1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lực lượng Công an nhân dân (CAND) là lực lượng vũ trang trọng yếu
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, là lực lượng nòng cốt trong việc thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phục vụ
đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Để hoàn thành sự nghiệp cách mạng vô cùng to lớn và vẻ vang, nhưng
cũng hết sức nặng nề đó, lực lượng CAND phải không ngừng được xây dựng,
củng cố, phát triển theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại. Tinh thông nghiệp vụ, nắm vững pháp luật, giỏi ngoại ngữ, tin học
và có phẩm chất, đạo đức cách mạng trong sáng.
Trong hơn 85 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ, chiến sĩ công an nói
riêng, nhờ đó mà cách mạng Việt Nam đã thu được những thắng lợi hết sức to
lớn, lực lượng CAND đã lập được nhiều thành tích xuất sắc trong lĩnh vực
bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Từ khi đất nước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN),
tình hình kinh tế - xã hội đã có những biến đổi to lớn mang tính bước ngoặt.
Bên cạnh những thành tựu vượt bậc trong lĩnh vực phát triển kinh tế, lại đặt ra
những vấn đề xã hội hết sức nhức nhối, đáng lo ngại.
Qua các thời kỳ cách mạng nhiều tập thể, cá nhân trong lực lượng
CAND đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân, hàng ngàn, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng
2
Huân, Huy chương, nhưng cũng có không ít cán bộ, chiến sĩ vi phạm pháp
luật, sa sút phẩm chất đạo đức, lối sống làm ảnh hưởng đến uy tín của lực lượng
CAND.
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề thuộc về đạo đức cách mạng
trong điều kiện KTTT định hướng XHCN tác động đến việc hình thành đạo đức
cách mạng của cán bộ, chiến sĩ công an là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
cấp bách trong công tác xây dựng lực lượng CAND hiện nay ở nước ta, xuất
phát từ yêu cầu đó, tôi chọn đề tài: "Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho
cán bộ, chiến sĩ công an trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đạo đức cách mạng và sự tác động của nền KTTT định hướng
XHCN đến quá trình hình thành đạo đức cách mạng đã được nhiều tác giả, tổ
chức khoa học quan tâm nghiên cứu, như: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề
đạo đức cách mạng", Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1996; "Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức", PGS. Thành Duy (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội 1996; "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện
nay", Nguyễn Chí Mỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
Ngoài những công trình kể trên còn có các bài, tạp chí, luận án, luận
văn liên quan đến vấn đề này, như: "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong
việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí
Triết học, số 6/1996; " Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo
đức người cán bộ quản lý", Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số
2/1997; "Sự hình thành đạo đức xã hội chủ nghĩa trong điều kiện quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa", Nguyễn
Ngọc Long, Luận án tiến sĩ triết học, Mátxcơva, 1982; "Vấn đề đạo đức cách
mạng của người cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay", Hà
3
Nguyên Cát, Luận án tiến sĩ triết học, 2000; "Quan hệ kinh tế và đạo đức với
việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở hiện nay",
Dương Xuân Lộc, Luận văn thạc sĩ triết học, 2001; "Vấn đề xây dựng đạo đức
cho cán bộ cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay",
Đặng Thanh Giang, luận văn thạc sĩ triết học, 2001.
Vấn đề đạo đức cách mạng và vai trò của nó trong sự nghiệp đổi mới
ở nước ta hiện nay là vấn đề rộng lớn cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu
tổng kết về mặt lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở kế thừa những thành quả
nghiên cứu trên đây, tác giả đi sâu nghiên cứu vấn đề đạo đức cách mạng
mang tính đặc thù của người cán bộ, chiến sĩ công an trong điều kiện KTTT
định hướng XHCN hiện nay, cố gắng tìm ra những giải pháp mang tính khả
thi nhằm góp phần xây dựng, nâng cao đạo đức cách mạng trong lực lượng
CAND nước ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Từ thực tế đạo đức, lối sống của cán bộ chiến sĩ trong lực lượng
CAND, luận văn đi sâu phân tích, lý giải thực trạng, nguyên nhân tình hình
đạo đức và vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng trong lực lượng CAND, trong
điều kiện định hướng XHCN, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ công an ở Việt Nam hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ
- Nêu rõ tầm quan trọng và yêu cầu của việc nâng cao của đạo đức
cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ công an Việt Nam.
- Phân tích thực trạng đạo đức của người cán bộ, chiến sĩ công an
trong điều kiện KTTT định hướng XHCN và tìm ra nguyên nhân của thực
trạng đó.
4
- Luận văn rút ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức
cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ công an hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đạo đức cách mạng và vấn đề nâng cao đạo
đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ công an ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Sự tác động của KTTT và KTTT định hướng
XHCN đến đạo đức của cán bộ, chiến sĩ công an ở Việt Nam hiện nay. Thực
trạng và giải pháp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn chủ yếu dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, chỉ thị, nghị quyết của lực lượng CAND về vấn đề đạo đức, đồng thời
tác giả luận văn có sử dụng kết quả nghiên cứu của các tác giả khác đã được
công bố liên quan đến nội dung của đề tài luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, ngoài ra còn sử dụng phương pháp
lịch sử và lôgic, phân tích- tổng hợp, điều tra xã hội học để thực hiện nhiệm
vụ trên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần vào việc xây dựng, củng cố, phát triển, nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ công an, chống biểu hiện suy thoái
đạo đức cho cán bộ, chiến sĩ công an nhằm xây dựng lực lượng CAND trong
sạch, vững mạnh.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng
dạy môn đạo đức học trong các trường CAND.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
6
Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC NÂNG CAO
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SĨ CÔNG AN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
1.1.1. Một số quan niệm ngoài mác-xít về đạo đức
Đạo đức là một trong những hình thái giá trị cơ bản của ý thức xã hội,
xuất hiện tương đối sớm trong lịch sử xã hội loài người. Sự ra đời và phát
triển của đạo đức do nhu cầu của đời sống xã hội, của hoạt động và giao tiếp.
chúng ta sẽ không hình dung nổi một xã hội mà ở đó vắng bóng hay thiếu sự
hiện diện của đạo đức. Vì vậy, đạo đức từ lâu đã được nhân loại hết sức quan
tâm. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm triết học khác nhau, lợi ích giai cấp
không giống nhau…mà người ta có cách lý giải khác nhau về đạo đức.
* Quan niệm Nho giáo
Người đặt nền móng, xây dựng nên học thuyết Nho giáo là Khổng Tử
(551- 479 tr. CN), với việc đề ra học thuyết Nhân - Lễ- Chính danh.
