Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

ĐÌNH MÔNG PHỤ ĐÌNH MÔNG PHỤ ĐÌNH MÔNG PHỤ ĐÌNH MÔNG PHỤ ĐÌNH MÔNG PHỤ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.91 KB, 10 trang )

ĐÌNH MÔNG PHỤ
Đến thăm Đường Lâm ta sẽ được chiêm ngưỡng một quần
thể những di tích kiến trúc cổ đặc sắc của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ với rất nhiều đền chùa, miếu, nhà thờ họ, nhà cổ …
Nhưng trong quần thể kiến trúc đó nổi bật hơn cả là Đình Mông
phụ. Nơi đây chính là hình ảnh tiêu biểu cho lối kiến trúc cổ đặc
sắc của người Việt xưa.
Theo lời kể của các cụ già trong làng thì đình được xây
dựng từ năm 1553 dưới thời vua Lê Thần Tông đình thờ Đức
Thánh Tảng - đệ nhất phúc đẳng thần -một vị đứng đầu trong
tứ bất tử của người Việt. Và đến đời vua Tự Đức thứ 12, năm Kỷ
Mùi 1859 đình được mở rộng, xây thêm đình ngoài và hai nhà tả
hữu mạc ở hai bên, xây tường hoa xung quanh và bốn cột trụ
trước cửa, có đắp câu đối và phù điêu nổi hình tạo thành một
khối kiến trúc hoàn chỉnh và khép kín.
Đình Mông Phụ có quy mô lớn nhất xã Đường Lâm.được
tọa lạc ngay trong trung tâm làng Mông phụ .Theo lời của cụ
Phan Văn Tích (xóm Hề, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm) -một
người trông coi đình làng nhiều năm cho biết: Đình tọa lạc ở vị
trí đầu rồng nằm hai bên hông đình còn có hai cái giếng cổ được
coi như mắt rồng.


Kiến trúc đình làng mông phụ

Đây là ngôi đình hiện có qui mô lớn nhất xã Đường Lâm và
tọa lạc ở trung tâm làng Mông Phụ nhìn về hướng Tây Nam.
Đình làng có kết cấu 5 gian và 2 chái. Kết cấu bên trong theo lối
“chồng giường- giá chiêng”. Đây là kiểu kiến trúc truyền thống
rất phổ biến của nghệ thuật kiến trúc đình cổ của dân tộc. Nét
độc đáo trong nghệ thuật của đình làng là mang đậm dấu ấn


của lối kiến trúc Việt- Mường (đình có sàn gỗ). Có thể nói đây là
bông hoa về nghệ thuật kiến trúc, những nét tài hoa có một
không hai ấy còn được lưu giữ trên những chạm cổn và đầu tư
tinh vi trong từng nhát đục. Song cũng cực kỳ tinh tế trong quy
hoạch tổng thể mang tính vĩ mô. Giai thoại kể rằng: Đình Mông
Phụ đặt trên đầu một con rồng mà giếng làng là hai mắt, sân
đình đào thấp hơn so với mặt xung quanh. Có vẻ như là một
nghịch lý so với kiến trúc hiện đại song thực ra đó lại là một
dụng ý của người xưa, khi mưa xuống nước mưa từ ba phía ào
ạt đổ vào (phải chăng đó là khát vọng về một cuộc sống ấm


no). Sau đó nước từ từ thoát ra theo hai cổng như chạy dọc theo
nách đình, từ xa nhìn lại trong mưa, hai rãnh nước vẽ nên hai
râu rồng. Trước cửa đình là cái sân rộng – sân này là nơi biểu
diễn các trò chơi khi làng vào đám (hội làng). Không chỉ như
thế, sân này còn là một cái ngã sáu khổng lồ xòe ra như những
cánh hoa rồi quy tụ mọi con đường trong làng về trung tâm. Có
điều rất đặc biệt, từ đình có thể đi đến bất cứ xóm nào trong
làng mà không phải quay lưng lại với hướng đình (quay lưng với
thánh).
Quy mô đình Mông Phụ có hình chữ công bao gồm hai toà
đại bái và Hậu cung nối với nhau bằng gian ống muống. Toà Hậu
cung là một gian hai chái lớn được xây dựng vào thời Lê Cảnh
Hưng. Toà đại bái được trùng tu xây dựng năm Tự Đức Kỷ Mùi
(1839), cả hai toà nhà đều được làm theo kiểu bốn lá mái với
các góc đao bây bổng. Theo bộ khung nhà chạm khắc các trang
trí theo các đề tài tứ linh, tứ quý, mây cụm, vân xoắn, hoa lá
truyền thống. Đặc biệt là bức chạm “Mẫu long huấn tử”, trong
đó Đình chính không có tường vách ngăn, tất cả đều để trống

