Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tìm hiểu, mô tả, đánh giá về đề xuất bảo tồn những giá trị văn nghệ dân gian của tộc người ê đê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.5 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
Nước ta gồm 54 dân tộc anh em đoàn kết, gắn bó với nhau trong suốt chiều
dài lịch sử bảo vệ, xây dựng đất nước. Văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số là
một bộ phận quan trọng tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng, phong phú trong
thống nhất. Trong đó văn nghệ dân gian có một vai trò, tầm ảnh hưởng đặc biệt.
Văn nghệ dân gian bao gồm những sáng tác nghệ thuật dân gian, tức là gồm văn
học dân gian và các ngành nghệ thuật dân gian khác như âm nhạc, hội họa, kiến
trúc, điêu khắc dân gian.
Văn nghệ dân gian truyền thống luôn luôn gắn liền với đời sống của cộng đồng
các dân tộc, nó là hơi thở, là máu thịt, là niềm đam mê sáng tạo, hưởng thụ
không bao giờ ngưng nghỉ, vơi cạn trong lòng người dân và trong dòng chảy
chung của một nền văn hoá đa sắc màu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong nền văn hóa văn nghệ dân gian vốn phong phú đa dạng của dân tộc
Việt Nam, không thể không nói đến sự góp mặt của văn nghệ dân gian của đồng
bào Ê Đê. Trải qua quá trình đấu tranh lâu dài chống lại thiên nhiên khắc nghiệt
và xã hội phong kiến bất công để tồn tại và phát triển, người Ê Đê đã sáng tạo
nên những giá trị văn hóa truyền thống giàu bản sắc. Đó là những sáng tác nghệ
thuật của đồng bào truyền từ đời này qua đời khác nó nảy sinh và tồn tại như
một bộ phận hợp thành của sinh hoạt nhân dân.
Sau khi được học xong học phần: ‘‘Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam’’
đã cho tôi những kiến thức vững vàng, những tri thức đầy bổ ích về văn hóa các
dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là văn nghệ dân gian của dân tộc Ê Đê đã đưa tôi đến
với những làn điệu trữ tình sâu lắng, những điệu múa nhẹ nhàng nhưng cũng có
phần sôi động, những lời ca ngọt ngào và những truyện cổ đầy sự tích…. Vì vậy,
tôi chọn đề tài: ‘‘Tìm hiểu, mô tả, đánh giá về đề xuất bảo tồn những giá trị văn
nghệ dân gian của tộc người Ê Đê” để cho mọi người khắp mọi miền đều được
biết đến và hòa nhịp trong nền văn nghệ dân gian vốn phong phú của dân tộc Ê
Đê.


NỘI DUNG


1. Khái quát về địa bàn và tộc người Ê-Đê ở Đắk Lắk
1.1

Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu
1.1.1 Dân số

Tính đến năm 2014, dân số toàn tỉnh Đắk Lắk đạt gần 1.834.800
người, mật độ dân số đạt 135 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt
gần 426.000 người, chiếm 27% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt
1.345.800 người, chiếm 73% dân số. Dân số nam đạt 894.200 người, trong khi
đó nữ đạt 877.600 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng
12,9 ‰.
Dân tộc: Tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống.
Trong đó dân tộc kinh chiếm đông nhất với 1.161.533 người, thứ hai là Người Ê
Đê có 298.534 người, thứ ba là Người Nùng có 71.461 người, thứ tư là Người
Tày có 51.285 người. Cùng các dân tộc ít người khác như M'nông có 40.344
người, Người Mông có 22.760 người, Người Thái có 17.135 người, Người
Mường có 15.510 người.
Đơn vị hành chính: Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính gồm: có 1 thành phố
là thành phố Buôn Ma Thuật, 1 thị xã là thị xã Buôn Hồ và 13 huyện là Ea H
Leo, Krông Buk, Krông Năng, Ea Súp, Cư M gar, Krông Pắc, Ea Kar, M`Đrăk,
Krông Ana, Krông Bông, Lăk, Buôn Đôn, Cư Kuin.
Khu vực I: Là các xã có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội thuận lợi.
Chủ yếu là các xã ở vùng thấp, gần trung tâm các huyện, thành phố, giao thông
và các dịch vụ xã hội thuận lợi.
Khu vực II: Là các xã có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khó khăn,
phần lớn các xã này nằm ở vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại còn tương đối
khó khăn; các dịch vụ xã hội cơ bản đã được đáp ứng tương đối tốt.



Khu vực III: Là các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, các
xã ở vùng sâu, vùng biên giới, xa các trung tâm huyện, thành phố, địa hình bị
chia cắt mạnh, giao thông đi lại còn nhiều khó khăn; các dịch vụ xã hội còn hạn
chế.
1.1.2 Diện tích
Diện tích tự nhiên: 13.062 km²
1.1.3 Lịch sử hình thành tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk được thành lập theo nghị định ngày 22 tháng 11 năm 1904 của Toàn
quyền Đông Dương và tách khỏi Lào, đặt dưới quyền cai trị của Khâm sứ Trung
Kỳ. Trước đó, vào cuối thế kỷ 19, Đắk Lắk thuộc địa phận đại lý hành
chính Kontum và bị Pháp nhập vào Lào. Đến ngày 9 tháng 2 năm 1913 thì tỉnh
này trở thành một đại lý hành chính trực thuộc tỉnh Kon Tum được thành lập
cùng ngày. Mãi đến ngày 2 tháng 7 năm 1923 tỉnh Đắk Lắk mới được thành lập
lại. Lúc mới thành lập, Đắk Lắk chưa chia huyện, tổng mà chỉ có đơn vị làng
(còn gọi là buôn hay bon), người Ê Đê có 151 làng, người Bih có 24 làng, người
Gia Rai có 11 làng, người Krung có 28 làng, người M'dhur có 120 làng, người
M'Nông có 117 làng, người Xiêm có 1 làng. Năm 1931, trong cuộc cải cách
hành chính toàn Đông Dương, tỉnh Đắk Lắk được chia làm 5 quận, gồm
có Buôn Mê Thuột, Buôn Hồ, Đăk Song, Lăk và M'Đrăk, dưới có 440 làng.
Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Đắk Lắk cũng có
nhiều thay đổi. Năm 2003, Quốc hội ra Nghị quyết số 22/2003/QH.11 chia tỉnh
Đắk Lắk thành hai tỉnh mới là Đắk Lắk và Đắk Nông. Từ đó, tỉnh Đắk Lắk có
15 đơn vị hành chính gồm thành phố Buôn Ma Thuột, 1 thị xã Buôn Hồ và 12
huyện: Buôn Đôn, Cư M'gar, Ea H'leo, Ea Kar, Ea Súp, Krông Ana, Krông
Bông, Krông Búk, Krông Năng, Krông Pắk, Lắk, M'đrắk.
1.1.4 Kinh tế - văn hóa


Nằm ở vị trí địa lý gần như trung tâm của vùng cao nguyên Tây Nguyên,
Đắk Lắk có những thuận lợi phát triển kinh tế xã hội. Thuận lợi giao lưu kinh tế

với các tỉnh trong khu vực.
Với điều kiện tự nhiên rất thuận lợi, là một cao nguyên rộng lớn khá bằng
phẳng xen kẽ với các đồng bằng thấp ven các dòng sông chính. Do đó Đắk Lắk
rất phát triển ngành lâm nghiệp và nông nghiệp. Đắk Lắk là tỉnh có diện
tích và sản phẩm cà phê xuất khẩu lớn nhất cả nước, với diện tích 182.343ha và
sản lượng thu hoạch hàng năm đạt trên 400.000 tấn, chiếm 40% sản lượng cả
nước[38]. Tỉnh cũng là nơi trồng bông, cacao, cao su, điều lớn của Việt Nam.
Đồng thời, là nơi phát triển các loại cây ăn trái khác, như cây bơ, sầu
riêng, chôm chôm, xoài...
Đắk Lắk có 47 tộc người cùng sinh sống, do vậy đây được coi là mảnh đất
phong phú về bản sắc văn hóa, về truyền thống lịch sử và di sản văn hóa. Đắk
Lắk còn biết đến với những bản trường ca truyền miệng lâu đời Đam San, Xinh
Nhã dài hàng nghìn câu, như các ngôn ngữ của người Ê Đê, người
M'Nông...như các đàn đá, đàn T'rưng, đàn k'lông pút... Đắk Lắk được xem là
một trong những cái nôi nuôi dưỡng hhông gian văn hóa Cồng Chiêng Tây
Nguyên, được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân
loại.

