn bằng quá trình cách mạng hoá sức lao động –
phân chia người lao động có chức năng sản xuất sản phẩm hàng hoá hoàn chỉnh
thành người lao động chuyên môn hoá vào khâu công việc mà họ có sở trường nhất
trong quy trình sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh.
GTTD nhiều – lợi nhuận lớn, lại kích thích lòng thèm khát của các nhà tư
bản làm sao thu được nhiều hơn nữa. Bản thân các nhà tư bản khác cũng đua tranh
áp dụng máy móc để thu được nhiều GTTTD. Kết quả tất yếu là việc sử dụng máy
móc trở thành phổ biến trong các công xưởng và nền sản xuất TBCN. Với đại công
nghiệp cơ khí, ưu thế của hiệp tác và phân công lao động đã được vật hoá bằng hệ
thống máy móc và hệ thống máy móc là sự “nối dài” của các giác quan và
“khuyếch đại” năng lực của con người lên gấp bội, tạo nên bước phát triển nhảy vọt
về NSLĐ xã hội. Sự phát triển của máy móc như vậy đã làm phát sinh GTTD tương
đối bằng cách trực tiếp làm cho sức lao động giảm giá, gián tiếp làm cho sức lao
động rẻ đi nhờ tăng NSLĐ xã hội, làm cho những hàng hoá cấu thành giá trị sức lao
động giảm xuống. Do đó, người ta chỉ cần dùng một phần ít hơn của ngày lao động



để bù đắp lại giá trị sức lao động; làm cho việc sản xuất GTTD tương đối trở thành
phương pháp chủ yếu trong việc tăng GTTD cho nhà tư bản.
Bằng những thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện
đại nắm giữ được, CNTB đã thực hiện sự bóc lột tinh vi gắn quyện và rất hiệu
nghiệm ở cả 3 phương pháp. Nhưng chủ yếu là bóc lột GTTD tương đối và bóc lột
GTTD siêu ngạch. Ở các nước tư bản phát triển, nhờ áp dụng khoa học và phương
tiện kỹ thuật hiện đại một cách phổ biến trong tất cả các ngành sản xuất và dịch vụ
mà NSLĐ xã hội tăng cao. Do đó, làm cho giá trị các hành hoá đều giảm xuống và
giá trị hàng hoá sức lao động cũng giảm xuống, vì nó do giá trị các hàng hoá liên
quan đến tái sản xuất sức lao động quyết định. Cho nên, trong các nước này động
lực trực tiếp, thường xuyên thúc đẩy các nhà tư bản chăm lo cải tiến tổ chức sản
xuất và áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật mới là GTTD siêu ngạch..
Trong điều kiện của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại,
các nước tư bản phát triển, nhất là các công ty độc quyền xuyên quốc gia và đa
quốc gia, có ưu thế hơn hẳn trong việc áp dụng những thành tựu mới nhất của cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Do đó các nước tư bản
phát triển và các công ty độc quyền đó có nhiều khả năng sản xuất GTTD siêu
ngạch. Đây là nguồn rất to lớn và khá ổn định của lợi nhuận siêu ngạch khổng lồ
mà các nước tư bản phát triển và các công ty độc quyền thu được trong quan hệ
kinh tế với các nước kém phát triển. Hậu quả của quá trình này là các nước tư bản
phát triển thu được lợi nhuận siêu ngạch kếch xù và giầu lên nhanh chóng. Trái lại
các nước kém phát triển thì tài nguyên ngày một cạn kiệt, sức người mòn mỏi, nợ
nần chồng chất và nạn đói kinh niên…


2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối được vận
dụng vào trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta hiện nay
Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động làm thuê

