Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tiểu luận hoạt động yêu cầu điều tra của viện kiểm sát nhân dân theo quy định pháp luật hiện hành và giải pháp nâng cao chất lượng yêu cầu điều tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.67 KB, 10 trang )

Đề tài: “Hoạt động yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát nhân dân theo
quy định pháp luật hiện hành và giải pháp nâng cao chất lượng yêu cầu điều
tra”.
PHẦN MỞ ĐẦU
Hoạt động yêu cầu điều tra là một hoạt động thuộc chức năng thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự. Đây là hoạt động
quan trọng, có vai trò then chốt đối với hoạt động điều tra, đề ra định hướng điều
tra, bảo đảm cho các hoạt động điều tra được tiến hành chính xác, đúng pháp luật,
làm cơ sở cho việc truy tố của viện kiểm sát được đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Hoạt động yêu cầu điều tra có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động kiểm sát
điều tra,
1. Khái quát về hoạt động yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát
1.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động yêu cầu điều tra
Tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND 2014 quy định: “Chức năng thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm
tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: a) Mọi hành vi phạm
tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội,
không để lọt tội phạm và người phạm tội; b) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật”. Theo
đó, hoạt động yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát cũng nhằm mục đích chung của
hoạt động thực hành quyền công tố.
Tại Khoản 7 Điều 14 Luật tổ chức VKSND 2014 về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự: “7. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều tra để
làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can”.



Tại Khoản 6 Điều 165 về Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự: “Đề ra yêu cầu điều tra
và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ
quan điều tra truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt” và điểm e
Khoản 1 Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về Nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của Kiểm sát viên.
1.2. Khái niệm hoạt động yêu cầu điều tra
Vấn đề yêu cầu điều tra trong tố tụng hình sự được hiểu theo nhiều góc độ
khác nhau, dưới góc độ của hoạt động điều tra thì yêu cầu điều tra trong bản kế
hoạch điều tra là tất cả những vấn đề mà hoạt động điều tra phải tiến hành để làm
rõ tất cả những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự và hoạt động điều tra
phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Dưới góc độ xét xử thì việc điều tra
công khai trước phiên tòa để làm rõ toàn bộ sự thật của vụ án bằng cách kiểm tra,
đánh giá chứng cứ đã được thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố trước đó. Do
vậy, khi còn những vấn đề chưa rõ, những vấn đề không thể làm rõ tại phiên tòa,
thì Tòa án cũng có quyền yêu cầu điều tra bổ sung.
Với chức năng Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực hình sự thì việc Viện kiểm sát đề ra yêu cầu điều tra để Cơ quan
điều tra tiến hành điều tra nhằm phục vụ cho việc Thực hành quyền công tố là một
hoạt động tất yếu. Việc đề ra yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên có ý nghĩa rất quan
trọng đối với kết quả điều tra của Cơ quan điều tra. Hoạt động điều tra có đúng
hướng, đầy đủ hay không, có kịp thời hiệu quả hay không một phần rất lớn phụ
thuộc vào việc đề ra các yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên. Vì vậy, Kiểm sát viên
phải bám sát quá trình điều tra vụ án của Điều tra viên để có những yêu cầu điều
tra kịp thời, có hiệu quả, đúng với những vấn đề cần phải điều tra. Nếu Kiểm sát
viên đề ra yêu cầu điều tra một cách kịp thời và đúng những vấn đề cần phải điều
tra, thì sẽ hạn chế tình trạng oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, hạn chế được tình trạng
phải hoàn trả hồ sơ giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng do thiếu chứng cứ…qua đó

uy tín của Kiểm sát viên với Cơ quan điều tra được nâng cao.


