Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM, QUAN điểm và PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN QUA các THỜI kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.8 KB, 30 trang )

CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUA CÁC THỜI KỲ
MỤC LỤC
Trang
2

Më ®Çu
1

Vị trí và Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc
dân

3

1.1 Vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

3

1.2 Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

3

2

Quan điểm của Đảng ta về phát triển công nghiệp qua các
kỳ đại hội

4

3


Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua

9

3.1 Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua.

9

3.2 Những nguyên nhân chủ yếu gây nên hạn chế về phát triển
công nghiệp Việt Nam.

12

4

Những bài học kinh nghiệm và Phương hướng giải pháp
phát huy vai trò công nghiệp Việt Nam trong sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước

14

4.1

Những bài học kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát
triển công nghiệp nước ta.

14

4.2


Phương hướng CNH-HĐH các ngành KTQD nước ta trong
những năm tới.

15

4.3 Phương hướng phát triển công nghiệp Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.

17

4.4 Các giải pháp chủ yếu để phát triển công nghiệp trong thời kỳ
CNH-HĐH đất nước.

24

5

Dự báo sự phát triển công nghiệp Việt Nam trong những
năm tới

26

KẾT LUẬN

29

TÀI LIỆU THAM KHẢO

30
MỞ ĐẦU


Trong các ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân thì công nghiệp
là một ngành sản xuất vật chất rất quan trọng. “Công nghiệp trở thành một
1


ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó là kết quả của sự phát triển lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội”.
Trong nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay có nhiều thành phần kinh tế
cùng nhau tham gia hoạt động đan xen nhau theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước thì vấn đề công nghiệp hoá ở nước ta là một tất yếu khách quan
của lịch sử phát triển kinh tế. Quá trình này diễn ra trong điều kiện nước ta là
một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, tụt hậu khá xa so
với các nước phát triển, thua kém nhiều đối với các nước trong khu vực về trình
độ, khó khăn về vấn đề vốn, thị trường tiêu thụ, kinh nghiệm vận hành theo nền
kinh tế thị trường và quản lý sản xuất kinh doanh theo cơ chế mới. Trong điều
kiện như vậy cần nghiên cứu vấn đề công nghiệp của nước ta theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hóa là rất cần thiết. Liệu Việt Nam có thể trở thành một
nước phát triển nhờ con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa dựa trên cơ sở
phát triển nghành công nghiệp được hay không đó là vấn đề mà chúng ta đang
cần nghiên cứu.
Thực tế đã chứng minh, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền sản
xuất là điều kiện tiên quyết đối với hầu hết các nước đang phát triển muốn vươn
lên hàng các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao. Tuy nhiên đây
không phải là một quá trình đơn giản, nó không đơn thuần là sự chuyển tiếp kinh
tế, cơ cấu ngành sản xuất theo hướng tăng tỷ lệ công nghiệp trên nông nghiệp
trong phạm vi toàn quốc, mà là một quá trình phức tạp, lâu dài. Đây là một quá
trình chuyển đổi tổng thể, bao quát nhiều vấn đề quan trọng của nền kinh tế vĩ
mô mà sự thành công hay không của quá trình này có tính quyết định đến mục
tiêu CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân.

Với lý do trên em xin được chọn chủ đề “Công nghiệp Việt Nam quan
điểm và phương hướng giải pháp phát triển qua các thời kỳ” làm bài tiểu
luận của môn lịch sử kinh tế quốc dân.
NỘI DUNG
1. Vị trí và Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
1.1 Vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

2


Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc
dân bao gồm tất cả các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các xí nghiệp công
nghiệp thực hiện chức năng khai thác, chế biến, sửa chữa. Sản phẩm của công
nghiệp là toàn bộ công cụ lao động phần lớn đối tượng lao động và vật phẩm
tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của xã hội .
Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập, là một
trong hai ngành sản xuất vât chất cơ bản của nền kinh tế quốc dân, trình độ phát
triển của công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển
kinh tế của một quốc gia. Đó chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất
và phân công lao động xã hội. Trong nền kinh tế hàng hóa phát triển, sản xuất
công nghiệp hoạt động theo nhu cầu của các quan hệ sản xuất hàng hóa như quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh....
Trong những năm qua, công nghiệp nước ta đã trải qua một quá trình lịch
sử đầy thử thách cam go, ác liệt để tồn tại và phát triển, chúng ta đã bước đầu
xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, trình phát triển
công nghiệp được vận động theo một trình tự nhất định.
Nghiên cứu lịch sử phát triển công nghiệp cho thấy: “Công nghiệp không
chỉ tái sản xuất cơ sở vật chất cho xã hội mà còn tái sản xuất ra các quan hệ sản
xuất khác nhau trên bước đường phát triển của mình.
1.2 Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

Vai trò của công nghiệp là sự ảnh hưởng quyết định của công nghiệp đến
việc phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân đồng thời
công nghiệp có khả năng tạo ra những hình mẫu để các ngành kinh tế khác phát
triển theo hướng sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa. Vì công nghiệp có lực
lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất tiên tiến hơn các ngành kinh tế
khác. Lực lượng lao động trong ngành công nghiệp có trình độ cao hơn các
ngành khác đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp. Đối tượng lao động của công
nghiệp rất phong phú và đa dạng (cả tự nhiên và nhân tạo).
Mặt khác, sản xuất công nghiệp là sản xuất chuyên môn hóa phân công lao
động và hợp tác lao động chặt chẽ và hình thức tổ chức quản lý ở trình độ cao
nên hình thành các nhà máy, các xí nghiệp, các khu công nghiệp tập trung.
3


Trong cách mạng quan hệ sản xuất: công nghiệp quyết định sự phát triển
của các ngành kinh tế quốc dân chủ yếu lên sản xuất lớn, sản xuất hàng hóa.
Công nghiệp là ngành duy nhất trang bị công cụ lao động cho tất cả các ngành
kinh tế khác. Vì vậy, tốc độ và sự phát triển của công nghiệp quyết định đến
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động và hiệu quả sản
xuất. Đồng thời quá trình đó cũng tác động tới quá trình phân công lao động.
Công nghiệp trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế (nhất là nông nghiệp). Như
vậy, sức mạnh của công nghiêp không chỉ có tác dụng củng cố và hoàn thiện
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong bản thân công nghiệp mà còn có tác
dụng to lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
2. Quan điểm của đảng về phát triển công nghiệp qua các kỳ đại hội.
Thực tiễn lịch sử đã chỉ ra để thủ tiêu tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, khai
thác tối ưu các nguồn lực và các lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và
ổn định, giải quyết cơ bản các vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách... Con đường để
đạt được nhanh nhất là công nghiệp hóa (CNH). Sự nghiệp CNH ở nước ta được
bắt đầu từ năm l960, từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960). Đảng đã

khẳng định: “Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là
CNH XHCN mà mấu chốt là phát triển nền công nghiệp nặng” (1) và chủ trương
CNH là “Xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công
nghiệp với nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm nền tảng, ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển công nghiệp và công
nghiệp nhẹ”(2). Chiến lược này được củng cố và bổ sung qua các thời kỳ đại hội
IV(1976), V(1981) và các hội nghị trung ương, đại hội Đảng. Để thực hiện chiến
lược này, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, tranh
thủ sự viện trợ và giúp đỡ của các nước bạn XHCN, có khoảng thời gian chúng
ta đã hình thành được một nền kinh tế đa ngành, có các ngành quan trọng như cơ
khí, luyện kim, điện năng, khai thác than...
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ IV (1976) đề ra đường lối: “Xây dựng kinh
tế XHCN, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,
(1)
(2)

Đảng Lao động Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III, 1960.
Đảng Lao động Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III, 1960.