Phạm trù nhân là trung tâm của đạo đức Nho giáo. Trong Luận ngữ,
Khổng Tử có 58 chữ đề cập vấn đề nhân, nhưng không chỗ nào giống nhau
cả. Có thể khái quát mấy nội dung chính của phạm trù này như sau:
- Nhân là yêu thương người và hết lòng với người khác. Bản tính này có
khi thì tiểm ẩn, có lúc được bộc lộ trong các quan hệ xã hội giữa người với
người. Cốt lõi của nó là trung thứ. Theo Khổng Tử, người nhân nếu tự lập lấy
mình thì cũng phải lo lập cho người, muốn thành đạt cho mình thì cũng phải lo
thành đạt cho người. Việc gì mình không muốn thì đừng bao giờ làm cho
người khác.
7
- Nhân còn là gốc sinh ra các đức khác, các đức khác ấy tụ cả ở nhân.
Nhân theo Nho giáo còn bao gồm những tiêu chuẩn đạo đức khác như: trung,
hiếu, cung, kính, khoan, hòa, cần mẫn, chính đáng, thật thà, khiêm tốn, dũng
cảm, biết trách mình hơn trách người, thận trọng, biết yêu người đáng yêu,
ghét người đáng ghét.
Lễ theo Khổng Tử là hình thức biểu hiện của "nhân", là những quy
phạm, nguyên tắc đạo đức của nhà Chu (thế kỷ IX tr.CN), tức là những phong
tục, tập quán, những quy tắc trật tự xã hội, những thể chế pháp luật của nhà
nước.
Chính danh: danh (tên gọi, chức vụ, đơn vị, thứ bậc của một người
trong mối quan hệ cụ thể) và thực (phận sự của người đó bao gồm cả nghĩa vụ
và quyền lợi) phải phù hợp với nhau. "Danh và thực không phù hợp nhau là
loạn danh. Danh và phận của mỗi người, trước hết do các mối quan hệ xã hội
quy định" [61, tr. 24]. Chính danh là con đường để đạt đến điều nhân, để đưa
xã hội từ loạn thành trị. Khổng Tử kịch liệt phản đối đấu tranh để giải quyết
mâu thuẫn trong xã hội, ông chủ trương "lấy hòa làm quý", lấy "nghèo mà
vui", ông khuyên mọi người hãy an phận. Ông cho rằng mỗi cá nhân, sự sống,
cái chết, phú quý hay nghèo hèn đều là do "thiên mệnh" (mệnh trời) quy định.
Nhưng bằng nỗ lực chủ quan của mình con người có thể thay đổi được "thiên
tính" ban đầu qua quá trình tiếp xúc, học tập và "tu thân" . Đây là điểm rất
đáng chú ý trong quan niệm của Khổng Tử.
Người tiếp tục phát triển Nho giáo là Mạnh Tử (371-289 tr.CN). Theo
Mạnh Tử "bản tính con người ta là thiện, còn như người ta làm những điều
bất thiện chẳng qua là họ theo dự định của mình, chứ không phải bản tính con
người ta là như vậy". Theo ông, tính thiện của con người vốn sinh ra đã có.
Tính thiện bắt nguồn từ tâm, nhờ tâm mà phân biệt được phải trái, thiện ác.
Nhờ tâm mà nhận biết được nhân, nghĩa, lễ, trí, vì "tâm" có "lương năng" không học mà biết và "lương tri" - không suy nghĩ mà biết. Để bảo tồn và
8
phát triển "tâm, tính " - lương tâm, tính thiện của con người, Mạnh Tử chủ
trương cần phải có sự rèn luyện, giáo dục đạo lý cho con người. Nhược điểm
lớn của Mạnh Tử là lảng tránh hiện thực, tìm về con đường nội tỉnh, tự suy
xét, tự kiểm điểm mình về đạo đức làm chính, coi đó là niềm vui duy nhất,
phải "chờ thời", phải "đợi mệnh trời", không được "làm việc nguy hiểm để
cầu may". Tuy nhiên, có điểm đúng là ông khuyên mọi người phải luôn tự sửa
mình, giữ tâm mình cho chính thì mới giáo dục được người khác, vì theo ông
"mình cong queo không thể nào sửa cho người khác ngay thẳng được".
Người phát triển tư tưởng Khổng - Mạnh theo hướng duy tâm là Đổng
Trọng Thư (180- 105 tr.CN). Ông cho rằng mọi hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội và trật tự của nó đều được xuất phát và sắp đặt theo ý chí của "trời", thân
thể và ý thức của con người đều do "Thượng đế " ban cho; mọi trật tự và quy
luật vận động của xã hội là do ý chí của "Thượng đế " sắp đặt và chi phối.
Ông là người xây dựng nên hệ thống các phạm trù đạo đức: "ngũ luân", "ngũ
thường" làm khuôn mẫu cho mọi hành vi ứng xử, giao tiếp, giáo dục và tự
trau dồi đạo đức cá nhân của mọi tầng lớp người trong xã hội phong kiến. Với
những nội dung hết sức khắt khe, phi lí, phi nhân bản, Đổng Trọng Thư đã
tước bỏ hết yếu tố nhân đạo, tiến bộ của Khổng Tử và Mạnh Tử. Chẳng hạn,
ông cho rằng: "Vua xử tội chết thần phải chết, nếu không là mắc tội bất trung",
"cha bảo con chết là phải chết nếu không là mắc tội bất hiếu"... Thực chất học
thuyết về luân lý đạo đức của ông nhằm phục vụ mục đích cao nhất là đạo
"trung quân", là trung thành tuyệt đối với ông vua cụ thể, đó là quan hệ cơ
bản, giường cột trong các mối quan hệ của con người sống trong xã hội...
Nho giáo coi tu thân là gốc, là nền tảng để củng cố các mối quan hệ
trong gia đình và ngoài xã hội. Nho giáo cho rằng bản thân mình có tốt, có thiện,
có hiểu biết, sống có nhân nghĩa, nói có tín thực và giao tiếp đúng lễ thì mới làm
gương cho người khác noi theo, mới có khả năng "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".
Nho giáo coi trọng đạo tu thân, tu dưỡng đạo đức theo "lễ", ứng xử đúng với
9
danh phận, tích cực rèn luyện bản thân bằng học tập đi đôi với thực hành đạo
đức và phải hàng ngày tự kiểm điểm bản thân. Như vậy, Nho giáo có cả mặt tích
cực và tiêu cực, nó hướng cá nhân mỗi người cũng như mọi người vào con
đường ham tu dưỡng đạo đức theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, tích cực học tập để
tiến bộ giúp ích cho nước, cho dân, nhưng nó cũng kích thích tính gia trưởng
độc đoán, không khuyến khích phát triển các ngành khoa học tự nhiên. Do đó
đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất, kìm hãm sự phát triển xã hội.
