Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CÔNG BẰNG xã hội ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.66 KB, 15 trang )

Mở đầu
Công bằng xã hội là mục tiêu hang đầu của đại đa số các quốc gia trên thế
giới nói chung, của Việt Nam nói riêng khi nói về một đất nước phát triển chúng
ta thường hình dung ở đó mọi người được ăn ngon, mặc đẹp, có khả năng chủ
động được tiếp cận các loại tài sản vật chất, có những hoạt động vui chơi giả trí
sang trọng, được sống trong môi trường trong sạch, lành mạnh, được sống trong
một xã hội không có sự phân biệt đối xử, với các mức độ công bằng cần thiết.
Một yêu cầu tối thiểu của quốc gia phát triển đó là chất lượng cuộc sống phải
cao và được phân phối một cách đồng đều, thay vì chỉ giới hạn bởi một cách bất
hợp lý cho một bộ phận tối thiểu giàu có trong xã hội. Cao hơn yêu cầu tối thiểu
đó, một quốc gia phát triển còn đề cập đến các quyền và sự tự do của con người
về chính trị, sự phát triển về văn hóa và tri thức, sự bền vững của gia đình. Như
vậy công bằng xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng, trong điều kiện chúng đang
thực hiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

NỘI DUNG
1.Khái niệm:
Khái niệm công bằng xã hội mang tính chuẩn tắc, nghĩa là tuỳ thuộc nhiều vào
quan điểm của con người. Định nghĩa về công bằng xã hội chính vì thế mà chỉ
mang tính tương đối.

1


Nội dung cơ bản nhất của công bằng xã hội là xử lý hợp lý nhất quan hệ giữa
quyền lợi và nghĩa vụ trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
Để phản ánh được nội dung cơ bản này, các nhà kinh tế hiện nay thường sử dụng
hai khái niệm về công bằng:
- Công bằng theo chiều ngang: đối xử như nhau với người có đóng góp như
nhau.
Nguyên tắc chung: Nếu hai người có vị trí ban đầu như nhau trong xã hội thì sau


khi sự tác động của chính sách phân phối lại thì họ vẫn phải có vị trí như nhau.
- Công bằng theo chiều dọc: đối xử khác nhau với người có khác biệt bẩm sinh
hoặc có điều kiện xã hội khác nhau (do khả năng và kĩ năng lao động khác nhau,
cường độ làm việc khác nhau, sự khác nhau về nghề nghiệp, sự khác nhau về
giáo dục đào tạo, thừa kế và chiếm hữu tài sản khác nhau, gánh chịu rủi ro khác
nhau.)
Nguyên tắc chung: Nếu hai người có vị trí khác nhau trong xã hội thì sau khi sự
tác động của chính sách phân phối lại thì khoảng cách giữa họ phải giảm xuống.
2.Phân biệt công bằng xã hội và bình đẳng xã hội.
Khi nói tới bình đẳng xã hội, người ta muốn nói tới sự ngang bằng nhau giữa
người với người về một phương diện xã hội nào đấy, chẳng hạn về kinh tế chính
trị, văn hóa... Còn khi nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về mọi
phương diện, tức là ta đã nói tới một sự bình đẳng xã hội hoàn toàn.
Trong khi đó, công bằng xã hội cũng là một dạng của bình đẳng xã hội, nhưng
đó là sự bình đẳng, tức là sự ngang bằng nhau, giữa người với người không phải
về mọi phương diện, cũng không phải về một phương diện bất kỳ, mà chỉ về
một phương diện hoàn toàn xác định: phương diện quan hệ giữa cống hiến và
hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau.

2


Chẳng hạn, khi ta nói mọi người đều bình đẳng trước pháp luật thì điều đó có
nghĩa là mọi người đều được đối xử ngang bằng nhau trước pháp luật, bất kể
người đó là ai. Còn khi xét từng trường hợp cụ thể thì người làm nhiều sẽ được
hưởng nhiều, người làm ít sẽ được hưởng ít, người có công sẽ được thưởng,
người có tội sẽ bị phạt, công càng lớn thì mức thưởng càng lớn, tội càng nặng
mức phạt sẽ càng nặng... Một sự đối xử như vậy sẽ được coi là công bằng.
Việc làm giảm bớt bất bình đẳng xã hội chính là thực hiện công bằng xã hội.
3.Các thang đo bất bình đẳng xã hội.