tạo ra, là mục đích, kết quả hoạt động của tư bản, của giai cấp tư sản. Trong xã hội
xã hội chủ nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công của người công nhân không
còn nữa, nhưng không có nghĩa là giá trị thặng dư không tồn tại, mà giá trị thặng
dư được sử dụng vào mục đích khác không giống như giai cấp tư sản, đó là giá trị
thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để xây dựng đất nước, xây dựng chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích phát triển xã hội chủ nghĩa, vì con người.
Không tác ra khỏi xu hướng của xã hội, Việt Nam vận dụng các phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư vào trong công cuộc xây dựng đất nước, trong đó tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một nhiệm vụ hàng đầu, đây cũng là một quy luật
đặc biệt của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia.
Khi tách riêng hai thuật ngữ công nghiệp hoá và hiện đại hoá ra làm hai, thấy
công nghiệp hoá là quá trình biến đổi nền kinh tế quốc dân một nước từ trình độ
phát triển thấp sang một trình độ phát triển cao hơn nhiều dựa trên cơ sở các ngành
kinh tế có trình độ khoa học công nghệ hiện đại, với năng suất chất lượng hiệu quả
kinh tế cao hơn hẳn, còn hiện đại hoá là việc xây dựng và phát triển đất nước đạt
trình độ của những nước phát triển nhất của thời đại mà mấu chốt là đạt trình độ
hiện đại hoá của nền sản xuất xã hội. Chính bởi vậy mà công nghiệp hoá phải luôn
đi đôi với hiện đại hoá, tạo thành khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động với công nghệ,
phương tiện tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.Thực chất công


nghiệp hoá, hiện đại hoá: là quá trình tạo ra những tiền đề về vật chất, kỹ thuật, về
con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp, những yếu tố cơ bản của lực
lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sủ dụng kỹ thuật tiên
tiến hiện đại đạt tới năng suất lao động xã hội cao, tạo ra sự đổi mới trong tất cả các
ngành nghề, lĩnh vực.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được tiến hành từng bước, phải
có sự đồng bộ trong giữa các bước, tránh nóng vội chủ quan sẽ đem lại những hậu
quả đáng tiếc. Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trước hết bằng việc cơ
khí hoá nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học công
nghệ. Trong đó, chú trọng xây dựng, phát triển công nghiệp và sản xuất tư liệu sản
xuất, then chốt là công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất. Khi phát triển công nghiệp
sẽ tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị,
trong đó sản phẩm được sử dụng nhiều nhất là các tư liệu sản xuất. Đối tượng của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân, các
ngành công nghiệp chế tạo tư liệu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì sản phẩm của
ngành này sẽ được ứng dụng vào các ngành khác để sản xuất ra sản phẩm cấp thấp
hơn, nên ngành công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất có vị trí quan trọng việc thúc
đẩy sự nghiệp phát triển của các ngành khác. Xã hội phát triển kéo theo quy mô, cơ
cấu, tỷ trọng các ngành công nghiệp phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh tiềm
năng của đất nước. Đó là trong thời kì đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì
sản xuất công nghiệp nhẹ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với công nghiệp, bởi trong
hoàn cảnh này sẽ dễ dàng tận dụng được những nguyên liệu có sẵn và lao động có
tay nghề không cao, tuy nhiên phải không ngừng đầu tư phát triển để đưa ngành
công nghiệp nặng tạo tiền đề cho giai đoạn sau. Ở giai đoạn sau công nghiệp nặng
sẽ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với công nghiệp nhẹ, công nghệ nặng sẽ là nền công


nghiệp chủ đạo của nền kinh tế sử dụng những lao động lành nghề, trình độ kỹ
thuật cao. Đồng thời, công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là chuyển đổi cơ cấu kinh
tế theo hướng hiện đại hợp lý và hiệu quả hơn. Tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch
vụ tăng dần, nhưng mỗi giai đoạn khác nhau mà tỷ trọng công nghiệp là lớn hay tỷ
trọng dịch vụ là lớn hơn, nhưng một tất yếu là tỷ trọng ngành nông nghiệp sẽ giảm
đi trong cơ cấu kinh tế. Kéo theo là lao động trong nông nghiệp sẽ giảm và chuyển
sang ngành công nghiệp và dịch vụ. Thời kì này, chúng ta phải tăng cường củng cố
địa vị chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tiến tới xác lập địa vị thống

trị của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đảng
ta đã lấy mục tiêu phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên
một làm cần thiết là chúng ta phải tuyên truyền rộng khắp tư tưởng của chủ nghĩa
xã hội làm cho nhân dân hiểu, tin tưởng vào chế độ mà đảng đã lựa chọn, yên tâm
tham gia sản xuất phát triển xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cuộc cải biến cách mạng từ xã hội nông
nghiệp trở thành xã hội công nghiệp, đó là cuộc cải biến trên mọi lĩnh vực, làm
được điều đó cần có nhiều điều kiện về kinh tế, văn hoá xã hội. Một tiền đề quan
trọng là việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Trong tình hình hội nhập kinh
tế thé giới sôi động ngày nay thì mỗi quốc gia đều phát triển dựa trên hai nguồn
vốn chính là vốn trong nước và vốn ngoài nước, nhưng mỗi nước có quan điểm
khác nhau trong việc coi trọng nguồn vốn trong nước hay nước ngoài hơn. Quan
điểm của nước ta là dựa vào vốn trong nước là chính, vốn nước ngoài là quan
trọng. Chúng ta phải tận dụng hết mọi nguồn vốn trong nước để tạo ra sự phát triển
bền vững, cân đối, nhưng nguồn vốn nước ngoài là chất xúc tác quan trọng đưa nền
kinh tế phát triển vượt bậc. Việc tích luỹ nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân
được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao động thặng dư của
người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Con đường cơ bản để giải quyết


vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, mặt khác chúng ta phải
khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động. tập trung sức phát triển nông nghiệp, công
nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, chỉ như thế chúng ta mới tận dụng được
hết các nguồn lực sẵn có, tận dụng được lợi thế tương đối của nước ta. Chúng ta tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức, quốc gia tham gia vào đầu tư tại nước ta,
giúp nguồn vốn đầu tư được bổ sung, đó là các nguồn vốn như FDI, ODA, nguồn
vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế như: IMF, ADB, WB… Khi các nguồn
vốn này được đưa vào trong nước thì sẽ cải thiện rất nhiều cho tình hình kinh tế
Việt Nam, như một luồng gió mới, chất xúc tác không thể thiếu đưa nền kinh tế

Việt Nam đi lên. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục đích là nâng cao
nền sản xuất xã hội, mà chỉ sử dụng các phương tiện công nghệ thì chưa đủ, một
điều kiện không thể thiếu là chúng ta phải sử dụng đội ngũ những người lao động
có khả năng vận hành điều khiển các loại máy móc công nghệ đó. Nguồn nhân lực
có thể đáp ứng nhu cầu đó của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm
những con người có tài có đức, ham học hỏi, thích sáng tạo, làm việc quên mình vì
nền độc lập và sự phồn vinh của tổ quốc. Họ phải được trang bị tốt về tư tưởng chỉ
đạo của đảng, về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề
nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành kinh tế vĩ mô nền kinh tế và
toàn xã hội, có trình độ khoa học kỹ thuật vươn lên ngang tầm với thế giới. Đó là
nguồn lực của nền văn hoá công nghiệp hiện đại. Từ đó thấy rằng việc quan trọng
hàng đầu là chúng ta phải ưu tiên cho phát triển con người, phải đầu tư cho giáo
dục coi đó là nhiệm vụ quốc sách hàng đầu hướng chính của đầu tư phát triển, phải
tạo cơ cấu nhân lực đồng bộ trong tất cả các lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội, đào tạo cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ trong các ngành kỹ thuật, trong các
ngành kinh doanh, đào tạo các công nhân lành nghề có khả năng sử dụng công


nghệ kỹ thuật cao. Tiềm lực khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, khoa học công nghệ có vai trò ngày càng to lớn đến tăng trưởng nền
kinh tế. Nếu quá trình tích luỹ, mở rộng đầu tư theo quy mô sản xuất được coi là tái
sản xuất theo chiều rộng thì phát triển khoa học công nghệ được coi là quá trình tái
mở rộng sản xuất theo chiều sâu, khoa học công nghệ là biểu hiện của trình độ phát
triển của mỗi quốc gia. Khoa học công nghệ có vai trò quyết định tới lợi thế cạnh
tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
riêng của các quốc gia. Tiềm lực khoa học công nghệ là tiềm lực trí tuệ sáng tạo
của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy rằng khả năng cạnh tranh của Việt Nam hiện
nay là thấp so với khu vực và thế giới, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của
nước ta chậm hơn so với các nước trên thế giới, điều đó có nghĩa là mức độ đóng
góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng kinh tế còn hạn chế. Với tình hình đó