4


xây dựng công nghiệp với nông nghiệp cả nước thành cơ cấu kinh tế công-nông
nghiệp…”(3).
Sau năm 1975 thống nhất đất nước do đòi hỏi phải có chiến lược CNH thích
hợp hơn. Nhưng thực tế, đường lối CNH do Đảng đề ra vẫn giữ nguyên. Do chủ
trương nôn nóng chủ quan duy ý chí dẫn tới một số sai lầm trong công tác chỉ
đạo, trong cơ chế và chính sách nền thời kỳ đầu 1976-1980 nền kinh tế lâm vào
tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và

mất cân đối nghiêm trọng. Nông nghiệp kém phát triển không đáp ứng được nhu
cầu trong nước, công nghiệp nặng không phát huy được tác dụng. Thời kỳ 19761980 tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%; thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,6%.
Trong khi đó dân số tăng 2,24%/năm, sản xuất công nghiệp bình quân chỉ tăng
0,6%, trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất nông nghiệp tăng
bình quân 1,9%. Quá trình CNH diễn ra có nhiều khó khăn và chậm chạp vì thiếu
những tiền đề kinh tế cơ bản. Hiệu quả kinh tế rất thấp so với nguồn vốn và công
sức bỏ ra. Nguồn lực bị lãng phí nhiều, chưa có tích lũy nội bộ.
Do nóng vội trong cải tạo XHCN, hạn chế sự phát triển của các thành phần
kinh tế tư nhân và cá thể vì vậy không huy động được các nguồn lực trong nước
tham gia vào CNH đất nước. Trước tình hình đó Đại hội Đảng toàn quồc lần thứ
V(1982) đã xác định: “Nội dung chính của CNH XHCN trong những năm tới là
tập trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu
đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng, tiếp
tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng”

(4)

. Sự thay đổi đó

bước đầu đã có tác dụng đến phát triển kinh tế - xã hội và CNH. Bình quân hàng
năm sản xuất công nghiệp tăng 0,5%; Thu nhập quốc dân tăng từ 20,5% năm
1980 lên 30% năm 1985. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa V
của Đảng cộng sản Việt Nam đã coi “Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là
tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình
chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự
tăng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân" (KTQD)
(3)
(4)

Giáo trình Lịch sử kinh tế

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V.

5


và đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã quán triệt tư tưởng
CNH: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng cao, bền vững và có
hiệu quả" Đại hội Đảng VI đã khẳng định: "Tiếp tục nắm vững hai chiến lược:
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện
đại hóa"(5).
Từ năm 1986, đây là thời kỳ đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức
quan điểm và tổ chức chỉ đạo thực hiện Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ quan
điểm và chủ trương, phương hướng đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, Đại hội khẳng định: “Tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong
chặng đường tiếp theo”(6) và “Trước mắt là kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật
sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được 3 chương trình mục
tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” (7). Từ quan
điểm và chủ trương mới trên Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa bằng cơ chế và
bằng các chính sách biện pháp thực hiện cụ thể là: chính sách kinh tế nhiều thành
phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách
tài chính tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ vậy nền
kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh cơ cấu kinh
tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghiệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số năm 1986:
588,72%; năm 1987:417,6% ; năm 1988: 410,9%; giảm xuống còn hai con số
năm 1989: 30%; năm 1990: 52,8%. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản
phẩm xã hội là 4,8%. Thu nhập quốc dân: 3,9%; giá trị tổng sản lượng công
nghiệp 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp 3,5%; giá trị xuất khẩu 28%; giá
trị nhập khẩu 8%. Một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản được hình thành như dầu

mỏ, than đá, lâm hải sản, gạo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tất cả các lĩnh vực
tăng nhanh. Thu nhập quốc dân năm 1991 tăng 2,4% so với năm 1990, năm 1992
tăng 5,4% so với 1991. Sản lượng công nghiệp tăng 5,3% (1991) và 15,5%
(1992). Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp và
có hiệu quả hơn. Năm 1986 cơ cấu tổng sản lượng công nghiệp, ngành điện lực
(5)

Trang 33- Văn kiện Đại hội Đảng VI.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
(7)
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
(6)

6


chiếm 3,66%; cơ khí 9,65%; hóa chất phân bón cao su 8,26% thì năm 1990 tỷ
trọng tương ứng các ngành đó là 5,1% - 15,9% - 9,4%. Giữa các ngành công
nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bước đầu có sự điều chỉnh trong sự
phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến các ngành công nghiệp nhóm
B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt hơn
các nguồn lực với kỹ thuật truyền thống lao động. Công nghiệp ngoài quốc doanh
đã được phát triển chiếm 31,4% (1976) và 43% (1989) còn công nghiệp quốc
doanh năm 1989 chiếm 57%.
Để tiếp tục những quan điểm, chủ trương chính sách đổi mới, Đại hội Đảng
lần thứ VII(1991) đã chỉ rõ: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo
con đường XHCN điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế
- xã hội kém phát triển, phát triển lực lượng sản xuất CNH theo hướng hiện đại
gắn liền với việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN không ngừng

nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” (8). Đại hội
Đảng VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995):
“Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả
nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu
có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế” (9).
Quá trình đổi mới đã tạo nên được những thành tựu phát triển kinh tế - xã
hội, thành tựu CNH trong những năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng
hơn, đi vào thực tế hơn so với nhiều năm trước đây - lạm phát được kiềm chế,
tốc độ tăng giá trị xuất khẩu lớn hơn tổng sản phẩm xã hội. Cán cân thanh toán
chuyển từ thiếu hụt 9% GDP giữa năm 1980 sang thặng dư 2%GDP. Tổng sản
phẩm trong nước năm 1991 tăng 6,1% so với năm 1990. Trong đó giá trị tổng
sản lượng công nghiệp tăng 10,4%; nông nghiệp tăng 1,9%; xuất khẩu tăng
13,2%. Sự phát triển công nghiệp trong những năm đổi mới không chỉ thể hiện ở
tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở sự chú trọng đổi mới công nghệ, tăng
khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và ở sự chuyển dịch cơ cấu theo
hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các
(8)
(9)

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.

7


ngành có lợi thế so sánh, các ngành có tác động đến sự phát triển chung của nền
KTQD và đa dạng hóa các loại hình tổ chức kinh doanh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) của Đảng đã
coi Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của
công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi

mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng nhanh hiệu quả cao và lâu
bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đến đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) Đảng ta đã quán triệt tư
tưởng CNH: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng cao, bền vững
và có hiệu quả"(10) và Đại hội VIII xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam
đến năm 2020 và năm 2010 là: “Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục
tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất- kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp” (11). Đại hội xác định giai đoạn từ nay đến năm
2020 là bước rất quan trọng của thời kì phát triển- đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng đã xác định: “ Đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN…” (12). Để thực hiện
đường lối và chiến lược kinh tế, đến năm 2010, Đại hội đề ra chủ trương, giải
pháp, các quan điểm của Đảng về vấn đề công nghiệp qua các kỳ đại hội đã và
đang xuyên suốt sự phát triển của công nghiệp Việt Nam.
3.Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua

(10)
(11)
(12)

Văn kiện Đại hội Đảng VIII. Trang 33
Giáo trình Lịch sử . Trang 174

Trang 182 – Giáo trình Lịch sử Đảng.

