Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT về hợp ĐỒNG đáp ỨNG yêu cầu của nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.3 KB, 25 trang )

1
MỞ ĐẦU
Hợp đồng là một công cụ pháp lý để xác lập quan hệ của các chủ thể
phát sinh từ các giao lưu dân sự, kinh tế. Thực tế nhu cầu của các tổ chức, cá
nhân trong đời sống xã hội là vô cùng đa dạng và phong phú. Để đáp ứng nhu
cầu đó, con người phải quan hệ với nhau thông qua các hoạt động mua bán,
trao đổi hàng hóa với nhau. Công việc của các bên được thực hiện thông qua
những cam kết đó là hợp đồng. Tuy hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện của
các bên nhưng để sự tự nguyện đó không ảnh hưởng tới lợi ích của người
khác và lợi ích của cộng đồng thì cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp
luật. Trải qua các giai đoạn khác nhau, pháp luật về hợp đồng ở nước ta cũng
có nhiều thay đổi. Trong thời kỳ kinh tế tập trung (trước năm 1986) vấn đề
hợp đồng chủ yếu mang tính hành chính mà tập trung nhiều và biểu hiện rõ
nét đó là các hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh, nó không thể hiện đúng bản
chất của hợp đồng. Sự ra đời của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh Hợp
đồng dân sự, Bộ luật Dân sự năm 1995 và đặc biệt sự ra đời Bộ luật Dân sự
năm 2005 (gồm 215 điều quy định về hợp đồng dân sự trên tổng số 777 điều
luật) chế định hợp đồng đã được hoàn thiện.
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2005 có nhiều quy định mới tiến bộ về hợp
đồng nhưng việc áp dụng trong thực tế đang bộc lộ những điểm bất cập, những
thiếu sót nhất định. Thực tế đó đã đặt ra nhu cầu phải nghiên cứu làm rõ các quy
định mới của Bộ luật dân sự 2005 liên quan đến hợp đồng; đánh giá sự tác động
của nó đến thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng, phát hiện những quy định
bất hợp lý và từ đó đề xuất khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp
luật đối với quan hệ hợp đồng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Với lý do đó tác giả chọn chủ đề: "Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay" làm nội dung tiểu luận môn Luật kinh tế.


2


NỘI DUNG
I. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG VÀ PHÁP
LUẬT HỢP ĐỒNG
1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hợp đồng
1.1. Khái niệm và những đặc điểm của hợp đồng
a. Khái niệm về hợp đồng
Ở Việt Nam, các quy định về khế ước cũng như hợp đồng được thể hiện
cụ thể nhất trong hệ thống pháp luật của nhà Lê về các nội dung: hiệu lực và sự
vô hiệu của hợp đồng, hình thức hợp đồng; nghĩa vụ thực hiện hợp đồng; phạt
hợp đồng và đền bù thiệt hại (theo cổ luật Việt Nam lược khảo) được thể hiện
ẩn dưới các quy định hình luật.
Về bản chất, hợp đồng là một giao dịch mà trong đó các bên thỏa thuận
với nhau nhằm đi đến thống nhất để cùng nhau làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ nhất định. Trên phương diện này, hợp đồng vừa được xem xét ở
dạng cụ thể vừa được xem xét ở dạng khái quát. Qua các thời kỳ phát triển
kinh tế - xã hội, pháp luật Việt Nam đưa ra những khái niệm khác nhau về
hợp đồng. Theo Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991: “Hợp đồng là
sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền
và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản
làm một việc hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà
trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”.
Bộ luật Dân sự năm 2005 đưa ra định nghĩa về hợp đồng một cách khái
quát hơn: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự" (Điều 388 Bộ luật Dân sự
năm 2005). Như vậy, hợp đồng dân sự không chỉ là sự thỏa thuận để một bên
chuyển tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thỏa
thuận để thay đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ đó. Đối với các hợp đồng được ký
kết nhằm mục đích kinh doanh ngoài có những dấu hiệu chung của hợp đồng
thì hợp đồng kinh doanh có sự khác biệt thêm. Hợp đồng kinh doanh được hiểu



3
là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc
thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích tìm kiếm lợi
nhuận với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
Tóm lại, từ những nội dung cơ bản trên chúng ta có thể khái quát Hợp
đồng nó chính là thoả thuận của các bên nhằm thống nhất các quyền và
nghĩa vụ pháp lý.
b. Những đặc điểm cơ bản của hợp đồng
Từ khái niệm và bản chất của hợp đồng chúng ta có thể thấy một số đặc
điểm cơ bản của hợp đồng như sau:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng: Phạm vi chủ thể của hợp đồng rất rộng
lớn. Tùy từng lĩnh vực và ngành nghề khác nhau mà pháp luật giới hạn phạm
vi chủ thể cho phù hợp để nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp
đồng. Chủ thể của hợp đồng bao gồm cá nhân có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự, các tổ chức, doanh nghiệp, và các pháp nhân khác được
pháp luật thừa nhận có tư cách pháp lý độc lập với nhau, hoàn toàn bình đẳng
với nhau khi tham gia quan hệ hợp đồng. Tuỳ từng loại hợp đồng mà pháp
luật có thể quy định những điều kiện ràng buộc cho các chủ thể hợp đồng phải
đáp ứng, ví dụ: cá nhân phải đủ độ tuổi, doanh nghiệp phải có ngành nghề
kinh doanh phù hợp.
Thứ hai, sự tự nguyện khi thỏa thuận và ký kết hợp đồng: Trên cơ sở tự
do ý chí của các bên khi thỏa thuận và ký kết hợp đồng, sự can thiệp của pháp
luật về vấn đề hợp đồng sẽ bảo đảm cho các quan hệ hợp đồng được phát triển
ổn định và đúng định hướng đã dự định.
Thứ ba, các bên bình đẳng về quyền và nghĩa vụ: Trong hợp đồng,
quyền lợi của bên này có nghĩa đó là nghĩa vụ của bên còn lại và ngược lại
nghĩa vụ của bên này chính là quyền của bên còn lại. Quyền và nghĩa vụ của
các bên hình thành từ sự tự nguyện thoả thuận của các bên, các bên tự mình

đàm phán, trao đổi và ghi nhận quyền và nghĩa vụ đó.