Để khảo sát vấn đề công bằng xã hội, người ta sử dụng các thước đo sau:
- Phân phối thu nhập theo đầu người hoặc các nhóm dân cư:
Tính phân phối thu nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong
một thời gian nhất định, không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập và môi
trường sống của dân cư, mà chia đều thu nhập cho mọi thành phần dân cư.
Phương pháp tính là người ta chia dân số thành 5 nhóm người, mỗi nhóm có
20% dân số, sau đó xếp theo thứ tự từ thấp đến cao về thu nhập. Qua đó, có thể
thấy mức độ công bằng xã hội thông qua việc so sánh nhóm giàu nhất và nhóm
nghèo nhất.
VD: Theo số liệu thống kê năm 2004, thu nhập bình quân đầu người một tháng
(theo giá thực tế) của dân thành thị là 815.400 đồng, còn của dân nông thôn là
378.100 đồng; riêng vùng Tây Bắc là thấp nhất, chỉ có 265.700 đồng.
Chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người một tháng (theo giá thực tế) của
thành thị là 594.500 đồng, còn của nông thôn là 283.500 đồng. Cũng có nghĩa là
về thu nhập cũng như chi tiêu, thành thị đều gấp hơn hai lần so với nông thôn.
- Đường cong Lorentz:
Mô tả chênh lệch trong phân phối thu nhập, được biểu thị bằng một hình vuông
mà cạnh đáy biểu thị phần trăm cộng đồn số người được nhận thu nhập và cạnh
bên biểu thị phần trăm cộng dồn tổng thu nhập được phân phối. Đường chéo của
hình này biểu thị mức dộ bình đẳng tuyệt dối trong phân phối thu nhập, vì mọi
điểm nằm trên đường chéo phản ánh các mức phân bổ đồng đều giữa phần trăm
3


dân số cộng dồn và phần trăm tổng thu nhập cộng dồn. Đường cong Lorenz càng
gần đường bình đẳng tuyệt đối, phân phối càng công bằng.
- Hệ số Gini
Là thước đo phổ biến để xác định mức bất bình đẳng trong phân phối thu nhập,
hệ số Gini được đưa ra nhằm lượng hoá đường cong Lorenz. Nó được tính bằng
cách chia diện tích nằm giữa đường chéo và đường cong Lorenz với toàn bộ

diện tích nằm dưới đường chéo. Hệ số G càng cao, mức bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập càng lớn.
Dựa vào những số liệu thu thập được, ngân hàng thế giới WB nhận thấy rằng ,
mức biến động của hệ số G đối với những nước có thu nhập thấp : từ 0.3-0.5,
thu nhập trung bình 0.4-0.6, thu nhập cao 0.2-0.4. Từ đó WB đưa ra nhận xét, hệ
số G tốt nhất thường xoay quanh 0.3
VD: Theo chỉ số Gini (chỉ số chênh lêch giàu nghèo) ở Việt Nam là 34,4 lần.
Theo số liệu thống kê của nước ta, nếu như năm 1993, thu nhập của 20% số hộ
có thu nhập cao nhất gấp 4,43 lần số hộ có thu nhập thấp nhất, thì năm 1996,
con số này đã là 7,3 lần và năm 2007 đã là khoảng 9 lần. Như vậy khoảng cách
giàu nghèo có xu hướng ngày càng rộng ra.
- Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người:
Thước đo này đựoc coi là một chỉ số đánh giá trình độ phát triển của một nước ở
một thời kì nhất đinh. Những nhu cầu cơ bản này bao gồm mức dinh dưỡng, sức
khoẻ, mặc, ở và các khả năng đảm bảo sự phát triển cá nhân.
VD: Theo Báo cáo phát triển con người 2007-2008 của UNDP, ở nước ta, 10%
dân số nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập và chi tiêu quốc gia; 10% giàu nhất
chiếm 28,8% thu nhập và chi tiêu quốc gia; 20% dân số nghèo nhất chiếm 9%
thu nhập và chi tiêu quốc gia, còn 20% dân số giàu nhất chiếm 44,3% thu nhập
và chi tiêu quốc gia. Chênh lệch giữa 10% dân số giàu nhất với 10% dân số
nghèo nhất là 6,9 lần.
- Chỉ số phát triển con người (HDI).
4


Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) là chỉ số so
sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố
khác của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự
phát triển của một quốc gia.
HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. Nó đo thành tựu

trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau:
+ Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ trung
bình.
+ Tri thức: Được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các
cấp giáo dục (tiểu học, trung học, đại học).
+ Thu nhập: Mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người.
Chỉ số HDI của 10 nước đầu:
1. Iceland : 0.968
2. Na Uy : 0.968
3.Úc
: 0.962
4. Canada : 0.961
5. Ireland :0.959

6.Thụy Điển: 0.956
7. Thụy Sĩ : 0.955
8. Nhật Bản : 0.953
9.Hà Lan : 0.953
10. Pháp
: 0.952

Việt Nam đứng thứ 119/180 trên thế giới về chỉ số HDI năm 2010.
- Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp do Liên hợp quốc nêu ra.
Bao gồm 73 chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế rất ít nước
có thể thoả mãn các chỉ tiêu này. Vì vậy, đối với các nước đang phát triển, dù tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng không phải bao giờ cũng đạt được chỉ số phát
triển xã hội cao. Việc đưa vào chỉ số phát triển xã hội tổng hợp quá nhiều chỉ số
đã gây ra khó khăn trong tính toán đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
- Chỉ số chất lượng vật chất cuộc sống:
Được tính toán dựa trên 3 tiêu chí cơ bản là : tuổi thọ, tỉ lệ tử trẻ sơ sinh, tỉ lệ

xoá nạn mù chữ. Chỉ số này đã phản ánh những khía cạnh cơ bản của sự phát
triển xã hội và gián tiếp nói lên mức độ công bằng xã hội của một nước.
Ngoài ra còn có 1 số những thước đo khác như: Chỉ số Theil L, tỷ số Kuznets.

2. Thực trạng công bằng xã hội ở việt nam
5


Trong quá trình phát triển, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định
trong việc thực hiện công bằng xã hội nhằm hướng tới ổn định xã hội, không
ngừng nâng cao chất lượng mọi mặt của đời sống nhân dân và sự phát triển bền
vững của đất nước. Với chủ trương như vậy, nước ta đã đạt được những thành
tựu đáng khích lệ trong việc thực hiện công bằng xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó
cũng tồn tại không ít những điều tiêu cực mà xã hội chưa giải quyết được khiến
sự bất bình đẳng ngày càng gia tăng.
1.Những thành tựu đã đạt được.
Tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong giai đoạn vừa qua đã góp phần tạo cơ sở để
bước đầu giải quyết vấn đề công bằng và tiến bộ xã hội. Trong xã hội, khi một
chủ thể có cơ hội phát triển bình đẳng với các chủ thể khác thì có nghĩa là chủ
thể ấy có cơ sở bền vững để đạt được và duy trì một cách vững chắc sự công
bằng trong thu nhập.
Tác động của tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết vấn đề công bằng và tiến
bộ xã hội ở nước ta có thể xem xét trên các mặt sau:
- Giải quyết việc làm.
Trong thời kỳ đổi mới, vấn đề giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
đã đạt được những thành tựu to lớn. Hằng năm nước ta có khoảng 1,7 triệu
người bước vào độ tuổi lao động, số lượng lao động tăng hằng năm khoảng
2%/năm. Năm 2000 nước ta có 37,6 triệu lao động, năm 2005 là 42,5 triệu và
năm 2007 là 43,35 triệu.
Số lao động được giải quyết việc làm bình quân hằng năm khoảng 1,5 đến 1,6

triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm từ 5,88% năm 1996 xuống còn
5,31% năm 2005 và đến năm 2007 còn 4,82%.
- Thu nhập thực tế bình quân/người có sự gia tăng liên tục.
Tăng trưởng kinh tế với nâng cao thu nhập cho nhân dân, xóa đói giảm
nghèo(Đơn vị:1000đ/người)
6


Cả nước
Phân theo thành thị và nông
thôn
Thành thị
Nông thôn
Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
ĐB sông Cửu Long