8


3.1 Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua.
Trong những năm gần đây, nhất là trong quá trình đổi mới, khu vực công
nghiệp phải đương đầu với những khó khăn khá gay gắt. Do những khuyết điểm,
sai lầm trong quá khứ về chính sách cơ cấu và chính sách đầu tư, đến nay công
nghiệp nước ta có trên 4584 xí nghiệp nhưng trình độ công nghệ chỉ đạt từ 60%70% mức trung bình của thế giới. Thậm chí có loại chỉ bằng 15-20%. Nhiều loại
thiết bị sử dụng đã làm cho mức hao phí nguyên liệu gấp 2 đến 3 lần mức trung
bình của thế giới. Nét nổi bật là thiết bị cũ, thiếu phụ tùng thay thế, thiếu bảo
dưỡng và sửa chữa nên thiết bị ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Phần lớn các
xí nghiệp chỉ mới hoạt động 50%-60% công suất máy. Trình độ sử dụng tài sản
thấp phổ biến là làm việc 1 ca (36%).
Do chưa ý thức đầy đủ về giá thành và chất lượng, nhất là chưa có quan
điểm rõ ràng việc nâng cao đặc tính kỹ thuật của sản phẩm và quy trình sản xuất
nên giá thành sản phẩm sản xuất thường cao, chất lượng kém, mẫu mã xấu, vì
thế sản phẩm khó tiêu thụ trên thị trường. Nhiều xí nghiệp đòi hỏi được HĐH
nhưng lại gặp phải khó khăn về nguồn vốn đầu tư.
Sự phát triển quá lớn về lượng của các xí nghiệp công nghiệp địa phương
càng làm gay gắt thêm tình trạng mất cân đối của nền kinh tế và gây lãng phí lớn
trong sử dụng vốn đầu tư, tài nguyên, nguyên vật liệu. Hiện nay bình quân mỗi
tỉnh, thành phố có 60%-70% xí nghiệp công nghiệp, quá khả năng cho phép của
một địa phương.
Tuy nhiên cùng với chính sách chuyển dịch cơ cấu, chuyển đổi cơ chế quản
lý kinh tế theo đường lối Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, nhiều cơ sở kinh tế,
nhất là các xí nghiệp quốc doanh Trung ương đang thích ứng dần với môi trường
kinh doanh mới, bước đầu duy trì, ổn định và phát triển sản xuất. Điểm nổi bật
là hầu hết các xí nghiệp dần dần gắn sản xuất với thị trường, chú ý đầu tư chiều

sâu, đổi mới mặt hàng, quan tâm đến chi phí giá thành. Một số xí nghiệp bắt đầu
làm ăn có lãi thực sự và tăng nhanh khoản nộp cho ngân sách Nhà nước (như
liên hiệp xí nghiệp xi măng năm 2000 nộp ngân sách gấp 19 lần năm 1991). Đây
là những chuyển biến bước đầu trong công nghiệp và có thể xem xét đánh giá
thực trạng cơ cấu công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua:
9


Thời kỳ từ năm 1955-1975.
Đây là thời kỳ phát triển sôi động nhất của nền công nghiệp nước ta. Sau
hòa bình lập lại ở miền Bắc chúng ta đã nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến
tranh. Cho đến nay hầu hết nhà máy lớn còn tồn tại và phát huy tác dụng đều
được xây dựng trong thời kỳ này như: cơ khí Hà Nội, cơ khí Trần Hưng Đạo, cơ
khí Trung tâm (Cẩm Phả), Khu Gang thép Thái Nguyên, phân đạm Hà Bắc, phân
lân Văn Điển, Apatít Lào Cai... Hàng loạt nhà máy điện được xây dựng mới:
điện Vinh, Lao Cai, Uông Bí, Ninh Bình, Quảng Ninh,... được khôi phục cải tạo
và phát triển. Trong công nghiệp nhẹ, chúng ta đã xây dựng một số cơ sở tương
đối lớn như khôi phục và mở rộng nhà máy liên hiệp dệt Nam Định, xây dựng
nhà máy dệt kim 8/3…. Do những nỗ lực trên giá trị tổng sản lượng công nghiệp
đã tăng lên với nhịp điệu nhanh. Đó là thời kỳ công nghiệp phát triển công
nghiệp theo chiều rộng với số vốn đầu tư khá lớn và cũng nhanh chóng phát huy
tác dụng, mức huy động công suất máy móc, thiết bị khá cao. Với cơ cấu công
nghiệp như vậy góp phần vào việc phát triển các ngành kinh tế khác, trước hết là
nông nghiệp có tác động trực tiếp vào nâng cao mức sống toàn dân. Với chủ
trương xây dựng kinh tế địa phương làm hậu cần tại chỗ nên công nghiệp địa
phương thời kỳ phát triển mạnh nhất là ngành cơ khí địa phương.
Tính đến năm 1975 miền Bắc có 1337 xí nghiệp quốc doanh và công tư
hợp doanh với 35,5 vạn lao động, khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp 309
hợp tác xã cùng hàng vạn tổ sản xuất với 60,4 vạn lao động. Giá trị tổng sản
lượng đạt 4 tỷ đồng chiếm 24% trong tổng thu nhập quốc dân (miền Bắc bằng

53,6% tổng sản lượng công nông nghiệp).
Thời kỳ 1976 – 1985.
Sau khi thống nhất đất nước, công nghiệp đã có thay đổi nhất định. Đây là
thời kỳ cả nước có nhiều biến động. Vừa qua khỏi cuộc chiến tranh kéo dài mấy
thập kỷ lại bước vào cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây Nam của
Tổ quốc. Nền kinh tế bị bao vây, Trung Quốc cắt viện trợ, các nước phương Tây
tẩy chay chúng ta chỉ còn lại Liên Xô là đang giúp đỡ. Trong thời kỳ này nhiều
dự án đầu tư với số vốn lớn đã không thực hiện được hoặc đang thực hiện bỏ

10


ngang. Nhiều máy móc thiết bị toàn bộ nhập về không lắp ráp được hoặc xây
dựng xong phải đóng cửa vì thiếu nguyên vật liệu v.v...
Thành quả lớn nhất của thời kỳ này là đã cố gắng duy trì năng lực sản xuất
của công nghiệp nhẹ và thực phẩm đồng thời xây dựng một số cơ sở như giấy
Bãi Bằng, điện Phả Lại, điện Hòa Bình, Trị An, xi măng Bỉm Sơn và Hoàng
Thạch v.v... Kết quả đã làm cho tài sản cố định tăng 2,5 lần, số lượng xí nghiệp
quốc doanh tăng 1,4 lần, số lượng công nhân tăng 1,3 lần, khối lượng sản phẩm
tăng gấp 2 lần so với trước năm 1975.
Nguyên nhân chủ yếu là cơ sở sản xuất nhiều, lực lượng lao động đông đặc,
song mất cân đối (thiếu điện, nguyên liệu, phụ tùng thay thế v.v...) nên không
huy động được công suất vốn có, chậm đưa cơ sở mới đầu tư vào hoạt động, sản
phẩm thiếu thị trường tiêu thụ.
Thời kỳ từ 1986 cho đến nay.
Nét nổi bật là hầu hết các cơ sở công nghiệp cấp huyện và một số cấp tỉnh,
thành quản lý đều đứng bên bờ vực của phá sản. Đối với ngành cơ khí chế tạo
máy móc thiết bị cũ kĩ, lạc hậu, mặt hàng không thích hợp với yêu cầu của
người tiêu dùng. Các cơ sở sửa chữa cơ khí hầu hết đều không có việc làm, rơi
vào tình trạng bế tắc. Một số ít cơ sở công nghiệp tìm đường ra bằng cách đa