4
Thứ tư, về hình thức của hợp đồng: Theo quy định của Bộ luật Dân sự
thì hợp đồng được ký kết dưới nhiều hình thức khác nhau như: văn bản, lời
nói hay các hành vi cụ thể; trong một số trường hợp khác pháp luật quy định
hợp đồng phải ký dưới một hình thức nhất định (như hợp đồng phải ký bằng
văn bản có công chứng, chứng thực hợp lệ) thì phải tuân thủ hình thức đó.
Văn bản là hình thức có thể thể hiện một cách hữu hình nội dung của hợp
đồng mà các bên đã thỏa thuận với nhau. Đó có thể là bản hợp đồng với đầy
đủ chữ ký của các bên hoặc công văn, tài liệu giao dịch chứa đựng những nội
dung chủ yếu của hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận được với nhau.
1.2. Vai trò của hợp đồng
Xuất phát từ bản chất, đặc điểm, các hình thức khác nhau của hợp đồng
ta thấy hợp đồng có một số vai trò như sau:
- Hợp đồng là cơ sở quan trọng để xây dựng và thực hiện kế hoạch của
các bên. Có thể khẳng định rằng trong tất cả mọi vấn đề nếu không xây dựng
kế hoạch cụ thể và chi tiết thì mọi công việc tiến hành đều rơi vào tình trạng
không có phương hướng và để bảo đảm việc xây dựng kế hoạch được bảo
đảm thì một trong những cơ sở quan trọng bắt nguồn của vấn đề chính là hợp
đồng. Hợp đồng là một phương tiện để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của
các bên ký kết.
- Hợp đồng làm cho lợi ích của các bên ký kết phù hợp với lợi ích
chung của nền kinh tế quốc dân. Cho dù nội dung của hợp đồng chủ yếu được
các bên tự thoả thuận nhưng sự thoả thuận đó phải trong khuôn khổ pháp luật
và việc các nhà xây dựng pháp luật trong quá trình soạn thảo để ban hành đã
phải tính toán các lợi ích của nền kinh tế quốc dân.
- Hợp đồng là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của cơ chế quản
lý mới. Một trong những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa là sự điều tíêt của nền kinh tế được đặt dưới điều tiết
của Nhà nước và sự tự điều tiết của các quy luật thị trường. Nhà nước chỉ tập
trung quản lý ở tầm vĩ mô, còn quá trình tổ chức và quản lý sẽ thuộc về các


5
doanh nghiệp. Như vậy, một trong những nội dung quan trọng để Nhà nước
quản lý và bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức đó là hợp
đồng. Bên cạnh Nhà nước sử dụng hợp đồng như một công cụ quản lý mới thì
chính các tổ chức với tổ chức, tổ chức với cá nhân thành viên có liên quan, cá
nhân với cá nhân, hợp đồng cũng là cơ sở tạo sự ràng buộc lẫn nhau và trở
thành công cụ quản lý hiệu quả.
2. Khái niệm, nguyên tắc của pháp luật về hợp đồng
2.1. Khái niệm pháp luật về hợp đồng
Từ khái niệm về hợp đồng, các đặc điểm của hợp đồng cũng như vai trò
của hợp đồng cho ta thấy các quan hệ về hợp đồng tồn tại trong nhiều lĩnh
vực khác nhau. Điều này cho thấy quan hệ hợp đồng có phạm vi rất rộng. Để
bảo đảm các quan hệ hợp đồng được phát triển đúng mục đích và yêu cầu của
Nhà nước cũng như quan hệ hợp đồng được ký kết và thực hiện trên nguyên
tắc bình đẳng và tự nguyện của các bên, bảo đảm lợi ích cũng như nghĩa vụ
cho các bên tham gia ký kết thì quan hệ hợp đồng cần thiết phải có sự điều
chỉnh của pháp luật. Bộ luật Dân sự là văn bản pháp luật chứa dựng nhiều quy
định nhất về hợp đồng, đây cũng là văn bản quy định luật chung về hợp đồng.
Ở Việt Nam, do tính chất riêng biệt của quan hệ hợp đồng tồn tại trong nhiều
nhành nghề khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau mà Quốc hội của nước Việt
Nam sẽ không ban hành văn bản pháp luật quy định riêng biệt về hợp đồng.
Các quy định pháp luật về hợp đồng của nước ta tồn tại trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật khác nhau. Ngoài các quy định chung về hợp đồng trong
Bộ luật Dân sự có thể tìm thấy những quy định về từng hợp đồng cụ thể trong
các văn bản khác nhau như: Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm... Các

hợp đồng trong những lĩnh vực khác nhau sẽ do pháp luật chung về hợp đồng kết
hợp với pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Chẳng hạn, hợp đồng thương mại sẽ
do Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại điều chỉnh; hợp đồng lao động sẽ do Bộ
luật Lao động điều chỉnh... Khi nói tới pháp luật về hợp đồng, nhiều người có
quan điểm rằng phải tách riêng từng loại hợp đồng riêng biệt. Chẳng hạn, hợp


6
đồng dân sự sẽ có những nội dung và đặc điểm khác với hợp đồng trong kinh
doanh, hợp đồng thương mại khác với hợp đồng lao động…
Tuy nhiên, để cho hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể được thực
hiện có hiệu quả và bảo đảm được sự quản lý của Nhà nước thì Nhà nước ban
hành nhiều quy phạm pháp luật để áp dụng trong việc cụ thể hóa các vấn đề
của hợp đồng. Như vậy, pháp luật về hợp đồng bao gồm một hệ thống các văn
bản pháp luật khác nhau, trong mỗi văn bản pháp luật đó sẽ bao gồm nhiều điều
luật quy định cụ thể hóa các nội dung của hợp đồng, định hình các quy tắc xử
sự của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Từ đó ta có thể kết luận pháp luật
về hợp đồng như sau: Pháp luật về hợp đồng là một hệ thống các quy tắc xử
sự, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện
nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hợp đồng.
2.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về hợp đồng
* Tôn trọng quyền thỏa thuận tự nguyện của các bên
Các bên tham gia quan hệ hợp đồng có quyền tự do cam kết, thỏa
thuận phù hợp với pháp luật trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ
dân sự. Mọi cam kết và thỏa thuận hợp pháp được pháp luật bảo hộ.
Khi cam kết, thỏa thuận các bên hoàn toàn tự nguyện, không được ai
dùng bất cứ thủ đoạn nào nhằm buộc một người cam kết, thỏa thuận trái với ý
chí của người đó. Mọi cam kết, thỏa thuận không có sự tự nguyện của các bên
có thể coi là vô hiệu.
Khi tiến hành thỏa thuận các chủ thể đều bình đẳng, không được lấy bất

cứ một lí do nào về sự khác biệt để đối xử không bình đẳng. Các chủ thể bình
đẳng về năng lực pháp luật, bình đẳng giữa các hình thức sở hữu khi giao kết
hợp đồng.
Trong quan hệ hợp đồng các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập
và thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận. Ngoài ra, đòi hỏi các bên
phải tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên,


