Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN VAI TRÒ của KINH tế NHÀ nước TRONG VIỆC KHẮC PHỤC NHỮNG hạn CHẾ của nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.56 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối xã hội mà nó
quản lý. Tuỳ thuộc vào bản chất của Nhà nước và trình độ phát triển kinh tế của
từng chế độ xã hội mà vai trò kinh tế của Nhà nước có những biểu hiện thích
hợp. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vai trò kinh tế
chủ yếu thể hiện ở việc điều tiết bằng thuế và luật pháp.
Đến CNTB độc quyền nhà nước, với sự xuất hiện khu vực sở hữu nhà
nước, làm cho nhà nước tư sản bắt đầu có vai trò kinh tế mới. Ngoài việc điều
tiết nền sản xuất xã hội thông qua thuế và luật pháp, nó còn có vai trò tổ chức
quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước.
Đến nhà nước XHCN có vai trò kinh tế đặc biệt đó là: Tổ chức, quản lý
toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở cả tầm vĩ mô và vi mô, trong đó vĩ mô là chủ
yếu, bởi vì: Nhà nước XHCN là người đại diện cho nhân dân, toàn xã hội,
nhiệm vụ tổ chức, quản lý đất nước về mọi mặt hành chính, kinh tế, xã hội; Nhà
nước XHCN là người đại diện cho sở hữu toàn dân về TLSX có nhiệm quản lý
các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước.
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta với tư cách là một hình thái kinh
tế - xã hội, có những mặt tích cực và hạn chế ở cả LLSX; QHSX và Kiến Trúc
Thượng Tầng. Vì vậy cần có sự quản lý của nhà nước để hạn chế mặt tiêu cực,
phát huy mặt tích cực nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách
bền vững. Với ý nghĩa đó tác giả chọn vấn đề: “Vai trò của nhà nước trong
khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam hiện nay”. Để nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
1. Những hạn chế của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
Mô hình KTTT định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng đó là mô
hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên xây dựng CNXH ở nước ta
hiện nay. Đó chính là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và quản lý của nhà nước
XHCN dựa trên LLSX hiện đại, với nhiều loại hình sở hữu ( 3 loại hình sở hữu
đó là: sở hữu toàn dân; sở hữu tập thể và sở hữư tư nhân) Nhiều thành phần kinh
tế bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu


tư nước ngoài trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân.

1


Thực tế sau 30 năm đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu vô cùng
quan trọng và thật đáng tự hào. Kể cả những năm gần đây khi mà kinh tế thế
giới rơi vào khủng hoảng, song chúng ta vẫn đạt được những thành tựu nhất
định. Văn kiện đại hội 11 đảng ta khẳng định: “ Nền kinh tế vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém
phát triển”.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được nghiêm túc kiểm điểm Đảng ta cũng
chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm hết sức cụ thể.
“Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước;
một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng
dựa vào tăng đầu tư, khai thác tài nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc.
Công nghiệp chế tạo, chế biến phát triển chậm, gia công, lắp ráp còn chiếm tỉ
trọng lớn. Cơ cấu kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích
cực nhưng còn chậm. Cơ cấu trong nội bộ từng ngành cũng chưa thật hợp lý.
Năng suất lao động xã hội thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Năng
lực cạnh tranh quốc gia chậm được cải thiện. Đầu tư vẫn dàn trải. Hiệu quả sử
dụng các nguồn vốn đầu tư còn thấp, còn thất thoát, lãng phí, nhất là nguồn vốn
đầu tư của Nhà nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu đồng bộ,
đặc biệt đối với khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng nhiều công trình
xây dựng cơ bản còn thấp. Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên
hiệu quả chưa cao, còn lãng phí. Tình trạng khai thác rừng, khai thác khoáng sản

bất hợp pháp vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu,
ngăn chặn kịp thời. Trình độ phát triển giữa các vùng cách biệt lớn và có xu
hướng mở rộng. Các chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế không đạt kế hoạch Đại hội X đề ra.
Những yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền KTTT chưa được chú ý
đúng mức. Một số tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua
lỗ, gây bức xúc trong xã hội. Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, các
nông, lâm trường quốc doanh chậm, lúng túng. Chất lượng xây dựng và thực
hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển một số ngành, vùng, nhất là quy hoạch sử
dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản còn yếu, gây lãng phí, thất thoát lớn. Quản
lý thị trường, nhất là thị trường bất động sản, thị trường tài chính, có lúc còn
lúng túng, sơ hở, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, làm giàu bất chính
cho một số người; chính sách phân phối còn nhiều bất hợp lý”. Tiếp cận dưới
2


góc độ kinh tế chính trị có thể khẳng định những hạn chế của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay được thể hiện ở những nội dung
sau đây:
Một là, chậm chễ trong đổi mới tư duy lý luận về KTTT định hướng XHCN
Cụm từ KTTT định hướng XHCN được sử dụng chính thức trong văn kiện
đại hội 9 ĐCSVN năm 2001. Song trên thực tế về mặt pháp lý việc xây dựng và
phát triển nó bắt đầu từ đại hội 6 ĐCSVN năm 1986. Có thể khẳng định rằng sau
hơn 26 năm đổi mới tư duy lý luận về KTTT định hướng XHCN của chúng ta
chưa theo kịp và đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn nhất là những vấn
đề: về sở hữu, về thành phần kinh tế, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, về
định hướng XHCN của nền KTTT, về vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý
của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN.v.v.. vẫn chưa được làm sáng
tỏ, chưa đi đến thống nhất còn tranh luận, bàn cãi nhiều. Việc nghiên cứu lý luận
trên cơ sở tổng kết thực tiễn về KTTT ở nước ta cần phải nỗ lực cố gắng nhiều

hơn nữa mới đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn đặt ra.
Hai là, nhà nước pháp quyền XHCN còn nhiều yếu kém.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN chưa theo kịp yêu cầu phát triển
của nền kinh tế và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế kinh tế, quản lý,
điều hành, tổ chức thực thi luật kinh tế còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ
quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm
vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức trong quản lý Nhà nước về kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính kinh tế chưa đạt yêu
cầu đề ra; thủ tục hành chính kinh tế còn gây phiền hà cho các chủ thể kinh tế.
Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế
còn yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương kinh
tế không nghiêm. Cải cách tư pháp kinh tế còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác
điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số vụ án kinh tế chưa chính xác; án
tồn đọng, án bị huỷ, bị cải sửa còn nhiều.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí về kinh tế chưa đạt được yêu
cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí về kinh tế vẫn còn nghiêm trọng, với
những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã
hội.
Ba là, duy trì khu vực kinh tế nhà nước cồng kềnh, yếu kém
Sau nhiều lần cải tổ, cải cách, xắp xếp, đổi mới bộ máy tổ chức của khu
vực kinh tế nhà nước vẫn còn khá cồng kềnh; hiệu quả hoạt động còn nhiều yếu
3


kém nhất là các DNNN: Kết luận số 50-KL/TW, ngày 29/10/2012, Hội nghị lần
thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Đề án “Tiếp tục sắp xếp,
đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”. Đảng ta chỉ rõ: Việc sắp
xếp và cổ phần hóa DNNN còn chậm, chưa chặt chẽ; trình độ công nghệ lạc hậu,
quản trị doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, hiệu quả thấp. Việc phân định chức