dạng hóa sản phẩm, chuyển mạnh sang sản xuất theo đơn đặt hàng của các
ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, xây dựng, giao thông vận tải
v.v…Ngành luyện kim cả kim loại màu và kim loại đen cũng gặp không ít khó
khăn, sản xuất cầm chừng.
Ngành dệt và may còn duy trì và phát triển được do nhập nguyên liệu từ
nước ngoài. Nhiều cơ sở đã mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị như dệt khổ rộng,
nâng cấp sản phẩm, tạo nguyên liệu cho ngành may có điều kiện sản xuất những
loại quần áo đáp ứng nhu cầu thị hiếu nước ngoài.
Ngành năng lượng nhờ sự đầu tư tập trung của Nhà nước đã phát triển khá
mạnh do đưa vào sử dụng những cơ sở năng lượng quy mô lớn. Bên cạnh đó là
những thành tựu về khai thác dầu lửa ở thềm lục địa phía Nam góp một tỷ trọng
đáng kể trong nguồn thu của ngân sách Nhà nước.

11


Qua nghiên cứu quá trình biến đổi cơ cấu ngành công nghiệp ta thấy được
ta thấy được mới chỉ là những buổi ban đầu của công nghiệp, khó khăn vẫn còn
lớn, nhiều xí nghiệp đang đứng trước quy mô phá sản, thua lỗ kéo dài, không có
khả năng hoàn trả vốn.
3.2 Những nguyên nhân chủ yếu gây nên hạn chế về phát triển công
nghiệp Việt Nam.
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng nền công nghiệp Việt Nam trong
thời gian qua, ta đã thấy được những thành tựu đạt được cũng như những hạn
chế của nền công nghiệp nước ta. Những thành tựu do công nghiệp đạt được thật
vô cùng to lớn góp phần nâng cao thu nhập quốc dân, giúp cho các ngành khác
phát triển, bản thân ngành công nghiệp cũng đạt được những thành quả lớn, đã
từng bước xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, dần dần hình thành các khu
công nghiệp hóa. Giá trị tổng sản lượng của công nghiệp trong nền KTQD ngày
càng tăng. Bên cạnh đó những hạn chế về sự phát triển công nghiệp không nhỏ,

trình độ kỹ thuật chưa cao, chưa phát huy hết vai trò chủ đạo của mình trong nền
KTQD. Công nghiệp còn vấp phải nhiều khó khăn làm không phát huy hết vai
trò của mình, mà một trong những nguyên nhân đó là :
- Trong quá trình phát triển công nghiệp nước ta đã gặp phải một khó khăn
lớn là phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Cuộc
chiến tranh đã gây nên nhiều thiệt hại cho nền kinh tế nước ta, trong đó công
nghiệp chịu một phần không nhỏ. Nhiều nhà máy bị phá hủy gây nên tình trạng
nền công nghiệp gặp nhiều khó khăn.
- Quá trình quản lý kinh tế của Đảng đã mắc phải một số sai lầm, chủ quan
duy ý trí, nóng vội trong chủ trương CNH-HĐH đất nước bằng con đường đẩy
mạnh phát triển công nghiệp nặng. Do vậy làm cho công nghiệp khó phát huy
được vì không thể một chốc một lát phát triển ngay công nghiệp nặng mà muốn
phát triển công nghiệp phải qua phát triển công nghiệp nhẹ trước mới phù hợp
với điều kiện ở nước ta. Cơ chế kinh tế tập trung bao cấp kéo dài đã gây không ít
khó khăn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Chúng ta chưa xác định rõ ràng hướng đi của CNH cho phù hợp với hoàn
cảnh thực tế của đất nước. Nhận thức về CNH còn đơn giản, phiến diện và đồng
12


nhất cách đi rập khuôn máy móc lý luận và mô hình CNH ở Liên Xô. Do vậy quá
trình CNH ở nước ta diễn ra chậm. Mà quá trình CNH có quan hệ đến quá trình
phát triển công nghiệp làm cho quá trình phát triển công nghiệp cũng chậm lại.
- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình
thành và phát triển công nghiệp nước ta. Từ chiến lược đề ra cơ cấu công nghiệp
hợp lý nhằm sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng của đất nước về lao động, tài
nguyên, tiền vốn, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình tái
sản xuất xã hội với hiệu quả cao.
- Quá trình phân công lao động ở nước ta chưa thực sự phát huy tác dụng,
việc chuyên môn hóa bước đầu được thực hiện nhưng chưa cao, các mối liên hệ

giữa các ngành đã được hình thành nhưng chưa chặt chẽ. Việc đưa khoa học kỹ
thuật vào nước ta còn ồ ạt, thiếu chọn lọc. Quá trình chuyển giao công nghệ
không chọn được công nghệ phù hợp nhập vào trong nước những công nghệ quá
lạc hậu hoặc quá hiện đại mà chúng ta không sử dụng được do yếu về trình độ.
Có những công nghệ nhập về lại phải mời chuyên gia về gây tốn kém và không
sử dụng hết công suất của máy.
- Đối với những nước chậm phát triển như nước ta, tài nguyên thiên nhiên
là nhân tố quan trọng trong việc phát triển công nghiệp. Với tiềm năng nguyên
liệu hiện có chúng ta có điều kiện hình thành các ngành công nghiệp đặc biệt là
các ngành công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến và thu hút được lực
lượng lớn lao động. Tuy nhiên việc khai thác tài nguyên của nước ta chưa hợp
lý, làm cạn kiệt những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý và không chú trọng cải
tạo khôi phục những nguồn tài nguyên hữu hạn.
- Trong điều kiện hiện nay của nước ta, nền kinh tế là nền kinh tế mở do
vậy thị trường không còn bó hẹp trong nước mà đã mở rộng ra khu vực và thế
giới. Nhưng sản phẩm công nghiệp của nước ta không chinh phục được thị
trường, chưa được thị trường chấp nhận, do vậy sản phẩm sản xuất không bán
được ra thị trường thế giới.