* Quan niệm của Đạo gia
- Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr.CN) là ông tổ của Đạo gia, với việc đề
ra: học thuyết về "đạo"; tư tưởng về phép biện chứng và học thuyết "vô vi"
hay những vấn đề về đạo đức nhân sinh, chính trị- xã hội. Ông cho rằng
"Đạo" vừa là duy nhất, vừa thiên bình, vạn trạng, biến hóa vô cùng và mang
tính bất biến, vừa là "hữu", vừa là "vô". "Đạo" sinh ra vạn vật, không có ý chí
dục vọng và không có mục đích định trước, nó không làm chúa tể để chi phối
vạn vật mà thuộc theo sự phát triển tự nhiên của vạn vật. Mở rộng quan điểm
về "đạo" trong đời sống xã hội, Lão Tử chủ trương thuyết "vô vi", nghĩa là
sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không hành động có tính giả tạo,
gò ép, trái bản tính tự nhiên của mình, không can thiệp vào guồng máy của tự
nhiên. "Vô vi" là "không làm gì", mà chỉ bảo vệ, giữ gìn bản tính tự nhiên của
mình và của vạn vật, không ham muốn, không dục vọng, không thể chế,
không pháp luật, không bị ràng buộc bởi truyền thống đạo đức. Từ đó ông
phản đối hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội, phản đối sự áp bức, bóc lột
của bọn quý tộc, nhưng trong hành động lại thụ động, tiêu cực, thủ tiêu đấu
tranh.
- Người tiếp tục đường lối Đạo gia của Lão Tử là Dương Chu (395335 tr.CN), với việc lấy con người và đạo sống theo bản tính tự nhiên làm trung
tâm trong học thuyết của mình. Theo ông, con người hãy vì mình, hãy sống đúng
với bản tính tự nhiên, vốn có của mình, không ham sống, không ghét chết,
10
không danh vọng, tiền tài, không bị ràng buộc bởi luân lý, đạo đức, thể thức
xã hội, bảo tồn thân thể, sinh mệnh, không để vật lụy mình và mình lụy vật.
Ông đề cao chủ nghĩa cá nhân, tự do vô chính phủ, thỏa mãn tối đa tình cảm
và ước muốn của mình, tận hưởng và tận dụng cái hiện có trong cuộc sống,
không nên làm khổ sở mình bằng ý nghĩ về cái gì sẽ đến sau khi chết. Từ đó
ông phủ định mọi sự cưỡng bức bằng bạo lực, phủ định mọi giá trị chuẩn mực
đạo đức và thể thức xã hội, phản đối chế độ phong kiến hà khắc. Tuy nhiên do
quá đề cao chủ nghĩa cá nhân, tuyệt đối hóa nó, đã làm cho con người tự
nhiên của Dương Chu tách khỏi mặt xã hội với những quan hệ đa dạng, phức
tạp của nó và đây chính là điểm hạn chế trong quan niệm đạo đức của ông.
- Một trong những nhà tư tưởng lớn của trường phái Đạo giáo là Trang Tử
(369-286 tr.CN), với việc ngả theo chủ nghĩa hoài nghi, tương đối luận và chủ
nghĩa thần bí. Ông cho rằng những điều phải trái, thiện ác không có tiêu chuẩn
khách quan, không thể biết được chân lý khách quan, mọi vật đều chỉ là tương
đối, mỗi người đều có chỗ phải, chỗ trái, chỗ tốt, chỗ xấu của riêng mình, không
người nào giống người nào. Từ đó ông khẳng định những hiện tượng thiện ác,
đẹp xấu, lớn nhỏ, sang hèn, sống chết, còn mất… đều là những thể như nhau,
cần phải có thái độ làm ngơ để mặc cho phải trái tự nhiên phát triển, không cần
phân biệt chân lý và sai lầm, nên thực hiện "vô vi, vô sự", không nên "lấy người
hại trời, lấy việc hại mệnh, làm tổn hại đến tự do bình đẳng của vạn vật và con
người". Như vậy, quan điểm đạo đức của Trang Tử thực chất cũng là thoát ly thực
tiễn, phủ nhận mọi giá trị đạo đức, phủ nhận đấu tranh giai cấp trong xã hội phong
kiến mục nát, suy tàn, bảo vệ hình thái ý thức quý tộc chủ nô thời chiến quốc.
* Quan điểm Phật giáo
Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni, còn gọi là Siddharta
(563-483 tr.CN). Đạo Phật ra đời là sự phản kháng sự ngự trị của Đạo
Bàlamôn và chế độ phân chia đẳng cấp cực kỳ hà khắc trong xã hội Ấn Độ cổ
đại. Phật giáo cho rằng đời người là bể khổ, cái khổ đó tồn tại triền miên
11
trong suốt cuộc đời con người từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi. Phật giáo đã
lý giải căn nguyên của nỗi khổ ấy và tìm con đường giải thoát khỏi nỗi khổ
trầm luân. Con đường giải thoát khỏi bể khổ nằm trong "Tứ diệu đế", tức là 4
chân lý tuyệt diệu thiêng liêng như sau:
+ Một là Khổ đế: Là chân lý về những nỗi khổ mà chúng sinh đều phải
gánh chịu. Nếu liệt kê ra thì khổ nhiều vô kể nhưng chung quy lại có 8 loại
khổ cơ bản: Sinh khổ, Lão khổ, Bệnh khổ, Tử khổ, Ái biệt ly khổ, Cầu bất đắc
khổ, Oán tăng hội khổ và Yêu mến xi hạnh khổ.
+ Hai là Nhân đế hay Tập đế: theo Phật giáo, mọi cái khổ đều có
nguyên nhân của nó, mà nguyên nhân chính là do con người ta có lòng tham,
sân, si. Ba nguyên nhân này kết hợp với duyên khởi tạo ra 12 nguyên nhân
(thập nhị nhân duyên) gây ra sự khổ: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập,
xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.
+ Ba là Diệt đế: Phật khẳng định, cái khổ có thể tiêu diệt được, có thể
chấm dứt được luân hồi bằng cách diệt nguyên nhân sinh ra sự khổ, tức là
diệt nghiệp.
+ Bốn là Đạo đế: Phật đưa ra đường lối, phương pháp diệt khổ, giải
thoát khỏi vòng luân hồi bằng cách giác ngộ chân lý của Phật, thực chất là
tiêu diệt vô minh. Con đường tiêu diệt vô minh gồm 8 phương pháp là: Chính
kiến, chính tư duy, chính ngữ; chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến,
chính niệm; chính định.