thì việc thay đổi khoa học công nghệ là một việc làm tất yếu của nước ta thì mới
mong có sự thay đổi trong nền kinh tế. Để thay đổi công nghệ trong sản xuất là một
điều không phải dễ đối với tất cả các nền kinh tế đặc biệt khi nước ta là một nước
nông nghiệp đi lên, nhưng khi chúng ta mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại thì điều
đó trở nên dễ dàng hơn. Quan hệ kinh tế đối ngoại càng rộng rãi và có hiệu quả bao
nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng thuận lợi, nhanh
chóng bấy nhiêu. Thực chất của việc mở rộng quan hệ đối ngoại là việc thu hút vốn
đầu tư từ bên ngoài, là tiếp thu nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện đại, học hỏi được
kinh nghiệm điều hành, quản lý hiện đại để áp dụng vào tình hình thực tế nước ta,
đồng thời cũng dễ dàng cho việc mở rộng thị trường, giúp cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá được tiến hành nhanh hơn. Một trong những điều kiện không thể thiếu
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự lãnh đạo đảng và sự quản lý của
nhà nước. Khi có sự lãnh đạo của đảng thì chúng ta mới có thể đi đúng hướng theo
con đường đảng đã chọn lựa là phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ


nghĩa, mà cao hơn cái mà chúng ta đang hướng tới là chủ nghia cộng sản. Mặt khác
khi có sự quản lý của nhà nước thì, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới
được thực hiện từng bước theo đứng quy luật và phù hợp với tình hình trong nước
và quốc tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới được diễn ra đồng đều và rộng khắp
trên các vùng miền của đất nước. Có thế thì người dân mới tin tưởng vào chế độ,
an tâm để lao động và làm việc, chỉ có sự quản lý của nhà nước thì các dịch vụ
công được đảm bảo, trật tự công bằng mới được thực hiện.
Khi nội dung và tiền đề của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được vạch ra thì
phương hướng, quy mô, bước đi của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải
được cân nhắc kỹ trên cơ sở thấu suốt các quan điểm của đảng và nhà nước, trong
văn kiện đại hội ban chấp hành trung ương 7 (khoá VII) đã nêu rõ như sau:
- Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại

tạo ra năng suất lao động cao. Đối với nước ta, đó là một quá trình thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành
một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến
bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật
chất kỹ thuật, về con người và về khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng
năng suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững,
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng một
nền kinh tế mở cả trong và ngoài nước, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ đối


ngoại; kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường.
- Kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu
những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất
nước trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế.
- Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương
hướng phát triển, lựa chọn các dự án đầu tư công nghệ.
- Khai thác nhanh thế mạnh của cả nước, của mỗi vùng, mỗi ngành, tập trung
thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm sớm đưa lại hiệu quả
kinh tế cao. Đồng thời quan tâm những nhu cầu thiết yếu, có chính sách, cơ chế giải
pháp thiết thực đối với những khó khăn, đẩy mạnh hợp tác phát triển, bảo vệ cho
các vùng và các thành phần dân cư đều có lợi ích và được hưởng thành quả của sự
tăng trưởng.
- Chú trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh, theo phương
trâm lấy ngắn nuôi dài; xây dựng một số công trình có quy mô lớn và hiệu quả.

- Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất và công nghệ hiện có,
tập trung vào những khâu quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Kết hợp
công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, bảo đảm tính tiên tiến của thiết bị
và công nghệ nhập khẩu, ưu tiên cho loại công nghệ tốn ít vốn, tạo nhiều việc làm
trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân. Đó là một cuộc
cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi
hỏi phải đầu tư rất nhiều trí tuệ, sức người sức của. Chỉ có huy động sức mạnh và
khả năng sáng tạo to lớn của toàn dân dưới sự lãnh đạo đúng đắn của đảng, sự quản
lý điều hành có hiệu quả của nhà nước thì mới đảm bảo thằng lợi.


Kết quả bước đầu mà chúng ta đã đạt được sau ngày đổi mới rất đáng
mừng, chúng ta có sự phát triển về mọi mặt cả về kinh tế xã hội, văn hoá, giáo dục,
y tế. Đặc biệt về kinh tế chúng ta đang đạt được sự phát triển không ngừng, với
nhiều sự cố gắng Việt Nam đang tiến hành thay đổi thể chế kinh tế sao cho phù hợp
với các nước trên thế giới, để Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên của tổ
chức thương mại thế giới WTO, một sân chơi đầy thuận lợi và khó khăn. Kết quả
phát triển khả quan này cho thấy trong những năm vừa qua nước ta đã xác định
đúng mục tiêu và nhiệm vụ của mình, chúng ta đã đi đúng hướng trong phát triển
kinh tế, con đường phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước là hoàn toàn phù hợpnhưng cũng phải khẳng định rằng Việt Nam phải cố gắng
nhiều hơn nữa thì mới có thể đạt được mục tiêu tới năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.



×