Mục đích của yêu cầu điều tra không gì khác ngoài việc cùng với Cơ quan
điều tra làm rõ toàn bộ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án một cách khách
quan, toàn diện, nhanh chóng kịp thời, tránh việc phải điều tra bổ sung, điều tra lại,
qua đó tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động Thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động xét xử của KSV tại phiên tòa.
1.3. Quy định của pháp luật về yêu cầu điều tra
Trên cơ sở quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, ngành Kiểm sát đã cụ thể hóa quy định về việc đề ra yêu cầu
điều tra tại Điều 26 Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC
ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) như sau:
“1. Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án hình sự,
khi cần làm rõ về tội phạm, người phạm tội và những vấn đề phải chứng minh
trong vụ án hoặc để hoàn thiện thủ tục tố tụng, Kiểm sát viên đề ra yêu cầu điều
tra. Yêu cầu điều tra có thể được thực hiện nhiều lần, bằng văn bản hoặc bằng lời
nói. Văn bản yêu cầu điều tra được đưa vào hồ sơ vụ án và lưu hồ sơ kiểm sát.
Trường hợp vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, trọng điểm, phức tạp; vụ án
dư luận xã hội đặc biệt quan tâm; vụ án có bị can là nhân sỹ, trí thức, chức sắc
trong tôn giáo, người có uy tín thuộc dân tộc thiểu số và trường hợp xét thấy có thể
phải thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can thì
trước khi ký văn bản đề ra yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên báo cáo, xin ý kiến lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện.
2. Nội dung yêu cầu điều tra phải cụ thể, rõ ràng, sát với nội dung vụ án,
định hướng thu thập chứng cứ để làm rõ cấu thành tội phạm, những vấn đề phải
chứng minh trong vụ án theo quy định tại Điều 85, Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình
sự.
3. Kiểm sát viên chủ động phối hợp, yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra

thực hiện đầy đủ nội dung yêu cầu điều tra. Nếu Điều tra viên, Cán bộ điều tra
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu điều tra, thì tùy từng trường
hợp, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kiến nghị bằng
văn bản với Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra hoặc yêu cầu


thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra. Trường hợp do trở ngại khách quan mà
không thể thực hiện được đầy đủ yêu cầu điều tra thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều
tra viên, Cán bộ điều tra giải thích, nêu rõ lý do trong bản kết luận điều tra.”
Để đảm bảo thực hiện quyền này của VKS, thì tại điều 167 BLTTHS 2015
đã quy định Trách nhiệm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra trong việc thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện
kiểm sát trong giai đoạn điều tra như sau: “Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện yêu cầu, quyết định
của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra.”
2. Nội dung cơ bản của yêu cầu điều tra
Có quan điểm cho rằng việc đề ra yêu cầu điều tra chỉ tiến hành khi KSV
nghiên cứu hồ sơ phát hiện những vấn đề chưa rõ, còn thiếu hoặc mâu thuẫn, thì
VKS mới đề ra yêu cầu để Cơ quan điều tra tiến hành điều tra, không nhất thiết vụ
án nào cũng phải đề ra yêu cầu điều tra, nhất là những vụ án phạm tội quả tang,
chứng cứ đã rõ ràng. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng đề ra yêu cầu điều
tra, KSV phải nêu chi tiết tất cả những vấn đề cần điều tra về mặt chứng cứ, hoàn
thiện thủ tục tố tụng để Điều tra viên (ĐTV) tiến hành điều tra. Chúng tôi đồng tình
với quan điểm tất cả các vụ án khi khởi tố chuyển qua VKS, thì KSV phải đề ra
yêu cầu điều tra và văn bản yêu cầu điều tra cần phải nêu chi tiết những vấn đề cần
điều tra, để ĐTV thực hiện. Vì thông thường ban đầu ĐTV chỉ chú ý đến chứng cứ
buộc tội, mà những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự không chỉ có
chứng cứ buộc tội, mà còn phải thu thập chứng cứ gỡ tội; ngoài ra còn những vấn
đề về thủ tục tố tụng như xác minh lý lịch bị can, trích lục tiền án tiền sự, xác minh
kết quả thi hành án hình sự, dân sự, án phí…giao nhận các quyết định tố tụng, mà

khi mới khởi tố vụ án, khởi tố bị can ĐTV chưa làm. Do vậy trong trường hợp này
KSV phải đề ra yêu cầu điều tra, tránh việc ĐTV không tiến hành làm các thủ tục
trên dẫn đến khi kết thúc điều tra chuyển qua VKS, lại phải trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, khi đó KSV cũng không thể cho rằng ĐTV không thực hiện yêu cầu điều tra.
Để có một văn bản yêu cầu điều tra có chất lượng, KSV phải nghiên cứu kỹ
hồ sơ vụ án, trên cơ sở những chứng cứ tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án,
định hướng đúng và phải có suy luận quy luật logic, không suy đoán hoặc suy diễn