Theo con đường "bát chính đạo", "tiêu diệt vô minh" con người có thể
diệt trừ được vô minh, giải thoát và được lên cõi Niết bàn, là trạng thái hoàn
toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt vòng sinh tử luân hồi. Phật giáo khuyên
con người ta tự giác tu luyện, điều chỉnh nhận thức đúng đắn, kiên trì hành vi
hướng thiện thì sẽ chuyển ác thành thiện, sửa tà thành chính để đạt tới sự giải
12
thoát. Phật giáo không thừa nhận có thượng đế, đồng thời "còn tích cực chống
chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng
xã hội; nói lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc
đời.", kêu gọi lòng từ bi, hỉ xả, nêu cao thiện tâm, bình đẳng, bác ái hướng
con người "vào con đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức, vì dân vì nước."
* Quan niệm đạo đức trong xã hội Hy Lạp cổ đại
Nội dung cơ bản trong quan niệm về đạo đức ở Hy Lạp cổ đại phản
ánh cuộc đấu tranh giữa quan niệm duy vật và duy tâm, giữa tầng lớp chủ nô
dân chủ tiến bộ và tầng lớp chủ nô quý tộc, và phần nào phản ánh cuộc đấu
tranh giữa nô lệ và chủ nô. Đại biểu xuất sắc cho chủ nghĩa duy vật và tầng
lớp chủ nô dân chủ tiến bộ là Đêmôcrít, Êpiquya, còn đại biểu cho chủ nghĩa
duy tâm và chủ nô quý tộc là Platôn.
Đêmôcrít (khoảng 460-370 tr.CN) quan niệm đối tượng nghiên cứu
của đạo đức học là cuộc sống, hành vi, số phận của mỗi cá nhân. Hạt nhân
trung tâm trong đạo đức của ông là lương tâm trong sáng, là sự lành mạnh về
tinh thần của từng cá nhân. Ông yêu cầu "mỗi người phải sống đúng mực, ôn
hòa, không vô độ mà gây hại cho người khác" [5, tr. 213], ông chống lại sự
giàu có quá đáng và thu lợi bất lương. Ông cho rằng, hạnh phúc hay bất hạnh,
giàu có hay nghèo nàn, thành công hay thất bại đều do hoạt động kinh tế (thủ
công và thương mại) tạo ra, không do "Thượng đế" chi phối. Ông đề ra tiêu
chuẩn đánh giá đạo đức tốt hay xấu của từng cá nhân: "Để nhận ra người
trung thực và không trung thực, phải căn cứ không chỉ vào việc làm của họ
mà còn vào ý muốn của họ", gắn động cơ, ý thức với hành động, đó là quan
niệm tiến bộ của ông.
Êpiquya (341-270 tr.CN), người kế tục quan điểm duy vật của Đêmôcrít.
Trong vấn đề đạo đức học, ông coi con người tồn tại như một cá thể, theo ông
"cá nhân là có trước và quyết định mọi mối quan hệ giữa người với người
13
trong xã hội" [6, tr. 210] và "Mục đích cuộc sống của con người là hạnh phúc,
được hiểu như sự vui thú và khoái lạc" [6, tr. 210]. Ông khẳng định "sự bình
tâm của tinh thần, thanh thản về tâm hồn" là biểu hiện cao nhất của sự "khoái
lạc", đem đến cho con người hạnh phúc. Ông yêu cầu mỗi người phải biết
sống, hoạt động, khát vọng một cách điều độ, vừa phải, thì mới có "khoái
lạc", có "hạnh phúc".
Platôn (427-347 tr.CN), là học trò của Xôcrát (469-399 tr.CN) nên ông
tiếp thu và phát triển quan niệm đạo đức của Xôcrát theo hướng duy tâm khách
quan. Nếu Xôcrát thừa nhận đạo đức con người và tri thức thống nhất là một,
cái thiện phổ biến (cái chung) là cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức
hạnh, thì Platôn lại cho rằng linh hồn được tạo ra bởi "Thượng đế "mới là cơ
sở, nền tảng tạo nên đời sống đạo đức. Theo Platôn, giữa linh hồn và thể xác
hoàn toàn đối lập nhau, thể xác chỉ là chỗ trú ngụ tạm thời của linh hồn. Thể
xác không bất diệt, chỉ có linh hồn mới bất diệt. Nhưng linh hồn cũng bao
gồm ba phần: lý tính (trí tuệ), xúc cảm và cảm tính, trong ba phần ấy chỉ lý
tính là bất diệt; tương ứng với ba phần của linh hồn con người, xã hội sẽ có ba
hạng người, ba đẳng cấp tùy thuộc người ấy có bộ phận linh hồn nào giữ vai
trò chủ đạo. Ông cho rằng, chỉ những nhà triết học, những người thông thái và
quý tộc mới đạt đạo đức thanh cao, đạo đức của thường dân chỉ là sự kiềm
chế dục vọng thấp hèn, họ chỉ thích nghi với lao động chân tay, còn nô lệ thì
không có đạo đức, vì không phải là người, chỉ là "động vật biết nói".
Theo ông, sở hữu tư nhân là nguồn gốc sinh ra điều ác, các mối bất
hòa và làm băng hoại đời sống đạo đức, nên cần loại bỏ sở hữu tư nhân khỏi
đời sống xã hội, nhưng cần phải duy trì các hạng người khác nhau do giữa các
hạng người này không có sự bình đẳng hoàn toàn, "mỗi hạng người làm hết
trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình." Như vậy về đạo
đức học Platôn là nhà đạo đức duy tâm, phân biệt đẳng cấp, bênh vực, bảo vệ
lợi ích của tầng lớp quý tộc chủ nô, chống lại nền dân chủ Aten, đối lập với
14
đạo đức học tiến bộ duy vật của Đêmôcrít. Mặc dù ông đã phát hiện ra nguồn
gốc sinh ra mọi bất công xã hội là sở hữu tư nhân.