năng quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu nhà nước còn chưa đủ rõ; thể
chế, cơ chế quản lý, giám sát của chủ sở hữu nhà nước có nhiều sơ hở, yếu kém.
Cơ cấu ngành, lĩnh vực chưa hợp lý, dàn trải, đầu tư ra ngoài ngành kém hiệu
quả. Một số doanh nghiệp vi phạm pháp luật nghiêm trọng, gây thất thoát, lãng
phí lớn vốn và tài sản nhà nước.
Tái cơ cấu DNNN còn gắn chặt với mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp. Đây
là chủ trương lớn nhưng đến nay cổ phần hóa diễn ra với tốc độ hết sức chậm chạp.
Khởi động từ năm 1992, đẩy mạnh vào năm 2001, nhưng theo con số thống kê, đến
hết năm 2011 trên địa bàn cả nước mới cổ phần hóa được 4.000 doanh nghiệp, góp
phần cơ bản vào việc sắp xếp DNNN từ chỗ 12.000 doanh nghiệp nay chỉ còn
6.000 doanh nghiệp. Đặc biệt từ năm 2011 đến nay, tình hình cổ phần hóa chậm
hẳn lại. Trong năm 2011 cả nước chỉ cổ phần hóa được 60 doanh nghiệp. Kế hoạch
2012 cổ phần hóa 93 doanh nghiệp đã không hoàn thành.
Chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNNN còn
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, đầu tư của Nhà nước. Một số doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh thua lỗ, trình độ công nghệ chỉ đạt mức trung bình,
năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh yếu.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, DNNN chiếm 70% vốn đầu tư toàn
xã hội, 50% vốn đầu tư nhà nước, 60% tín dụng của các ngân hàng thương mại,
70% nguồn vốn ODA nhưng chỉ đóng góp khoảng 37% - 38% GDP. Có đến
31% DNNN bị lỗ trong sản xuất kinh doanh, 29% hoạt động không hiệu quả.
Còn theo Tổng cục Thống kê, mức lỗ bình quân của một DNNN bị lỗ cao gấp 12
lần so với doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Báo cáo tại Hội nghị Chính phủ với Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà
nước diễn ra sáng 16/1/2012. Phó trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo đổi mới
và Phát triển doanh nghiệp cho biết, tổng nợ phải trả của các TĐ, TCT năm 2012
trên 1,33 triệu tỷ đồng, một số TĐ, TCT vượt tỷ lệ nợ cho phép.
Đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, các chuyên gia
kinh tế còn nhìn nhận vấn đề ở một góc độ khác: hệ số ICOR, chỉ số đo lường số
đơn vị vốn cần tăng thêm để tạo ra một một đơn vị sản lượng. Theo báo cáo

cạnh tranh của Viện Cạnh tranh châu Á: chỉ số ICOR của Việt Nam giai đoạn
4


2006 - 2008 là 5,3. Đây là con số cao hơn hẳn so với các nước và khu vực nền
công nghiệp mới trong đầu thời kỳ tăng trưởng kinh tế 1961 - 1980. Theo đó hệ
số ICOR của Hàn Quốc là 3, Đài Loan là 2,7. Thái Lan giai đoạn 1981 - 1995 là
4,1. Đáng quan tâm và lo lắng hơn, hệ số ICOR của các doanh nghiệp khu vực
nhà nước ngày càng tăng cao. Giai đoạn 2011 - 2012 đã lên đến 7,5. Sự kém
hiệu quả này, cùng với sự nóng vội, duy ý chí mở quá nhanh quy mô hoạt động,
đầu tư tràn lan ra ngoài lĩnh vực hoạt động chính nhất là lĩnh vực bất động sản
và ngân hàng, khiến hàng loạt doanh nghiệp nhà nước, trong đó có các tập đoàn
kinh doanh lỗ, làm lãng phí lớn tài sản công của nhà nước.
Bốn là, thể chế KTTT định hướng XHCN chưa hoàn thiện
Thể chế kinh tế hiện nay chưa tạo ra bình đẳng thật sự trong sân chơi kinh
doanh giữa các thành phần kinh tế thể hiện ở: quy chế về cho vay vốn, cấp và cho
thuê đất, về chế độ thuế, ưu tiên xuất – nhập khẩu, quan điểm của nhà nước đối với
rủi ro, thua lỗ của doanh nghiệp…Thực tế quy chế còn có sự đối sử, phân biệt giữa
các thành phần kinh tế. Nhất là còn dành nhiều ưu ái cho các DNNN.
Có quá nhiều số lượng văn bản, mâu thuẫn giữa các quy định, thẩm quyền
ban hành các thể chế quá rộng rãi, giao cho nhiều cơ quan. Số lượng văn bản
quá nhiều, nếu không kịp thời đơn giản hoá thì không những hiệu lực không cao
mà còn có thể dẫn tới lạm dụng thể chế. Chỉ thực hiện những thể chế có lợi, còn
thể chế khác thì không. Việc cải cách các thủ tục hành chính chưa đạt được như
mong đợi, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc đổi mới.
Tốc độc cải cách hành chính còn chậm, việc xác định và phân công chức
năng, nhiệm vụ của chính phủ và các cơ quan trung ương chưa hợp lý, còn
chồng chéo trùng lắp, còn có sự giao thoa, đan xen về phạm vi, đối tượng, giữa
các bộ, các nghành. Không làm rõ phạm vi quản lý của từng Bộ, Nghành, từ đó
khó xác định kết quả, hiệu quả công việc của mỗi cơ quan cũng như trách nhiệm

khi xảy ra những sai sót trong hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước. Dẫn đến
tình trạng cha chung không ai khóc.
Năn là, hạ tầng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN rất yếu
kém và lạc hậu
Kết cấu hạ tầng hay còn gọi là môi trường kỹ thuật là một trong những điểm
nghẽn cản trở sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế hiện nay. Kết cấu hạ tầng
bao gồm: giao thông vận tải, năng lượng, bưu chính viễn thông, điện, nước, bảo
hiểm, dịch vụ, ngân hàng.v.v..Đây là những nghành phải mang tính hậu thuẫn
cao cho nền kinh tế, đóng vai trò then chốt, mở đường, hỗ trợ, dẫn dắt, định
hướng các thành phần kinh tế cùng phát triển theo quỹ đạo XHCN. Song trên
5


thực tế lại không mang lại được kỳ vọng như mong muốn. Thậm chí có những
mặt còn được xem là yếu kém và lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển. Vì vậy,
kết cấu hạ tầng được xác định là một trong ba khâu đột phá trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay.
Sáu là, nền kinh tế chưa bảo đảm chất lượng, hiệu quả, sự phát triển
bền vững và năng lực cạnh tranh
Chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp dẫn đến
những mục tiêu của phát triển bền vững chưa được bảo đảm một cách vững chắc
cả về nội hàm và ngoại diên. Biểu hiện cụ thể: Chỉ tiêu giá trị gia tăng của nền
kinh tế thấp; Năng suất lao động tổng hợp (TFP) thấp; Môi trường kinh doanh,
đầu tư tuy có được cải thiện nhưng so với yêu cầu còn khoảng cách lớn; Sức
cạnh tranh của nền kinh tế không cao (Sản phẩm với sản phẩm; doanh nghiệp
với doanh nghiệp; quốc gia với quốc gia).
Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan
trong đó nguyên nhân chủ quan là quan trọng nhất cụ thể là chúng ta chưa bảo đảm
các điều kiện cần thiết cho phát triển KTTT định hướng XHCN.

2. Vai trò của nhà nước trong khắc phục những hạn chế của nền
KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
Trên cơ sở những hạn chế của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta đã
trình bày ở nội dung trên, chúng ta thấy để khắc phục những hạn chế này thì việc
can thiệp của Nhà nước (Chính phủ) vào nền kinh tế là một đòi hỏi tất yếu. Về
vai trò của chính phủ trong khắc phục những hạn chế của nền KTTT định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay được thể hiện ở các nội dung sau đây:
2.1. Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước
Một là: Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi và đảm bảo ổn định
chính trị, xã hội cho sự phát triển kinh tế.
Thứ nhất, tạo lập môi trường pháp lý
Nội dung này phản ánh năng lực xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT
định hướng XHCN của nhà nước nó bao gồm: thiết lập khung khổ pháp luật, các
nguyên tắc, quy định trong hoạt động kinh tế; xây dựng các cơ chế, chính sách
dựa trên cơ sở hiến pháp, pháp luật, các đạo luật, các văn bản quy phạm pháp
luật, các nghị định, thông tư, hướng dẫn cụ thể đối với từng nghành, từng lĩnh
vực của nền kinh tế, nói cách khác nó là cơ chế vận hành của nền kinh tế. Điều
quan trọng hơn cả là xây dựng tổ chức, bộ máy vận hành của nền kinh tế.