7
trong quan hệ dân sự các bên được suy đoán là trung thực, thiện chí. Nếu một
bên cho rằng bên kia không trung thực, thiện chí phải có chứng cứ.
* Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng
Trách nhiệm trong hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý nhưng
trước tiên là trách nhiệm của người vi phạm đối với người bị vi phạm. Người
có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của họ nếu các quyền và
nghĩa vụ đó phát sinh từ các căn cứ hợp pháp. Nếu không thực hiện phải tự
chịu trách nhiệm và có thể bị cưỡng chế thi hành nghĩa vụ và phải bồi thường
thiệt hại (nếu có). Mỗi chủ thể tham gia phải tự chịu trách nhiệm về hành vi
của mình (Điều 7 Bộ luật Dân sự).
Quyền sở hữu và các quyền tài sản khác là những quyền quan trọng
nhất của công dân cũng như tổ chức trong giao lưu dân sự, kinh tế; là cốt lõi
trong các quyền dân sự của các chủ thể và chi phối các quyền năng khác. Mọi
chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu, quyền tài sản của các chủ thể
khác. Khi có hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác, ngoài việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế (hình sự, hành chính…) cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự với mục đích khôi phục lại tình
trạng tài sản của người bị xâm phạm, bảo đảm quyền sở hữu tài sản của các
chủ thể được thực hiện bình đẳng (Điều 9 Bộ luật Dân sự).
* Bảo vệ trật tự công và lợi ích của người thứ ba ngoài quan hệ hợp đồng
Việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ hợp đồng nhằm thỏa mãn

nhu cầu vật chất và tinh thần của các bên tham gia vào quan hệ đó. Tuy nhiên,
khi thực hiện các hành vi không được phép thực hiện tùy tiện mà phải thực
hiện trong khuôn khổ, giới hạn của hợp đồng. Quyền của một chủ thể được
giới hạn bởi quyền của các chủ thể khác, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, nhằm bảo đảm việc các chủ thể gây thiệt hại cho các chủ thể còn lại thì
phải bồi thường các thiệt hại như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
* Tuân thủ pháp luật, đạo đức và truyền thống tốt đẹp
Quan hệ hợp đồng luôn luôn đề cao tính tự nguyện và sự tự do ý chí


8
của các bên trong việc thoả thuận ký kết hợp đồng, nội dung này của hợp
đồng luôn được pháp luật ghi nhận và bảo đảm. Tuy nhiên, việc phát huy
quyền tự do hợp đồng của các bên luôn phải được đặt trong mối quan hệ với
lợi ích của người khác và những giá trị văn hoá truyền thống. Chính vì vậy,
quyền tự do hợp đồng luôn phải được đặt trong khung khổ pháp luật của Nhà
nước, nghĩa là các bên được quyền phát huy tối đa quyền tự do hợp đồng
nhưng việc phát huy đó phải đặt trong sự kiểm soát của pháp luật. Bên cạnh
việc tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật các bên tham gia hợp
đồng cần phải tôn trọng những giá trị đạo đức và những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc v.v..
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN
GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Quá trình phát triển pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam từ 1995 đến nay
Qua nghiên cứu về quá trình phát triển pháp luật hợp đồng tác giả trình
bày khái lược và phân chia thành các giai đoạn cơ bản như sau:
* Giai đoạn trước năm 1995: Trong những năm đầu giành được chính
quyền, pháp luật của Việt Nam dân chủ cộng hoà còn sử dụng nhiều hình thức

pháp luật cũ, do vậy pháp luật hợp đồng cũng tồn tại trong nhiều văn bản pháp
luật của giai đoạn Pháp thuộc để lại.
Ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 90/SL cho
phép tạm sử dụng một số luật lệ hiện hành ở Bắc - Trung - Nam cho đến khi
ban hành những bộ luật duy nhất cho toàn quốc nếu "những luật lệ ấy không
trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chỉnh thể dân chủ cộng
hòa". Đồng thời, các Bộ luật Dân sự Nam Kỳ giản yếu 1883; Bộ dân luật Bắc
Kỳ 1931 và Bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật) 1936 được
tiếp tục thi hành. Như vậy, tại ba miền Bắc - Trung - Nam tồn tại ba bộ dân
luật 1883, 1931, 1936.


9
Tiếp đó, ngày 22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 97/SL
"Sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật", việc này có ý nghĩa đặc biệt
trong sự phát triển của luật dân sự. Sắc lệnh này một mặt không hủy bỏ nhưng
quy định của các bộ dân luật cũ, mặt khác nó bổ sung, thay đổi làm cho các bộ
luật của "đế quốc phong kiến" có nội dung mới, đáp ứng yêu cầu hiện tại của
các vấn đề luật dân sự và đặc biệt là các vấn đề về hợp đồng, đem đến những
biến đổi thực sự trong cách thức sinh hoạt và tư tưởng của nhân dân Việt Nam;
đặt cơ sở, những nguyên tắc cơ bản cho sự hình thành và phát triển của luật dân
sự - pháp luật dân sự của một Nhà nước độc lập, có chủ quyền. "Khi lập ước
mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên
chênh lệch thì khế ước có thể bị coi là vô hiệu" (Điều 13)…
Đây cũng là giai đoạn các đơn vị kinh tế cơ quan, xí nghiệp Nhà nước,
tiến hành song song với hoạt động kinh tế tư nhân. Để thu hút mọi hoạt động
kinh tế và xây dựng quan hệ sản xuất mới – qun hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Thủ tướng đã ban hành Nghị định 735/TTg ngày 10/4/1957, kèm theo nghị định
là bản điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh. Nội dung chính của bản điều lệ
quy định tính chất các quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế kinh doanh hợp

tác xã, công ty hợp doanh, tư doanh Việt Nam và ngoại kiều kinh doanh trên đất
Việt Nam. Nội dung chính của điều lệ kèm theo Nghị định 735/TTg đã đề cập
tới hợp đồng kinh doanh, hợp đồng kinh doanh được thiết lập trên phương thức
hai hay nhiều đơn vị kinh doanh tự nguyện ký kết với nhau để thực hiện các mục
đích nhất định, nhằm phát triển kinh doanh công nghiệp và thương nghiệp, góp
phầm thực hiện những công việc của Nhà nước giao cho. Hợp đồng kinh doanh
được xây dựng trên nguyên tắc các bên tự nguyện ký kết, cùng có lợi và đem lại
lợi ích cho nền kinh tế quốc dân. Nội dung của điều lệ còn quy định thêm một
bên tham gia ký kết hợp đồng kinh doanh là tư doanh, tuy nhiên các hợp đồng
kinh doanh có tư doanh tham gia phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền (thông thường là cơ quan công thương tỉnh hay Ủy ban hành chính
cấp huyện). Điều lệ tạm thời về hợp dòng kinh doanh của Nghị định 735/TTg