1999
295

2002
356

2004

448

517
225

622
275

815
378

280
210
210
212
253
345
528
342

353
269
197
235
306
244
620
371

488

380
266
317
415
390
833
471

Từ năm 1999, thu nhập thực tế bình quân đầu người đã tăng 1,51 lần. Khu vực
thành thị và nông thôn đều có sự tăng thu nhập, tuy nhiên chênh lệch thu nhập
bình quân giữa thành thị và nông thôn vẫn ở mức hầu như không đổi, khoảng
2,1 lần. Thành tựu tăng trưởng trong gần hai thập kỷ đã góp phần làm tăng mức
GDP bình quân đầu người hằng năm từ 114 USD năm 1990 lên 397 USD năm
2000 và 809 USD năm 2007. Điều này đã góp phần làm giảm tỷ lệ nghèo đói từ
51.8% năm 1993 xuống còn 19,5 % năm 2004, có nghĩa là Việt Nam đã hoàn
thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu “giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm
2005” mà Liên hợp quốc đề ra. Đây là một thành tựu được cộng đồng quốc tế
đánh giá cao, nhất là so với một số nước trong khu vực và trên thế giới.
- Phát triển văn hóa, giáo dục, y tế
+Năm 2006 cả nước có khoảng 93000 lớp mẫu giáo với 112,8 ngàn giáo viên,
hơn 16triệu học sinh với hơn 789 nghìn giáo viên, có 299 trường Đại học và Cao
đẳng với 53,4 nghìn giảng viên, 1666,2 nghìn sinh viên, có 269 trường trung cấp
với 14,5 nghìn giáo viên, 468,8 nghìn học sinh, số sinh viên tốt nghiệp Đại học
và Cao đẳng là 230 nghìn người, tốt nghiệp các trường trung cấp là 149,3 nghìn
người.
7


Tổng số người đi học lên tới 23,2 triệu người, bình quân 1 vạn dân có 2841
người đi học, tỷ lệ trẻ em đi học mẩu giáo khoảng 50%, tỷ lệ người lớn biết chữ

tăng từ 88% năm 1993 lên 90,3% năm 2003 và 94 % năm 2006.
Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đạt khoảng 18,25% tổng chi ngân sách
giai đoạn 2001-2006.
+Về y tế, công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân có những tiến bộ đáng kể.
Tuổi thọ bình quân nếu năm 1995 mới đạt 62,5 tuổi thì đến năm 2007 đã đạt
73,3 tuổi. Tuổi thọ tăng do những thành tựu về y tế và chăm sóc sức khoẻ. Đến
năm 2006 số cơ sở khám chữa bệnh là
13232 cơ sở với 198,4 giường bệnh và hơn 200 nghìn cán bộ y tế, bình quân có
khoảng 6,3 bác sỹ trên một vạn dân. Số hộ ở nông thôn được sử dụng nước sạch
đạt tỷ lệ 62%.
- Chỉ số HDI của nước ta liên tục tăng.
Trong gần 25 năm đổi mới, mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển, giữa
tăng trưởng và tiến bộ xã hội được quan tâm đúng mức nhờ đó chỉ số HDI của
Việt Nam đã tăng từ 0,539 năm 1994 (xếp hạng 120/174 nước)lên 0,733 năm
2007 (105/177). Thứ bậc HDI cao hơn đáng kể so với thứ bậc phát triển kinh tế
(hơn 10 bậc) cho thấy sự phát triển kinh tế của Việt nam có xu hướng phục vụ
con người và đảm bảo công bằng xã hội.
Việt nam xếp hạng 105 về HDI và xếp hạng 123 về chỉ số GDP/đầu người
(chênh lệch 18 bậc). Nhận định này càng được khẳng định vững chắc khi chúng
ta qua sát thực tế rằng tỷ lệ số người sống dưới mức nghèo khổ của Việt Nam
thấp hơn đáng kể so với các nước có mức GDP/ đầu người vượt trội.
Để thực hiện công bằng xã hội theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa , bên cạnh những thành công do tăng trưởng kinh tế đem lại, thì việc thực
hiên công bằng xã hội cũng được Đảng và nhà nước đưa ra trong những chính
sách xã hội nhằm đảm bảo công bằng, giúp rút ngắn khoảng cách bất bình đẳng.
Ta có thể nhận thấy rõ những thành công này qua việc thực hiện các chính sách
xã hội.