1.2 Khái quát chung về dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk
Nguồn gốc và ngôn ngữ
Dân tộc Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Malayô – Pôlynêdi). Đây là

1.2.1

nhóm dân tộc có nguồn gốc từ nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai từ các hải
đảo Thái Bình Dương đã có mặt lâu đời ở Đông Dương.
1.2.2 Dân cư và vị trí địa lý


Tính đến năm 2014, dân số Ê Đê là 298.534 người. Chiếm 16.3% dân số toàn

tỉnh. Phân bố chủ yếu ở thành phố Buôn Ma Thuật, thị xã Buôn Hồ và các
huyện Krông Bông, Lăk, Buôn Đôn, Cư Kuin.
1.2.3 Đặc điểm kinh tế
Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ,
dùng trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất. Ngoài trồng trọt còn chăn nuôi, săn
bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải. Trên nương rẫy, ngoài cây chính là lúa
còn có ngô, khoai, bầu, thuốc lá, bí, hành, ớt, bông. Đặc điểm làm rẫy của người
Ê Đê là chế độ luân khoảnh, tức là bên cạnh những khu đất đang canh tác còn có
những khu đất để hoang để phục hồi sự màu mỡ. Ngày nay người Ê Đê gắn
mình với sản xuất nông sản cây công nghiệp: cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao,...
Nghề trồng trọt ở đây có nuôi trâu, bò, voi. Người dân ở đây còn tự làm ra được
đồ đan lát, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang sức, đồ gốm.
1.2.4 Quan hệ cộng đồng của dân tộc Ê Đê
Gia đình Ê Ðê là gia đình mẫu hệ, hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con mang họ
mẹ, con gái út là người thừa kế nhà thờ cúng ông bà và có trách nhiệm nuôi
dưỡng cha mẹ già, đàn ông kết hôn và sinh sống tại nhà vợ . Xã hội Ê Ðê vận
hành theo tập quán pháp truyền của tổ chức gia đình mẫu hệ. Cả cộng đồng
được chia làm hai hệ dòng để thực hiện hôn nhân trao đổi. Làng gọi là buôn và
là đơn vị cư trú cơ bản, cũng là tổ chức xã hội duy nhất. Người trong một buôn
thuộc về nhiều chi họ của cả hai hệ dòng nhưng vẫn có một chi họ là hạt nhân.
Ðứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ bến nước (Pô pin ca) thay mặt
vợ điều hành mọi hoạt động của cộng đồng.
1.2.5 Phong tục tập quán
1.2.5.1
Nhà ở
Đặc điểm chính của nhà dài Ê Đê là thường rất dài vì là nơi ở chung có khi
của cả một dòng họ và thường xuyên được nối dài thêm mỗi khi một thành viên
nữ trong gia đình xây dựng gia thất. Vì vậy có những huyền thoại nhà dài như



tiếng chiêng ngân bởi vì đứng ở đầu nhà đánh chiêng thì cuối nhà chỉ còn nghe
rất nhỏ, ra khỏi là mất luôn, không còn nghe thấy gì nữa.
Nhà dài truyền thống thường được xây dựng bằng vật liệu gỗ, tre, nứa lợp
mái tranh. Nhà có kết cấu cột kèo bằng gỗ tốt có sức chịu đựng dãi dầu cùng
năm tháng. Các đà ngang, đòn dông luôn luôn bám nguyên tắc được đẽo hoàn
toàn bằng tay, từ những cây gỗ nguyên vẹn dài có thể tới trên chục mét; đếm
chúng, ta có thể biết nhà đã có thêm bao nhiêu lần được nối dài. Những lần nối
dài thường là khi trong nhà có một thành viên nữ xây dựng gia thất vì người Ê
Đê theo chế độ mẫu hệ, người con trai khi lấy vợ sẽ đến ở nhà vợ và không có
quyền hành gì.
Nhà được thưng vách và lót sàn bằng các phên nứa đập nát; mái lợp cỏ
tranh đánh rất dày, trên 20 cm, thường chỉ làm một lần và sử dụng vĩnh viễn
không phải lợp lại. Đỉnh mái cách sàn nhà chừng 4–5 m. Gầm sàn cao khoảng
hơn 1m trước đây luôn được dùng làm nơi nuôi nhốt trâu, bò, lợn, gà nên rất
mất vệ sinh, sau này đã bỏ dần tuy nhiên có một số nơi vẫn theo phong tục cũ
này. Khi làm nhà mới, người Ê Đê rất kiêng không bao giờ dùng lại gỗ nhà cũ
mà thường đốt bỏ, tuy nhiên ngày nay phong tục này chỉ còn tồn tại ở các vùng
sâu gần rừng nơi còn dễ kiếm gỗ làm nhà.
Những đặc trưng của nhà Ê Đê là: hình thức của thang, cột sàn và cách bố
trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặc biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi
là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài là nơi chứa các vật
dụng như bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài (Kpan) có thể dài tới 20m được
đẽo từ những thân cây rừng nguyên vẹn kể cả chân, trên vách có treo cồng
chiêng... nửa còn lại gọi là Ôk là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các
đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là "trên" chia
thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là
nơi đặt bếp lửa... Nguyên bản trước đây bếp lửa của người Ê Đê thường được


đặt trực tiếp trên sàn, họ đóng một khung vuông bằng gỗ cao khoảng 10 cm,

đổ đất nện, sau đó đốt lửa trên đó cả ngày với mục đích giữ lửa và để
chống muỗi và các loại côn trùng khác.
Mái nhà bằng cỏ tranh, vách bằng tre nứa, và Kpan.
Người Ê Đê có tập quán là khi đi ngủ thì đầu quay về hướng Đông và chân
quay về hướng Tây. Do đó nhà dài theo hướng Bắc Nam. Chỗ ngủ được ngăn
đơn giản bằng những thành tre làm nhiều ngăn. Ngăn đầu tiên là ngăn của vợ
chồng chủ nhà, tiếp theo là ngăn người con gái chưa lấy chồng, sau đó đến các
ngăn của vợ chống những người con gái đã lấy chồng, cuối cùng là ngăn dành
cho khách.
Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách.
Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân khách càng rộng,
khang trang.
Cầu thang nhà của người Ê Đê luôn được đẽo bằng tay và thường được trang
trí bằng hình hai nhũ hoa (trông thể hiện tín ngưỡng phồn thực rõ rệt của người
Ê Đê) và hình trăng khuyết.
Các cột, kèo thường đẽo gọt, trang trí bằng hình ảnh các con vật như voi, ba
ba, kì đà... Cũng như cầu thang, các vật trang trí này luôn được đẽo bằng tay với
cây rìu truyền thống.
1.2.5.2

Trang phục truyền thống

Theo truyền thống, trang phục của người dân Êđê là màu đen hoặc màu
chàm, trên đó có những họa tiết hoa văn sặc sỡ. Phần lớn, đàn bà đều mặc váy,
quấn váy (tiếng địa phương gọi là Ieng), đàn ông thì đóng khố (Kpin), mặc áo.
Đồng bào dân tộc Êđê còn rất thích dùng các đồ trang sức bằng bạc, đồng hay
hạt cườm, họ cũng mang hoa tai và vòng cổ khi ra khỏi nhà thường đeo bên
mình gùi và ngậm tấu.