10
ngày 10/04/1975 đã đóng góp một phần nhất định trong viẹc khai thác các thành
phần kinh tế vào phát triển chung của nền kinh tế đất nước, cải tạo quan hệ cũ và
từng bước xây dựng quan hệ mới
Hiến pháp năm 1959 ra đời đánh dấu một giai đoạn phát triển của quá
trình lập pháp Việt Nam, Hiến pháp của Nhà nước dân chủ cộng hòa, Hiến
pháp của thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống
nhất đất nước. Xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đã đặt ra yêu cầu "xoá
bỏ lối quản lý hành chính cung cấp, thực hiện phương pháp quản lý theo
phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, … xây dựng cách tổ chức quản lý
của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế quốc dân từ
sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa". Ngày 10/3/1975 Chính
phủ đã ban hành bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh doanh (ban hành kèm
theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 của hội đồng chính phủ). Nội dung chính
của Nghị định 54/CP chủ yếu gồm các vấn đề: Vai trò của hợp đồng kinh tế,
nguyên tắc ký kết, và thực hiện hợp đồng kinh tế, giải quyết tranh chấp và trách

nhiệm do vi phạm chế độ hợp đồng … Đặc điểm chính của hợp đồng theo Nghị
định 54/CP là khi ký kết hợp đồng phải bảo đảm hai yêu cầu: bảo đảm yếu tố
trao đổi tài sản và bảo đảm tính kế hoạch của Nhà nước. Việc quy định hợp
đồng phải bảo đảm yếu tố kế hoạch của Nhà nước đã làm cho bản chất của hợp
đồng bị thay đổi và hợp đồng trở thành công cụ của Nhà nước để can thiệp vào
các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nội dung quy định Nghị định 54/CP về
hợp đồng cũng đã đáp ứng yêu cầu của công việc của công cuộc cải cách kinh
tế, đưa quan hệ hợp đồng trở thành nề nếp.
Từ đầu những năm 80, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
để áp dụng các quan hệ hợp đồng. Đặc trưng của các quy định pháp luật áp
dụng các quan hệ hợp đồng trong giai đoạn này là chịu ảnh hưởng sâu sắc của
cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp cao độ, biện pháp hành
chính được sử dụng phổ biến làm sai lệch bản chất của các quan hệ hợp đồng


11
với những đặc trưng của nó bình đẳng, tự định đoạt giữa các chủ thể. Phương
pháp áp dụng của luật hành chính đã phổ cập trong các quan hệ dân sự.
Từ giữa những năm 80, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm thể chế hóa các
chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới kinh tế - xã hội. Nhìn chung,
các văn bản này đã góp phần phát huy tiềm năng của các thành phần kinh
tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Bước đầu thể hiện
được những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng là tự nguyện, bình
đẳng, hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau phù hợp với thông lệ quốc tế
trong giao lưu dân sự.
Các văn bản ban hành trong giai đoạn này có tính hiệu lực tương đối
cao thể hiện dưới dạng Luật, Pháp lệnh và các Nghị định hướng dẫn thi hành,

các Luật và Pháp lệnh được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước ban hành. Các
văn bản pháp luật, Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt
Nam (1988): nội dung chính của pháp lệnh là quy định các điều kiện của các
dây chuyền công nghệ khi chuyển vào Việt Nam, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
(1989), Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (1991). Đối với pháp lệnh hợp đồng kinh
tế ở Việt Nam, nó đã thể chế hoá được những quan điểm và tư tưởng về đổi
mới trong quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tính chất bình
đẳng và tự nguyện khi ký kết hợp đồng kinh tế, tách các quan hệ hợp đồng
kinh tế thành một loại hợp đồng độc lập và nhằm phục vụ cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh, (vì đây là giai đoạn Nhà nước ta đã thực hiện chủ
chương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, đây là giai đoạn thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
và sự xuất hiện các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam).
Việc ban hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã đánh dấu sự ra đời của loại hợp


12
đồng mới trong hệ thống các loại hợp đồng đó là hợp đồng kinh tế "Hợp đồng
kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về
viẹc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh
doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của bên đẻ thực hiện kế
hoạch của mình" (Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 25/09/1989). Pháp lệnh
hợp đồng dân sự được ban hành đã cụ thể hoá các quan hệ hợp đồng dân sự
và tách biệt nó với các hợp đồng kinh tế.
* Giai đoạn từ 1996 đến 2005: Nhà nước ta ban hành Hiến pháp 1992 Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, hàng loạt các văn bản pháp luật được
ban hành, sửa đổi, áp dụng cho phù hợp với Hiến pháp.
Bộ luật Dân sự được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/1996. Sự ra

đời của Bộ luật Dân sự năm 1996 là một bước phát triển rất tiến bộ của khoa
học pháp lý nói chung và các quan hệ hợp đồng dân sự nói riêng cũng được
điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật ở cấp độ bộ luật, Trong Bộ luật dân sự
có tới 204 điều quy định về hợp đồng bao gồm nhiều nội dung như: giao kết
hợp đồng, thực hiện hợp đồng, sửa đổi chấm dứt hợp đồng và quy định nhiều
loại hợp đồng thông dụng trong đời sống kinh tế. Bộ luật Dân sự năm 1996 đã
đóng góp quan trong trong các giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói
riêng, tách biệt cụ thể gữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Luật Thương
mại năm 1997, đã bổ sung những thiếu sót và bất cập của pháp lệnh hợp đồng
kinh tế năm 1989 như: chủ thể tham gia ký kết hợp đồng thương mại có thể là
các cá nhân là thương nhân mà không cần thiết phải là pháp nhân, mở rộng
hơn phạm vi hình thức của hợp đồng như: hợp đồn có thể ký kết qua fax, thư
điện tử…. Như vậy, hệ thống pháp luật về hợp đồng trong giai đoạn này chủ
yếu được quy định trong Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, luật
Thương mại. Do tính độc lập của Bộ luật Dân sự với Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế, Luật Thương mại, hợp đồng đã hình thành hai nhóm hợp đồng lớn đó là


13
nhóm các hợp đồng dân sự và nhóm các hợp đồng kinh tế. Việc quy định các
tiêu chí để quy định thế nào là hợp đồng kinh tế và thế nào là hợp đồng dân sự
đã hình thành tác động tới tư duy pháp lý là phải phân biệt rành mạch giữa hai
nhóm hợp đồng này trong các hoạt động tư pháp. Đây là một trong những
điểm hạn chế và gây ra nhiều khó khăn cho việc xét xử khi có vi pham hợp
đồng của các bên.
* Giai đoạn từ năm 2006 tới nay: Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005
và có hiệu lực ngày 01/01/2006 đã chấm dứt sự tồn tại của khái niệm hợp
đồng kinh tế, bãi bỏ các tiêu chí để quy định thế nào là hợp đồng kinh tế và
thế nào là hợp đồng dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2005 khắc phục được sự
chồng chéo của các quy định pháp luật áp dụng quan hệ hợp đồng, và trở