chỉ có một lan can có chấn song hình con tiện bao quanh ba
mặt đến tường của Hậu cung. Đình có sàn ở hai gian bên, ở gian
giữa có cửa võng hình lưỡng long chầu nguyệt sơn son thiếp
vàng. Một ban thờ lớn trang trí bằng tượng rồng hổ phù ngậm
chữ Thọ, mây. Hậu cung chỉ có sườn gỗ bào trơn, có tường xây
kín ba mặt, bệ thờ đặt giữa Hậu cung, có ngai và bài vị thờ Tản
Viên Sơn Thánh. Cấu tạo này gắn liền với cấu tạo của ngôi nhà
Việt. Rất khác so với đình làng Phước Tích (Huế). Thực tế là cấu
trúc của đình làng cổ Phước Tích bị ảnh hưởng bởi cấu trúc cung
đình cho nên có chiều cao và rộng bề ngang, khác hẳn với cấu
trúc của ngôi nhà Việt thường thấp thiếu ánh sáng. Mặt khác,
mang kết cấu cung đình và hoa văn của nghề gốm vào một hệ
thống mang tính truyền thống cũng tạo nên sự độc đáo trong
kiến trúc làng cổ Phước Tích.
Xét về kiểu dáng kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc thì đình
Mông Phụ được làm vào thời Lê Trung Hưng và tôn tạo tu sửa
vào thế kỷ XIX, kiến trúc này được xây dựng theo kiểu có 6
hàng cột nghĩa là có thêm hai cột hiên. Các không gian được
chia ra bởi các vì kèo liên kết bốn hàng cột gồm: hai hàng cột
cái lớn và hai hàng cột quân nhỏ. Trong kiến trúc hai cột được
nối với nhau bằng một thanh xà lớn gọi là câu đầu. Câu đầu chỉ
kê trên đầu một cột cái chứ không gắn với cột mộng, ở tất cả
các cột cái đều có xà gỗ gắn gọi là đầu dư. Vươn ra đỡ câu đầu,


phía trên câu đầu có các khối gỗ vuông, phía dưới hơi thót gọi là
đấu và đặt trên là các thanh gỗ gắn, thu ngắn dần cho tới xà
nóc, tức thượng lương. Các thanh gỗ này được gọi là con rường.
Các con rường kê trên câu đầu tạo ra một khoảng tam giác
thường gọi là vì nóc. Còn cột cái nối với cột quân bằng một

thanh xà ngắn có tên là xà nách. Một đầu xà nách ăn mộng vào
cột cái, phía đầu kia kê lên cột quân mà không có mộng liên
kết. Bên xà nách có những con rường chồng lên nhau, càng lên
cao càng ngắn dần theo chiều dốc của mái. Vì xà nách ngắn
nên con rường cũng ngắn và số đấu cũng ít, ở đây rường một
đầu ăn mộng vào cột cái chỉ toả về một phía nên được gọi là
rường cánh. Khác với các con rường ở vì nóc, các rường cánh
làm thành một tam giác được gọi là cốn, mà cạnh đứng của nó
là phần của cột cái. Các rường ở vì nóc cũng như các rường
cánh dùng để đỡ các hoành- tức các thanh gỗ dài chạy dọc theo
mái nhà nối các vì kèo với nhau mà dân gian còn gọi là đòn tay.
Hoành trên cũng chính là thượng lương, hoành dưới cùng được
các bẩy cùng các ván dong đỡ. Bẩy là khúc gỗ dài thân hơi cong
ăn chân mộng vào cột quân và chốt vào dưới xà nách. Ván dong
là những ván dày lót giữa hoành và đầu bẩy nhằm cố định vị trí
các hoành từ cột quân đến cột hiên. Đây chính là sự liên kết
trong bộ khung của một toà đình.
Về mặt kiến trúc, Đình làng được phân ra làm hai loại: nhà
sàn và nhà trệt. Trong đó Mông Phụ là một ngôi đình có dấu vết
của nhà sàn thời cổ xưa. Sàn đình là một kết cấu vốn có của
một ngôi đình cổ còn bảo lưu ở Đường Lâm, qua lối kiến trúc
này đình Mông Phụ chẳng những giúp ta biết được tính chất bản
địa của loại hình kiến trúc công cộng mà còn là một chứng cớ
để góp phần chứng minh rằng loại hình kiến trúc này có mặt
khá sớm trong sinh hoạt cộng đồng người Việt cổ. Đình làng có
sàn chứng tỏ nó phải xuất hiện khi mà thiên nhiên và khi hậu
còn đòi hỏi người Việt cổ phải làm nhà sàn để ở và sinh hoạt
cộng đồng. Và rồi nhờ có quá trình cải tạo của thiên nhiên nên
dần dần về sau nhu cầu nhà sàn không cần thiết nữa, nhà trệt
được thay thế, nhưng ngôi nhà sàn ở đình vẫn được tiếp tục duy