một cách tùy tiện dẫn đến việc đề ra yêu cầu điều tra một cách thiếu căn cứ, gây
khó khăn cho quá trình điều tra.
Một số kinh nghiệm khi đề ra yêu cầu điều tra, KSV cần tập trung vào
hai vấn đề chính đó là về thủ tục tố tụng và về thu thập chứng cứ.
Về thủ tục tố tụng
Yêu cầu điều tra đặt ra là việc thu thập chứng cứ phải đảm bảo đúng thủ tục
tố tụng là một yêu cầu bắt buộc để đảm bảo giá trị pháp lý, giá trị chứng minh của
chứng cứ trong vụ án hình sự. Do vậy KSV phải hết sức chú ý, khi kiểm tra tài liệu
chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập, nếu phát hiện có vi phạm như vấn đề
giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; vấn đề phải mời
luật sư theo luật định, vấn đề người chứng kiến, người giám hộ…, thì kiên quyết
phải yêu cầu bổ sung cho đúng thủ tục.
Việc ban hành và thực hiện các quyết định tố tụng để giải quyết vụ án hoặc
định hướng giải quyết vụ án như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định
thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định nhập, tách, chuyển
vụ án hình sự, các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra, quyết định bổ sung,
thay đổi quyết định khởi tố bị can; Lệnh tam giam, Lệnh bắt bị can để tạm giam…
phải tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật, vì các biện pháp này liên quan trực
tiếp đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân.
Ngoài ra còn những vấn đề khác như xác minh lý lịch bị can, trích lục tiền
án, tiền sự, giao nhận các quyết định tố tụng, bảo quản, xử lý vật chứng…, trong

khi tiến hành kiểm sát điều tra nếu phát hiện ĐTV chưa làm, chưa thực hiện, thì
cũng phải có yêu cầu điều tra kịp thời, vì đây cũng là vấn đề không thể thiếu trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Về chứng cứ vụ án
Thứ nhất: Yêu cầu cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp điều tra để thu
thập chứng cứ như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; thực nghiệm
điều tra; khám xét dấu vết trên thân thể; trưng cầu giám định; giám định bổ sung;
giám định lại; khám xét, thu giữ đồ vật tài sản; yêu cầu lấy lời khai người tham gia
tố tụng, hỏi cung bị can về những nội dung cần chứng minh, làm rõ; yêu cầu tiến
hành đối chất, nhận dạng...


Thứ hai: Làm rõ có hành vi phạm tội, thời gian, địa điểm và những tình tiết
khác của hành vi phạm tội; người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có
lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động
cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can và những đặc điểm về nhân thân của bị can; tính chất và mức độ thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra.
Chỉ yêu cầu tiến hành điều tra những tình tiết của vụ án chưa được điều tra
hoặc đã được điều tra nhưng chưa rõ; chứng minh tính có căn cứ của những chứng
cứ do Cơ quan điều tra đã thu thập; giải quyết các mâu thuẫn giữa các chứng cứ;
định hướng điều tra cho sát đúng với nội dung luật định; xác định diện đối tượng
cần làm rõ để khởi tố mở rộng điều tra vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp, có nhiều bị can tham gia, có bị can
không nhận tội, KSVphải đánh giá, phân hóa từng vấn đề cần chứng minh làm rõ.
Trên cơ sở đó đề ra yêu cầu điều tra từng vấn đề liên quan tới từng bị can, chú
trọng yêu cầu củng cố tài liệu chứng cứ vật chất, chứng cứ có tính khách quan và
các biện pháp điều tra.
Như vậy, thông qua hoạt động yêu cầu điều tra trước khi phê chuẩn, Viện
kiểm sát sẽ loại bỏ được nhiều người bị đề nghị khởi tố, bắt tạm giam không có căn

cứ, loại bỏ được khả năng dẫn đến oan sai ngay từ giai đoạn trước khi phê chuẩn
Quyết định khởi tố bị can.
Bên cạnh đó, sau khi đã đề ra yêu cầu điều tra, KSV phải kiểm sát chặt chẽ
hoạt động điều tra của ĐTV, các biện pháp điều tra của ĐTV, bảo đảm cho các yêu
cầu điều tra của KSV được thực hiện đầy đủ. Nếu phát sinh tình tiết mới, KSV cần
kịp thời đề ra yêu cầu điều tra bổ sung để ĐTVthực hiện.
3. Những hạn chế thường gặp trong hoạt động đề ra Yêu cầu điều tra
Thực trạng còn một số yêu cầu điều tra mang tính hình thức, nội dung còn
chung chung không nêu rõ được những vấn đề cần điều tra thu thập, củng cố chứng
cứ, mà mục đích ban hành bản yêu cầu điều tra chỉ là để đối phó khi cấp trên kiểm
tra hồ sơ. Một số yêu cầu điều tra còn dài dòng, khó hiểu, dẫn đến ĐTV khó thực
hiện hoặc những vấn đề đã được thu thập trong hồ sơ vụ án nhưngKSV vẫn đề
ra yêu cầu điều tra.