Về trang phục Nam: ngày xưa, đàn ông Êđê thường để tóc dài rồi búi tó sau
gáy, nay thì họ đã cắt tóc ngắn, gọn gàng giống như người Kinh hiện đại. Tuy
nhiên, tầng lớp trung niên ở Êđê vẫn còn chuộng việc chít khăn vải chàm hay
khăn vàng nhạt khi đi ra đường hoặc trong ngày lễ tết.
Trang phục truyền thống Nam của dân tộc Êđê bao gồm hai yếu tố là áo và
khố. Áo của người Nam có hai loại, áo dài trùm mông và áo dài quá gối. Áo dài
trùm mông được thiết kế tay áo và thân áo dài, có xẻ tả và khoét cổ chui đầu.
Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các
đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là
khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp và
khỏe. Dọc đường xẻ cổ ngực, có dính thêm nhiều khuy đồng, là những đoạn sợi
chỉ đỏ đan sít vào nhau thành mảng hình thang cân lộn ngược. Trong khi đó, áo
dài quá gối có khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại áo dài
trùm mông nói trên...
Trên những tấm áo này, những đường chỉ màu trang trí thường tập trung ở
những chi tiết như nách áo, gấu áo, vai, cổ và tay áo. Người Êđê vẫn thường
khen ngợi chiếc áo đẹp nhất là áo kteh hay còn gọi là đếch kvưh grư, trước ngực
áo có mảng hoa văn được gọi là “đại bàng dang cánh”. Gấu áo phía sau viền
đường chỉ màu, gài thêm những hạt cườm trắng và tua chỉ màu dài tới 12cm.
Mảng trang trí trước ngực được mệnh danh là cánh đại bàng. Dọc đường xẻ cổ
ngực, có dính thêm nhiều khuy đồng, là những đoạn sợi chỉ đỏ đan sít vào nhau
thành mảng hình thang cân lộn ngược.
Khố (Kpin) được dệt sẵn trên khung dệt. Chất liệu vải, trang trí hoa văn và
độ dài ngắn có khác nhau. Màu nền của khố là màu chàm sẫm, trang trí hoa văn
dọc rìa khố, hai đầu vạt khố. Loại khố sang và đẹp nhất của đàn ông Ê đê là khố
kteh và đrai, dệt bằng sợi vải đẹp, dài, hai đầu khố có trang trí hoa văn và đính
thêm tua khố dài tới 25cm. Đây là loại khố dùng trong ngày hội của những
người có vị trí cao trong buôn làng. Khi mặc, hai đầu khố rủ dài phía trước và
sau đùi. Loại khố pirêk trang trí hoa văn trên hai vạt khố, nhưng không có tua



màu. Hai loại khố dùng thường ngày tring nhà hay đi nương là khố bơng và
mlang, dùng loại này ngắn, ít hoa văn trang trí, không có tua màu.
Về mùa lạnh, đàn ông Êđê thường khoác tầm mềm Abăn dệt bằng sợi bông,
nhuộm chàm, trên đó trang trí những đường hoa văn. Hình ảnh này tạo đã góp
phần tạo nên hình tượng người con trai mạnh mẽ và hùng dũng giữa núi rừng
đại ngàn Tây Nguyên.
Về trang phục nữ: Phụ nữ Êđê mặc loại áo cánh ngắn, may kiểu chui đầu.
Không giống như áo chui đầu của nam giới, áo chui đầu của phụ nữ khoét cổ
cao hơn, mở rộng cổ để chui đầu ở phía vai, có đơm thêm vài hàng khuy để cài.
Bàn tay khéo léo của phụ nữ Êđê được thể hiện qua những đường may sợi
chỉ, họ đã kết hợp những đường viền và các dải hoa văn nhỏ bằng sợi chỉ màu
đỏ, trắng hoặc vàng. Loại áo sang và đẹp gọi là áo đếch theo tên của dải hoa văn
nơi gấu áo. Trang trí trên áo thường ở đường bờ vai, nách bả vai, cửa tay,
thân áo dài đến mông để khi mặc cho ra ngoài váy, trong khi đó, tay áo thường
ngắn và hẹp, gấu áo chỉ chấm thắt lưng nên khi mặc làm nổi những đường nét
khỏe khoắn của cơ thể phụ nữ.
Trang phục truyền thống của người phụ nữ Êđê độc đáo và khá lạ so với
nhiều vùng miền khác ở chỗ phong cách trang trí là không có đường ở giữa thân
áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót
cộc tay (áo yếm).
Hàng ngày, đồng bào dân tộc Êđê thường mặc loại áo băl. Loại áo này không
trang trí hoa văn. Những người già lão ở đây còn ưa mặc một loại áo lót trong
gọi là ao yên, chỉ có phần vải che ngực.
Phụ nữ Êđê diện nhiều loại váy khác nhau. Váy loại tốt là myêng đếch, rồi
đến myêng đrai, myêng piêck. Loại váy này mặc trong những dịp hội hè long
trọng, trong cưới xin, nhất là của những gia đình khá giả. Váy kdruêch piêck
cũng là loại váy sang, nhưng không đẹp bằng hai loại váy kể trên. Còn váy bơng



thì may bằng vải thô, không trang trí gì, thường mặc khi đi làm. Những bà già
nghèo khó vẫn mặc loại váy này vì họ không có điều kiện mua sắm vải đắt tiền.
Nguyên liệu làm váy chủ yếu bằng vải bông màu chàm hoặc đen, tùy từng
loại váy mà trang trí nhiều hay ít đường nét hoa văn. Ngày nay, váy được may
bằng vải công nghiệp, chất lượng tốt hơn và cũng đẹp hơn, thậm chí trên nền vải
còn trang trí những đường nét thêu thùa bắt mắt.
Cách mặc váy cũng khá độc đáo, họ đặt mép váy ở sườn bên trái, quấn một
vòng quanh người từ eo bụng trở xuống, dắt mép váy ngoài về phía sườn bên
phải. Để cho chặt có thể dùng thêm thắt lưng bằng vải hay bằng kim loại.
Phụ nữ Êđê còn trang sức bằng những loại vòng tay, vòng chân, nhẫn, dây
chuyền bằng đồng hay bằng hạt cườm. Cách đây chưa lâu phụ nữ còn đội thứ
nón đan, có quai giữ ở cằm, gọi là duôn bai. Thời trước, vòng tay thường đeo
thành bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người
quen, thân.
Một loại phụ kiện không thể thiếu của người phụ nữ Êđê là chiếc khăn.
Khăn được nhuộm chàm dùng để quấn tóc trên đầu. Khăn quấn quấn hình chữ
“nhân” trước trán rồi buộc thành mối ra sau gáy và bịt khăn kín cả trán và đầu,
mối vòng ra sau gáy phủ lên độn tóc.
Ngày nay, trang phục phụ nữ Êđê đã bị cách tân khá nhiều do ảnh hưởng
quá trình phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa từ các vùng miền khác, tuy
nhiên, người dân Êđê vẫn luôn tự hào về nghệ thuật trang trí hoa văn trên nền
vải với màu sắc, hình khối, đường nét và bố cục riêng được thế hiện rõ nhất
trong quá trình hình thành áo, váy, khố, túi, địu...
Hôn nhân
Lễ cưới Êđê là một nghi lễ của dân tộc Êđê, Tây Nguyên, Việt Nam. Lễ hỏi
1.2.5.3

- cưới theo chế độ mẫu hệ. Theo truyền thống đó, người con gái đi hỏi và cưới
chồng, chủ động hoàn toàn về mọi phí tổn trong hôn nhân, con trai đi làm rể bên
nhà vợ.