13


- Trong điều kiện lịch sử xã hội cụ thể ở mỗi giai đoạn lịch sử phát triển
đều có một trình độ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất do vậy công
nghiệp phải thường xuyên thay đổi và điều chỉnh cho phù hợp điều kiện lịch sử.
Từ những nguyên nhân trên nên công nghiệp nước ta hiện nay chưa phát
huy hết vai trò của mình.
4. Những bài học kinh nghiệm và Phương hướng giải pháp phát huy
vai trò công nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước
4.1. Những bài học kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát triển

công nghiệp nước ta.
Từ thực trạng của công nghiệp đất nước và những kết quả bước đầu của
công nghiệp đất nước và những kết quả bước đầu của quá trình đổi mới, từ việc
xem xét và đánh giá một cách toàn diện hơn quá trình xây dựng cơ cấu công
nghiệp trong mấy chục năm qua nhất là từ năm 1976 đến nay, có thể rút ra
những bài học kinh nghiệm sau:
- Vốn đầu tư bỏ ra cho quá nhiều dự án, không ưu tiên và xem xét một cách
toàn diện và khoa học, do đó thời gian xây dựng được kéo dài, nhiều công trình
dở dang. Chưa dự tính một cách đúng đắn những hạn chế nguồn vốn, nguyên liệu
(đặc biệt là nguyên liệu nhập khẩu) nên công suất thiết bị sử dụng và hiệu quả
hoạt động thấp.
- Một nền công nghiệp khép kín mang nặng tính tự cung, tự cấp được hình
thành, việc phát triển hướng nền xuất khẩu không được quan tâm đúng mức.
- Các xí nghiệp không được chuyên môn hóa đầy đủ, thiết bị lạc hậu thiếu
đồng bộ, thiếu sự hợp tác với nhau, đặc biêt thiếu sự liên kết ngang, ít có quan hệ
giữa các đơn vị và với các ngành kinh tế khác.
- Yếu tố thị trường bị xem nhẹ, vì vậy công tác cải tiến kỹ thuật, áp dụng
công nghệ mới để nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm không được quan
tâm đầy đủ.
- Chưa có biện pháp và chính sách thỏa đáng đối với tiểu thủ công nghiệp và
sử dụng các thành phần kinh tế khác để có thể khai thác có hiệu quả hơn tiềm
năng và các ngành nghề truyền thống cũng như thu hút lực lượng lao động vào
sản xuất.
14


Đúng như Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nhận định, chúng ta đã đề ra
những chỉ tiêu quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi
trọng đúng sự việc khôi phục sắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công
nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung giải quyết về vấn

đề lương thực, thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Trên những bài học kinh nghiệm trên ta rút ra phương hướng, biện pháp
phát triển đối với quá trình CNH - HĐH và phát triển công nghiệp nước ta.
4.2. Phương hướng CNH-HĐH các ngành KTQD nước ta trong những
năm tới.
- Phát triển các ngành KTQD dựa trên cơ sở và kỹ thuật công nghệ ngày
càng hiện đại nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là "thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ", “…tạo điều kiện cho nhân dân có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc" 9
- Phát triển đồng thời cả 3 lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ
trong một hệ thống mở với cơ cấu năng động, có hiệu quả và chuyển dịch theo
huớng CNH-HĐH.
- Phát triển công nghiệp chế biến gắn bó với nông - lâm - ngư nghiệp để
đáp ứng nhu cầu trong nước đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế sinh thái, bảo
vệ môi trường và tài nguyên.
- Phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu các loại
thông thường, tăng mức đáp ứng, nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân
và đẩy mạnh xuất khẩu tạo nhiều việc làm, tạo nguồn tích lũy ban đầu cho CNH.
- Phát triển có sự lựa chọn các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất,
khai thác và chế biến khoáng sản. Ưu tiên phát triển các ngành xây dựng kết cấu
hạ tầng kỹ thuật (Cảng biển, cầu, đường, điện, nước .....) phục vụ cho sản xuất
và đời sống.
- Phát triển mạnh các ngành và các hoạt động dịch vụ với một cơ cấu đa
dạng, chất lượng ngày càng cao, trình độ ngày càng văn minh hiện đại để khai
thác tốt nhất mọi nguồn lực gắn liền với phục vụ tốt nhất các ngành sản xuất vật
chất và các ngành này thực hiện tốt mục tiêu chung của chiến lượng phát triển
kinh tế - xã hội .
9


Võ Văn Kiệt - báo Nhân dân 9/2/l993

15


- Công nghiệp hóa các ngành KTQD phải dựa trên cơ sở áp dụng nhanh
chóng và có hiệu quả tiến bộ khoa học và công nghệ vào tất cả các ngành công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ ... Do vậy mục tiêu và phương hướng của quá
trình này là:
Nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong tất cả các
ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ nhằm tạo ra nhiều sản phẩm và dịch
vụ có chất lượng tốt hơn chi phí thấp hơn, lợi nhuận cao hơn và tạo ra nhiều việc
làm hơn.
Kết hợp kỹ thuật và công nghiệp nhiều trình độ theo hướng sử dụng tốt kỹ
thuật và công nghiệp hiện có chưa được khai thác và sử dụng tốt, hiện đại hóa
kỹ thuật và công nghệ truyền thống đi thẳng vào kỹ thuật và công nghệ hiện đại
ở nơi có nhu cầu và có điều kiện.
Chú trọng áp dụng công nghệ vừa có hiệu quả về mặt kỹ thuật, vừa có hiệu
quả cao về kinh tế xã hội và bảo vệ được môi trường.
Thực hiện phương pháp tổ chức sản xuất và tổ chức lao động khoa học
trong tổ chức quản lý quá trình phát triển kinh tế xã hôi.
Công nghiệp hóa các ngành KTQD phải thúc đẩy phân công lao động xã
hội theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa lớn. Quá trình này cần có điều kiện
và biện pháp thực hiện sau: Giải quyết vấn đề sở hữu, khuyến khích phát triển
kinh tế tư nhân, chú trọng phát triển các công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh
đưa chúng trở thành loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu. Sắp xếp lại
các xí nghiệp quốc doanh theo hướng đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả
và làm cho xí nghiệp quốc doanh có tác dụng như là một công cụ quản lý vĩ mô
của nhà nước.
Giải quyết tốt quan hệ phát triển với đầu tư tiết kiệm và tiêu dùng, tăng tỷ

lệ đầu tư trong GDP lên trên 20% chủ yếu bằng chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần, tăng nhanh và nhiều phần đầu tư từ tư nhân và doanh nghiệp.
Khôi phục mọi nguồn vốn trong nước đồng thời thu hút nhiều vốn đầu tư
nước ngoài, liên doanh hợp tác kinh doanh.
Quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
sản xuất kinh doanh.
16


Thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản
xuất và đời sống.
Trên cơ sỏ quán triệt chiến lược con người cần có hệ thống biện pháp đồng
bộ về phân bố, sử dụng đào tạo, bồi dưỡng người lao động.
Phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của liên kết kinh tế giữa các
ngành các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của nhà nước đối với sự nghiệp
CNH-HĐH nhanh và có hiệu quả.
4.3. Phương hướng phát triển công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Nhận thức và đánh giá đúng vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền
kinh tế là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về mặt phương pháp luận và về tổ
chức chỉ đạo thực tiễn. Từ kinh nghiệm của các nước có điểm suất phát giống
như nước ta, từ điều kiện cụ thể về tài nguyên lao động và các nguồn lực khác
cũng như những nguồn lực có thể thu hút từ bên ngoài, sự lựa chọn cơ cấu và
định hướng phát triển những lĩnh vực kinh tế chủ yếu, giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện sự kết hợp chặt
chẽ, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau giữa hai lĩnh vực này trong hệ thống kinh tế mở
là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Vì vậy phải có ý thức phát triển nông
-lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là
nhiêm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế-xã hội, tăng tốc độ