Nguyên nhân của tình trạng này là do KSV nhận thức chưa đúng đắn về
trách nhiệm, quyền hạn của mình về việc đề ra yêu cầu điều tra trong hoạt động
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Một số KSV năng
lực trình độ còn có mặt hạn chế, nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không nắm bắt đầy đủ
các tình tiết trong vụ án nên đề ra yêu cầu điều tra có chất lượng chưa cao. Bên
cạnh đó, Lãnh đạo Viện đôi khi còn thiếu quan tâm trong việc kiểm tra thực hiện
trách nhiệm đề ra yêu cầu điều tra của KSV khi được phân công Thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.
Ngoài ra, còn có một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là do
nhận thức của ĐTV chưa đầy đủ về trách nhiệm thực hiện yêu cầu điều tra của
VKS, của KSV, do đó khi được phân công điều tra vụ án hình sự đã thực hiện
không đầy đủ, không nghiêm túc yêu cầu điều tra của VKS. Cơ quan điều tra
không thực hiện nhưng cũng không nêu rõ lý do trong Bản kết luận điều tra theo
đúng quy định.
4. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả yêu cầu điều tra trong vụ án

hình sự
- Một là: Kiểm sát viên phải cập nhật có hệ thống và kịp thời các văn bản
pháp luật, nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
Nước có liên quan.
Ngoài việc phải nắm vững các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình
sự và các văn bản hướng dẫn; các quy chế nghiệp vụ của ngành, cán bộ Kiểm sát
viên còn phải thường xuyên cập nhật các chủ trương đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước; quy định của các cơ quan có thẩm quyền có liên
quan đến hoạt động điều tra vụ án hình sự. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu
trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Nắm
vững và hiểu rõ các quy định của pháp luật về thao tác nghiệp vụ này mới giúp cho
cán bộ, Kiểm sát viên nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Hai là: Việc đề ra “Yêu cầu điều tra” phải gắn với công tác kiểm sát việc
thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.


Ở giai đoạn tiền khởi tố Kiểm sát viên phải chủ động, tiếp nhận hồ sơ tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ của
Điều tra viên. Nghiên cứu tỉ mỉ và thật thận trọng các tài liệu, chứng cứ chứng
minh có được thu thập bằng các biện pháp điều tra hợp pháp hay không, đồng thời
phải kiểm tra tính xác thực của nguồn tin, từ đó đề ra yêu cầu xác minh nhằm làm
rõ, cũng cố chứng cứ để xem xét xử lý được chính xác. Thực tiễn cho thấy nếu như
thao tác nghiệp vụ này được thực hiện bài bản, đúng luật thì sẽ là tiền đề thuận lợi
cho việc đề ra yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát ở giai đoạn vụ án đã được khởi tố
được chính xác.
- Ba là: Chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật và nâng cao chất
lượng trong việc đề ra “Yêu cầu điều tra”.
Một bản yêu cầu điều tra có chất lượng phải đảm bảo cả về hình thức và nội
dung. Hình thức văn bản được soạn thảo và ban hành theo mẫu quy định. Nội dung

yêu cầu điều tra phải đảm bảo cụ thể, rõ ràng, đúng trọng tâm và cần thiết để làm
rõ tất cả các chứng cứ buộc tội, gỡ tội và có tính khả thi cao. Muốn thực hiện được
giải pháp này, trước tiên Kiểm sát viên phải căn cứ vào biểu mẫu của ngành để xây
dựng bản “Yêu cầu điều tra”, không được tự ý thay đổi hình thức văn bản.
Trước khi ban hành yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án,
xem xét các tài liệu chứng cứ đã được cơ quan điều tra thu thập đầy đủ hay chưa;
có bảo đảm đúng trình tự thủ tục tố tụng không từ đó để xây dựng nội dung yêu
cầu điều tra một cách sát thực nhất. Nội dung yêu cầu điều tra phải được xây dựng
dựa trên thông tin được phản ánh qua các tài liệu, chứng cứ đã được Cơ quan điều
tra thu thập theo quy định của pháp luật, không được dựa trên suy diễn chủ quan.
Chú ý tập trung vào việc yêu cầu thực hiện các biện pháp điều tra thu thập chứng
cứ và thủ tục tố tụng của vụ án như : Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi; thực nghiệm điều tra; khám xét dấu vết trên thân thể; trưng cầu giám định;
giám định bổ sung; giám định lại; khám xét, thu giữ đồ vật tài sản; yêu cầu lấy lời
khai người tham gia tố tụng, hỏi cung bị can về những nội dung cần chứng minh,
làm rõ; yêu cầu tiến hành đối chất, nhận dạng...
Bên cạnh đó, nội dung “yêu cầu điều tra” phải làm rõ có hay không có hành
vi phạm tội, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm


tội; người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có
năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình
tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can và những đặc điểm
về nhân thân của bị can; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Chỉ yêu cầu tiến hành điều tra những tình tiết của vụ án chưa được điều tra hoặc đã
được điều tra nhưng chưa rõ; chứng minh tính có căn cứ của những chứng cứ do
Cơ quan điều tra đã thu thập; giải quyết các mâu thuẫn giữa các chứng cứ; định
hướng điều tra cho sát đúng với nội dung luật định; xác định diện đối tượng cần
làm rõ để khởi tố mở rộng điều tra vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp, có nhiều bị can tham gia, có bị can

không nhận tội, Kiểm sát viên phải đánh giá, phân hóa từng vấn đề cần chứng
minh làm rõ. Trên cơ sở đó đề ra yêu cầu điều tra từng vấn đề liên quan tới từng bị
can, chú trọng yêu cầu củng cố tài liệu chứng cứ vật chất, chứng cứ có tính khách
quan và các biện pháp điều tra.
Yêu cầu điều tra phải được đề ra sớm ngay khi vụ án được khởi tố hoặc Viện
kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Tuy nhiên, yêu cầu điều tra không
chỉ được đề ra một lần mà trong quá trình điều tra vụ án, khi có các tình tiết mới
phát sinh thì Kiểm sát viện phải kịp thời thay đổi, bổ sung nội dung yêu cầu điều
tra để định hướng cho Điều tra viên thực hiện.
- Bốn là: Tăng cường trách nhiệm trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành;
chú trọng công tác đào tạo giáo dục đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên nhằm nâng cao
năng lực, phẩm chất để thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự.
- Năm là: Tăng cường sự phối kết hợp giữa Viện kiểm sát với cơ quan điều
tra.
Để phát huy được hiệu quả, hiệu lực hoạt động “yêu cầu điều tra” của Viện
kiểm sát, thì không thể không nhắc đến vai trò của Cơ quan điều tra và Điều tra.
Yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát, có chất lượng đến bao nhiêu, nếu Điều tra viên,
Cơ quan điều tra không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc thì văn bản yêu
cầu điều tra cũng khó có thể phát huy hết hiểu quả. Do vậy, cần phải tăng cường sự
phối kết hợp nhuần nhuyễn giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát; giữa Điều tra


viên và Kiểm sát viên để có sự nhận thức chung đúng đắn về hoạt động “yêu cầu
điều tra” của Viện kiểm sát cũng như trách nhiệm của việc thực hiện yêu cầu điều
tra của cơ quan điều tra trên cơ sở thượng tôn pháp luật. Thực tiễn cho thấy, ở địa
phương nào mà có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung và giữa Viện kiểm sát và cơ quan điều tra nói riêng thì ở nơi đó công tác
điều tra, truy tố, xét các vụ án hình sự được thực hiện bài bản, đúng quy định của
pháp luật, hạn chế được việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc điều tra lại và triệt

tiêu được tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm
- Sáu là: Ngoài các giải pháp trên, Lãnh đạo Viện kiểm sát cần thường
xuyên quán triệt tầm quan trọng của hoạt động “Yêu cầu điều tra” của Viện kiểm
sát cho toàn thể cán bộ, Kiểm sát viên để nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên trong quá trình thực thi công vụ. Cần thiết phải có Quy chế phối hợp
giữa Viện kiểm sát với cơ quan điều tra trong hoạt động đề ra “yêu cầu điều tra” và
việc thực hiện yêu cầu này để làm cơ sở pháp lý cho Kiểm sát viên, Điều tra viên
trong quá trình thực hiện chức trách của mình. Viện kiểm sát nhân cấp trên cần
tổng hợp các dạng tồn tại, thiếu sót trong việc đề ra yêu cầu điều tra để rút kinh
nghiệm chung đối với cấp dưới.



×