Luật tục


Để đảm bảo duy trì hôn nhân hạnh phúc cho mọi gia đình, nếu có trường
hợp vi phạm chế độ một vợ một chồng thì bị phạt rất nặng như phạt trâu, bò,
chiêng, ché... tùy theo mức độ vi phạm và khả năng đáp ứng hình phạt của
người vi phạm mà thường do già làng quyết định.



Lễ hỏi chồng Nao Nuh

Trai gái tìm hiểu nhau, quyết định đi đến thành hôn thì trước tiên phải thông
qua đám hỏi. Nhà gái chuẩn bị lễ hỏi gồm một chén rượu và một vòng đồng để
cúng thần, sau đó cô gái cùng ông mối đến nhà trai. Nếu ở khác buôn thì những
người đi hỏi mang theo cơm nếp với ý nghĩa để đôi trai gái gắn bó với nhau như
cơm nếp. ĐămĐêi (anh, em trai bên mẹ) cầm chiếc vòng đã được cúng thần để
hỏi chàng trai, nếu chàng trai ưng thuận thì họ làm lễ trao vòng: Cô gái và
chàng trai chạm tay vào chiếc vòng (đây là lời giao ước hôn thú). Từ đó coi như
hai gia đình trở thành thông gia, mỗi gia đình cử ra Miết Ava (người đỡ đầu) của
mình đại diện cho hai gia đình giúp đôi trai gái nên vợ nên chồng cũng như
tham gia khuyên răn và hòa giải những bất hòa giữa hai gia đình.
Nếu trong trường hợp người con trai không đồng ý thì nhà trai làm một nghi
lễ nhỏ mời nhà gái đến dự để tỏ lòng tôn trọng và duy trì sự hòa thuận với nhau.
Theo quan niệm của người Êđê việc từ chối hôn lễ là từ chối hôn nhân của một
dòng họ, ảnh hưởng và gây tổn thương rất lớn đến lòng tự trọng của không
những một gia đình mà còn cả một dòng họ. Do đó cần thiết phải có sự thể hiện

gắn bó đoàn kết của một cộng đồng dân tộc. Đây là một trong những nét đẹp
văn hóa truyền thống của người Êđê.



Thách cưới Knăm

Hai gia đình gặp nhau bàn việc thách cưới do nhà trai đưa ra, thường là
thách cưới rất cao. Đồ thách cưới gồm trâu, bò, chiêng, ché và ngày nay có thể


là vàng... Nếu nhà trai và nhà gái đồng ý, họ sẽ chọn ngày đưa cô gái về sống tại
nhà chồng một thời gian để thử thách. Nếu cô gái không trả nổi lễ vật thách cưới
thì phải ở lại làm việc tại nhà chồng cho đến khi hết nợ mới có quyền rước
chồng về nhà mình. Lúc này người con gái đó mới có quyền làm lễ gọi chồng.
Trường hợp trả không hết nợ (thường là gái mồ côi) thì cô gái phải ở luôn bên
nhà chồng. Đôi khi vì đồ thách cưới rất cao nên có trường hợp có con rồi mới
làm lễ cưới.



Lễ gọi chồng hay Lễ cưới Yâu ung

Khi đã đủ đồ thách cưới, nhà gái sẽ trao cho nhà trai và xin cưới, tức là làm
lễ gọi chồng. Ngoài đồ thách cưới, nhà gái còn mang sang nhà trai ba lễ vật bắt
buộc để trả công cho mẹ chồng:


01 chén bằng đồng: Trả công ơn cho mẹ chồng đã tắm cho chồng lúc còn
nhỏ bằng thau đồng.




08 vòng đồng: Tượng trưng 08 lễ cúng trong chu kỳ sống của một con người
trước khi lập gia đình.



01 cái chăn: Trả cho mẹ chồng đã địu chồng lúc còn nhỏ

Ngoài ba lễ vật trên còn có nhiều vòng đồng để phát cho các thành viên của gia
đình cồng.



Lễ rước rể

Nhà trai tiễn con bằng một ché rượu và một con heo. Trên đường về nhà gái,
chú rể được tặng nhiều vòng đồng - coi đó là lời cam kết thủy chung và lời chúc
tụng hạnh phúc (thường thường, trong khi rước rể, một tốp thanh niên tinh
nghịch sẽ đón đường té nước vào chú rể để thay lời chúc phúc cho đôi bạn trẻ).
Trong nghi lễ, khi chủ nhà và khách đã yên vị, mọi người tiến hành lễ cúng cho


mẹ chồng 01 ché rượu, 01 con heo. Sau đó là lễ cúng tổ tiên gồm 05 ché rượu
và 01 con heo. Một Đăm Đêi lấy máu con vật hiến sinh bôi lên chân đôi vợ
chồng mới cưới, chúc cho hai người 2 miếng cơm với 3 sừng rượu. Vị trưởng
họ nhà gái đại diện hai bên trao vòng đồng cho đôi vợ chồng trẻ chạm tay và
nhắc nhở lòng chung thủy ở mỗi người. Khách dự lần lượt đi qua mặt hai vợ
chồng chúc tụng và tặng quà.

1.2.5.4

Ma chay

Khi trong gia đình có người chết, tang gia đánh một hồi trống báo cho dân
làng biết. Nghe tiếng trống cả làng kéo đến giúp tang gia lo liệu ma chay. Mọi
người trong làng mang đến gói cơm, quả trúng “làm quà tặng cho người chết”.
Người ta còn mang đến tang chủ những đồ cúng biếu như: gạo, rượu, gà có khi
cả heo, trâu… những người không có thì đến giúp việc cho gia chủ. Nhân dịp
này các gia đình có nguời chết trước còn giữ mã (Djă msát) mang đồ ăn thức
uông để giử người vừa tắt thở mang cho người thân về thế giưới bên kia. Người
vừa chết được coi là sợi dây liên lạc giữa thế giới người sống và người chết và
cũng chỉ trong dịp này thân chủ thân chủ lại keo nhau đến mộ khóc gọi vong
hồn người đã khuất.
Trong những ngày trong tang, dân làng đều ngừng sản xuất, không mua bán
trao đổi, không đi xa làng… Họ tập trung vào việc tang lễ. Thi thể được các
thành viên gia đình lau chùi sạch sẽ, mặc quần áo ngày lễ và đeo đồ trang sức
quý giá. Thi hài được lượm và phủ chăn kín ở phòng cuối nhà sát góc phỉa
Đông, đầu đặt về hướng Đông (những người chết giữ đầu quay về hướng Tây).
Một quả trứng luộc, bát gạo, bát cơm, được bài lên mâm cúng. Thịt gà moi lòng
bỏ ruột rồi kẹp cả con nướng dựa vào bên vách phía để thi hài.
1.2.5.5 Lễ hội