6


Như vậy, thể chế KTTT định hướng XHCN bao gồm khung khổ pháp luật;
cơ chế, cách thức vận hành, các loại thị trường cơ bản và tổ chức, bộ máy để
điều hành hệ thống đó. Thể chế được ví như hai bờ của một con sông; cơ chế chỉ
ra phương thức, cách thức vận hành của hệ thống; Như vậy tạo lập môi trường
pháp lý chính là tạo ra sân chơi, luật chơi, cách chơi và người chơi trong các trò
chơi kinh tế. Các chủ thể tham gia vào các trò chơi kinh tế đều bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt, đối xử. Vì vậy nó sẽ góp phần chống rủi ro, chống
độc quyền, chống lợi ích nhóm…

Mục đích bảo đảm cho nền kinh tế vận hành lành mạnh, an toàn, hiệu quả;
kêu gọi, kích thích đầu tư cả ở trong nước và nước ngoài; khắc phục những
khuyết tật của nền KTTT; ổn định kinh tế vĩ mô. Góp phần định hướng XHCN
cho nền KTTT ở nước ta.
Hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay vừa yếu, vừa thiếu. Vì vậy việc
bổ xung, sửa đổi hiến pháp năm 1992 để trình Quốc hội thông qua trong giai
đoạn hiện nay là một tất yếu khách quan, là mệnh lệnh của cuộc sống. Đối với
lĩnh vực kinh tế cần tập trung làm tốt các nội dung sau đây:
Hoàn thiện môi trường thể chế, tôn trọng tự do cạnh tranh và kiểm soát độc
quyền. Hoàn thiện môi trường thể chế, trước hết là môi trường pháp lý, để thị
trường hoạt động trong một hành lang pháp lý thông thoáng và minh bạch là
nhiệm vụ cấp bách để thúc đẩy sự phát triển các loại thị trường ở Việt Nam trong
điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế. Hiện nay, môi trường pháp lý và
năng lực quản lý nhà nước của các cơ quan công quyền chưa thực sự đáp ứng
được với yêu cầu phát triển của thị trường. Để tạo môi trường thể chế phát triển
các loại thị trường, trước hết cần rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật nhằm
khắc phục những quy định không thống nhất giữa các văn bản, xóa bỏ những bất
cập trong hệ thống chính sách và pháp luật hiện hành làm ảnh hưởng đến việc
hình thành môi trường kinh doanh chung của nền kinh tế và hội nhập kinh tế
quốc tế. Các văn bản pháp luật phải có tính thực thi cao, phù hợp với thực tiễn
và có tính ổn định tương đối.
Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm hẳn sự can
thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Để thực hiện
nhiệm vụ này cần xác định các định hướng: tách chức năng quản lý hành chính
của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Xoá bỏ
"chế độ chủ quản"; tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi kinh tế cơ quan
sự nghiệp; phát triển mạnh các dịch vụ công cộng (giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ, y tế, văn hoá, thể dục thể thao)… Thực hiện việc phân công, phối
7



hợp giữa các chức năng hành pháp, tư pháp và lập pháp trong hoạt động của bộ
máy Nhà nước, khắc phục sự chồng chéo, bỏ sót và giảm hiệu lực quản lý của
bộ máy Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật theo
hướng minh bạch, công khai, tạo ra môi trường kinh doanh, cạnh tranh bình
đẳng cho mọi thành viên tham gia thị trường, chú ý tạo môi trường tâm lý xã hội
thuận lợi cho việc khuyến khích, tạo điều kiện cho phát triển khu vực kinh tế tư
nhân, khắc phục tư tưởng kỳ thị, phải coi sự phát triển kinh tế tư nhân như một
động lực phát triển của kinh tế dân tộc trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực sự coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, được khuyến khích phát triển lâu dài,
bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
Vấn đề đặt ra ở đây chính là phải nâng cao phẩm chất, năng lực,
chuyên môn của các cơ quan soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật.
Hệ thống luật phải đầy đủ, đồng bộ, mang tính ổn định cao phù hợp với quốc
gia và thông lệ quốc tế. Vì vậy hệ thống luật phải được xây dựng hết sức
khoa học, nhất là phải xuất phát từ thực tiễn, từ đòi hỏi của cuộc sống. Đáp
ứng được yêu cầu cả trước mắt và lâu dài tránh áp đặt , chủ quan, duy ý chí.
Trên cơ sở đó phải tiếp tục nâng cao năng lực xây dựng luật, đồng thời nâng
cao dân trí và trình độ nhận thức và chấp hành pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện
các bộ luật liên quan đến KTTT.
Thứ hai, tạo lập môi trường chính trị- xã hội
Tức là xây dựng môi trường chính trị- xã hội ổn định, an toàn cho các nhà
đầu tư. Nếu môi trường chính trị -xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để
đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp những điều kiện thực tế.
Tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng, trực tiếp góp phần định
hướng XHCN cho nền KTTT. Ngược lại môi trường chính trị- xã hội không ổn
định sẽ gây ra cản trở, thậm chí phá vỡ những quan hệ cơ bản làm cho nền kinh
tế rơi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng. Thậm chí gây ra những

xung đột chính trị- xã hội.
Môi trường chính trị -xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện để nền kinh tế hoạt
động thật sự hiệu quả, tranh thủ được vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của thế
giới, tập hợp được đông đảo đội ngũ những người có năng lực quản lý, có trình
độ khoa học kỹ thuật tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng thành công các kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất trong nước, cũng như đổi mới cơ chế

8


quản lý, tạo sự kích thích mạnh mẽ mọi nguồn lực vật chất trong nước hướng
vào đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu.
Để có được môi trường chính trị- xã hội ổn định đòi hỏi Đảng, Nhà nước
phải có đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn. Nhất là phải giữ vững độc lập chủ
quyền quốc gia, dân tộc, phải khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc
tế. Đặc biệt nhà nước phải có công cụ bạo lực mạnh như Công an, Quân đội, Tòa
án…mạnh, đủ sức răn đe và đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của bọn phản động
trong nước và các thế lực thù địch quốc tế. Không bị bất ngờ, xử lý có hiệu quả
mọi tình huống xảy ra, sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng
để phát triển. Nó là điều kiện quan trọng để các nhà sản xuất kinh doanh trong
nước và nước ngoài yên tâm đầu tư.
Bản chất của vấn đề này chính là phải bảo đảm giữ vững ổn định về chính
trị- xã hội. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững vai trò
lãnh đạo của ĐCSVN, tăng cường hiệu lực và quản lý của nhà nước, phát huy
đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có
tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng XHCN của
KTTT, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một
trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới.
Càng đi vào KTTT, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế

càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một
số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là
lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của
Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi theo con đường khác.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang KTTT - tức là nền kinh tế vận
động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì không
cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản
trở, làm “vướng chân” sự vận hành của kinh tế. Ý kiến này không đúng và thậm
chí rất sai lầm. Bởi vì, Việt Nam chủ trương phát triển KTTT nhưng không phải
để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng
dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa
số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều
kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản – là đảng phấn
đấu cho mục tiêu lý tưởng XHCN và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo
vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

