Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tiểu luận thực hành quyền công tố trong thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật một số nước trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.75 KB, 11 trang )

Đề tài: Thực hành quyền công tố trong thủ tục giám đốc thẩm theo quy
định của pháp luật một số nước trên thế giới.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án. Đây là một thủ tục quan trọng đảm bảo cho vụ án hình sự
được giải quyết một cách đúng đắn theo pháp luật. Điều 370 BLTTHS 2015 nêu
tính chất của giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong việc giải quyết vụ án. Trong luận án tiến sỹ của tác giả Phan Thị Thanh Mai
năm 2007 đã đưa ra khái niệm về giám đốc thẩm như sau: “Giám đốc thẩm trong
TTHS là thủ tục Tòa án có thẩm quyền xét lại những bản án hoặc quyết định hình
sự đã có hiệu lực pháp luật bị người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm đảmbảo
pháp luật được áp dụng đúng đắn và thống nhất”. Như vậy, giám đốc thẩm là một
thủ tục đặc biệt nên chỉ có hai chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm đó là Tòa án và Viện kiểm sát.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định thủ tục này trong tố tụng
hình sự như một phương thức để khắc phục những sai lầm từ các bản án đã có hiệu
lực pháp luật. Viện kiểm sát (hay Viện công tố) là một trong những chủ thể có thẩm
quyền quyết định việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ở các nước trên thế
giới. Tuy nhiên ở mỗi quốc gia khác nhau thì vai trò của Viện kiểm sát (Viện công
tố) lại có những sự khác nhau đáng kể. Do đó tác giả lựa chọn đề tài “Thực hành
quyền công tố trong thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật một số
nước trên thế giới” làm đề tài tiểu luận nhằm mục đích nghiên cứu một cách khái
quát về vai trò của Viện kiểm sát (Viện công tố) ở một số quốc gia trên thế giới.
Qua đó rút ra được những kinh nghiệm để có thể áp dụng vào pháp luật về TTHS ở
Việt Nam để nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố vụ
án theo thủ tục giám đốc thẩm.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT (VIỆN CÔNG TỐ) TRONG THỦ
TỤC GIÁM ĐỐC THẨM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC



1


1. Vai trò của Viện công tố trong thủ tục giám đốc thẩm hình sự theo
pháp luật liên bang Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ cũng như các nước theo truyền thống luật án lệ, cơ quan công tố
đều thuộc chính quyền hành pháp và do đó không có chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Tòa án. Cơ quan công tố về cơ bản thực hiện nhiệm vụ trong mô
hình tố tụng tranh tụng. Trong mô hình này, cơ quan công tố chỉ tập trung vào việc
điều tra, truy tố và chỉ có thể trình bày quan điểm, lập luận như một bên đương sự,
còn Tòa án có toàn quyền trong hoạt động xét xử. Và do vậy, mô hình tố tụng của
Hoa Kỳ có rất nhiều điểm khác biệt so với hệ thống pháp luật của những nước theo
truyền thống luật lục địa.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, các bản án, quyết định đã được Tòa án tuyên đều là
phán quyết cuối cùng và có hiệu lực ngay. Tuy vậy, mọi bản án, quyết định của Tòa
án đều có nguy cơ có thể bị xem xét bởi tòa án cấp trên. Tại các phiên tòa xét xử
phúc thẩm, nếu Viện công tố kháng nghị, công tố viên phải trình bày quan điểm về
căn cứ kháng nghị, lập luận nêu ra và tranh luận với phía người bị kết án. Nếu phía
người bị kết án kháng cáo, công tố viên có thể tham gia hoặc không tham gia phiên
tòa phúc thẩm. Cấp tòa phúc thẩm liên bang không có cơ quan công tố tương
đương nên công tố viên đã tham gia truy tố đã tham gia truy tố tại phiên tòa liên
bang sơ thẩm tiếp tục tham gia phiên tòa phúc thẩm liên bang. Ở Hoa Kỳ không có
thuật ngữ giám đốc thẩm mà chỉ có thuật ngữ phức thẩm với nhiều loại thủ tục
khác nhau. Sau khi Tòa phúc thẩm đã xem xét kháng cáo, kháng nghị, Viện công tố
chỉ có thể kháng nghị tiếp lên Tòa án tối cao liên bang nếu được sự đồng ý rõ ràng
của Tổng chưởng lý hay phó Tổng chưởng lý liên bang. Tuy nhiên, rất khó có thể
tạo ra việc xem xét lại bản án, quyết định của tòa án cấp dưới một cách dễ dành trừ
khi các sai sót là rõ ràng hay khác nhau cơ bản về quan điểm cần phải có cách đánh
giá, giải thích pháp luật hoàn toàn khác. Nguyên nhân là do cơ quan công tố ở các