Khi xuân về nhiều lễ hội của người Ê Đê được tổ chức tưng bừng. Do có bộ
chữ viết riềng nên vốn văn hóa dân tộc vừa được tồn giữ qua truyền miệng và
qua chữ viết, hết sức phong phú. Đó là những ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích,
đặc biệt là những sử thi nổi tiếng Đăm Săn, Khan đăm Ktêh Mlan... mà người ê
đê gọi là Khan. Trong lễ hội của người Tây Nguyên không thể thiếu tiếng cồng
chiêng, tiếng trống to, trống nhỏ. Đinh Năm là loại nhạc cụ phổ biến của dân

tộc. Cùng với đàn klongput, đàn t’rưng, sáo ... tạo nên sự phong phú, đa thanh
sắc trong lễ hội, trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Đàn đá là loại nhạc cụ cổ
nhất.
Càng đi sâu vào lễ hội của dân tộc càng thấy rõ tính văn hóa lễ hội quyện
vào trong cuộc sống hàng ngày: Văn hóa cồng chiêng, văn hóa sử thi, văn hóa
gia tộc, văn hóa lễ hội, sinh hoạt cộng đồng. Tiêu biểu là lễ hội Cúng Bến nước.
Có thể nói nghi lễ và lễ hội của dân tộc Ê Đê là rào chắn tốt nhất để bảo vệ
bản sắc văn hóa, gìn giữ phong tục tập quán và nếp sống tốt đẹp của cộng đồng.
Thực tế chó thấy, ở những nơi hẻo lánh, xa xôi, nghi lễ - lễ hội được gìn giữ và
thể hiện ở dạng nguyên sơ hơn vùng trung tâm thị trấn, thị tứ. Các nghi lễ - lễ
hội dân gian ở đây thương được phân theo hai hệ thống: lễ nông nghiệp vè lễ
dòng đời người.
Lễ nông nghiệp thường được tổ chức trước và trong mùa rẫy (mùa mưa).
Các lễ vòng đời thường tổ chức sau mùa rẫy (vào mùa khô và dịp đầu xuân).
Tùy theo từng lễ, có thể tổ chức theo từng gia đình riêng lẻ, rộng ra nữa là dòng
hộ, hoặc trong buôn làng. Tất nhiên lễ nào cùng phải thể hiện đủ ba yếu tố: thời
gian, địa điểm, quy mô. Nghi lễ - lễ hội dân gian người Ê Đê không mang tính
tôn giáo mà mang tính chất tâm ling đa thần. Hình thức của của lễ thường gắn
với việc cúng thần và lễ vật hiến thần. Lễ vật hiến thần nhỏ nhất là con gà, chén
rượu, cao hơn là hiến heo, bò trâu cùng hàng chục chén rượu. Lễ nhỏ thường tổ
chức trong một ngày, lễ lớn từ ba đến bảy ngày. Tùy theo từng loại lễ mà thu hút
cả dòng họ, cả buôn, hoặc nhiều buôn tham gia.


Lễ hội mùa xuân là lễ hội tiêu biểu nhất của người Ê Đê. Lễ hội được tổ
chức sau mùa gặt hái, đón năm mới. Theo phong tục của các dân tộc Ê Đê, hàng
năm vào dịp kết thúc một mùa rẫy là các dân tộc nơi đây cùng tổ chức lễ hội
đón năm mới (gọi là mùa ăn năm, uống tháng). Sau lễ ăn cơm mới, các buôn
làng tổ chức lễ cúng bến nước, để cầu mong mưa thuận, gió hòa, nguồn nước
dồi dào, trong lành, mọi người khỏe mạnh, nhà nhà nhiều lúa, bắp, trâu, bò, heo,

gà. Là một lễ lớn của mọi buôn làng, nhằm góp phần bảo vệ môi trường sinh
thái, bảo vệ nguồn sống của cộng đồng, đồng thời nhắc nhở mọi người phải có ý
thức bảo vệ rừng, đất đai, nguồn nước… vì đó là tài sản quý giá nhất từ bao đời
của ông cha để lại.
Có các lễ khác:


Lễ bỏ mả cho người quá cố. Đây là một lễ lớn trong vòng đời người, nên
hầu hết các dân tộc đều tổ chức rất chu đáo.



Lễ hiến sinh (giết trâu) cúng thần linh và người quá cố.



Lễ kết nghĩa anh em, lễ cưới, lễ trưởng thành, lễ cúng sức khỏe cho mọi
thành viên trong cộng đồng.



Lễ cúng hòn đá bếp (vì thần đã giúp gia chủ một năm no đủ), làm lễ cúng
hòn đá cổng buôn làng (vì thần đã gìn giữ buôn làng một năm yên ổn,
không có ai đói nghèo, bệnh tật) và cúng sức khỏe cho những con vật
nuôi trong gia đình (như voi, trâu, bò, heo, chó, mèo, dê, gà…) vì những
con vật này là người bạn của con người, thiếu nó con người sẽ cảm thấy
cô đơn, bé nhỏ trước thiên nhiên vũ trụ.




Lễ cúng cầu mưa, cúng thần gió, cầu một năm mưa thuận gió hòa, làm ăn
phát đạt, nhà nhà no ấm, hạnh phúc.

Những giá trị văn nghệ dân gian của dân tộc Ê Đê
2.1 Truyện cổ

2.


Truyện cổ Ê Đê chiếm một vị trí đáng kể trong kho tàng phônclo của dân
tộc này. Là thể loại tự sự, nó phản ánh khá rộng hiện thực cuộc sống và những
nhận thức của người Ê Đê về tự nhiên, xã hội cũng như những mong muốn của
họ về một cuộc sống hạnh phúc và tốt đẹp hơn.
Người Ê Đê gọi các câu chuyện xưa kia của mình là klei đưm. Trong vốn từ
vựng Ê Đê, klei nghĩa là lời, đưm nghĩa là xa xưa. Klei đưm chỉ được truyền
bằng miệng từ đời này sang đời khác, từ vùng này qua vùng khác. Trong quá
trình sáng tác và lưu truyền, nó mang sắc thái từng địa phương và biến đổi trong
điều kiện không gian, thời gian mà nó tồn tại.
Truyện kể Ê Đê được lưu hành dưới hình thức văn xuôi, đôi khi xen vào một vài
câu duê (văn vần), làm cho truyện kể thêm hấp dẫn, gợi cảm. Truyện khá phong
phú về tình tiết nhưng cốt truyện thường đơn giản, ngắn gọn.
Căn cứ vào nội dung phản ánh và hình thức thể hiện, chia truyện cổ Ê Đê thành:
thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn.
2.1.1 Truyền thuyết
Truyền thuyết Ê Đê và quan niệm hiện thời của đồng bào vẫn cho rằng họ từ
“thế giới khác” chui qua hang Ađrênh đến sinh sống ở thế giới chúng ta. Quan
niệm phi thực tế và mơ hồ này chừng mực nào đó vẫn phản ánh quá trình sinh
sống, làm ăn và sự hình thành buôn làng người Ê Đê trên vùng đất Tây nguyên.
Sự hình thành các dòng sông, ngọn núi đều gắn với sức lao động bền bỉ của các
chàng trai Ê Đê cần cù, thông minh, tình nghĩa (sự tích núi Yang Mao, sự tích

dòng sông Pach).
Truyền thuyết về Dòng Krông Buc (sông tóc) rất quen thuộc với người Ê Đê.
Đó là thiên tình ca thấm đậm chất thơ và ám ảnh lòng người. Truyện kể rằng: ở
một buôn nọ, có chị em H’Ring và H’Rao rất xinh đẹp. Một hôm, hai người rủ
nhau đi hái rau, bắt cá. Khi đến một bến nước la, họ gặp một chàng trai tuấn tú.
Cả hai chị em đều đem lòng yêu chàng trai, và chàng trai cũng mang lòng
thương nhớ hai người con gái kia. Họ muốn thành vợ thành chồng, nhưng chàng
trai là con thần Nước nên không sống được trên cạn. Khi buộc phải trở về với
dòng sông, chàng trai mang theo hai nửa búi tóc của H’Ring và H’Rao làm kỷ
vật. Từ đó, vì thương nhớ người yêu, hai người con gái ấy không yêu ai và cũng