9


Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển
của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính
trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế
chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có LLSX
không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng XHCN, tức là hạn chế
được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao
động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống
chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện
bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra.
Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong
sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân

dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục
tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành
mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái
hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước.
Tăng cường hiệu lực và quản lý của nhà nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Nhà nước của chúng ta là nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân. Vì vậy
Đảng ta xác định. Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy
hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị
trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ
động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị
trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường. Thấu triệt nội dung
này chúng ta cần làm tốt các yêu cầu sau đây:
Xác định lại và bổ xung kịp thời vị trí, vai trò, chức năng của nhà nước. Từ
đó hoàn thiện tổ chức, biên chế của nhà nước cho phù hợp với thực tiễn đặt ra.
Đặc biệt là việc phát huy vai trò của nhà nước trong xây dựng và hoàn thiện hệ
thống luật pháp, đảm bảo cho hệ thống luật của chúng ta đầy đủ, chặt chẽ tạo
tiền đề để định hướng XHCN cho nền KTTT.
Quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế phải phát huy được mọi tiềm năng,
thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa bảo đảm cho các thành phần kinh tế
phát triển tuân theo các quy luật của KTTT vừa chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật của nhà nước và bình đẳng trước pháp luật, vừa bảo đảm vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước. Đặc biệt là phát huy tốt vai trò làm chủ của nhân dân trên lĩnh
vực kinh tế.

10


Phát huy có hiệu quả chức năng chấn áp với chức năng tổ chức xây dựng
của nhà nước; chức năng đối nội với chức năng đối ngoại. trên cơ sở đó phát huy

tối đa nội lực, tận dụng ngoại lực để phát triển kinh tế. Đồng thời không ngừng
hoàn thiện cơ chế hoạt động giữa ba cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp
cùng với nâng cao sức mạnh của các tổ chức, các thiết chế về luật; thống nhất từ
trung ương đến địa phương trên cơ sở đó định hướng XHCN cho nền KTTT.
Nhà nước phải phát huy tốt vai trò làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực
kinh tế, nhất là việc chống tham ô, lãng phí, và các hiện tượng tiêu cực khác trên
lĩnh vực kinh tế. Để làm được điều này nhà nước cần có chính sách đặc thù về
lợi ích và bảo đảm an toàn cho người dân trong việc cung cấp thông tin cho các
cơ quan bảo vệ pháp luật hoặc trực tiếp tham gia đấu tranh bảo vệ lợi ích, tài sản
của nhà nước và nhân dân.
Hai là, nhà nước tạo môi truờng kinh tế vĩ mô ổn định cho phát triển kinh tế
Chúng ta phải thực hiện bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn
của nền kinh tế; giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng và sự hoạt
động an toàn, hiệu quả của các định chế tài chính, đây là một vấn đề rất quan
trọng và chúng ta cần thức hiện cho có hiệu quả để tránh những ảnh hưởng từ
các nhân tố kinh tế từ bên ngoài như gần đây là cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu xẩy ra trong các năm 2007 - 2009 và cuộc khủng
hoảng nợ công ở một số nước . Những cuộc khủng hoảng này là hậu quả của sự
phát triển không bền vững, gây mất ổn định toàn cầu và tác động đến tăng
trưởng của hầu hết các quốc gia, kinh tế thế giới suy giảm, thất nghiệp gia tăng,
xung đột xã hội lan rộng... Kinh nghiệm quốc tế cũng như của nước ta những
năm qua cho thấy giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài
chính, kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn
vừa là tiền đề để tăng trưởng nhanh vừa là nội dung của tăng trưởng bền vững.
Ba là, nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả và lành mạnh
Bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và không ngừng nâng cao chất
lượng tăng trưởng là yếu tố quyết định nhất để phát triển nhanh và bền vững. Có
đạt được tốc độ tăng trưởng cao, đất nước mới phát triển nhanh, rút ngắn khoảng
cách với các nước, mới tạo được nguồn lực để phát triển các lĩnh vực khác của
sự phát triển kinh tế bền vững. Mặt khác, có nâng cao chất lượng tăng trưởng

mới tăng được hiệu suất sử dụng vốn và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mới mở
rộng được thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trên
cơ sở đó, tạo ra giá trị gia tăng lớn cho đất nước, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế, bảo đảm nguồn lực cho tăng trưởng cao và ổn định trong dài hạn.
11


Nâng cao hiệu quả đầu tư công là một yếu tố quan trọng bảo đảm chất lượng
tăng trưởng. Hoàn thiện cơ chế giám sát và tăng cường công tác giám sát đầu tư.
Kiên quyết và có biện pháp mạnh mẽ chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí
trong đầu tư. Thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trên cả ba nội dung chính: Tái cơ
cấu đầu tư công; Tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng; Tái cơ cấu DNNN.
Thực hiện tốt các nội dung trên đây, chẳng những nâng cao được chất lượng
tăng trưởng, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, hạn chế được các tác động
tiêu cực trước những biến động từ bên ngoài, bảo đảm cho đất nước phát triển
bền vững mà còn tham gia có hiệu quả của xu thế phát triển trong nền kinh tế
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Bốn là, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội, đảm bảo định hướng XHCN.
Đây là nội dung rất quan trọng của phát triển bền vững. Sự bất bình đẳng
và phân hoá giàu nghèo ở mức cao tạo nên xung đột xã hội ở không ít các quốc
gia trên thế giới, làm suy giảm tăng trưởng. Vì vậy, Đảng ta chủ trương phải
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển. Chúng ta sẽ tập trung hơn cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, đa
dạng hóa các nguồn lực và phương thức để thực hiện giảm nghèo bền vững.
Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, đồng thời hạn chế phân hoá giàu nghèo,
chủ yếu thông qua chính sách điều tiết thu nhập, phát triển hệ thống phúc lợi xã
hội và an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tiếp tục hoàn
thiện cơ chế phân phối trong các doanh nghiệp, chính sách tiền lương, bảo đảm
công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

2.2. Các công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Một là, hệ thống pháp luật:
Nhà nước phải sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động
của các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế. Việc xây dựng hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh đối với quá trình phát triển lâu dài của KTTT. Nhưng có
thể khái quát trên các lĩnh vực
Thứ nhất, xác định các chủ thể pháp lý, tạo cho họ các quyền (năng lực
pháp lý) và hành động (khả năng kinh doanh) mang tính thống nhất
Thứ hai, quy định các quyền về kinh tế: quyền sở hữu, quyền sử dụng,
quyền định đoạt, chuyển nhượng, thừa kế.v.v..
Thứ ba, về hợp đồng kinh tế, các nguyên tắc cơ bản của luật hợp đồng.
Luật hợp đồng quy định quyền hoạt động của các chủ thể pháp lý, tức là các
hành vi pháp lý
12


Thứ tư, về sự đảm bảo của nhà nước đối với các điều kiện chung của nền kinh tế
có các luật: luật bảo hộ lao động, môi trường, doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội...
Thứ năm, về luật kinh tế đối ngoại phải phù hợp với thông lệ quốc tế
Hai là, kế hoạch và thị trường
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN đòi hỏi phải sử dụng hai công cụ quản lý cơ bản là kế
hoạch và thị trường. Việc sử dụng hai công cụ này không thể tách rời nhau mà là
sự vận dụng quy luật phát triển có kế hoạch để điều tiết tác động của quy luật giá
trị và vận dụng quy luật giá trị nhằm quản lý kinh tế phát triển theo kế hoạch (thị
trường là động cơ, kế hoạch là bánh lái của con thuyền).
Thứ nhất, từ chỗ đối lập kế hoạch với thị trường ngày nay chúng ta đã nhận
thức rõ cả kế hoạch lẫn thị trường đều là công cụ để quản lý nền kinh tế, trong
đó thị trường là căn cứ là đối tượng và là công cụ kế hoạch hoá
Thứ hai, nhà nước điều tiết thị trường thông qua kế hoạch hoá vĩ mô