Sau thời kỳ cổ đại, với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất, cuộc đấu
tranh giai cấp quyết liệt của giai cấp nô lệ chống giai cấp chủ nô và các cuộc
chiến tranh liên miên, tàn khốc giữa các nhà nước chủ nô đã dẫn đến sự tan rã
của chế độ chiếm hữu nô lệ cả ở phương Đông lẫn phương Tây làm xuất hiện
chế độ xã hội mới; xã hội phong kiến. Nho giáo, Đạo giáo, Bàlamôn giáo,
Phật giáo… ở phương Đông trở thành tư tưởng thống trị đời sống tinh thần
của xã hội, còn ở phương Tây là thần học, giáo hội, nhà thờ và tín ngưỡng tôn
giáo. Các vua, chúa phong kiến trở thành những "thiên tử", những "đấng tối
cao" thống trị xã hội, bóc lột, đàn áp thậm tệ người nông dân.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên,
của sản xuất và cuộc đấu tranh liên tục của giai cấp nông dân chống địa chủ,
phong kiến… đã thúc đẩy xã hội phương Tây bước vào một thời kỳ mới - thời
kỳ Phục hưng và Cận đại (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII). Phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành và trở thành xu thế lịch sử tất yếu,
không có thế lực nào ngăn cản nổi. Chính sự quá độ từ chế độ phong kiến
sang chế độ tư bản là tiền đề thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của triết học,
trong đó có đạo đức học, nhất là các tư tưởng nhân đạo. Tin tưởng vào sức
mạnh của con người, coi "con người là thước đo của mọi vật" chi phối suy
nghĩ, hành động của các nhà tư tưởng với các đại biểu:
Tômátmorơ (1478-1535) là nhà tư tưởng nhân đạo nổi tiếng thời Phục
hưng. Ông kêu gọi "con người hãy thờ phụng chính bản thân mình, chiêm ngưỡng
cái đẹp của chính mình". Ông cho rằng, chế độ xã hội Anh thế kỷ XV là chế độ
xã hội "cừu ăn thịt người" và nguyên nhân làm cho con người ta có tính ích kỷ là
do chế độ tư hữu. Ông mơ ước có một xã hội dựa trên sở hữu công cộng, mọi
sản phẩm làm ra phải được phân phối đều cho mọi người và "mọi thành viên
15
trong xã hội đều phải bình đẳng". Ông đề cao vai trò của lao động, coi lao động
là nhu cầu của đạo đức chứ không chỉ còn là nhu cầu cuộc sống của con người.
Lêôna Đờvanhxi (1452-1519) là nhà tư tưởng lớn người Italia lại khẳng
định: "Con người là vũ khí vĩ đại nhất của tạo hóa. Dựa trên các sự vật tự
nhiên, con người sáng tạo ra các sự vật mới phục vụ cho cuộc sống của
mình", từ đó ông phê phán các quan niệm của thần học và giáo hội, đề cao kinh
nghiệm thực nghiệm trong nhận thức.
Tômađô Cămpanenla (1568-1639) là nhà khoa học tự nhiên, nhà cộng
sản không tưởng nổi tiếng người Italia. Ông yêu cầu phải cải tạo lại toàn bộ
xã hội mới đảm bảo cho con người hạnh phúc. Theo ông, chế độ tư hữu sinh
ra kẻ giàu người nghèo và tính ích kỷ, là nguyên nhân của mọi điều ác, nhưng
ông có mặt hạn chế là: đề xuất xóa bỏ chế độ tư hữu phải gắn liền với triệt
tiêu gia đình, vì gia đình mà nảy sinh sở hữu tư nhân; xây dựng xã hội tương
lai trên chế độ quần hôn, cộng đồng và không thấy được vai trò của lợi ích cá
nhân trong hoạt động của con người. Quan niệm này bị các nhà tư tưởng tư
sản xuyên tạc, coi chế độ cộng sản là cộng vợ, cộng chồng.
Tômát Hốpxơ (1588-1679) là nhà triết học nổi tiếng, đại biểu của chủ
nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVIII. Ông cho rằng, con người vừa là một vật thể
do thiên nhiên tạo ra, vừa là một vật thể xã hội và tự mình tham gia vào xã hội
đó. Ông quan niệm, đã là người ai cũng có khát vọng, có nhu cầu riêng của
mình, ai cũng có tính ích kỷ vì lợi ích riêng, đó là nguyên nhân, là tiền đề để
con người làm điều ác, gây ra các cuộc chiến tranh giết hại lẫn nhau. Ông nói:
"Con người là một động vật độc ác và ranh ma hơn cả chó sói, gấu và rắn", từ
đó ông khẳng định, bản tính của con người là ích kỷ. Đây là điểm hạn chế của
ông, do ông chưa nhận thấy bản tính xã hội, bản tính nhân loại của con người,
điều đó phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp tư sản Anh đang lên thế kỷ XVII.
16
Đêni Điđơrô (1713-1784) là nhà duy vật của triết học khai sáng Pháp,
chủ biên bộ Bách khoa toàn thư nổi tiếng thế kỷ XVIII. Ông coi con người là
sự thống nhất hữu cơ giữa linh hồn và thể xác, nhưng linh hồn cũng có bản
tính vật chất như thể xác. Ông cho rằng, không phải tôn giáo sáng tạo ra con
người, mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo, vì vậy ông kịch liệt phê phán
quan niệm đạo đức của tôn giáo, coi nó chỉ là trò giáo dục con người tới chỗ
cả tin vào số mệnh, thượng đế. Ông khẳng định, nhân cách của con người là
sản phẩm của hoàn cảnh và môi trường xung quanh, chính môi trường và
hoàn cảnh xung quanh đã tạo nên bộ mặt trí tuệ và đạo đức của con người.
Điểm hạn chế là ông chưa hiểu được bản thân môi trường và hoàn cảnh cũng
là sản phẩm hoạt động của con người, nó mang tính lịch sử chứ không bất
biến vĩnh viễn.
Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, trong khi chủ nghĩa tư bản
hầu như đã hoàn toàn chiến thắng chế độ phong kiến ở phương Tây do sự
phát triển mạnh mẽ của sản xuất, nhất là đại công nghiệp và ngoại thương, thì
nước Đức đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu về kinh
tế và chính trị. Tuy nhiên, nước Đức lại đạt được những thành tựu vĩ đại trong
lĩnh vực triết học, văn hóa và nghệ thuật. Triết học cổ điển Đức đã đem lại
cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch sử nhân loại: đã coi con
người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, là chủ thể, đồng thời là
kết quả của toàn bộ văn minh do chính mình tạo ra; tư duy và ý thức của con
người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế
giới và lịch sử phát triển của nhân loại là một quá trình phát triển biện chứng.
Vậy trong lĩnh vực nhân bản học và đạo đức các nhà triết học cổ điển Đức
quan niệm như thế nào?
Imanuen Cantơ (1724-1804) là một trong những nhà triết học vĩ đại
nhất của lịch sử tư tưởng phương Tây trước Mác. Những vấn đề về đạo đức
học được ông thể hiện tập trung trong tác phẩm "Phê phán lý tính thực tiễn".