không chịu lấy chồng. Khi chết, linh hồn họ hóa thành một loài hoa nở trên mặt
nước để được vĩnh viễn sống cạnh người họ yêu thương.
Tuyện Hơ Kung Y Du cũng là một truyện tình cảm động, rằng có hai anh em
yêu nhau, nhưng mỗi người mỗi ngả (Hơ Kung ở mặt trời, Y Du ở mặt trăng).
Chỉ khi nào nguyệt thực thì họ mới nhìn thấy mặt nhau. Truyện này cũng giải
thích một phong tục về hôn nhân của người Ê Đê.
Truyền thuyết – huyền thoại Cây tông lông nói về một loại cây thần. Đây là
truyền thuyết có nhiều lớp lịch sử chồng lên nhau. Qua truyền thuyết này, người
ta còn nhìn thấy bóng dáng của người Chăm khi họ đặt chân lên Tây Nguyên.
Cùng với nhiều cư dân khác sinh sống trên địa bàn Tây Nguyên, người Ê Đê
lưu hành truyền thuyết về tù trưởng Nước (Mtao Êa) và tù trưởng Lửa (Mtao
Pui).
Truyện kể rằng, tù trưởng Lửa cai quản vùng trên, còn tù trưởng Nước cai
quản vùng dưới. Tù trưởng Lửa hùng mạnh, giàu có là do của cải tích lũy được
trong chiến tranh. Còn tù trưởng Nước hùng mạnh, giàu có là do tài điều khiển
dân trong lãnh địa, làm nương rẫy giỏi. Tù trưởng Lửa và tù trưởng Nước đều
mang phép thần thông của yang (thần linh) nên mỗi khi họ đi ra ngoài, nếu dân
không cung kính thì dễ xảy ra các tai họa lớn. Nếu cháy nhà, chết voi, bệnh dịch

xuất hiên ở các vùng, người ta cho rằng đấy là do tù trưởng Lửa và tù trưởng
Nước gây ra.
Truyện tù trưởng Lửa và tù trưởng Nước, nếu bỏ đi màn sương thần linh, thì đó
là hình ảnh của các tù trưởng hùng mạnh ở vùng Tây Nguyên.
Khi sáng tạo các truyền thuyết, các nghệ nhân Ê Đê thường có xu hướng lấy
một vât thể (dòng sông, mặt trời, mặt trăng, suối,..) trong vũ trụ, trong địa vực
mình cư chú để gắn tên nhân vật hoặc chi tiết điển hình nhất của nhân vật cho
các vật thể đó. Trong truyền thuyết về Dòng Krông Buc, nghệ nhân đã lấy chi
tiết “tóc” của hai người con gái để đặt tên cho dòng sông (krông buc, tức là tóc).
Vì thế, dù truyền thuyết có chứa đựng nhiều yếu tố hoang đường đi nữa, nhưng
người ta vẫn tin rằng điều truyền thuyết kể là có thật.
2.1.2 Truyện cổ tích
Truyện cổ tích Ê Đê giải thích một số phong tục tập quán của họ. Truyện
Sự tích Kèn đinh năm (sáu ống) đã nói đến một trong những phong tục của


người Ê Đê. Truyện kể rằng, ngày xưa có hai vợ chồng nọ ăn ở với nhau đã lâu
mà vẫn không có con... Nay nhờ vào sự linh dị siêu nhiên mà người vợ sinh một
lúc sáu đứa con (ba trai, ba gái). Người cha lên rừng chặt về sáu ống nứa dài
ngắn cho các con và dự định rằng, đứa nào lấy ống dài hơn sẽ là chị, là anh.
Người con trai út lấy ống nứa đó cắm vào một quả bầu khô thành kèn đinh năm,
thổi thật buồn thương, sầu não. Ngày cha mất, người con út đem kèn ra thổi,
những người dự đám tang, người thì khóc, người thì hát theo tiếng ken... Từ đó,
mỗi khi trong buôn làng có người chết, người con trai út kia lại lấy kèn ra thổi
để bày tỏ lòng nhớ cha, nhớ người đã khuất.
Truyện cổ tích Ê Đê là tấm gương phản chiếu khá phong phú và chân thực
đời sống của người Ê Đê. Một bức tranh đại thể về đời sống xã hội Ê Đê: từ váy,
khố, bầu nước, bến nước, nhà dài, nương rẫy, từ những nhạc cụ tự tạo như đinh
năm, tù và cho đến những đồ vật quý như chiêng ché; từ giấc mơ, cầu khấn đến
nghi lễ, tín ngưỡng mà bây giờ vẫn còn lưu hành... Đời sống xã hội Ê Đê, dù ít

nhiều, gián tiếp hoặc trực tiếp, chúng ta đều có tìm hiều qua truyện cổ tích của
họ.
2.1.3 Truyện ngụ ngôn
Người Ê Đê cư trú xen các thung lũng bằng phẳng với những đồng cỏ rộng
lớn như ở Buôn Ba (Madrăc) trên những đồi cao, cạnh những cánh rừng ngút
ngàn như Chư Pơng, Krông Năng, hay các vùng sình lầy như Krông Ana, hoặc
rải rác ven hồ Lắc, tỉnh Đắk Lắk. Đó là những nơi quần tụ của nhiều loại chim
chóc, thú rừng và nhiều động vật quý hiếm sống dưới nước.
Sống trong môi trường như vậy, lại chịu tác động to lớn của môi trường,
người Ê Đê chăm chú quan sát hình dạng, màu sắc, âm thanh của từng loại con
vật phát ra cũng như thói quen của chúng để có thể săn bắt, hoặc tự về trước sự
tấn công của chúng. Họ tưởng tượng ra các truyện về loài vật và gắn một số tính
cách của con người cho nó.
Thế giới loài vật trong truyện ngụ ngôn Ê Đê rất phong phú, sống động.
Loài vật nhìn chung được chia làm hai loại: những con vật hiền lành có ích cho
con người như voi, trâu, nai; những con vật hay gây tai họa cho con người như
cọp, trăn, rắn. Khi kết thúc truyện kể, bao giờ cũng hướng theo quan niêm Thiện


– Ác của mình. Loài vật ác bao giờ cũng bị tiêu diệt. Trong các truyện về thế
giới loài vật, người ta không chỉ giải thích về hình dáng, đặc điểm của các con
vật mà đằng sau đó, chúng ta còn thấy lời khuyên của trí tuệ dân gian: sự ngay
thẳng, cần cù, chịu khó sẽ mạnh hơn tất cả chiến thắng tất cả (gà và quả, bác thợ
rèn phạt khỉ, rùa chịu sự trừng trị của lão trồng bí). Truyện ngụ ngôn Ê Đê đã
gắn cho một số loài vật thuộc tính của con người. Chúng cũng “trồng cây bắp,
tra hạt lúa để sinh sống”. Và chúng cũng lười biếng, gian ngoan, phỉnh lừa, như
bản tính thứ hai của con người.
Tóm lại, truyện ngụ ngôn Ê Đê phản ánh kinh nghiệm và trí tuệ của người Ê
Đê. Kinh nghiệm và trí tuệ ấy tuy chưa vươn lên thành ý niệm triết học phổ
quát, nhưng đó là những bài học nhân sinh của cộng đồng Ê Đê.

2.2 Sử thi
Người Ê Đê có tập sử thi rất phong phú, gần 80 sử thi, nổi bật là các sử thi
như Đam San, Đăm Di, Khinh Dú, Đăm Đơ Roăn, Y Prao, Mhiêng, Đăm Di đi
săn, Đăm Tiông, Đăm Trao – Đăm Rao… Người Êđê gọi sử thi là klei khan.
Klei nghĩa là lời, bài; khan nghĩa là hát kể. Hát kể klei khan không phải là hát kể
thông thường mà bao gồm ý nghĩa ngợi ca. Thực chất đây là một hình thức kể
chuyện tổng hợp được thông qua hát kể. Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn
hóa dân gian đã có từ lâu đời của cộng đồng người Ê đê, được tồn tại bằng hình
thức truyền miệng từ đời này qua đời khác.
2.2.1 Nội dung
Nội dung cơ bản của sử thi Êđê chủ yếu ca ngợi, tôn vinh những người có
công với cộng đồng buôn làng; đề cao sự sáng tạo, sự mưu trí tài giỏi, ca ngợi
tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn, đề cao chính
nghĩa, phản kháng những điều trái với đạo lý, luật tục; đề cao cái đẹp về sức
mạnh hình thể lẫn sức mạnh tâm hồn. Sử thi còn ca ngợi tình yêu đôi lứa, tình
cảm gia đình, chế độ nô lệ sơ khai, mong muốn chinh phục thiên nhiên để cuộc
sống tốt đẹp hơn. Ngoài ra, sử thi còn miêu tả cuộc sống sinh hoạt, lao động
bình thường giản dị của buôn làng; thể hiện những nguyện vọng, ước mơ chính
đáng của con người về một thế giới tốt đẹp hơn giữa người với người, giữa con
người với thế giới tự nhiên và giữa con người với các đấng thần linh...