Thứ ba, kế hoạch hoá gián tiếp bằng hệ thống chỉ tiêu cân đối, còn thị
trường dẫn dắt hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế căn cứ vào
nhu cầu thị trường.
Thứ tư, kế hoạch nhà nước bao gồm kế hoạch dài hạn và ngắn hạn.
Ba là, xây dưng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể hoạt động có hiệu quả
Kinh tế nà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân XHCN. Vì vậy sự hoạt động có hiệu
quả của hai thành phần kinh tế này có vai trò quyết định đối với các thành phần
kinh tế khác theo định hướng XHCN. Các thành phần kinh tế này mở đường và
hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh
và bền vững của nền kinh tế. Nhờ có hai thành phần kinh tế này mà nhà nước có
sức mạnh vật chất để điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thực hiện những mục
tiêu kinh tế- xã hội do kế hoạch đặt ra.
Bốn là, công cụ tài chính và chính sách tài khoá
Nội dung chính của công cụ tài chính và chính sách tài khoá là hệ thống
thuế. Mục đích để tăng thu cho ngân sách nhà nước. Chính sách thuế đúng đắn
không chỉ tăng thu cho ngân sách nhà nước mà còn khuyến khích sản xuất, xuất
khẩu, điều tiết tiêu dùng, khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực trong
nền kinh tế, thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước ngoài, khuyến khích việc
đầu tư có hiệu quả kinh tế- xã hội cao. Cụ thể thuế được áp dụng đối với các chủ
thể tham gia sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng, góp phần ổn định cung – cầu

13


(AD-AS), cân bằng thị trường. Do đó, trong thời gian tới phải thực hiện chính
sách tài khóa chặt chẽ, triệt để tiết kiệm cụ thể là:
Thứ nhất, phối hợp đồng bộ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ, tập
trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp về NSNN, bảo đảm thực hiện
các nhiệm vụ thu , chi theo dự toán đã được Quốc hội quyết định. Phấn đấu tăng

thu, triệt để tiết kiệm chi để tạo nguồn xử lý các nhiệm vụ chi cấp thiết phát sinh,
giữ bội chi ngân sách bằng dự toán.
Thứ hai, theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình thu NSNN, tăng cường chống
thất thu, xử lý nợ đọng thuế, chống chuyển giá, đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra thuế,
nhất là các lĩnh vực, khoản thu có khả năng thất thu cao; xây dựng, hoàn thiện cơ sở
dữ liệu thuế; tăng cường chế tài, thực thi pháp luật thuế.
Thứ ba, rà soát, quản lý chặt chẽ các khoản chi NSNN, bảo đảm trong
phạm vi dự toán NSNN; thực hiện nghiêm, có hiệu quả các biện pháp chống thất
thoát, lãng phí, tham nhũng; thực hành triệt để tiết kiệm chi thường xuyên. Ưu
tiên cho nhiệm vụ chính trị quan trọng, bảo đảm nguồn lực thực hiện chính sách
an sinh xã hội.
Thứ tư, xây dựng và triển khai thực hiện dự toán NSNN gắn với chiến lược
và định hướng phát triển trong từng thời kỳ, bảo đảm tính bền vững của ngân
sách, phản ánh được thứ tự ưu tiên trong phân bổ nguồn NSNN đối với từng
ngành, lĩnh vực.
Thứ năm, xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách tài chính, chi tiêu
các chương trình mục tiêu quốc gia. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát,
đôn đốc triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia. Đảm bảo phân bổ
dự toán đúng mục tiêu, nhiệm vụ, sử dụng kinh phí đúng chính sách chế độ, sử
dụng hiệu quả vốn NSNN.
Thứ sáu, thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính, ngân sách, tăng cường kiểm
tra, giám sát và công khai, minh bạch việc sử dụng NSNN. Tăng cường kiểm tra,
giám sát, thanh tra các khoản chi trong cân đối NSNN; vay về cho vay lại, bảo
lãnh vay của chính phủ; các khoản chi từ các quỹ tài chính nhà nước; tích cực
thu hồi các khoản vay, tạm ứng của các Bộ, Địa phương. Thực hiện minh bạch
hóa chi tiêu của NSNN và đầu tư công.
Thứ bảy, quản lý chặt chẽ nợ công và nợ nước ngoài quốc gia, bảo đảm an
toàn về nợ và an ninh tài chính quốc gia. Tăng cường công tác giám sát, quản lý
rủi ro. Quản lý chặt chẽ nợ dự phòng (nợ do chính phủ bảo lãnh, vay về cho vay
lại thông qua các tổ chức tín dụng nhà nước…). Thực hiện quản lý, giám sát chặt

chẽ và cơ cấu lại nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia. Tăng cường
14


quản lý, kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay. Bố
trí nguồn trả nợ các khoản vay nước ngoài đến hạn, không để xảy ra tình trạng
nợ quá hạn.
Thứ tám, đẩy mạnh phát triển đa dạng hóa thị trường trái phiếu theo hướng
tăng cường các công cụ nợ có kỳ hạn dài từ 10 năm trở lên; rà soát các quy định
về phát hành trái phiếu doanh nghiệp để tạo thêm điều kiện cho các doanh
nghiệp huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ngoài nguồn vốn tín
dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Thứ chín, thực hiện đầy đủ và nhất quán các biện pháp về tăng cường quản
lý đầu tư từ vốn NSNN và vốn trái phiếu chính phủ. Rà soát, sắp xếp thứ tự ưu
tiên các dự án đầu tư của Nhà nước, Ưu tiên bố trí vốn cho các dự án đã hoàn
thành đưa vào sử dụng nhưng chưa bố trí đủ vốn, các dự án, các công trình trọng
điểm, cấp bách, hiệu quả; bố trí hoàn trả vốn đã được ngân sách ứng trước. Hạn
chế tối đa khởi công dự án mới sử dụng vốn NSNN. Kiên quyết thực hiện cắt
giảm, hoãn/ lùi thời gian chi đối với các khoản chi chưa thực sự cần thiết, điều
chuyển hoặc thu hồi vốn đầu tư đối với các công trình, dự án chậm triển khai,
không hiệu quả, phân bổ vốn và sử dụng không đúng đối tượng. Không ứng
trước vốn NSNN, trái phiếu chính phủ cho các công trình, dự án để tập trung
nguồn lực cho những nhiệm vụ chi quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo
đảm an sinh xã hội ( như các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai,
dịch bệnh, quốc phòng, an ninh cấp bách).
Năm là, công cụ tiền tệ và chính sách tiền tệ
Trong nền kinh tế, tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc thắt chặt
hay nới nỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ
thống ngân hàng, nhất là ngân hàng nhà nước với tư cách là ngân hàng của các
ngân hàng (thông qua hoạt động của thị trường mở; quy định tỷ lệ dự trữ bắt

buộc đối với các ngân hàng thương mại; thực hiện lãi xuất chiết khấu) sẽ tác
động trực tiếp đến tình hình kinh tế. Bằng công cụ tiền tệ, nhà nước có thể
hướng dẫn nền kinh tế phát triển và ngăn chặn khủng hoảng, suy thoái, lạm phát,
thất nghiệp. Vì vậy, thực hiện chính sách tiền tệ phải linh hoạt, thận trọng hiệu
quả. Do đó cần tập trung làm tốt các nội dung sau :
Thứ nhất, điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, hiệu quả, sử dụng linh
hoạt, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ, gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với
chính sách tài khóa nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tăng
cường ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng hợp lý.