thành luật chung của pháp luật về hợp đồng. Các quy định pháp luật về hợp
đồng được quy định trong bộ luật Dân sự năm 2005 được áp dụng đối với các
quan hệ hợp đồng dân sự và các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh. Cùng
với sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005 là Luật Thương mại 2005, đây là hai
văn bản pháp luật có vị trí và vai trò quan trọng trong việc áp dụng các quan
hệ hợp đồng. Luật Thương mại điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong kinh
doanh nhưng đó thường là các quan hệ kinh doanh có tính thương mại chuyên
biệt hay các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài. Sự tồn tại song song
của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không mang ý nghĩa tách biệt hợp
đồng dân sự với hợp đồng trong kinh doanh mà sự tồn tại của nó vừa có tính
lịch sử hệ thống pháp luật hợp đồng việt Nam vừa bảo đảm quan điểm của
Đảng là thúc đẩy nhanh sự phát triển các quan hệ kinh tế nước ta. Với sự ra
đời của Bộ luật Dân sự là một bước tiến quan trong và đóng góp to lớn đối
với các quan hệ dân sự, kinh tế đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình
lập pháp của Nhà nước ta. Bộ luật có tầm quan trọng "sau Hiến pháp" áp dụng
các quan hệ hợp đồng rất đa dạng, phức tạp, làm nền tảng và định hướng cho
việc phát triển các quan hệ dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình, lao động.
Ngoài các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, còn có nhiều


14
văn bản pháp luật khác nhau chứa đựng các quy phạm pháp luật liên quan đến
hợp đồng như: Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Thương mại, Luật xây dựng,
Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Giao
thông đường thủy nội địa...
2. Một số giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện pháp luật hợp
đồng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.1. Một số tiêu chí cơ bản hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
Từ đổi mới đến nay đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn

trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội. Sự phát triển của
đất nước cũng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để một mặt
có đầy đủ khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động của đời sống kinh tế xã hội, mặt khác, để phù hợp với luật pháp quốc tế trong bối cảnh hội nhập.
Hợp đồng là một vấn đề khó và phức tạp. Hoàn thiện pháp luật hợp
đồng cũng có nghĩa là giúp các bên tham gia ký kết được yên tâm, khắc phục
rủi ro quyền lợi cho các bên. Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung, pháp luật hợp đồng nói riêng là một yêu cầu mang tính tất yếu, thường
xuyên và liên tục của Nhà nước ta nhằm đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của các
bên tham gia ký kết hợp đồng.
Có nhiều tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thiện của một hệ thống
pháp luật, trong đó có các tiêu chí cơ bản sau:
* Thứ nhất, hợp đồng phải mang tính toàn diện: Tính toàn diện của
pháp luật hợp đồng phải bảo đảm được yêu cầu: pháp luật về hợp đồng phải
có đầy đủ các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong các vấn đề hợp đồng. Đó là những quy định về đối tượng áp dụng hợp
đồng: điều kiện ký kết hợp đồng; tổ chức thực hiện và quản lý giám sát của
các bên về việc thực hiện hợp đồng. Bên cạnh sự hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng nói chung (Bộ luật Dân sự) cần thiết phải hoàn thiện các quy định của


15
pháp luật về các hợp đồng chuyên ngành …có như vậy mới tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng.
* Thứ hai, hợp đồng phải mang tính đồng bộ và thống nhất: Tính đồng
bộ, thống nhất là yêu cầu khách quan, là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện
và chất lượng của hệ thống pháp luật. Điều này có nghĩa là, khi xem xét mức
độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật thì cần phải xem xét giữa các bộ
phận, quy phạm pháp luật của nó có trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn và
xung đột với nhau không. Tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật
được thực hiện trên những điểm sau:

Một là, sự đồng bộ giữa hiến pháp với các đạo luật, tạo cơ sở củng cố
tính thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật.
Hai là, sự thống nhất, không mâu thuẫn không xung đột, không trùng
lặp, chồng chéo trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy
phạm pháp luật trong cùng một ngành luật khác nhau.
Ba là, sự đồng bộ, thống nhất giữa văn bản luật, dưới luật.
Bốn là, trong điều kiện Đảng cầm quyền, cần phải đảm bảo tính đồng bộ,
thống nhất giữa các quy định của pháp luật với đường lối, chính sách của Đảng.
Tính đồng bộ, thống nhất là tiêu chí vô cùng quan trọng trong việc hoàn
thiện pháp luật hợp đồng. Pháp luật hợp đồng có được áp dụng hiệu quả trong
thực tế hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc có tuân thủ triệt để tính đồng bộ
thống nhất hay không. Thực tế ở nước ta, nhiều văn bản đã được ban hành nhưng
rất khó đi vào cuộc sống vì sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản đó.
* Thứ ba, hợp đồng phải mang tính phù hợp: Tính phù hợp của pháp
luật hợp đồng phải thể hiện mối quan hệ giữa những quy phạm pháp luật quy
định về hợp đồng với trình độ phát triển, hoàn cảnh thực tiễn của đất nước.
Pháp luật hợp đồng phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Nếu trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao, chủ thể ký kết hợp đồng sẽ
rất đa dạng và nội dung ký kết hợp đồng cũng sẽ rất phức tạp nhưng pháp luật
hợp đồng lại không bắt kịp thì sẽ dẫn đến tình trạng hổng, không có pháp luật


16
điều chỉnh. Ngược lại khi điều kiện kinh tế - xã hội chậm phát triển, nền kinh tế
vận hành theo cơ chế hành chính bao cấp, thì các nguyên tắc cơ bản của hợp
đồng và yếu tố tự nguyện thoả thuận trong hợp đồng sẽ không được thể hiện và
những quy định đó mãi mãi chỉ là quy định mà sẽ không thực hiện được trong
thực tế. Trong điều kiện nước ta đã là thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhằm phù
hợp với các yêu cầu của các hoạt động kinh doanh quốc tế và các hoạt động

kinh doanh xuất nhập khẩu là hết sức cần thiết cho các doanh nghiệp.
* Thứ tư, hợp đồng phải mang tính minh bạch: Pháp luật do Nhà nước
ban hành để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội. Đối với
vấn đề hợp đồng cũng vậy, các quan hệ hợp đồng luôn luôn phát triển theo sự
phát triển của đời sống kinh tế xã hội. Chính vì vậy, pháp luật về hợp đồng do
Nhà nước ban hành nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như
bảo đảm các yêu cầu của Nhà nước trong quản lý và định hướng sự phát triển
của xã hội luôn luôn phải phản ánh đúng sự phát triển của các quan hệ xã hội.
Trên cơ sở Nhà nước đã ban hành pháp luật về hợp đồng phù hợp với các
quan hệ hợp đồng đang tồn tại thì cần thiết phải công bố, công khai nội dung
của các văn bản pháp luật tới mọi chủ thể trong xã hội thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng. Để bảo đảm tính minh bạch, pháp luật về hợp đồng
phải có nội dung thật cụ thể, rõ ràng và tránh tình trạng đa nghĩa của từ ngữ.
Quan hệ hợp đồng rất phong phú và đa dạng, pháp luật về hợp đồng được
chứa đựng trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau (Bộ luật Dân
sự, Luật Thương mại, Luật bảo hiểm…) sẽ rất khó khăn cho việc tìm hiểu đầy
đủ và toàn diện của các chủ thể tham gia hợp đồng. Chính vì vậy, việc bảo
đảm tính minh bạch của pháp luật về hợp đồng là hét sức cần thiết và quan
trọng cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng.
Ngoài bốn tiêu chí cơ bản trên, để hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay còn phải đảm bảo “Tính tương thích với các
văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết, phê chuẩn”