2.2.2 Cốt truyện
Cốt truyện của sử thi Ê Đê tuy lặp lại các sự kiện, hành động trong nhiều cốt
truyện, nhưng mỗi cốt truyện tồn tại độc lập và có kết cấu khá hoàn chỉnh.
Kết cấu cốt truyện sử thi Ê Đê ở phần mở đầu và kết thúc các tác phẩm cơ
bản là khác nhau. Cấu trúc cốt truyện khan sử thi Ê Đê, nhìn chung theo trục
sau: sự xuất hiện thần kỳ của nhân vật chính, người con gái đi hỏi chồng, trai
gái gặp nhau trong rừng và yêu nhau, ... Qua các sự kiện này, các nhân vật sẽ
thực hiện hành động của mình, rồi đến việc các mtao đi cướp đoạt vợ của nhân

vật anh hùng dẫn đến xung đột.
Trong các cốt truyên khan sử thi, mỗi sự kiên, mỗi chuỗi hành động được
thể hiện tương đối hoàn chỉnh trong một phần nào đó của tác phẩm. Theo thời
gian (tính theo cuộc đời của các nhân vật chính), nhân vật chính được đặt vào
những hoàn cảnh, những mâu thuẫn (phần nhiều là giống nhau), và theo đó là
các hành động tương ứng của nhân vật, các biến cố và dẫn đến kết thúc truyện
kể.
2.2.3 Ngôn ngữ diễn xướng
Ngôn ngữ diễn xướng của sử thi Êđê là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và
nhạc. Về phần lời, sử thi Ê đê đều thể hiện một hình thức ngôn ngữ đặc biệt là
lời nói vần (klei duê). Trong khi diễn xướng người nghệ nhân còn vận dụng các
làn điệu dân ca của dân tộc mình, như: Ay ray, kưưt, mmuin… để tạo nên nhịp
điệu vừa có chất thơ vừa có chất nhạc. Trong hình thức ngôn ngữ đó, các câu
chữ như một móc xích nối các câu vần với nhau. Chính đây cũng là một yếu tố
quan trọng khiến nghệ nhân có thể thuộc được cả những tác phẩm dài hàng vạn
câu.
2.1.4 Hình thức thể hiện
Sử thi Ê đê được thể hiện bằng hình thức hát kể và kể lời. Nghệ nhân có thể
dùng cả cử chỉ, vẻ mặt để diễn tả tính cách, hành động của nhân vật trong sử thi.
Sự tài tình khéo léo của người kể, tạo nên sức lôi cuốn hấp dẫn đối với người
nghe, đưa cả người kể lẫn người nghe hòa nhập vào cuộc sống ở thời đại của
các nhân vật. Người kể đắm chìm, hóa thân vào cuộc đời của từng nhân vật,
người nghe cũng hồi hộp dõi theo từng hành động, từng biến cố thăng trầm lẫn


vinh quang hạnh phúc trong từng tuyến nhân vật. Các nhân vật sử thi không chỉ
xuất hiện trong lời kể của nghệ nhân, mà dường như đang sống cùng cộng đồng,
hòa cùng với không gian của núi rừng, buôn làng, có lúc tưởng chừng như đối
thoại cùng người nghe. Chính vì vậy sử thi có sức lôi cuốn, hấp dẫn người nghe
đến kỳ lạ, sử thi như một bức tranh sống động làm cho người nghe quên đi

những nhọc nhằn của cuộc sống lao động thường ngày; đồng thời tiếp thêm
nghị lực để họ vững tin vào tương lai, giúp con người tránh xa những điều tầm
thường để vươn lên sống tốt đẹp hơn.
Sử thi thường được diễn xướng trước đám đông. Sự có mặt đông của công
chúng càng làm cho nghệ nhân có thêm sự hứng khởi. Thông thường sử thi
được hát kể tại các địa điểm: Trong chòi, ở trên rẫy, lễ bỏ mả và trong gian
khách của ngôi nhà dài. Khi hát kể, nghệ nhân thường nằm, một tay gác lên
trán, mắt như vô giác hoặc nhắm lại để tập trung trí nhớ nhằm thể hiện bài sử thi
sao cho đầy đủ và sinh động nhất.
Sử thi là một cốt truyện dài được các nghệ nhân hát kể, kết nối các sự kiện
trong sử thi một cách linh hoạt, sáng tạo và sinh động, tạo sự thống nhất về nội
dung và có sức lôi cuốn người nghe, vì thế một sử thi có thể được hát kể nhiều
ngày đêm mới kết thúc.
2.3 Lời nói vần
Trong kho tàng phônclo Ê Đê, kei duê là một thể loại văn học ý vị: Những ai có
tài duê được cộng đồng ca ngợi:
Người có lưỡi thần cho
Có môi thần tạo
Tai dính chặt với đầu
Là người tài kưt, mmuin
Trong ngôn ngữ Ê Đê, klei duê là một hợp từ. Trong đó, klei có nghĩa là lời, bài;
duê có nghĩa là nối kết. Klei duê là sự nối kết có âm có cùng vần hoặc các âm
tiết tương đồng.
Klei duê là những câu có độ dài ngắn khác nhau được diễn đạt theo lối nói
vần. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp hoặc dùng hình tượng để
biểu đạt một ý tưởng nào đó.


Klei duê có mặt trong hầu hết các hình thức phônclo ngôn từ của người Ê
Đê. Từ các bài cúng thần, tập quán pháp, câu đố, truyện cổ, nhất là khan sử thi

xuất hiện loại ngôn từ này. Đặc biệt là trong các bài dân ca, klei duê là bộ phận
cấu thành nên tác phẩm.
Người Ê Đê thể hiện klei duê theo hai cách:
• Duê blu là hình thức nói tạo ngữ điệu để thể hiện một nội dung nào đó.
Các nội dung này thường là những câu tục ngữ nói về kinh nghiệm thời


tiết, sản xuất, các lời cúng thần.
Duê mmuin là hình thức hát dân ca. Đó có thể là tình yêu quê hương, tihf

cảm gia đình, thân tộc, cộng đồng...
2.3.1 Klei duê về kinh nghiệm thời tiết và sản xuất
Klei duê về kinh nghiệm thời tiết, sản xuất là những câu ngắn gon. Chức năng
của chúng là thông báo các hiện tượng thiên nhiên và phổ biến kinh nghiệm sản
xuất cho cộng đồng.
Cách nói phổ biến nhất của klei duê loại này là mượn những hiện tượn cụ thể
của tự nhiên để dự báo một điều gì đó. Thí dụ: kiến to, kiến nhỏ tha trứng thì
mưa to
Là người hằng ngày làm việc trên nương rẫy, gần gũi với thiên nhiên, đồng bào
quan sát các hiện tượng thiên nhiên và đúc kết chúng vào những câu duê để
phục vụ cuộc sống của mình. Qua klei duê về thời tiết, chúng ta thấy người Ê
Đê rất có ý thức hướng về cái đẹp. Trong đa số klei duê loại này, người Ê Đê
mượn hình ảnh bông hoa, mượn âm thanh tiếng suối, tiếng chim để ghi nhận các
hiện tượng thiên nhiên.
Mượn bông hoa và tiếng chim để điểm nhịp đi của thời gian, của mùa màng trên
nương rẫy.
Cây truk trổ bông là vào mùa khô
Con ve yut kêu là mùa phát rẫy
Trái hngăm chín là mùa dọn rẫy
Trái dâu da chín là mùa gieo hạt