và tỷ trọng công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch vụ, tăng cường cơ sở hạ tầng,
bước đầu đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu.
Trên cơ sở đó tạo ra những tiền đề cần thiết để thực hiện thắng lợi chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội lần thứ V của Đảng đã đề
ra, tạo điều kiện cho quá trình CNH-HĐH đất nước cho giai đoạn tiếp theo .
Từ một nước nông nghiệp phổ biến là sản xuất nhỏ, trong điều kiện của nền
kinh tế mở, sự lựa chọn cơ cấu và định hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế chủ
yếu là một nhiệm vụ đặc biệt có ý nghĩa. Trong thập kỷ tới, nông nghiêp vẫn có
vị trí quan trọng, giá trị sản lượng không ngừng tăng lên, song tỷ trọng của nó
trong nền kinh tế sẽ giảm dần trong tổng sản phẩm quốc dân và cùng với quá
17


trình ấy là sự tăng lên của các ngành sản xuất công nghiệp. Vì vậy cần khắc
phục tình trạng thuế gắn bó giữa công nghiệp và nông nghiệp nhằm đáp ứng tốt
hơn các nhu cầu của nông nghiệp (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) ở cả đầu
vào và đầu ra. Theo hướng phát triển đó, quá trình phát triển công nghiệp của
nước ta cần đảm bảo yêu cầu khách quan sau đây:
- Thực hiện sự kết hợp giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp.
- Xây dựng công nghiệp với nhiều loại hình công nghệ sử dụng nhiều lao động.
- Xây dựng công nghiệp với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
- Xác định ngành công nghiệp mũi nhọn đã có chính sách đầu tư thoả đáng
và tạo điều kiện thâm nhập thị trường thế giới.
- Mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế thu hút vốn đầu tư và kỹ
thuật của nước ngoài tạo bước nhảy vọt trong kỹ thuật và công nghệ .
Với những yêu cầu khách quan trên, phương hướng phát triển công
nghiệp trong thời gian tới là:
Thứ nhất, phương hướng chủ yếu và quan trọng nhất là xây dựng một cơ
cấu kinh tế công nghiệp hợp lý. Cơ cấu công nghiệp là số lượng ngành công
nghiệp chuyên môn hóa và mối liên hệ kinh tế sản xuất giữa các ngành đó biểu

hiện quan hệ tỷ lệ về mặt lượng trong lĩnh vực sản xuất giữa các ngành đó với
nhau. Cơ cấu ngành công nghiệp phản ánh những tác dụng chủ yếu sau:
- Trình độ phát triển và mức độ hoàn chỉnh công nghiệp của đất nước:
Công nghiệp càng phát triển và cơ cấu càng hoàn chỉnh thì càng phát huy vai trò
chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân. Nó cho phép xác lập nên những cân đố
mới mang lại hiệu quả kinh tế lớn hơn cho công nghiệp và cho nền KTQD.
- Cho thấy mức độ tự chủ của nền kinh tế nước nhà. Sự xuất hiện ngày
càng nhiều số lượng các ngành chuyên môn hóa và sự liên hệ giữa chúng với
nhau bảo đảm cho việc sản xuất ngày càng nhiều với chất lượng cao, các mặt
hàng về tư liệu sản xuất, và tư liệu tiêu dùng phục vụ cho nhu cầu trong nước và
xuất khẩu, tăng cường tiềm lực kinh tế.
- Cho thấy trình độ phát triển kỹ thuật và trình đô xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của công nghiệp cũng như các ngành khác của nền KTQD.
- Cho thấy trình độ năng suất lao động xã hội và mức độ hiệu quả của sản
xuất công nghiệp. Với cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh cho ta thấy được năng
18


suất lao động ngày càng tăng lên. Bởi vì trong quá trình sản xuất chúng ta đã áp
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tận dụng hết công suất
máy móc, làm cho tốc độ tăng sản lượng lớn hơn tốc độ tăng đầu tư, giá thành
sản hàng năm hạ xuống, năng suất lao động tăng lên.
- Việc xây dựng cơ cấu ngành công nghiệp gắn với quá trình CNH là một
nội dung quan trọng trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Nó thể hiện mức độ
hoàn chỉnh hợp lý của sự phát triển của bản thân công nghiệp về mặt phân công
lao đông thể hiện cách thức thực hiện mối quan hệ cân đối theo những tỷ lệ nhất
định trong quá trình từng bước xây dựng một nền công nghiệp tương đối hoàn
chỉnh trong khuôn khổ của một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Thứ hai, để thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước chúng ta phải xây dựng
một cơ cấu công nghiệp tương đối hoàn chỉnh, cân đối và hiện đại và phải phấn

đấu tiến lên xây dựng một cơ cấu công nghiệp tiên tiến, đảm bảo thỏa mãn nhu
cầu của nền KTQD với chi phí lao động xã hội ít nhất và thời gian ngắn nhất đảm
bảo nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn bộ sản xuất xã hội. Do đó phải kế hoạch
hóa cơ cấu của công nghiệp, cần phải biết phân loại đúng đắn các ngành công
nghiệp, phải xác định mối liên hệ sản xuất và vị trí của ngành đó cũng như những
nhân tố ảnh hưởng đến nó. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành công
nghiệp nhưng có 6 nhân tố cơ bản là: tiến bộ khoa học - kỹ thuật, trình độ và tính
chất phát triển công nghiệp, trình độ và tính chất phát triển nông nghiệp, tình hình
tài nguyên thiên nhiên, điều kiện lịch sử kinh tế chính trị xã hội và trình độ phân
công lao động quốc tế. Các nhân tố này tạo nên một hệ thống phức tạp có quan hệ
mật thiết với nhau và đồng thời phát huy tác dụng ảnh hưởng đối với cơ cấu
ngành công nghiệp. Qua việc xem xét phân tích các nhân tố cho ta thấy ý nghĩa to
lớn của nó trong việc xây dựng một cơ cấu công nghiệp hợp lý và có hệu quả.
Một cơ cấu công nghiệp hợp lý và có hiệu quả phải là:
- Một cơ cấu có khả năng phát triển các ngành công nghiệp chuyên môn
hóa cũng như các ngành tiểu thủ công nghiêp.
- Một cơ cấu có khả năng sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và lao động.

19


- Một cơ cấu sử dụng hợp lý nguyên liệu của các ngành khai thác nông lâm,
ngư nghiệp.
- Một cơ cấu phải phát triển ngành đáp ứng nhu cầu thiết yếu hiện nay là
sản xuất, tiêu dùng và phục vụ xuất khẩu .
Như vậy cơ cấu ngành công nghiệp hơp lý và có hiệu quả phải là cơ cấu
ngành đảm bảo cho năng suất lao đông xã hội tăng nhanh thỏa mãn mục đích
của nhân dân mà quy luật kinh tế cơ bản yêu cầu.
Một trong những hướng phát triển trong công nghiệp nước ta là phát triển