trì và bảo lưu vì nó rất tiện lợi cho việc họp hành, quần tụ sinh
hoạt. Nó cao ráo, sạch sẽ và tiện lợi nhất là những ngày mưa
dầm, gió bão, ẩm ướt, cố nhiên sàn cũng được làm thấp xuống
vì nó không còn chức năng sàn của nhà sàn nữa mà chỉ thuần
túy là nơi hội họp, sinh hoạt, các sàn không cao, trung bình từ
0,6 đến 0,8m so với mặt đất. Dưới sàn có nhiều dầm đỡ ăn chân


mộng vào thân cột một cách vững chắc, không gian dưới sàn để
trống cùng với các tảng đá to kê chân cột, chúng tạo nên sự khô
ráo, thông thoáng cho toàn bộ ngôi đình. Sàn đình được lắp
ghép từ những tấm gỗ tốt được bào nhẵn nên trông như một
tấm phản rộng. Rõ ràng sự bảo lưu vết tích của nhà sàn ở đình
cũng nói lên nguồn gốc cổ xưa của nó, có lẽ sự bảo lưu này
không chỉ tiện lợi cho việc họp hành quần tụ sinh hoạt của cả
cộng đồng mà còn là sự cố thủ của tín ngưỡng cộng đồng. Đây
cũng chính là nét độc đáo trong kiến trúc đình làng Mông Phụ.
Sự thật là hiện nay, trong kiến trúc các đình làng cổ còn xót lại ở
nước ta chưa có một công trình kiến trúc nào mang đậm sự giao
lưu văn hóa Việt – Mường như đình làng Mông Phụ. Giá trị kiến
trúc đặc sắc này đã góp phần tạo nên nét chấm phá độc đáo
trong kiến trúc làng cổ miền Bắc nói riêng và làng cổ Việt Nam
nói chung.
Bên cạnh kiến trúc sàn, mái của ngôi đình cũng có nét độc
đáo. Mái đình làng Mông Phụ được lợp ngói mũi hài. Trong đó
mái đình hình võng nhẹ, bờ nóc tức gờ nối hai mái chính, cũng
giống như chùa, thường được đắp cao gắn gạch hộp rộng có
hình hoa chanh bốn cánh, hai bờ nóc là những con kìm, thường
là những hình đầu rồng há miệng bằng đất nung khá lớn. Còn
bờ dải- tức gờ nối giữa mái chính và mái phụ thì không có trang

trí gì. Bờ dải chạy từ nóc xuống các góc nhà gọi là đao. Các góc
đao của đình thường cong vút lên, nhờ một hệ thống cấu trúc
đặc biệt mà các nhà kiến trúc quen gọi là tầu đao lá mái. Lá mái
là tên gọi tấm ván mỏng lót dưới cuối cùng, vuông góc với mái
là phiến gỗ dày gọi là lá tàu, chạy suốt chiều dài của mái và
rộng dần ra ở hai đầu cho tới tận gốc đao. Đáy của lá tàu gọi là
dạ tàu, lá tàu từ hai phía chạy lại hội đầu với nhau ở góc đao
che chỗ nối hai đầu lá tàu là một thanh gỗ gọi là ấu tàu, mái hai
bên góc đao đều lượn cong làm thành một góc nhọn vươn lên
cao, kiểu tàu đao lá mái tạo thành một những đầu đao cong vút
là một đặc điểm riêng biệt của kiến trúc truyền thống. Đây thực
chất là kiểu kiến trúc bị ảnh hưởng từ cư dân miền biển lên chứ
không phải là từ trên núi xuống. Với cấu trúc của mái cong ở hai
đầu võng nhẹ ở dưới tượng trưng cho hình ảnh con thuyền đi
biển. Cấu tạo của mái đình làng Mông Phụ rất khác so với mái
đình làng cổ Phước Tích (Huế). Nếu đình làng Mông Phụ chịu sự
ảnh hưởng của cấu trúc biển thì ngược lại làng cổ Phước Tích bị
chi phối nhiều bởi kiến trúc từ trên núi cao và kiến trúc cung
đình. Mái đình làng cổ Phước Tích không có độ võng và chia