Bầy vẹt kêu là mua tuốt lúa
Nhiều kinh nghiệm sản xuất từ thực tế đã được đồng bào tổng kết trong klei duê
Kinh nghiệm canh tác: Phía bắc trồng đu đủ, phía nam trồng dừa
Kinh nghiệm cải tạo đất: Đất trắng thì đào lên, đất đen thì đào xuống
Một bài học qua klei duê: Bắp không đầy hạt là di thiếu nước
Và một kinh nghiệm được phổ biến: Mùa nắng thì trồng bắp vùng thấp


Klei duê về kinh nghiệm thời tiết, sản xuất là những bài học bổ ích thiết thực
trong cuộc sống lao động nương rẫy của người Ê Đê. Đó là những kinh nghiệm
dân gian được phổ biến qua các thế hệ và thật sự hữu ích trong cuộc sống của
họ.
2.3.2 Klei duê về sinh hoạt cộng đồng
Trong những ngày nhàn rỗi, lúc thảnh thơi, các ông già và những người Ê Đê
đứng tuổi thường đến một gia đình nào đó trong buôn làng để uống rượu cần.
Đặc biệt, khi có bạn cũ, có khách quý đến thăm buôn, chơi nhà hoặc hai người
bạn thân lâu ngày không gặp lại, bên chén rượu, người Ê Đê lại mượn lời duê
hát với nhau. Dưới đây là phần lời của làn điệu mmuin, nói về cuộc gặp gỡ và
chia tay với hai người bạn:
Người bạn thứ nhất:
Anh ở làng xa, tôi ở buôn gần
Lâu ngày chưa gặp mặt nắm tay
Bữa nay cầm tay sát mặt
Người bạn thứ hai:
Tôi đến đây không phải vì rượu
Tôi đến thăm bò lúa của anh
Tôi đến đây không phải vì gà
Trời thuận gió hòa là cái bụng vui
Người bạn thứ nhất:
Anh buộc con dao, đi ra

Anh đeo cái ná, đi xa
Đừng quên bếp lửa trong nhà
Đừng quên bến nước ông bà năm xưa!
Người bạn thứ hai:
Tôi ở làng xa
Lâu ngày anh nhớ đến tìm thăm
Vài năm anh nhớ đến nhà
Đừng để họ hàng mình cách xa...
Trong thực tế, tính cộng đồng người Ê Đê thể hiện rất cao. Điều này đã được
klei duê phản ánh khá tập trung và sinh động.
Khi nói về nguồn gốc tộc người, motip phổ biến trong klei duê là lấy tên các
dòng tộc lớn để nhắc nhở gốc gác dòng tộc.
Klei duê về sinh hoạt cộng đồng còn mượn hình ảnh các dòng sông, con suối để
nói về sự đoàn kết và sưc mạnh cộng đồng.
Nước muốn to
Krông Buk, Krông Năng phải hợp dòng


Và bao chùm hơn cả, xâu xa hơn cả là hình ảnh là hình ảnh chim djêt, chim djao
– biểu tượng về nguồn gốc đồng tộc và sự gắn bó của các thành viên trong cộng
đồng: Mình như chim djêt, chim djao cùng một ông bà xưa.
Những bài duê có cùng một motp thường được biểu hiện bằng một giọng tâm
tình. Đối với người Ê Đê, mỗi khi nhắc tới các hình ảnh đó, đã thực sự tạo nên
những súc cảm mãnh liệt trong họ.
Chính vì quan niệm “mình như chim djêt, chim djao cùng một ông bà xưa” nên
người Ê Đê sống rất mật thiết với nhau.
Mình ăn chung một lá
Mình uống nước một bầu
Mình nói cười dủ chị dủ em
Có chuyện không hay bỏ lại đằng sau.

Tinh thần cộng đồng đó rất gần gũi với cách cư xử “chín bỏ làm mười” của
người Việt.
Trong cuộc sống, người Ê Đê rất coi trọng và tuân theo các quy định của cộng
đồng: Ai làm đúng đạo đức của cộng đồng thì người đó được bênh vực, ai làm
trái thì bị xử phạt hoặc quở trách. Những lời khuyên răn trong klei duê dù ở
hình thức nào cũng nhằm củng cố mối quan hệ cộng đồng.
Từ cái thường tình trong thực tế đến lời nhắc nhở
Qua chỗ người ta cắm chông thì trúng chông
Qua lời cha mẹ thì bị phạt
Từ lời nói cụ thể đến lời nói ví von
Trồng cây phải hỏi chú bác
Đừng như con hươu trong rừng
Với cặp sừng dậm chân một mình
Bên cạnh những lời khuyên bảo chung, những kỉ niệm của tình yêu và hạnh
phúc lứa đôi trong klei duê cũng nhằm vào việc củng cố sự gắn bó cộng đồng:
Mẹ sinh ra em
Mẹ sinh ra anh
Cùng năm cùng tháng
Cùng buôn Êa Ya
Dưới gốc ktu
Em ơi đừng quên
Mồ hôi đã thấm
Hai mình vào nhau!
Lời khuyên răn trong klei duê là tiếng nói tâm tình thủ thỉ. Mượn hình ảnh con
vật, người Ê Đê nhắc nhau sống phải có đầu có đuôi:
Ơ con vẹt cánh dài


Mày đậu cây nào
Mày đậu cây ktu

Mọc rìa rừng non
Mày đậu cây kla
Mọc trong rừng già
Vẹt ơi! Vẹt ơi!
Ăn quả cây nào
Bỏ gốc cây đó.
Ý thức cộng đồng của người Ê Đê trong cuộc sống đã được klei duê phản ánh
nhiều mặt: từ lời khuyên bảo con cái đến việc nhắc nhở nguồn gốc đồng tộc,
bổn phận mỗi thành viên trong cộng đồng và trách nhiệm của mỗi cộng đồng
đối với mỗi thành viên...Giá trị nổi bật của klei duê về sinh hoạt cộng đồng là ở
chỗ góp phần củng cố và bảo vệ lợi ích của cộng đồng.
2.3.3 Klei duê về tình yêu nam nữ - hôn nhân gia đình
Cũng như nhiều tộc người khác, phần lớn các bài ca của người Ê Đê là những
lời tâm tình của trai gái yêu nhau.
Chất liệu để tạo ra các bài duê về tình yêu nam nữ của người Ê Đê bao giờ cũng
gắn liền với khung cảnh thiên nhiên quen thuộc , với cuộc sống thường ngày
của họ: quả dưa, chiếc guì, chiếc vòng, bông hoa nghệ, dòng suối chảy, con
chim cu đất,... các bài ca tình yêu nam nữ thường mượn tự nhiên để nói về con
người. Một số chất liệu quen thuộc trong môi trường sống của người Ê Đê đã
trở thành biểu tượng trong klei duê.
Hình ảnh bông hành, bông nghệ, chim bhi, chim gông, tượng trưng cho tình yêu
xa cách và mong ước gần nhau của nam nữ Ê Đê:
Gửi bông hành, bông nghệ nhớ không thôi
Em mong anh đã lâu
Như em mong chim bhi
Em đợi anh đã nhiều
Như em đợi chim gông
Tình yêu của trai gái Ê Đê rất mộc mạc, thủy chung.
Khi trai gái yêu nhau:
Một trái dưa cũng chẳng quên nhau

Một cái bắp cũng dành cho nhau
Và đặc biệt là chiếc vòng – motip phổ biến trong các bài ca về tình yêu:
Anh với em
Vòng đã trao
Lời thề giữ trong lòng...


×