8



Nhà nước Việt Nam đã đề ra rất nhiều chính sách nhằm giúp đỡ những người tàn
tật, già yếu, cô đơn, các gia đình thương binh, liệt sĩ, những dân tộc ở vùng cao,
vùng xa, vùng sâu, những gia đình có công với cách mạng.
Các chính sách xóa đói, giảm nghèo; các làn sóng từ thiện; các tổ chức giúp đỡ
nhân đạo nhằm tạo sự công bằng mới cho xã hội đã ra đời.
2.Những hạn chế cần khắc phục
Trong những năm qua, tuy nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng như
đánh giá trên đây, xong vẫn còn không ít yếu kém và khuyết điểm về tăng
trưởng kinh tế, công bằng và tiến bộ xã hội cũng như việc kết hợp tăng trưởng
kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội ở Việt Nam.
- Tăng trưởng kinh tế tuy đạt cao và tương đối ổn định song chưa bền vững và
chất lượng tăng trưởng thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư,
giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi đang có xu hướng dãn
ra. Hệ số GINI của Việt Nam vẫn ở mức cao và có xu hướng tăng, việc xoá đói
giảm nghèo có xu hướng chậm lại, số hộ tái nghèo tăng lên.
- Phân phối thu nhập không được thực hiện một cách đồng đều. Một phần lớn
thu nhập được chuyển sang những người sở hữu các nguồn lực khác ngoài lao
động thay vì chuyển một phần thoả đáng cho những người sở hữu sức lao động
mà thiếu các nguồn lực khác. Vì vậy, khoảng cách giữa nhóm người giàu và
nhóm người nghèo ngày càng dãn ra.
- Có một nhóm người giàu nhanh nhờ đặc quyền tiếp cận với các nguồn lực phát
triển. Cơ chế xin-cho, bao cấp, bảo hộ nhà nước, cộng thêm vào đó là môi
trường kinh doanh không bình đẳng, cơ hội phát triển của tư nhân bị hạn chế,
hình thành các nhóm lợi ích mạnh, làm méo mó quy hoạch và định hướng phát
triển.
Nhìn ở một khía cạnh khác, tình trạng chênh lệch thu nhập và phân hoá giàu
nghèo cung như bất bình đẳng có phần gia tăng trong thời gian qua ở nước ta
phản ánh một xu hướng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
9



Tuy nhiên chúng cũng bộc lộ những nguy cơ và thách thức lớn đối với sự phát
triển bền vững của đất nước.
3. Nguyên nhân của bất công bằng xã hội.
Trong quá trình thực hiện công bằng xã hội chúng ta phải đối mặt và giải quyết
rất nhiều vấn đề, muốn giải quyết được vấn đề ta phải tìm ra nguyên do chính
tạo ra vấn đề đó. Bất công bằng xã hội ở nước ta được hình thành nên bởi một số
nguyên nhân sau:
- Thứ nhất , loại bất công tự nhiên. Tính từ "tự nhiên" ở đây bao hàm cả
những khả năng, những năng lực khác nhau về mặt tự nhiên (có những nguồn
gốc sinh học chẳng hạn) cũng như những khác biệt về trình độ phát triển do lịch
sử lâu đời để lại (ví dụ như sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa miền
núi và miền xuôi,...). Đối với loại bất công này, hướng lâu dài là dựa trên sự phát
triển ngày càng cao của xã hội để thu hẹp dần khoảng cách, và trước mắt, cố
gắng đến mức tối đa để bù đắp những thiệt thòi do những bất công này gây ra,
không để trở thành những căng thẳng xã hội và xung đột có hại cho sự phát triển
chung. Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung ưu tiên đầu tư về mọi
mặt để phát triển các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân ở các vùng này, xóa dần
những bất công cách biệt giữa các vùng. Tuy nhiên, hiện nay việc bảo đảm công
bằng giữa các vùng địa - chính trị khác nhau vẫn còn đặt ra nhiều vấn đề phải
giải quyết.
- Thứ hai, loại bất công tất yếu. Nói "dân giàu", nhưng không phải ai cũng
giàu ngang nhau và cùng một lúc. Đảng ta chỉ rõ: không thể loại bỏ ngay tình
trạng nghèo tương đối. Chúng ta chấp nhận sự làm giàu chính đáng, hợp pháp,
có lợi cho sự phát triển của đất nước - đó là sự làm giàu dựa vào những năng lực
và cả những nguồn lực chính đáng - sự làm giàu này không vấp phải một hạn
chế nào. Tài kinh doanh, óc tổ chức, sáng kiến và cả chỗ dựa chính đáng về
nguồn lực đều có đất phát huy đến mức cao nhất qua cạnh tranh lành mạnh.