công nghiệp chế biến các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp. Việc hình thành và
phát triển hệ thống công nghiệp chế biến không nên phân bố theo địa lý hình
thành mà nên theo vùng lãnh thổ trên cơ sở tiềm năng và ưu thế của từng vùng.
Như vậy sẽ hình thành các loại xí nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, chế
biến các sản phẩm nông nghiệp chế biến thủy sản.
Cùng với quá trình hình thành hệ thống công nghiệp chế biến là quá trình
phân công lại lao động trong công nghiệp, thu hút một bộ phận đáng kể lao động
vào hoạt động chế biến, bảo quản và vận chuyển. Đồng thời từng bưóc hoàn
thiện cơ sở hạ tầng để phục vụ cho hoạt động chế biến có hiệu quả hơn. Đối với
những xí nghiệp chế biến sản phẩm xuất khẩu cần đầu tư thiết bị đông bộ và
hiện đại để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, tạo lập uy tín dtrên
thị trường thế giới giảm dần và tiến tới chấm dứt việc xuất khẩu dưới dạng
nguyên liệu.
Phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng hợp tác gia công làm hàng
xuất khẩu. Phương châm đúng là tận dụng khả năng của các thành phần kinh tế,
sử dụng lao động, tạo ra sản phẩm tiêu dùng nội địa ngày càng nhiều, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của nhân dân cả về số lượng, chất lượng và chủng loại.
Mở rộng hình thức gia công, liên doanh hợp tác với nước ngoài để làm
hàng xuất khẩu là biện pháp và sách lược quan trọng nhất để từng bước hiện đại
hóa các ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Chú trọng các ngành may mặc, dệt da
cao su, chất dẻo, sứ thủy tinh, dược phẩm, mỹ phẩm, đồ điện tử và cơ khí nhỏ.
Trong quá trình phát triển cần sử dụng nhiều loại hình công nghệ, nhiều
loại quy mô khác nhau phát triển rộng khắp ở trong nước với sự tham gia của

20


các thành phần kinh tế, hình thành một số khu chế xuất do nước ngoài đầu tư
kinh doanh.
Công nghiệp năng lượng nhiên liệu là ngành công nghiệp nước ta có nhiều

tiềm năng. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho ngành này, đặc biệt là năng lượng điện.
Trong thời gian tới chúng ta vẫn phát triển mạnh nguồn điện, ưu tiên thủy điện,
bảo đảm sự đồng bộ và chất lượng của hệ thống truyền tải phân phối và thiết bị
bảo vệ để giảm bớt mức tổn hao điện, đáp ứng nhu cầu điện ở Miền trung và
Miền Nam, phấn đấu tăng 2,5 đến 3 lần sản lượng điện trong 10 năm tới.
Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác liên doanh với nước ngoài trong việc thăm dò và
khai thác, chế biến dầu khí. Tiếp tục xây dựng và phát triển công nghiệp lọc dầu,
sản xuất một số sản phẩm từ dầu khí. Từng bước đưa ngành dầu khí thành ngành
công nghiệp mũi nhọn của đất nước.
Xây dựng và phát triển ngành khai thác than (trữ lượng đã được xác định từ
3 đến 3,3 tỷ tấn) chúng ta đã có tiềm năng để mở rộng ngành khai thác than đặc
biệt là than gầy có chất lượng cao. Để đạt chỉ tiêu sản lượng này cần có những
thiết bị sử lý nguyên liệu, vận chuyển và phát triển cảng kể cả một số cầu tàu để
vân chuyển than, sang từng bước hiện đại và hoàn thiện: phương tiện khai thác
và vận chuyển chùng ta sẽ mở rộng sự hợp tác với nước ngoài để khai thác một
số mỏ với kỹ thuật cao.
Đối với công nghiệp cơ khí, trước hết cần sắp xếp lại các xí nghiệp hiện có.
Những xí nghiệp làm ăn thua lỗ, chất lượng kém, cần được tổ chức lại một cách
thích hợp, Trọng tâm của ngành là sản xuất các loại phụ tùng, linh kiện thaty thế
nhập khẩu để trang bị và sửa chữa cho các ngành khác chế tạo các loại thiết bị
canh tác nhỏ thích hợp với nhu cầu và quy mô sản xuất nông nghiệp hiện nay.
Sản xuất các loại thiết bị chế biến nông lâm sản và các loại dịch vụ kỹ thuật
khác phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hợp tác với nước ngoài sản xuất, lắp ráp
một số máy móc và thiết bị hiện đại có nhu cầu lớn, hoặc để xuất khẩu, trong đó
coi trọng ngành sửa chữa và đóng tàu thủy.
Công nghiệp điện tử và tin học là một trong những ngành còn mới và non
trẻ ở nước ta. Vì vậy cần có sự lựa chọn và phát huy năng lực và công nghệ
trong nước. Tranh thủ hợp tác quốc tế để phát triển hướng vào đáp ứng nhu cầu
thông tin liên lạc, phương tiện tính toàn đồ điện tử dân dụng.
21



Phát triển công nghiệp nguyên liệu, vật liệu áp dụng công nghệ và quy mô
thích hợp với điều kiện tài nguyên khoáng sản của ta, Trong thập kỷ tới phát
triển sản xuất một số sản phẩm hóa chất cơ bản như xút, Sôda, axítsunphuric....
Mở rộng khai thác Apatit và tăng sản lưọng sản xuất phân lân, thuốc trừ sâu, vật
liệu xây dựng, một số kim loại chủ yếu. Hợp tác với nước ngoài khai thác chế
biến đất hiếm, bôxit quặng sắt, vật liệu xây dựng cao cấp, dành phần thích đáng
cho xuất khẩu.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, đảm bảo kết hợp giữa công nghiệp
dân dụng và công nghiệp quốc phòng để vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế,
vừa tăng cường tiềm lực phát triển đất nước.
Việc xác định phương hướng và biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành công nghiệp theo hướng CNH-HĐH phải quán triệt một số quan điểm cơ
bản là: quan điểm hiệu quả, quan điểm định hướng (nhất thiết phải theo định
hướng CNH nền KTQD mà nội dung cơ bản của nó là chuyển từ trạng thái công
nghiệp lạc hậu với năng suất lao động thấp lên công nghiệp tiên tiến với năng
suất lao động cao trong tất cả các ngành KTQD. Quan điểm toàn diện cân đối,
quan điểm mở cửa (lấy mô hình cơ cấu kinh tế hướng ngoại là chính và quan
điểm năng động).
Việc quán triệt các quan điểm đòi hỏi phải hình thành một cơ cấu công
nghiệp có lựa chọn. Trong giai đoạn đầu của quá trình CNH ở nước ta cơ cấu đó
có thứ tự ưu tiên là ngành công nghiệp chủ yếu, ngành công nghiệp mũi nhọn và
các ngành công nghiệp khác.
Ngành công nghiệp chủ yếu là ngành có vị trí hàng đầu trong phát triển
công nghiệp.
- Ngành chế biến lương thực, thực phẩm là ngành công nghiệp chủ yếu
trong giai đoạn này. Trong thời kỳ 1986-1991 ngành này vẫn giữ được tỷ trọng
22%-28% trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và cho đến nay vẫn là ngành
quan trọng.