17
Trong thời gian dài, trình độ xây dựng pháp luật và chất lượng pháp
luật của chúng ta chưa theo kịp trình độ phát triển của đất nước và của thời
đại. Điều này, một mặt do chúng ta chịu hậu quả của chính sách bao vây và
cấm vận, không có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài, hạn chế sự tiếp thu
những tinh hoa và phát triển trong hệ thống pháp luật quốc tế; mặt khác, về

chủ quan, chúng ta cũng chưa quan tâm đúng mức đến công tác lập pháp, phát
triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và chuyển hoá pháp luật
quốc tế vào nội dung pháp luật trong nước nói riêng. Để hoàn thiện pháp luật
hợp đồng thì chúng ta không thể không tham khảo quá trình xây dựng và phát
triển về hợp đồng của các nước có nền lập pháp phát triển, các điều ước liên
quan mà Việt Nam đã tham gia ký kết, phê chuẩn.
Ngày nay, các quan hệ hợp đồng có vai trò quan trọng không chỉ các
chủ thể mà nó còn có vai trò quan trọng cho Nhà nước vì nó gắn liền với từng
hoạt động của các chủ thể trong phạm vi nội bộ đơn vị và trong phạm vi một
đất nước, phạm vi quốc tế. Chúng ta trong quá trình triển khai thực hiện pháp
luật hợp đồng sẽ rất thuận lợi vì chúng ta có thể tham khảo, học hỏi kinh
nghiệm của tổ chức quốc tế, các nước có nền lập pháp phát triển. Việc tham
khảo và áp dụng, không chỉ là sự kế thừa các thành tựu và tiến bộ của hệ
thống pháp lý văn minh nhân loại mà còn thực hiện sự giao lưu và tiếp cận có
kế thừa giữa các quy định pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế. Như
vậy, pháp luật của chúng ta sẽ hoàn thiện hơn cả trong bối cảnh quốc gia và
trong mối tương quan với pháp luật quốc tế về hợp đồng.
2.2. Một số giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện pháp luật hợp
đồng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam hiện nay
Là một bộ phận của cơ chế kinh tế - xã hội, pháp luật hợp đồng có thể
tác động đến các quan hệ kinh tế - xã hội theo hướng thúc đẩy hoặc kìm
hãm. Pháp luật có tác động thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển nếu nó
phản ánh đúng bản chất của các quan hệ xã hội. Ngược lại, pháp luật hợp


18
đồng sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nếu nó phản ánh sai
lệch về nền kinh tế, làm méo mó các quan hệ kinh tế, hoặc thậm chí là không
theo kịp sự phát triển của kinh tế - xã hội. Hiện nay, các quan hệ xã hội nói

chung và các quan hệ kinh tế - xã hội được thiết lập trên cơ sở hợp đồng nói
riêng diễn ra hết sức phức tạp và thay đổi nhanh chóng. Do vậy, để các quy
phạm pháp luật về hợp đồng, gây cản trở cho sự phát triển của các quan hệ
xã hội và đặc biệt là các quan hệ kinh tế thì đòi hỏi phải thực hiện một loạt
các công việc như: Tiến hành rà soát lại hệ thống các văn bản áp dụng về
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và hoàn thiện hệ thống này mà trọng
tâm là chế độ pháp lý về hợp đồng. Việc hoàn thiện chế độ pháp lý hợp đồng
vừa phải tuân thủ theo các nguyên tắc của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
kinh tế của Việt Nam nói chung, vừa phải tuân theo các nguyên tắc mang
tính đặc thù của pháp luật quốc tế (Việt Nam đã là thành viên chính thức của
WTO). Việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phải xuất phát từ những vấn
đề cơ bản sau đây:
- Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phải xuất phát từ đường lối đổi
mới kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và đặc trưng kinh tế theo định
hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội VI của Đảng, Đảng ta đã chủ trương thực hiện đổi mới đường lối
phát triển kinh tế, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước. Đảng ta chủ trương mở rộng
quan hệ hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị,
xã hội. Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, chúng ta đã đạt được
những chỉ tiêu tăng trưởng rất cao, nền kinh tế phát triển ổn định và cơ cấu kinh tế
thay đổi rõ rệt. Điều đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế
đã được Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ VI của Đảng tháng 11/1986 và các Đại hội
Đảng sau này. Do đó, pháp luật về hợp đồng cần phải được khẩn trương xem xét
sửa đổi cho phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trờng như
nguyên tắc tự do kinh doanh, nguyên tắc cạnh tranh, nguyên tắc bình đẳng giữa


19
các thành phần kinh tế... Việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phải theo hướng

mở rộng giao lưu hàng hóa, khuyến khích sự tham gia vào hoạt động kinh tế của
tất cả các thành phần kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu và ưu tiên nhập khẩu vật tư
thiết bị, công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại để phát triển sản xuất, phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phải hướng tới việc mở rộng
quyền tự do hợp đồng của các bên
Cùng với đổi mới đường lối phát triển kinh tế - xã hội, trong mối giao
lưu dân sự và giao lưu kinh tế. Tự do hợp đồng thể hiện ở việc các bên tự do
bày tỏ ý chí của mình, tự do lựa chọn đối tác, tự do thỏa thuận nhằm xác lập,
thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động. Tuy nhiên, đây là
sự tự do trong giới hạn pháp luật cho phép. Việc đổi mới và hoàn thiện pháp
luật về hợp đồng cần phải triệt để tuân thủ nguyên tắc tôn trọng quyền tự do
hợp đồng của các bên nhưng cũng cần phải khẳng định sự can thiệp đúng mức
của pháp luật đối với sự tự do thỏa thuận của các bên. Có như vậy, chúng ta
mới đảm bảo cho hợp đồng thực sự trở thành hình thức pháp lý của sự thống
nhất ý chí giữa các bên trong khuôn khổ qui định của pháp luật.
- Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phải đảm bảo phù hợp với xu hướng quốc tế hóa các quan hệ kinh tế trong điều kiện Việt Nam đã là thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
Xu hướng chung của nền kinh tế thế giới hiện nay là xu hướng toàn cầu
hóa và khu vực hóa đời sống kinh tế quốc tế. Sự liên kết về kinh tế và thương
mại diễn ra ở cả cấp độ toàn cầu và cấp độ khu vực. Tất cả các quốc gia đều
phải đối mặt với xu hướng này và đang tìm cách hội nhập nền kinh tế của
mình với nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã tham gia hội nhập và có quan hệ
với nhiều tổ chức kinh tế trên thế giới như: ASEAN, AFTA, WTO, WB, IMF,
APEC... Chúng ta đang đứng trước xu hướng đó với những cơ hội và thách
thức nhất định, nhưng có thể khẳng định rằng trong những năm qua, chính