10


- Thứ ba , loại bất công phi lý, phi pháp. Đó là tất cả những bất công nào
hoàn toàn đi ngược lại những lợi ích của sự phát triển xã hội, làm cho đời sống
xã hội biến dạng.
-Giáo dục:
Đây là vấn đề nhiều bất cập nhất. có thể ở Việt Nam Nhà Nước can thiệp còn
nhiều nên chưa thấy rõ. Nhưng ở các quốc gia phát triển về giáo dục, đây lại là
vấn đề gây bất công xã hội, mặc dù nghe có vẻ như mâu thuẫn với những thành
tựu họ đạt được trong lĩnh vực này. Đó là sự thương mại hóa giáo dục và đạo
tạo, học càng cấp cao thì học phí càng đắt đỏ, dẫn tới nhiều bộ phận người dân
nghèo hơn sẽ không đủ tiền đi học, tỉ lệ tham gia giáo dục bậc cao giảm. điều
này có thể dẫn tới 1 sự phân cực mạnh mẽ trong xã hội xung quanh tình trạng
giáo dục. ( những học sinh học trường danh giá sẽ có cái nhìn tiêu cực về những
người cùng trang lứa học các trường rẻ hơn).
- Giới:
Đây cũng là nhân tố làm tăng thêm bất bình đẳng xã hội. Tình trạng trọng nam
khinh nữ tuy có giảm nhưng vẫn là vẫn đề gây bức xúc, được dư luận quan tâm.
Bất bình đẳng giới liên quan tới thu nhập, nghề nghiệp, tỉ lệ tham gia thị trường
lao động, phân chia công việc nhà hay 1 số quốc gia như Nga hay Ucraina còn
có sự khác nhau trong tình trạng sức khỏe. Chúng ta có thể thấy những vị trí
lãnh đạo cao trong nước ta hầu hết là nam giới, tỉ lệ sinh nam vẫn chiếm ưu thế
với 108 bé trai/100 bé gái của cả nước, rồi sự không cân bằng trong thu nhập và
nữ giới vẫn là người đảm nhận hầu hết công việc nhà.
- Tuổi
Trong xã hội, có thể người trẻ tuổi mới ra trường sẽ không được coi trọng bằng
người già vì bản thân họ cũng chưa vững tâm lý nên chưa thể đảm nhận ngay
những vị trí chính thức hay chưa có kinh nghiệm nên không thể làm việc ngay
được. Nhưng đặc biệt hơn là những người trẻ tuổi có tài năng song không bằng

lòng với vị trí và mức lương hiện tại, muốn lên cao hơn nhưng chiếc ghế đó lại

11


là của 1 người già hơn đã làm việc lâu năm. Với sự cố hữu và mối quen biết khó
có thể cho anh ta lên được.
- Nhân tố về chính trị.
Đây là vấn đề quan trọng đặc biệt. nếu làm chính trị không đúng cách sẽ dẫn tới
sự không hoàn thiện của kinh tế thị trường cùng sự quản lý kém hiệu quả các
dòng tiền vốn. Hơn nữa sự dùng quyền lực chính trị cho những mục đích cá
nhân gây ra thất thoát và nạn tham nhũng cũng là yếu tố ảnh hưởng rất tiêu cực
tới bất công xã hội.
Xóa bỏ những bất công phi lý, điều tiết những bất công tự nhiên và hợp lý dù
sao cũng là mặt thụ động của việc thực hiện công bằng xã hội. Điều quan trọng
hơn, mặt tích cực, chủ động là xã hội dần dần tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho những cơ may ngang nhau giữa các thành viên của xã hội trong những lĩnh
vực phúc lợi xã hội cần quan tâm, đặc biệt là cả lớp người có công trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và cả những nạn nhân chiến tranh mất khả năng lao
động và kiếm sống cũng phải được hưởng những trợ cấp thường xuyên đủ duy
trì mức sống tối thiểu, mà không phải là chiếu cố tình nghĩa hay nhân đạo theo
lối ban phát.