17
Ông cho rằng, các nguyên lý đạo đức độc lập với mọi lĩnh vực hoạt động khác
của con người và lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý và
chuẩn mực đạo đức, còn cảm tính chỉ đưa con người tới chỗ hưởng thụ cá
nhân, ích kỷ, phi đạo đức. Ông đưa ra nguyên tắc cơ bản của đạo đức là phải
tuân theo "mệnh lệnh tuyệt đối", nên chỉ những hành động nào của con người
phù hợp với "mệnh lệnh tuyệt đối" thì mới được coi là có đạo đức. "Mệnh
lệnh tuyệt đối" là quy luật đạo đức chung đòi hỏi mọi người ở mọi lứa tuổi,
mọi tầng lớp xã hội đều phải thực hiện, là nghĩa vụ của mọi công dân sống
trong xã hội. Theo ông, người có đạo đức là người sống theo lẽ phải và tôn
trọng sự thật, vì vậy "tự do" đã trở thành phạm trù trung tâm trong đạo đức
học của ông, là lý tưởng cao đẹp mà cả nhân loại cần phải hướng tới. Quan
niệm đó phản ánh mong mỏi, khát vọng của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ
XVIII. Ông tuyên bố: quyền tư hữu tài sản là thiêng liêng, là thần thánh, là
cần thiết với mọi hoạt động để yêu cầu các cá nhân được tự do chống lại trật
tự phong kiến. Điều đó chứng tỏ tính siêu hình, duy tâm về đạo đức của
Cantơ.
Gioócgiơ Vinhem Phriđrích Hêghen (1770-1831) là nhà biện chứng
lỗi lạc, bậc tiền bối của triết học Mác. Ông đưa ra luận điểm "con người về
bản tính vốn là bất bình đẳng" để chứng minh mọi sự bất công, mọi tệ nạn
trong xã hội là những hiện tượng tất yếu làm cho xã hội phát triển; chính sự
không ngừng nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn trong các quan hệ xã hội trở
thành động lực cơ bản thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng. Theo Hêghen,
nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp, mà là tổng thể các quy chế, kỷ
cương, chuẩn mực về đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hóa…; nhà nước có
vai trò duy trì, điều hòa mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo, giữa các
đẳng cấp trong xã hội và là nguyên nhân nổ ra các cuộc chiến tranh giữa các
nước và nhờ chiến tranh "mà thể trạng đạo đức của các dân tộc mới được bảo
toàn...". Ở Hêghen, đạo đức, luân lý và pháp luật thống nhất trong một khoa
18
học duy nhất là: "Triết học pháp quyền". Học thuyết về đạo đức là triết học
pháp quyền bao gồm: pháp quyền trừu tượng, luân lý, đạo đức. Trong đó, Hê
ghen phân biệt rõ đạo đức là thực tiễn ứng xử, là quan hệ giữa người với
người, còn luân lý là các nguyên tắc và các chuẩn mực của lối ứng xử ấy.
Theo Hêghen, đạo đức là ý niệm về cái thiện được hiện thực hóa trong ý chí
có phản tư về mình và trong thế giới bên ngoài; trong quá trình triển khai tồn
tại hiện có của mình, đạo đức trải qua ba thang bậc là gia đình, xã hội công
dân và nhà nước, mà nhà nước là tồn tại tối cao của tự do; đạo đức "phản ánh
quá trình tác động, quá trình hoàn thành chức năng của mọi cái điều tiết xã
hội: luân lý, luật pháp, các chuẩn mực sống chung" [6, tr. 28]. Như vậy việc
xét cơ sở đạo đức của pháp luật trong tư tưởng đạo đức học của Hêghen rất có
giá trị đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Điểm hạn chế ở ông là: đạo đức, luân lý pháp quyền chỉ là sự "tha hóa" của "ý
niệm tuyệt đối". Điều này thể hiện tính chất duy tâm của ông.
Lútvích Phoiơbắc (1804-1872) là nhà duy vật nổi tiếng, bậc tiền bối
của triết học Mác. Ông xuất phát từ chủ nghĩa nhân bản, coi bản chất con
người là tổng thể các khát vọng, khả năng, nhu cầu, ham muốn và tưởng
tượng của các cá nhân để xây dựng lên quan niệm đạo đức của mình. Ông cho
rằng, khát vọng và hạnh phúc là cơ sở của mọi hành vi của con người. Con
người luôn luôn cố gắng vươn tới đạt được những cái gợi lên tình cảm hạnh
phúc, hoan hỉ (cái tốt) và cố tránh những cái đem lại sự xót xa, nhục nhã (cái
xấu). Đối với ông, cảm giác là điều kiện đầu tiên của đạo đức. Ông chống lại
đạo đức ích kỷ, khắc kỷ của đạo đức tôn giáo. Ông khẳng định, đạo đức của
ông là vị kỷ (vì con người cá nhân), nhưng nó là lành mạnh giản dị, ngay
thẳng, chính trực hoàn toàn đối lập với đạo đức giả. Vị kỷ, theo ông là lợi ích
cá nhân không được mâu thuẫn với lợi ích của người khác và xã hội, biết đến
hạnh phúc của mình thì cũng cần tôn trọng hạnh phúc của người khác. Để lợi
19
ích cá nhân không mâu thuẫn với người khác và xã hội, theo ông phải dựa
trên tình yêu thương của con người đối với nhau. Như vậy, quan niệm về đạo
đức của Phoiơbắc có nhiều điểm tiến bộ, nhưng đạo đức ấy còn rất trừu
tượng, hoàn toàn tách khỏi đời sống xã hội; đấu tranh giai cấp; những vấn đề
của lịch sử và trở thành lý luận trừu tượng về luân lý.
Những quan niệm đạo đức tiêu biểu trên đây tuy có mặt hạn chế
nhưng cũng có những yếu tố tích cực đáng được kế thừa và phát triển trong
hoàn cảnh mới như:
- Đề cao rèn luyện, tu dưỡng bản thân (Nho giáo, Phật giáo);
- Phát hiện nguồn gốc sinh ra mọi bất công trong xã hội là sở hữu tư nhân;
- Tin vào sức mạnh của con người, con người là chủ thể của xã hội;
- Tìm ra nguồn gốc thúc đẩy xã hội phát triển là quá trình nảy sinh và
giải quyết mâu thuẫn;
- Gắn xây dựng đạo đức với xây dựng luật pháp, nhà nước;
- Đề cao vai trò, vị trí của cá nhân trong xã hội…
Chính những yếu tố tích cực tiến bộ này đã được C.Mác, Ph.Ăngghen
kế thừa để xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa học về đạo đức
1.1.2. Quan niệm mác-xít về đạo đức
Những quan niệm đạo đức trước Mác tuy có những hạn chế do hoàn
cảnh lịch sử, do địa vị giai cấp và nhận thức, nhưng cũng có đóng góp nhất
định để hình thành một bộ môn khoa học mới - đạo đức học mác-xít. Đạo đức
học mác-xít đã khắc phục mặt hạn chế, kế thừa yếu tố tiến bộ để đưa ra quan
niệm đúng đắn, khoa học về đạo đức.