- Ngành công nghiệp dệt may: chiếm khoảng 12%-15% giá trị tổng sản
lượng công nghiệp.
- Ngành công nghiệp năng lượng: trước đây là ngành không quan trọng
nhưng những năm gần đây nó sẽ là ngành quan trọng. Năm 1991 chiếm khoảng
22


12,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp trong đó điện lực 2,37% và công
nghiệp nhiên liệu 7,42%. Riêng ngành dầu khí, dự kiến tốc độ phát triển bình
quân mỗi năm sẽ trên 20%.
- Công nghiệp cơ khí và công nghiệp hóa chất hiện là các ngành giữ vị trí
chủ yếu trong công nghiệp, mỗi ngành chiếm trên dưới 10% giá trị tổng sản
lượng công nghiệp. Những năm gần đây đang có xu hướng chững lại và giảm
dần do có khó khăn về thị trường tiêu thụ, công nghệ và vốn đầu tư.
Những ngành công nghiệp mũi nhọn là các ngành có tốc độ phát triển cao,
quy mô lớn, công nghệ kỹ thuật hiện đại, có sản phẩm ngày càng nhiều, chất
lượng cao xâm nhập vào thị trường thế giới góp phần lớn cho ngân sách Nhà
nước. Ngành mũi nhọn thường là ngành dựa khả năng khai thác tài nguyên sử
dụng, trình độ tay nghề cao của người lao động và cũng có thể dựa vào các biện
pháp huy động vốn đầu tư của nước ngoài để phát triển sản xuất và ứng dụng
khoa học hiện đại.
- Công nghiệp khai thác và chế dầu khí: dựa vào khả năng tài nguyên và
khả năng thu hút vốn, kỹ thuật từ nước ngoài, có khả năng xuất khẩu lớn.
- Công nghiệp chế biến lương thực (gạo là chủ yếu) và thủy sản, ta có khả
năng sản xuất thị trường tiêu thụ đang mở rộng.
- Công nghiệp điện tử: có đội ngũ lao động kỹ thuật đông đảo, có khả năng
mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế.
- Công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng: nước ta sẵn tài
nguyên, thị trường trong và ngoài nước đang có nhu cầu lớn.
Những ngành công nghiệp khác là những ngành có vị trí khác nhau trong

cơ cấu nông nghiệp. Đối với nước ta trong giai đoạn đầu quá trình CNH-HĐH
việc phát triển các ngành này phải nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân
dân, bao gồm cả hàng thay thế nhập khẩu, thỏa mãn nhu cầu tư liệu sản xuất
cho nông, lâm, ngư nghiẹp và công nghiệp hàng tiêu dùng, sản xuất hàng sản
xuất, thu hút lao động, giải quyết việc làm cho người lao động và nhu cầu khác.
Với cơ cấu công nghiệp như trên, chúng ta không lựa chọn một kiểu chiến
lược đơn thuần hướng ra xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu mà là sự kết hợp một
cách tối ưu hai hướng đó trong một nền kinh tế mở, giao lưu thông suốt trong
nước và liên kết hợp tác hòa nhập với bên ngoài.
23


Tùy những điều kiện cụ thể chúng ta áp dụng những công nghệ và quy mô
thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động tạo ra những sản phẩm và đạt hiệu quả
kinh tế - xã hội cao. Thời gian trước mắt chúng ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn
thử thách gay go và những tác động của diễn biến quốc tế phức tạp. Do song quá
trình phát triển, chúng ta cần tính toán đến tất cả các yếu tố nói trên để tìm ra
hướng đi cũng như các giải pháp hữu hiệu trong thế chủ động bằng nguồn lực và
các yếu tố mà mình có thể làm ra và tự chủ được để không ngừng phát triển kinh
tế đất nước, thực hiện tốt các mục tiêu của chiến lược ổn định, phát triển kinh tế
- xã hội và Đảng đã đề ra.
4.4. Các giải pháp chủ yếu để phát triển công nghiệp trong thời kỳ
CNH-HĐH đất nước.
Dự báo xu thế phát triển của thị trường và nhu cầu cuối thị trường: Đây là
giải pháp có vị trí quan trọng đối việc chuyển dịch cơ cấu, bởi vì thị trường là
nhân tố khách quan, tác động nhiều mặt đến cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp.
Cần sử dụng tổng hợp các phương pháp dự báo, các phương pháp Marketing,
các phương pháp toán kinh tế để dự báo đúng xu thế phát triển.
Cần chú ý đầy đủ tới các loại thị trường, trong đó đặc biệt dự báo xu thế
vận động của nhu cầu thị trường về sản phẩm công nghiệp như: sức chứa của thị

trường, khách hàng, sự biến động của giá cả và lượng hàng theo thời gian, tính
cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và quốc tế.
Tạo nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả: sử dụng tổng hợp tất cả các
biện pháp để huy động vốn và chú ý khả năng thu hồi vốn và khả năng sinh lời
của một đồng vốn. Trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, do khả năng tích lũy
vốn trong nước còn hạn chế, thì việc tạo vốn phải hướng trọng tâm vào các hình
thức thu hút vốn nước ngoài với công nghệ hiện đại phù hợp với điều kiện cụ thể
của mỗi ngành.
Trong các giai đoạn tiếp theo khi mà nguồn vốn tích lũy bên trong đã đủ lớn
thì cần có chính sách tài chính đúng đắn nhằm tập trung vốn để mở rộng sản xuất
trên cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng một cách hợp lý.
- Lựa chọn công nghệ và các yếu tố đầu vào. Việc lựa chọn công nghệ mới
và quá trình chuyển giao công nghệ cần theo hướng ưu tiên, có lựa chọn, có
24


trọng điểm. Hiện đại hóa công nghiệp có kết hợp với khai thác công nghệ truyền
thống nhằm đạt tốc độ nhanh và có hiệu quả, vừa bảo đảm tính hiện đại, vừa tạo
nhiều việc làm, vừa khai thác và sử dụng tốt các tiềm năng về nguyên nhiên vật
liệu của đất nước và năng lực sản xuất của ngành.
Xây dựng kết cấu hạ tầng: Ngày nay việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội cần đi trước và mở đường cho đầu tư phát triển sản xuất. Kết cấu hạ
tầng phải thích ứng với yêu cầu phát triển sản xuất, tạo điều kiện môi trường
thuận lợi để đảm bảo hiệu quả đầu tư và sản xuất kinh doanh sau này. Cần đặc
biệt chú ý đến hệ thống cung ứng điện năng, hệ thống giao thông vận tải, hệ
thống thông tin liên lạc, khả năng phát triển nhanh.
- Một số vấn đề về tăng cường quản lý vĩ mô công nghiệp: Đây là một giải
pháp có tác dụng chi phối mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công
nghiệp, công tác này được tiến hành trên nhiều mặt.
+ Hoàn thiện phương pháp phân bố công nghiệp theo lãnh thổ theo hướng

kết hợp chuyên môn hóa với phát triển tổng hợp công nghiệp trong từng vùng.
Tổ chức mối quan hệ sản xuất giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau
trên cơ sở hình thành những khi công nghiệp, những cụm công nghiệp một cách
động bồ, trên cơ sở liên kết công nghệ giữa các chuyên ngành mà giảm chi phí
sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế.
+ Xây dựng phương án phân bố sức lao động theo lãnh thổ và theo ngành
công nghiệp, chuyên môn hóa phù hợp với phương hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa.
+ Tăng cường và hoàn thiện hệ thống quản lý công nghiệp theo hướng kinh tế
kỹ thuật, theo hướng quản lý tập trung, thống nhất mặt kỹ thuật của sản xuất, xây
dựng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật ngành, quy hoạch phát triển ngành, kiểm tra chất
lượng sản phẩm. Tiếp tục xác định rõ chức nwang quản lý Nhà nước của cơ quan
quản lý ngành với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Do vậy việc xây dựng cơ cấu ngành công nghiệp hợp lý là một tất yếu
khách quan do vai trò chủ đạo của nó. Đồng thời nó là xu thế tất yếu của một cơ
cấu công nghiệp hiện đại. Vì vậy mọi ngành mọi cấp cần thực hiện nhiệm vụ
quan trọng này của công nghiệp, coi đó là nhiệm vụ mang tính chất chiến lược
và sách lược trong giai đoạn CNH-HĐH hiện nay.
25


×