3. Giải pháp cho công bằng xã hội.
Để bảo đảm công bằng xã hội, có nhiều giải pháp, nhưng trước mắt phải thực
hiện những giải pháp cơ bản sau:
Một là , xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với chế độ dân
chủ, kinh tế, văn hóa phát triển, kiên quyết xóa bỏ sự độc quyền, đặc quyền đặc
lợi. Phát triển chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự, nhân dân tham gia quyết
định những vấn đề trọng đại của đất nước. Thực hiện tốt phương châm: Dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng lợi. Xóa bỏ sự độc quyền, lũng
đoạn trong hoạt động kinh tế, bảo đảm cho mọi người bình đẳng về quyền kinh
doanh và làm nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội.

12


Hai là , huy động các nguồn lực trong nhân dân, xã hội hóa nhiệm vụ đền ơn
đáp nghĩa, xây dựng chương trình xóa đói, giảm nghèo. Ban hành các chính sách
nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết, giảm dần sự cách biệt giữa các vùng
trong nước. Ưu tiên đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục, y tế ở
các vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây, vùng bị chiến tranh
tàn phá và bất lợi về kinh tế.
Ba là , triển khai đồng bộ các bộ phận chống tham nhũng, sử dụng có hiệu quả
viện trợ nhân đạo và phát triển (sử dụng đúng mục đích, ngăn chặn tình trạng ăn
bớt, ăn chặn...). Thực hiện công bằng trong phân phối và thu nhập theo nguồn
phân phối theo lao động. Công khai minh bạch tài sản công và riêng. Tạo ra
những cơ hội như nhau cho tất cả các tầng lớp dân cư và cá nhân phát huy tài
năng, tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là , khắc phục và hạn chế các khuyết tật của kinh tế thị trường về phân tầng
xã hội và phân hóa giàu nghèo, tạo điều kiện cho những người thiệt thòi có điều
kiện vươn lên hòa nhập với cộng đồng. Tạo lập nếp sống văn minh, duy trì và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của
đất nước.
Hiệu quả của công bằng xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Để thực hiện chính sách xã hội đúng mục tiêu, đối tượng và
hiệu quả, phải có những điều kiện bảo đảm ở mức cần thiết để chính sách xã hội
đi vào cuộc sống. Chính sách xã hội đang được Đảng và Nhà nước ta đề ra
trong kế hoạch hóa bằng các chương trình, dự án có mục tiêu, hình thành các
quỹ xã hội, phát huy vai trò sức mạnh của cộng đồng, của cơ sở và các tổ chức

xã hội, phát triển hệ thống sự nghiệp hoặc dịch vụ xã hội, tăng cường lực lượng
cán sự xã hội... nhằm mang lại cho nhân dân ta ngày càng có đời sống công
bằng nhiều hơn, đầy đủ hơn, tốt đẹp hơn.
Kết Luận
13


Công bằng xã hội là công bằng về các quyền của con người (các quyền
sống của con người) và về điều kiện thực hiện các quyền đó (điều kiện sống) của
các cá nhân (hay rộng hơn là của cả chủ thể xã hội). Tuy nhiên, trong các xã hội
phát triển hiện đại, trong tư duy phát triển hiện đại, nghĩa của công bằng xã hội
được bổ sung, mở rộng và phát triển đáng kể. Điều này thể hiện ở nội dung quan
trọng nhất của công bằng xã hội không chỉ là công bằng về phân phối thu nhập
mà còn là công bằng về cơ hội phát triển. Từ đó dẫn tới một nhận thức mới về
công bằng xã hội là quy vấn đề công bằng xã hội về cơ hội phát triển và năng
lực thực hiện cơ hội, công bằng xã hội sẽ phải bao hàm cả công bằng sự công
bằng trong việc phân phối các cơ hội và điều kiện thực hiện cơ hội.
Phát triển kinh tế phải luôn gắn liền với công bằng xã hội vì mục tiêu cuối cùng
của phát triển kinh tế là nâng cao phúc lợi cho người dân và tiến bộ xã hội.
Công bằng xã hội là mục tiêu cốt lõi của chính sách xã hội.

14



×