20
sách hội nhập quốc tế đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho sự thành công

của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới chúng ta sử dụng tổng
hợp nhiều công cụ, trong đó hợp đồng được coi là một công cụ quan trọng.
Do vậy, Việt Nam cần phải hoàn thiện chế độ pháp lý về hợp đồng theo hướng
phù hợp với pháp luật quốc tế, thông lệ quốc tế, phù hợp với xu hướng quốc
tế hóa pháp luật về hợp đồng của các nước trên thế giới.
Các giao lưu quốc trong đó có giao lưu kinh tế quốc tế đều dựa trên
những nguyên tắc, những chuẩn mực nhất định. Những chuẩn mực này hình
thành từ thực tiễn quan hệ quốc tế nhiều thế kỷ và được các quốc gia chấp nhận
và đó là nguyên tắc pháp lý quốc tế. Từ việc thống nhất các nguyên tắc chung
mang tính quốc tế, các quốc gia bằng quyền tự chủ của mình, nội luật hóa chúng
bằng pháp luật của nước mình. Vì vậy, tác giả cho rằng, chúng ta cần tham gia
các công ước quốc tế về thương mại bởi vì đây là một nguồn luật quan trọng
áp dụng hữu hiệu các quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế.
Trong hoạt động kinh tế quốc tế các bên có thể thỏa thuận áp dụng luật
quốc gia, tập quán thương mại quốc tế hoặc chịu sự áp dụng của các công ước
quốc tế. Tuy nhiên, việc áp dụng luật quốc gia hoặc tập quán thương mại quốc
tế đôi khi vấp phải những khó khăn nhất định cụ thể là:
- Nếu chỉ áp dụng các tập quán thương mại quốc tế thì không thể giải
quyết được tất cả các vấn đề phát sinh từ quan hệ hợp đồng bởi vì các tập
quán thương mại quốc tế chỉ đề cập đến một số vấn đề như chuyển dịch rủi ro
từ người bán sang người mua, phân chia chi phí vận tải, bảo đảm và trách
nhiệm trong việc làm thủ tục hải quan, ký hợp đồng thuê tàu, mua bảo hiểm...
Các vấn đề quan trọng khác như: thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa,
phương thức thanh toán, chế tài khi vi phạm hợp đồng... cần phải có nguồn
luật khác áp dụng.
- Các bên có thể thỏa thuận luật tại Việt Nam hoặc luật nước ngoài để
áp dụng quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, việc áp dụng luật Việt Nam thì không



21
phải lúc nào cũng thỏa thuận được với đối tác. Việc áp dụng luật nước ngoài
thì chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu toàn bộ những quy
phạm trong lĩnh vực thương mại, nhất là khi có tranh chấp xảy ra chúng ta
phải thuê chuyên gia luật nước ngoài rất tốn kém và phức tạp. Do vậy, việc áp
dụng các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương để giải quyết những
vấn đề phát sinh từ quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là rất cần thiết.
Từ đó, chúng ta cần phải nhanh chóng thực hiện việc sửa đổi, bổ sung
pháp luật kinh tế nói chung, pháp luật áp dụng quan hệ mua bán hàng hóa
quốc tế nói riêng để có một hệ thống pháp luật kinh tế thống nhất, hợp lý,
hoàn chỉnh, truyền tải được những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước đã đề ra, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế để áp dụng có hiệu quả
các hoạt động kinh tế quốc tế đang diễn ra hết sức đa dạng, phức tạp hiện nay.
- Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phải đảm bảo sự đồng bộ, thống
nhất với các văn bản pháp luật áp dụng quan hệ hợp đồng
Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật áp dụng mối quan hệ hợp
đồng nói chung và hợp đồng kinh doanh nói riêng còn thiếu tính thống nhất,
đồng bộ, thậm chí còn mâu thuẫn, chồng chéo, vô hiệu hoá lẫn nhau. Để khắc
phục tình trạng này, tác giả đưa ra một số kiến nghị cụ thể như sau:
- Luật Thương mại và các văn bản pháp luật khác áp dụng quan hệ hợp
đồng không cần nhắc lại những quy định của Bộ luật Dân sự mà chỉ cần có điều
khoản dẫn chiếu đến các quy định của Bộ luật Dân sự hoặc dựa vào các quy định
trong Bộ luật Dân sự để xây dựng các điều khoản cụ thể hoá, chi tiết hoá các quy
định đó cho các hành vi mua bán hàng hóa quốc tế nếu xét thấy cần thiết.
- Cần phải chấm dứt tình trạng các Bộ, ngành có thói quen dùng hình
thức công văn để áp dụng các hoạt động thương mại và kinh doanh. Tuy
nhiên, theo Luật ban hành các văn bản pháp luật thì công văn không phải là
một hình thức văn bản pháp luật. Do đó, việc dùng công văn làm phương tiện
pháp lý áp dụng các hoạt động sản xuất, kinh doanh là không phù hợp. Vậy,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành các văn bản dưới luật



22
hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn về Luật Thương mại để giúp các chủ thể kinh
doanh có thể vận dụng một cách linh hoạt và chính xác các quy định của pháp
luật vào quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế.
- Việt Nam đã tham gia Công ước New York 1958 và thông qua pháp
lệnh về công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước
ngoài. Trong khi đó phán quyết của Trọng tài Việt Nam lại không được cưỡng
chế thi hành tại Việt Nam. Đây là một sự bất hợp lý cần thay đổi. Do vậy, việc
công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài Việt Nam là cần thiết nhằm
đảm bảo tính hợp lý, thống nhất của hệ thống các văn bản pháp luật đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát
sinh từ quan hệ hợp đồng.
Trước mắt, chúng ta nên tham gia vào Công ước Viên 1980 về mua bán
hàng hóa quốc tế vì đây là một công ước được soạn thảo bởi đại diện các hệ
thống pháp luật, kinh tế - xã hội khác nhau nhằm tìm ra một giải pháp phù
hợp nhất với trình độ phát triển kinh tế thế giới. Đó là một văn kiện thống
nhất hoá các quy luật thực chất áp dụng dạng hợp đồng phổ biến nhất trong
thương mại quốc tế - hợp đồng. Việc áp dụng công ước cho phép loại trừ
những điểm khác biệt, bất đồng trong luật quốc gia và góp phần giảm bớt khó
khăn, phí tổn và tăng hiệu quả của việc ký kết và thực hiện các hợp đồng. Khi
tham gia công ước, Việt Nam cũng có quyền bảo lưu đối với những điều
khoản không phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam. Chẳng hạn, về hình thức
của hợp đồng Điều 11 Công ước cho phép áp dụng cả hình thức văn bản và
hình thức miệng nhưng chúng ta có thể áp dụng Điều 12 và Điều 96 của Công
ước để tuyên bố không áp dụng Điều 11 đối với các hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế. Từ những đánh giá nêu trên, chúng ta khẳng định rằng trong quá
trình hoàn thiện môi trường pháp lý áp dụng quan hệ kinh tế đối ngoại Việt
Nam cần tham gia Công ước Viên 1980 và các công ước quốc tế khác về mua

bán hàng hóa quốc tế.