thành các phần chính – phụ khác nhau. Đồng thời kết cấu cũng
mang dáng dấp cung đình với nhiều họa tiết hoa văn đẹp và
mang màu sắc rực rỡ. Phải chăng đây cũng là ảnh hưởng hoa
văn nghề gốm của người dân làng cổ Phước Tích?.
Song song với kiến trúc mái đình, sân đình làng Mông Phụ
cũng mang kiến trúc độc đáo. Trước cửa đình là một khoảng sân
rộng. Sân đình thực chất là một nút giao thông - ngã sáu xoè ra
như nan quạt toả về các xóm: xóm Sui, xóm Xây, xóm Trung
Hậu, xóm Sải, xóm Đình. Từ xa xưa, vào kỳ lễ hội người từ các

ngõ nhỏ toả vào các trục đường chính, tụ lại nơi sân đình. Hội
làng mở từ mồng bốn tháng Giêng đến chiều mồng mười, đoạn
""tế khai xuân"" là hết hội. Lễ hội xuân là lễ hội nông nghiệp,
sản phẩm tế lễ là kết quả bàn tay cấy cày tạo ra cùng với những
lời thỉnh cầu trời đất, thần thánh phù hộ cho mưa thuận gió hoà.
Ngày nay, sân đình cũng là nơi tổ chức các lễ hội truyền thống
của làng.
Cuối cùng là nghi môn của đình gồm bốn trụ vuông xây
gạch, hai trụ lớn và hai trụ nhỏ, bốn đầu trụ tạo tác lồng đền
hình vuông có chạm nổi tứ linh, trên đỉnh hai trụ lớn có hai con
sư tử ngồi nhìn ra phía giữa, đỉnh hai trụ nhỏ đội hai bình hoa.
Ba mặt trụ có các câu đối chữ Hán chạm nổi. Bao quanh đình là
một hệ thống hàng rào xây bằng đá ong, loại đá đặc trưng trong
việc xây dựng các công trình kiến trúc tại khu vực này. Hàng rào
đá ong này đã mang lại cho ngôi đình một nét trầm mặc cổ
kính,một nét đẹp không giống bất cứ ngôi đình nào trên đất
nước Việt Nam. Ngoài giá trị mang tính xã hội đây cũng là nơi
khách du lịch trong và ngoài nước yêu thích. Bởi vì, khó có thể
tìm thấy một ngôi đình làng nào mang nhiều đặc trưng của đình
làng truyền thống như làng Mông Phụ.


Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của đình làng Mông
Phụ

Chính vì những giá trị độc đáo đó mà đình làng Mông Phụ
nói riêng và làng cổ đường lâm nói chung đã trở thành di tích
lịch sử văn hoá do Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận năm 2006.
Đó là sự kiện lớn mang tầm quốc gia bởi Đường Lâm, trong đó
có làng Mông Phụ được coi là di tích tiêu biểu nhất cho văn hoá

truyền thống của người Việt, cũng là nơi đầu tiên trong tổng số
573 di tích lịch sử của Hà Tây được Nhà nước xếp hạng, nhằm


bảo tồn, tôn tạo để đưa vào khai thác phục vụ chương trình
phát triển du lịch - văn hoá.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là việc bảo tồn các giá trị
cổ trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá là điều không
hề đơn giản. Vì thực tế đã có nhiều những “mất mát” trong công
tác bảo tồn các công trình kiến trúc trong làng. Đó là, đình làng
Mông Phụ đã có rất nhiều bức hoành phi, lão long huấn tử bị
thất lạc. Những tấm gỗ lát sàn ở đình làng, những mái ngói phủ
rêu xanh, những phiến đá ong làm thành giếng đã bắt đầu có
dấu hiệu sứt mẻ, mục gãy...Việc trùng tu, sữa chữa các hư hỏng
của các công trình kiến trúc này cũng cần phải được đầu tư
nghiên cứu sao cho đồng bộ. Nếu không càng trùng tu, sửa
chữa thì sẽ càng lệch lạc và các công trình này sẽ dần mất đi
những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.


PHỤ LỤC ẢNH






×