nước theo truyền thống án lệ đều thuộc chính quyền hành pháp, Tòa án có toàn
quyền trong hoạt động xét xử. Việc tham gia tố tụng ở các cấp tòa án cao hơn khi
vụ án được đưa ra xét xử lại hầu như chỉ mang tính trình bày quan điểm, lập luận
các vấn đề giải thích Hiến pháp hay luật mà không chú trọng xét xử những tình tiết
thực tế của vụ án nên việc tham gia của các cơ quan công tố chỉ thực sự có ý nghĩa
quan trọng khi vụ việc do cơ quan công tố kháng nghị. Đối với các phiên xử do
Tòa án tối cao liên bang tiến hành, công tố viên liên bang thuộc Bộ tư pháp Hoa
2


Kỳ sẽ tham gia phiên tòa. Các công tố viên liên bang thuộc văn phòng công tố liên
bang cấp quận có trách nhiệm phối hợp, trợ giúp khi họ được yêu cầu.
2. Vai trò của Viện công tố trong thủ tục giám đốc thẩm theo pháp luật
Cộng hòa Pháp
Về mặt hình thức Viện công tố Pháp được đặt trong hệ thông Tòa án, nhưng
không lệ thuộc vào Tòa án. Viện công tố Pháp trực thuộc Bộ Tư pháp, chịu sự giám
sát của Bộ Tư pháp, các Công tố viên hoạt động dưới sự kiểm tra của Bộ trưởng
Bộ tư pháp. Hệ thống cơ quan Công tố Pháp gồm có: Viện công tố bên cạnh Tòa
phá án. Hiến pháp năm 1958 đã nêu, tất cả các thẩm phán xét xử và công tố viên
đều độc lập, dưới sự bảo đảm thống nhất của Tổng thống. Viện công tố đóng vai
trò quan trọng không chỉ với tư cách là cơ quan đại diện cho xã hội bảo vệ lợi ích
chung và bảo đảm việc áp dụng đúng Pháp luật.
Tại pháp, là một quốc gia theo truyền thống luật lục địa, quan niệm rằng tính
chất của giám đốc thẩm là xem xét vấn đề áp dụng pháp luật chứ không xem xét
việc đánh giá chứng cứ, cho nên vai trò của Viện công tố trong thủ tục giám đốc
thẩm là khá quan trọng. Trước tiên, đó là thẩm quyền kháng nghị phá án (kháng
nghị giám đốc thẩm).
Theo BLTTHS nước Cộng hòa Pháp được nghị viện Pháp ban hành theo luật
số 57-1426 ngày 31/12/1957, có hiệu lực thi hành năm 1958 và sau năm lần sửa
đổi gần đây nhất vào ngày 04/10/1993 đã quy định về thẩm quyền kháng nghị tại

điều 567 của BLTTHS. Nội dung của Điều luật thể hiện, quyền kháng cáo giám
đốc thẩm của bản án hình sự thuộc về tất cả các bên bị ảnh hưởng tiêu cực từ bản
án. Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa phá án có quyền kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm lên Tòa phá án để xin hủy quyết định hoặc bản án đó. Đối với
các bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án phúc thẩm, tòa đại hình, tòa tiểu
hình hoặc Tòa vi cảnh, mặc dù bên không kháng cáo, thời hạn kháng cáo, kháng
nghị đã hết, nhưng vì lợi ích của pháp luật, Viện trưởng viện công tố bên cạnh Tòa
án phá án vẫn có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Như vậy, người có quyền kháng cáo là rất rộng nhưng thẩm quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ thuộc về Viện trưởng Viện công tố bên cạnh
Tòa phá án.