23
Để xây dựng được một chế độ pháp lý về hợp đồng phù hợp với thông
lệ quốc tế, bên cạnh việc ký kết và tham gia các điều ước quốc tế chúng ta cần
tham khảo các quy định về hợp đồng trong hệ thống pháp luật khác nhau trên
thế giới. Ví dụ: chế định trách nhiệm vật chất theo pháp luật Australia có
những quy định mà theo tác giả là rất hợp lý mà chúng ta nên xem xét để vận
dụng. Pháp luật Australia quy định: Nếu một bên chủ trong quan hệ hợp đồng
chứng minh được rằng bên kia không chuẩn bị và cũng không có khả năng
thực hiện hợp đồng vào ngày phải thực hiện hợp đồng thì có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại. Bên chấm dứt hợp đồng
cũng đồng thời phải chứng minh được rằng giả sử hợp đồng vẫn được thực
hiện thì mình hoàn toàn có khả năng thực hiện hợp đồng một cách bình thường. Đây được coi là chế định vi phạm hợp đồng trước khi thực hiện hợp
đồng, nó có thể hạn chế và tránh được những thiệt hại lớn. Tuy nhiên, khi vận
dụng chế định này vào pháp luật hợp đồng của Việt Nam nên thay hình thức
bồi thường thiệt hại bằng phạt vi phạm bởi vì ở đây chưa có đủ căn cứ để áp
dụng hình thức bồi thường thiệt hại.
Qua quá trình nghiên cứu, tác giả thấy Luật Thương mại Việt Nam còn
những thiếu sót, bất cập, gây khó khăn cho hoạt động mua bán hàng hóa. Do
vậy, tác giả thấy cần phải có hướng sửa đổi kịp thời cho phù hợp hơn với tình
hình thực tiễn của hoạt động thương mại. Các vấn đề như: Nguyên tắc ký kết
hợp đồng, mục đích của hợp đồng, sự tự do ý chí của các bên đương sự nhất
là một điều kiện hiệu lực của hợp đồng cha được quy định cụ thể. Do vậy, tác
giả đề nghị cần có sự sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại một cách kịp thời.
Ngoài ra, việc quy định trong Luật Thương mại về chào hàng hợp pháp
phải có đầy đủ 6 điều khoản: Tên hàng, số lượng, quy cách chất lượng giá cả,
phương thức thanh toán, địa điểm và thời gian giao hàng là quá cứng nhắc,
gây khó khăn trong hoạt động kinh doanh của các thương nhân. Hầu hết các
nước trên thế giới hiện nay đều không quy định phương thức thanh toán, địa

điểm và thời hạn giao hàng là điều khoản chủ yếu hợp đồng. Ví dụ: Điều


24
1583 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: "Việc bán được xem là hoàn thành khi đã
có thoả thuận về vật và giá", hoặc Điều 14 Công ước Viên 1980 chỉ đòi hỏi ba
điều khoản (hàng hóa, số lượng, giá cả) cho một chào hàng hợp pháp. Việc quy
định quá nhiều điều khoản chủ yếu của hợp đồng không những không phù hợp
với thông lệ quốc tế mà còn làm xuất hiện nguy cơ mất an toàn pháp lý. Các bên
có thể dựa vào việc thiếu một điều khoản nhất định điều khoản về địa điểm giao
hàng để cho rằng hợp đồng vô hiệu hay dựa vào việc bên kia không thanh
toán tiền hàng theo phương thức đã quy định để tuyên bố huỷ hợp đồng. Điều
này gây thiệt hại rất lớn cho bên kia và gây mất ổn định cho quan hệ kinh tế.
Theo tác giả, chỉ nên quy định 4 điều khoản chủ yếu cho một hợp đồng là tên
hàng, số lượng, quy cách chất lượng, giá cả.
KẾT LUẬN
Hợp đồng là một công cụ pháp lý để xác lập quan hệ của các chủ thể
phát sinh từ các giao lưu dân sự, kinh tế. Còn pháp luật về hợp đồng là một hệ
thống các quy tắc xử sự, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành
và bảo đảm thực hiện nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan
trong hợp đồng. Pháp luật về hợp đồng nó giữ vị trí, vai trò quan trọng trong
hệ thống pháp luật kinh tế của nước ta. Do vậy, nó luôn được Đảng, Nhà nước
ta quan tâm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã
hội qua các thời kỳ lịch sử. Trong bối cảnh hiện nay Việt Nam đang trong quá
trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới với việc gia nhập WTO, các quan
hệ kinh tế đối ngoại diễn ra phức tạp, đan xen lẫn nhau thì pháp luật kinh tế
nói chung và pháp luật về hợp đồng nói riêng đã bộc lộ những thiếu sót, bất
cập, những điểm không phù hợp với thông lệ quốc tế gây khó khăn bất lợi cho
ta trong quá trình trao đồi thương mại với các nước trên thế giới. Vì vậy, việc
đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng là một đòi hỏi khách quan, đáp

ứng yêu cầu xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng, Nhà nước ta đang từng bước hoàn thiện.


25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Ngọc Cường (2001), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế
nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta, Luận án tiến sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
2. Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 2006;
4. Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 2011;
5. Hà Hùng Cường (2002), "Thực trạng pháp luật kinh tế và định hướng
hoàn thiện", Kỷ yếu hội thảo: Định hướng hoàn thiện hệ thống pháp
luật về kinh tế, tài chính và ngân sách, Quốc hội khóa X, ủy ban Kinh
tế và Ngân sách, Hà Nội, tr. 27-53;
6. Phạm Duy Nghĩa (2003), Cơ sở pháp luật kinh tế Việt Nam vì một nền
kinh tế phát triển bền vững và toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia và
Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản, Hà Nội;
7. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(sửa đổi, bổ sung), Hà Nội;
8. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội;
9. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật kinh tế, Hà Nội.


×