Theo quan niệm mác-xít, "đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là
tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và
20
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với
xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội" [25, tr. 8].
Định nghĩa trên cho thấy, triết học, chính trị, pháp quyền, nghệ thuật,
tôn giáo… đạo đức là những hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội,
phản ánh hiện thực đời sống xã hội dưới các góc độ, khía cạnh khác nhau.
Đời sống xã hội (xét đến cùng là chế độ kinh tế - xã hội) là nguồn gốc nảy
sinh các quan điểm về đạo đức của con người - như Ph.Ăngghen đã khẳng
định trong tác phẩm Chống Đuyrinh: "Chung quy lại mọi học thuyết đạo đức đã
có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy
giờ" [31, tr. 161].
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng,
phản ánh tồn tại xã hội về mặt đạo đức, khi tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức
xã hội (trong đó có đạo đức) cũng thay đổi theo, C. Mác và Ph.Ăngghen
khẳng định: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ
sộ cũng đảo lộn ít nhiều nhanh chóng" [34, tr. 15] và "phương thức sản xuất
ra đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh
thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ;
trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ" [35, tr. 15].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đạo đức được sinh ra trước
hết từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong đấu
tranh xã hội, quản lý xã hội, phân phối sản phẩm và trong quan hệ giữa con
người với con người để con người tồn tại và phát triển. Chính lao động là giá
trị đạo đức hàng đầu của mọi thang bậc giá trị, vì nó sáng tạo ra giá trị cao
nhất, sáng tạo ra con người, hoàn thiện phẩm cách con người để xã hội tồn tại
và phát triển vì: "Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống
loài người" [35, tr. 641].
21
Bản chất của đạo đức không phải do "mệnh trời", "mệnh lệnh tuyệt
đối", "Chúa"… sinh ra, mà là sản phẩm của xã hội, là sản phẩm tổng hợp của
các yếu tố khách quan và chủ quan, là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và
nhận thức của con người. Đạo đức mang bản chất xã hội thể hiện ở chỗ:
- Nội dung của đạo đức là do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã hội
quyết định;
- Nhận thức xã hội đem lại các hình thức cụ thể của phản ánh đạo đức,
làm cho đạo đức tồn tại như một lĩnh vực độc lập về sản xuất tinh thần của xã hội;
- Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện bản chất xã hội của đạo đức
được quy định bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức
xã hội của con người. Bản chất xã hội đó của đạo đức được biểu hiện ở tính
thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức;
- Đạo đức có quy luật vận động nội tại riêng của mình, nhưng thích
ứng với mỗi chế độ kinh tế, mỗi hình thái kinh tế - xã hội, tức mỗi thời đại
bao giờ cũng có một hình thái đạo đức nhất định. Đó là các hình thái đạo đức:
đạo đức nguyên thủy, đạo đức chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức
tư sản và đạo đức cộng sản;
- Cùng với tính quy định bởi tồn tại xã hội, bởi thời đại lịch sử, đạo
đức còn mang bản sắc của mỗi dân tộc. Mỗi dân tộc có những quan niệm,
chuẩn mực, cách ứng xử đạo đức khác nhau mang tính độc đáo, khác biệt nhất
định. Về điểm này Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ: "Từ dân tộc này sang dân tộc
khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện và ác đã
biến đổi nhiều đến mức thường trái ngược hẳn nhau" [35, tr. 135].
Trong các xã hội có giai cấp, đạo đức bao giờ cũng mang tính giai
cấp, không có thứ đạo đức đứng trên, đứng ngoài các giai cấp đã và đang tồn
tại hiện thực trong xã hội. Tính giai cấp của đạo đức là sự phản ánh và thể
hiện địa vị, quyền lợi và lợi ích của các giai cấp trong xã hội, mà trước hết là
22
của giai cấp thống trị, đó là biểu hiện đặc trưng nhất bản chất xã hội của đạo
đức. Điều này được Ph. Ăngghen khẳng định:
Vì cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập
giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của giai cấp;
hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị,
hoặc là khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho
sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích
tương lai của những người bị áp bức [35, tr. 137].
Đạo đức điều chỉnh hành vi, lối ứng xử, phương thức hành động của
mỗi người, trong quan hệ với xã hội và với những người khác. Sự điều chỉnh
đó được thực hiện bằng những khuôn phép, những chuẩn mực, những quy tắc
đạo đức phù hợp với từng thời điểm lịch sử, từng cộng đồng người, từng giai
cấp, dân tộc. Sự điều chỉnh hành vi con người bằng dư luận xã hội và lương
tâm chỉ có trong lĩnh vực đạo đức, nó hoàn toàn mang tính tự nguyện là sự tự
do lựa chọn của mỗi người.
Sự đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và
quan hệ với xã hội thông qua một hệ thống các giá trị được quy định trong
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội. Hệ thống giá trị này được hình
thành, phát triển và hoàn thiện cùng với sự phát triển và hoàn thiện của ý thức
đạo đức, thực tiễn đạo đức và sự điều chỉnh hành vi đạo đức. Nếu hệ thống
giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ của xã hội thì hệ thống ấy
mang tính tích cực, nhân đạo, nhân văn. Ngược lại, nếu hệ thống ấy mang tính
tiêu cực, phản nhân đạo, nhân văn thì đó là những phản đạo đức.
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được, giữ lại
những yếu tố tiến bộ, lọc bỏ những mặt hạn chế, phiến diện về các chuẩn mực
đạo đức cũ, đạo đức học mác-xít đã xây dựng nên hệ thống các phạm trù đạo
23
đức học, trong đó có các phạm trù được coi là cơ bản như: ý nghĩa cuộc sống;
hạnh phúc; nghĩa vụ; lương tâm; thiện - ác v.v…
1. Đạo đức học mác-xít khẳng định "ý nghĩa cuộc sống" là ở đời sống
hiện thực và xem đó như nền tảng tinh thần của đời sống con người. C.Mác
đã khẳng định, lao động là phương thức tồn tại và phát triển của xã hội, lao
động là động lực, là phương thức hình thành và phát triển, hoàn thiện con
người cả về mặt thể chất và tinh thần. Vấn đề ý nghĩa cuộc sống của con
người là một quá trình phát triển không ngừng bắt nguồn từ hoạt động sống
của con người mà xét đến cùng là từ lao động sản xuất xã hội. Đạo đức học
mác-xít cho rằng, quá trình hoạt động sống mà cốt lõi là lao động sản xuất
bao giờ cũng mang tính xã hội, các chủ thể tham gia vào lao động sản xuất xã
hội đã tạo nên những giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, đóng góp vào thành
quả phát triển chung của xã hội. Chính những thành quả đó làm cho cuộc
sống của các chủ thể mang tính xã hội và chủ thể tìm thấy "ý nghĩa cuộc
sống" của mình. Ý nghĩa cuộc sống của con người không hoàn toàn phụ thuộc
vào thời gian sống mà ở chỗ con người đã lao động tự giác, sáng tạo, tự do
cống hiến cho xã hội và thụ hưởng những thành quả do xã hội đem lại.