15


Thứ hai, điều hành lãi xuất và tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô,
mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an toàn thanh
khoản và hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng và của nền kinh tế.
Thứ ba, điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường, bảo đảm giá trị đồng tiền
Việt Nam, hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường vàng, tập trung khắc phục bất
cập trong quản lý, ổn định thị trường vàng, bảo đảm giá vàng trong nước sát với
giá vàng quốc tế; thực hiện các biện pháp đồng bộ để cải thiện cán cân thanh
toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối.
Thứ tư, mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân hàng và thanh toán
không dùng tiền mặt trong nền kinh tế; tiếp tục triển khai có hiệu quả đề án đẩy
mạnh thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2010 – 2015 của Thủ tướng
Chính phủ.
Thứ năm, cơ bản hoàn thành việc cơ cấu lại các tổ chức tài chính, tín dụng yếu
kém, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tài chính, ngân
hàng; hỗ trợ phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán.
Sáu là, các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại
Để tham gia một cách có hiệu quả vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập

kinh tế quốc tế. Nhà nước xúc tiến các hoạt động kinh tế đối ngoại, bằng việc sử
dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất- nhập khẩu, hạn
nghạch(quota), tỷ giá hối đoái, bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất
khẩu.v.v..
Thông qua những công cụ này, nhà nước có thể khuyến khích việc xuất, nhập
khẩu đồng thời lại bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất nội địa, nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá trong nước, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài ngày càng nhiều
đồng thời vẫn giữ vững độc lập chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong thời
gian tới cần tập trung làm tốt các nội dung sau đây:
Đối với hàng xuất khẩu, cần thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách kiểm
soát chất lượng hàng xuất khẩu; tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng thị
trường xuất khẩu, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các đối tác, không để
lệ thuộc quá lớn vào một thị trường. Nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị
trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường. Tăng mức
xuất khẩu trên tất cả các thị trường đã có song song với việc đẩy mạnh xuất khẩu
vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện còn chiếm tỷ trọng thấp, tăng
cường thâm nhập các thị trường mới.
Đối với hàng nhập khẩu, thực hiện kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng nhập khẩu
không khuyến khích, các mặt hàng trong nước đã sản xuất được, cần hạn chế nhập
16


khẩu. Rà soát, xây dựng, ban hành các quy định về quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật,
chất lượng hàng nhập khẩu, bảo đảm kiểm soát được chất lượng, phù hợp với thực tế
nước ta và thông lệ quốc tế, ngăn chặn có hiệu quả việc nhập khẩu hàng hóa có tiêu
chuẩn chất lượng lạc hậu, không đáp ứng yêu cầu.

3. Những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy, phát
triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng KTTT không phải là sản phẩm

của chủ nghĩa tư bản mà đây là sản phẩm phát triển kinh tế của nhân loại và
KTTT định hướng XHCN không phải là khuôn mẫu đã được đúc sẵn. Thực tế
trên thế giới chưa có bất cứ một quốc gia , dân tộc nào thực hiện và thực hiện
thành công mô hình này. Mà đây chính là sự vận dụng một cách linh hoạt, sáng
tạo lý luận kinh tế chính trị học của chủ nghĩa Mác- lê nin nói chung; lý luận về
kinh tế chính trị Việt nam nói riêng về xây dựng CNXH của Đảng ta phù hợp
với đặc điểm, điều kiện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
3.1. Quan điểm phát triển nền KTTT định hướng XHCN
Văn kiện đại hội lần thứ XI Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “ Phát
triển mạnh mẽ LLSX, xây dựng QHSX phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế
KTTT định hướng XHCN. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát
triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa
mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.
Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất,
dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh
chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh
tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri
thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh”. Do
đó để phát triển nền KTTT định hướng XHCN chúng ta cần thấu triệt các quan
điểm sau đây:
3.1.1. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh
CNH, HĐH phát triển nhanh, bền vững
Trong quản lý, điều hành nền kinh tế hiện nay chúng ta phải chú trọng cả
hai thành tố là vai trò của thị trường và vai trò quản lý của nhà nước. Không
được tuyệt đối hoá bất cứ thành tố nào. Song thị trường là yếu tố năng động nó
luôn vận động, biến đổi. Do đó nhà nước cũng phải có những chính sách phù
hợp với sự biến đổi đó. Vì vậy việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
17



kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển nhanh, bền vững là đòi hỏi
khách quan của cuộc sống. Quán triệt quan điểm này cần thực hiện tốt các yêu
cầu sau đây:
Một là, việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế phải được
tiến hành thận trọng, bình tĩnh, kiên trì, công tác chuẩn bị phải tỉ mỉ, đầy đủ, chu
đáo. Không được chủ quan, nôn nóng, đồng thời phải được tiến hành có trọng
tâm, trọng điểm tập trung vào tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức
tín dụng, tái cơ cấu DNNN. Song phải bảo đảm cho KTTT phát triển theo đúng
định hướng XHCN.
Hai là, Tái cơ cấu nền kinh tế phải gắn chặt với CNH, HĐH. Cùng với đổi
mới, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là đầu tư, phát triển và ứng dụng những
thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. ưu tiên
trước hết là các nghành kinh tế then chốt, mũi nhọn mà chúng ta xác định là
xương sống của nền kinh tế đó chính là các tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công
ty kinh tế nhà nước. Vì đây chính là cơ sở nền tảng để chúng ta duy trì, củng cố,
xây dựng, tạo lập, phát triển các yếu tố thị trường và hoàn thiện thể chế KTTT
định hướng XHCN.
Ba là, Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển nhanh, bền vững. Song vẫn
phải xác định rõ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là trọng tâm. Đồng thời
gắn phát triển nhanh với ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm duy trì tăng trưởng
hợp lý, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội. Hết
sức tránh việc phát triển quá nhanh, quá nóng dẫn đến những hệ quả đáng tiếc
như: khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, khoảng cách giàu nghèo gia tăng,
nguồn tài nguyên cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm…
3.1.2. Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN
Một trong những hạn chế lớn nhất hiện nay của chúng ta đó là việc xây
dựng thể chế và thực thi thể chế. Vì vậy văn kiện đại hội 11 Đảng ta xác định:
“Phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhà nước quản
lý nền KTTT định hướng XHCN bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô,

tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường,
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, định
hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực
của cơ chế thị trường; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh
vực kinh tế”. Thấu triệt quan điểm này cần thực hiện tốt các yêu cầu sau đây:
Một là, Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền KTTT
18


Cốt lõi của vấn đề này chính là bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Về vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước Đảng ta xác định nhà nước là cổ đông lớn nhất, sở hữu lớn nhất
khống chế, chi phối trong các doanh nghiệp mà nhà nước tham gia cụ thể là:
Kinh tế nhà nước phải nắm giữ những nghành kinh tế then chốt, mũi nhọn,
yết hầu, xương sống của nền kinh tế. kinh tế nhà nước phải là phong vũ biểu của
nền kinh tế như ngân hàng, năng lượng, giao thông vận tải, bưu chính viễn
thông.v.v..
Kinh tế nhà nước phải mở đường, hỗ trợ, dẫn dắt các thành phần kinh tế
khác phát triển theo quỹ đạo xã hội chủ nghĩa; Làm lực lượng vật chất để nhà
nước thực hiện chức năng điều tiết, định hướng và quản lý vĩ mô nền kinh tế;
Kinh tế nhà nước phải là nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nhà nước phải đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả; ứng dụng
những thành tựu của khoa học công nghệ; Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế, chấp hành pháp luật và giải quyết các vấn đề xã hội.
Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không phải nặng về số lượng, tỷ
trọng trong nền kinh tế mà quan trọng nhất là khả năng chi phối, dẫn dắt, định hướng
phát triển toàn bộ nền kinh tế của xã hội. Điều quan trọng nhất là bảo đảm tính hiệu
quả trong quá trình phát triển, vì đây chính là yếu tố quan trọng để các thành phần
kinh tế khác học tập, noi theo và nó là cốt lõi trong việc bảo đảm vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

Hai là, Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp
Nghị quyết đại hội đảng lần thứ XI của chúng ta xác định tiếp tục duy trì phát
triển các loại hình sở hữu cơ bản đó là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân. Đồng thời với việc phát triển các thành phần kinh tế bao gồm: kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mục đích là phát
huy thế mạnh và khai thác tối đa mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế để phát
triển đồng bộ các yếu tố thị trường và hoàn thiện thể chế KTTT.
Ba là, Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Hiện nay, chúng ta xác định các loại thị trường cơ bản gồm có: thị trường
hàng hoá, thị trường sức lao động, thị trường chứng khoán, thị trường vốn, thị
trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ. Sáu loại thị trường cơ bản
trên có quan hệ biện chứng , chặt chẽ, thống nhất với nhau bảo đảm cho KTTT
của chúng ta tồn tại và phát triển. Vấn đề đặt ra ở đây là trong quá trình phát
triển chúng ta không được quá đề cao, tuyệt đối hoá hoặc xem nhẹ bất cứ loại thị
19


trường nào. Bởi vì chúng đều là những thành tố góp phần thúc đẩy, phát triển
đồng bộ các yếu tố thị trường và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN.
Bốn là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước đối với nền KTTT định hướng XHCN
Thực tiễn đã chứng minh rằng lợi ích của đảng chính là lợi ích của nhân
dân và toàn thể dân tộc. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và là một bộ phận của
hệ thống chính trị, do đó chỉ có giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
thì mới có thể nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền
KTTT định hướng XHCN .Và đây cũng chính là cơ sở, là tiền đề để chúng ta
xây dựng, củng cố và hoàn thiện thể chế KTTT.
3.1.3. Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Nhà nước của chúng ta là nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân. Vì vậy

Đảng ta xác định. Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy
hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị
trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ
động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị
trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường. Thấu triệt quan điểm
này chúng ta cần làm tốt các yêu cầu sau đây:
Một là, xác định lại và bổ xung kịp thời vị trí, vai trò, chức năng của nhà
nước. Từ đó hoàn thiện tổ chức, biên chế của nhà nước cho phù hợp với thực
tiễn đặt ra. Đặc biệt là việc phát huy vai trò của nhà nước trong xây dựng và
hoàn thiện hệ thống luật pháp, đảm bảo cho hệ thống luật của chúng ta đầy đủ,
chặt chẽ tạo tiền đề hoàn thiện thể chế KTTT.
Hai là, quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế phải phát huy được mọi tiềm
năng, thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa bảo đảm cho các thành phần
kinh tế phát triển tuân theo các quy luật của KTTT vừa chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật của nhà nước và bình đẳng trước pháp luật, vừa bảo đảm vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước. Đặc biệt là phát huy tốt vai trò làm chủ của nhân dân
trên lĩnh vực kinh tế.
Ba là, phát huy có hiệu quả chức năng chấn áp với chức năng tổ chức xây
dựng của nhà nước; chức năng đối nội với chức năng đối ngoại. trên cơ sở đó
phát huy tối đa nội lực, tận dụng ngoại lực để phát triển kinh tế. Đồng thời
không ngừng hoàn thiện cơ chế hoạt động giữa ba cơ quan: lập pháp, hành pháp
và tư pháp cùng với nâng cao sức mạnh của các tổ chức, các thiết chế về luật;
thống nhất từ trung ương đến địa phương trên cơ sở đó không ngừng hoàn thiện
thể chế KTTT.
20


3.1.4. Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an
sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành phân phối theo lao động và hiệu quả sản

xuất kinh doanh cũng như tỷ lệ vốn góp trong doanh nghiệp. Và một trong
những khuyết tật của KTTT đó chính là khoảng cách giàu nghèo ngày một gia
tăng, trong khi đó mục tiêu của CNXH là tất cả vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy thấu triệt quan điểm này cần thực
hiện tốt các yêu cầu sau đây:
Một là, quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch phải căn cứ vào đặc điểm,
yêu cầu, nhiệm vụ cũng như điều kiện thực tế của từng vùng, từng nghành, từng
địa phương vừa bảo đảm về mặt lâu dài cũng như trước mắt cho sự phát triển cả
về tổng thể và cụ thể. Đồng thời phải phân định rõ quyền hạn, nghĩa vụ, trách
nhiệm trong quá trình phát triển gắn với bảo đảm công bằng và an sinh xã hội
đối với mỗi cá nhân và từng tổ chức trong thực thi nhiệm vụ của mình.
Hai là, phát huy một cách có hiệu quả vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
trong việc bảo đảm công bằng và an sinh xã hội. Kinh tế nhà nước phải là mẫu
hình về bảo đảm công bằng và an sinh xã hội để các thành phần kinh tế khác học
tập noi theo, trước hết là về phân phối thu nhập, giải quyết việc làm, xoá đói
giảm nghèo trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời phải làm tốt công tác tuyên
truyền để khơi dậy lòng tự hào và truyền thống dân tộc cho mọi cá nhân và từng
tổ chức cùng tham gia giải quyết một cách có hiệu quả vấn đề này.
Ba là, Phải có chính sách, cơ chế đặc thù về bảo đảm công bằng và an sinh
xã hội cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng dân tộc thiểu số vùng
biên giới, hải đảo đảm bảo cho các vùng này phát triển theo kịp sự phát triển
chung của toàn quốc. Nếu chúng ta làm tốt việc này nó sẽ là tiền đề, cơ sở để
khắc phục những khuyết tật của KTTT.
3.2. Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy, phát triển nền KTTT định
hướng XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Phát triển KTTT định hướng XHCN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta nhằm phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực khai thác tối đa mọi tiềm năng
của đất nước, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020. Với mục tiêu cao cả : dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, trên cơ sở những quan điểm đã được trình bày ở trên chúng tôi

đề xuất một số giải pháp cơ bản để tổ chức thực hiện sau đây:
3.2.1. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.

21


Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên CNXH là một tất yếu khách quan, là một trong những điều kiện, cơ sở để thúc
đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp
của mọi thành phần kinh tế. Đây là điều kiện tiên quyết để khai thác tối đa mọi tiềm
năng, thế mạnh của đất nước, phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, tận
dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy kinh tế phát triển.
Cùng với việc đổi mới, củng cố kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, việc
khuyến khích thừa nhận các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ. Song phải bảo đảm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể phải trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân. Vì đây chính là cốt lõi trong việc bảo đảm tính định
hướng XHCN của nền KTTT.
Như vậy, tất cả các thành phần kinh tế trên đều bình đẳng trước pháp luật,
tuy vị trí quy mô, tỷ trọng trình độ khác nhau nhưng tất cả đều là nội lực của nền
kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Do đó quá trình quản lý, điều hành
phát triển nền kinh tế không được phân biệt, đối xử giữa các thành phần kinh tế.
Điều này phải được thống nhất từ nhận thức ở tất cả các cấp, các nghành, từ
trên xuống dưới. Đồng thời phải được cụ thể hoá và thể hiện rõ ràng, đầy đủ
trong xây dựng thể chế KTTT nhất là trong thực thi thể chế KTTT trên thực tiễn.
3.2.2. Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ tạo
lập đồng bộ các yếu tố thị trường.
Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát

triển kinh tế hàng hoá cần:
Mở rộng phân công lao động, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm
vi cả nước nhằm: khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng
có hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, tạo việc làm cho người lao động.
Trước mắt cần tập trung phát triển mạnh công nghiệp chế biến, dịch vụ, du lịch.
Đồng thời đẩy nhanh sản xuất hàng hoá trong lĩnh vực nông nghiệp. Qúa trình
phát triển phải bảo đảm cân đối, hài hoà giữa các vùng, miền, nghành và phù
hợp với đặc điểm, điều kiện của từng địa phương cũng như phạm vi cả nước.
Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm : Gắn phân công lao
động trong nước với phân công lao động quốc tế; Gắn thị trường trong nước với
thị trường thế giới. Phải tận dụng được lợi thế so sánh của chúng ta và nước
ngoài, phải tranh thủ được nguồn vốn của bạn, đồng thời tiếp thu, hợp tác, phát
22