2. Hạnh phúc là lý tưởng sống, là ước mơ chân chính của con người,
là động lực thúc đẩy con người vươn lên vượt mọi khó khăn trong cuộc sống, là
một trong những nội dung của đời sống con người và xã hội loài người. C. Mác
nói: chỉ có thể xem xét con người một cách sống động, hiện thực gắn liền với
hoạt động sinh hoạt, hoạt động sáng tạo của con người; hạnh phúc là đấu tranh.
Trong quá trình lao động sản xuất và hoạt động xã hội, con người đã
sản xuất ra các giá trị vật chất và tinh thần nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa
dạng, phong phú của bản thân mình và của xã hội, đồng thời cũng là quá trình
sản sinh, phát triển các nhu cầu cũng như phương thức thỏa mãn các nhu cầu
và như vậy qua lao động sản xuất con người sẽ tìm thấy hạnh phúc chân chính
của mình. Với đạo đức học mác-xít, hạnh phúc là đưa lại cho con người niềm
24
vui, niềm tự hào sung sướng, nâng cao ý thức phẩm giá của con người, tin
tưởng vào xã hội và bản thân mình, gắn bó cá nhân với cộng đồng trong tình
yêu thương, quý trọng, lẫn nhau.
3. Nghĩa vụ đạo đức không chỉ là sự đòi hỏi, sự yêu cầu của xã hội đối
với mỗi cá nhân mà còn là nhu cầu của sự tiến bộ, sự hoàn thiện đối với bản
thân mình. Nghĩa vụ đạo đức không thể là sự ép buộc từ bên ngoài vào con
người, mà gắn bó chặt chẽ với ý thức của con người về lẽ sống, lý tưởng, về
hạnh phúc và những quan niệm mang tính triết lý của cuộc sống. Nghĩa vụ
đạo đức thể hiện trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong gia đình, bạn
bè, thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp, quốc gia, quốc tế. Không có ý thức nghĩa
vụ đạo đức thì con người tự đánh mất ý thức về chính bản thân mình, mất đi ý
nghĩa làm người. Ý thức nghĩa vụ đạo đức của mỗi người được hình thành
thông qua con đường giáo dục gia đình, giáo dục của nhà trường và hoạt động
của chính con người đó trong suốt cuộc đời mình, trong đó lao động là ngọn
nguồn của tình cảm nghĩa vụ. Ý thức nghĩa vụ đạo đức mang tính chất một
tình cảm thiêng liêng, là nền tảng tinh thần biểu hiện ở hành vi đạo đức, là
động lực tinh thần sâu sắc xuất phát từ nội tâm để con người sáng tạo nên
những giá trị đạo đức cao cả.
Hạnh phúc và Nghĩa vụ có quan hệ mật thiết với nhau, không tách rời
nhau, hạnh phúc gắn liền với nghĩa vụ, hạnh phúc và nghĩa vụ thống nhất với
nhau trên cơ sở lao động, lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là hạnh phúc lớn
nhất, cao đẹp nhất của con người.
4. Lương tâm là kết quả của một quá trình nhận thức sâu sắc của chủ
thể đạo đức đối với những nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Lương tâm là hiện
tượng đạo đức có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống cá nhân
và xã hội. Sự hình thành cảm xúc lương tâm gắn liền với nhận thức về lẽ
sống, lý tưởng, hạnh phúc của con người, đặc biệt là ý thức nghĩa vụ đạo đức,
vì ý thức nghĩa vụ đạo đức là nền tảng, là cơ sở hình thành lương tâm con
25
người. Lương tâm thư thái, trong sáng gắn liền với hoạt động tích cực của con
người vì hạnh phúc của xã hội và hạnh phúc của người khác, qua đó con
người càng mở rộng, nâng cao và làm sâu sắc thêm hoài bão, lý tưởng, ước
mơ và phát triển các nhu cầu của mình.
Để có được lương tâm trong sáng, mỗi con người nhất thiết phải trải
qua quá trình phấn đấu rèn luyện bền bỉ lâu dài trong cả cuộc đời mình và
phải được giáo dục thường xuyên liên tục ở mọi lúc, mọi nơi. Vì "sức mạnh
của lương tâm con người mới tùy thuộc vào sự giác ngộ lý tưởng, trình độ về
nhân cách và năng lực hiểu biết, năng lực hành động của con người" [33, tr. 38].
5. Thiện là lợi ích của con người phù hợp với sự tiến bộ xã hội.
"Thiện cũng là những hoạt động phấn đấu hi sinh vì con người, làm cho con
người ngày càng sung sướng hơn, tự do hơn, hạnh phúc hơn" [25, tr. 137].
Thiện, ác không phải là "ý muốn của Thượng đế" hay là "sự tha hóa
của Tinh thần tuyệt đối", là "những mong muốn chủ quan"… Đạo đức học
mác-xít quan niệm thiện, ác của con người là sản phẩm lịch sử. Cái thiện thay
đổi theo thời đại, thông qua các quan hệ kinh tế, xã hội và giai cấp, không có
quan niệm thiện, ác đúng cho mọi thời đại, mọi giai cấp. Cái thiện phải là sự
sáng tạo của con người theo lý tưởng đạo đức cao đẹp, đúng đắn, cái thiện
gắn bó chặt chẽ với cái chân lý và cái đẹp. Giữa cái thiện và cái ác không có
sự đối lập tuyệt đối, vì thiện, ác là sản phẩm của lịch sử nên quan niệm về cái
ác cũng thay đổi, thậm chí trái ngược nhau từ xã hội này đến xã hội khác, từ
thời đại này đến thời đại khác.
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, xã hội tư bản tất yếu sẽ bị diệt
vong, xã hội cộng sản chủ nghĩa nhất định sẽ thay thế xã hội tư bản, người
thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy là giai cấp công nhân, giai cấp vô sản; sau khi
giành được chính quyền, thiết lập sự thống trị chính trị của mình, cùng với