triển, ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ của nước ngoài vào
sản xuất, kinh doanh phù hợp với thực tiễn nước ta, mặt khác phải kế thừa, học
tập trình độ quản lý tiên tiến của các nước vào điều hành phát triển kinh tế đất
nước. Cùng với mở rộng thị trường từng bước đưa nền kinh tế tham gia vào
chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu của nền kinh tế thế giới.
Cần phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản: thị trường hàng hoá, thị trường lao động, thị trường bất động sản,
thị trường khoa học công nghệ, thị trường vốn và thị trường chứng khoán. Vấn
đề đặt ra ở đây chính là chúng ta phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước
và thị trường. Cụ thể là phải vận dụng các quy luật của KTTT một cách linh
hoạt, mềm dẻo phù hợp với thực tiễn và yêu cầu của phát triển nền kinh tế.
3.2.3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ,
đẩy mạnh CNH, HĐH.
Trong KTTT, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu
thường xuyên đổi mới khoa học và công nghệ, để hạ chi phí nâng cao chất lượng

sản phẩm. Muốn vậy:
Phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào
quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Bởi vì, để phát triển kinh tế hàng hóa
chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. Vì thế cần gấp rút xây
dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện
đại. Trước mắt nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng nâng cấp một số yếu tố
thiết yếu như đường sá, cầu cống, bến cảng, điện nước, thông tin liên lạc, ngân
hàng, dịch vụ, quản lý, bảo hiểm.v.v..
Cụ thể là, cần đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu
khoa học công nghệ vào quản lý, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. kết hợp công
nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, đồng thời đi tắt đón đầu vào những
nghành then chốt, mũi nhọn làm sao phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện của
từng nghành, từng địa phương. Điều này đỏi hỏi chúng ta phải có chính sách phù
hợp về đầu tư bảo đảm khuyến khích, thúc đẩy chất lượng nghiên cứu và ứng
dụng khoa học, kỹ thuật vào các hoạt động kinh tế. Vì khoa học công nghệ cùng
với nguồn nhân lực sẽ là những thành tố quyết định sự phát triển các yếu tố của
thị trường, đồng thời nó sẽ tạo tiền đề để thiết lập hoàn thiện thể chế KTTT.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước
phải gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp
23


nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế;
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất
lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm
phát triển hài hoà giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh
tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn.
Điều này sẽ góp phần khắc phục những khuyết tật của KTTT.

3.2.4. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi
mới các chính sách tài chính, tiền tệ giá cả.
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển. Nó
là điều kiện quan trọng để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước
ngoài yên tâm đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cụ thể là:
Trước hết phải nâng cao năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trong
phát triển kinh tế. Cụ thể là nhận định, đánh giá tình hình thế giới, khu vực, và xu
hướng vận động, phát triển của nó như thế nào trong từng thời kỳ và mỗi giai đoạn
nó tác động tích cực, tiêu cực ra sao đến phát triển kinh tế trong nước. Đồng thời
lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành tổng kết thực tiễn sau khi thực hiện nghị quyết của từng
thời kỳ và mỗi giai đoạn đối với từng nghành, từng địa phương trên cơ sở đó tiến
hành tổng kết ở cấp trung ương từ đó chỉ rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút
ra bài học kinh nghiệm kịp thời sửa chữa khắc phục.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là việc vận dụng một cách
linh hoạt, sáng tạo các quy luật kinh tế khách quan phù hợp với đặc điểm, tình
hình, điều kiện thực tiễn của đất nước để xây dựng nghị quyết lãnh đạo phát
triển kinh tế trong thời gian tiếp theo. Sau đó phải tổ chức tuyên truyền nghị
quyết một cách sâu rộng đến tất cả các cá nhân và mọi tổ chức trong toàn xã hội
trên cơ sở đó thống nhất về nhận thức từ đó thống nhất về hành động trong tổ
chức thực hiện.
Công việc tiếp theo là triển khai và tổ chức thực hiện nghị quyết một cách
quyết liệt, nghiêm túc có hiệu quả đối với tất cả các cấp, các nghành, các địa
phương trên phạm vi toàn quốc. Điều quan trọng và cấp bách đặt ra đó là việc
kiểm tra thực hiện nghị quyết phải được tiến hành khẩn trương, nghiêm túc kể cả
kiểm tra theo kế hoạch và kiểm tra đột xuất từ đó phát hiện kịp thời những sai
phạm, lệch lạc, sau đó có biện pháp phù hợp, kịp thời để điều chỉnh, uốn nắn
những sai lệch đó.
Nói tóm lại, là phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong phát triển
KTTT định hướng XHCN tức là nâng cao năng lực ở cả bốn quy trình đó là: ra

24


nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết và
sơ tổng kết việc thực hiện nghị quyết.
Bên cạnh đó phải tăng cường hiệu lực và quản lý của nhà nước và hoàn
thiện hệ thống pháp luật. Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của KTTT. Là
một bộ phận của hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng với chức năng
chấn áp và tổ chức xây dựng. Trong đó chức năng xây dựng là chủ yếu đơn cử
như xây dựng luật, tổ chức thực hiện luật, kiểm tra giám sát việc thực hiện luật,
với mục tiêu trước hết là bảo đảm mọi công dân, mọi tổ chức, mọi thành phần
kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. vì chỉ có bình đẳng trước pháp luật mới
có thể bình đẳng trên các lĩnh vực khác.
Mặt khác, thông qua các công cụ của mình như công an, quân đội… nhà
nước phải bảo đảm một môi trường thật sự ổn định, hoà bình, trong sạch, lành
mạnh cho phát triển kinh tế nhất là trong điều kiện chúng ta tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc ổn định về chính trị là cơ sở để kêu
gọi và thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào nước ta một cách có hiệu quả.
Đặc biệt, với chức năng xây dựng của mình nhà nước( cụ thể là chính phủ)
phải không ngừng nâng cao năng lực xây dựng thể chế và thực thi thể chế cùng
với nó là năng lực dự báo và năng lực phản ứng chính sách trong phát triển kinh
tế tất cả những năng lực này phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước, phải mang
lại và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân cả trước mắt và lâu dài. Vì đây
chính là cơ sở là điều kiện để thúc đẩy, phát triển các thành phần kinh tế.
Cùng với nó, nhà nước phải phát huy cao độ vai trò của các cơ quan thanh
tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế. Từ đó phát hiện kịp thời những sai
lệch , trên cơ sở đó tham mưu, kiến nghị, đề xuất và có biện pháp xử lý điều
chỉnh kịp thời bảo đảm các hoạt động kinh tế tuân theo đúng đường lối , chủ
trương, chính sách của Đảng, hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời, nhà nước phải phát huy tốt vai trò làm chủ của Nhân dân trên

lĩnh vực kinh tế, nhất là việc chống tham ô, lãng phí, và các hiện tượng tiêu cực
khác trên lĩnh vực kinh tế. Để làm được điều này Nhà nước cần có chính sách
đặc thù về lợi ích và bảo đảm an toàn cho người dân trong việc cung cấp thông
tin cho các cơ quan bảo vệ pháp luật hoặc trực tiếp tham gia đấu tranh bảo vệ lợi
ích, tài sản của Nhà nước và Nhân dân.
Song Nhà nước cũng cần có các biện pháp mạnh đối với cá nhân và các tổ
chức có tư tưởng, quan điểm, hành vi vi phạm pháp luật, trái với thuần phong
mỹ tục, bản sắc văn hoá dân tộc và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Trước hết
là các tệ nạn xã hội, tiếp đến là các cá nhân và các tổ chức phản động ở cả trong
25


×