3


Ngoài thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, Viện công tố còn có những
quyền hạn khác như:
- Nhận thông báo kháng cáo phá án của các bên đương sự (Điều 578)
- Tham gia phiên tòa phá án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án
(Điều 602)
- Nhận quyết định của Tòa phá án và yêu cầu tống đạt các quyết định của
Tòa phá án cho các bên liên quan (Điều 614).
3. Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm theo pháp luật
tố tụng hình sự Liên bang Nga
Năm 1922, hệ thông cơ quan Viện kiểm sát ở Liên Xô được thành lập lại với
chứng năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật để đảm
bảo pháp luật được tuân thủ, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Từ đó, cấu trúc
của Viện kiểm sát Nga về cơ bản được giữ nguyên cho đến ngày hôm nay và được
khẳng định trong các Hiến pháp năm 1936, năm 1977, năm 1993 và Luật Liên
bang về Viện kiểm sát năm 1995, được công bố ngày 17/11/1996. Theo Điều 4

Luật Liên bang về Viện kiểm sát Liên bang Nga năm 1996 quy định:
“Viện kiểm sát Liên bang Nga xây dựng theo nguyên tắc tập trung thống
nhất, trên cơ sở các Kiểm sát viên cấp dưới phải phục tùng các Kiểm sát viên cấp
trên và tất cả đều phục tùng Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga
Viện kiểm sát thực hiện các thẩm quyền của mình một cách độc lập với các
cơ quan quyền lực của liên bang, của các chủ thể liên bang, của các chính quyền
địa phương và các tổ chức xã hội”.
Theo BLTTHS Liên bang Nga, trong thủ tục giám đốc thẩm, vai trò của Viện
kiểm sát Liên bang Nga được thể hiện ở quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Theo
quy định của Bộ luật, Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án khi có một trong các căn cứ sau:
- Kết luận của Tòa án nêu trong bản án không phù hợp với những tình tiết
thực tế của vụ án
- Việc xét xử của Tòa án vi phạm luật tố tụng hình sự
4


- Áp dụng không đúng pháp luật hình sự
- Không đảm bảo tính công bằng của bản án.
Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định những người có quyền
kháng cáo, kháng nghị yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám
đốc thẩm (còn gọi là thủ tục phá án) gồm: Người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người
được Tòa án tuyên vô tội, người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của những
chủ thể này; Viện công tố, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người đại diện
hợp pháp của họ.
Đối tượng kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm là các bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có căn cứ cho rằng bản án, quyết định đó
đã được ban hành không phù hợp với những tình tiết thực tế của vụ án, việc giải
quyết vụ án vi phạm pháp luật tố tụng hình sự hoặc việc giải quyết vụ án đã không
áp dụng đúng pháp luật hình sự.

Tòa án có thẩm quyền hoặc trong những trường hợp cần thiết, cá nhân thẩm
phán có trách nhiệm tiến hành thủ tục xem xét đơn kháng cáo, kháng nghị và ra
một trong những quyết định sau:
- Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm.
- Chấp nhận giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm và chuyển kháng cáo,
kháng nghị cùng hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Chánh án hoặc Phó chánh
án Tòa án có thẩm quyền có thể ra quyết định của Thẩm phán về việc không chấp
nhận giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm và ra quyết định chấp nhận giải quyết
theo thủ tục giám đốc thẩm.
Qua xét xử giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm có quyền:
- Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật
- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và các quyết định tiếp theo
của Tòa án và đình chỉ vụ án.
- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và các quyết định tiếp theo
của Tòa án để xét xử lại.
5


- Hủy bản án của Tòa án cấp chống án và trả lại vụ án để xét xử lại theo thủ
tục chống án.
- Hủy quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm và các quyết định tiếp theo của
Tòa án cấp phúc thảm và trả lại vụ án để xét xử phúc thẩm lại.
- Sửa bản án, quyết định của Tòa án.
4. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giám đốc thẩm theo
pháp luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Hệ thống cơ quan Viện kiểm sát của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là
cơ quan giám sát pháp luật, được thành lập theo địa giới hành chính nhưng độc lập
với hệ thống cơ quan hành chính và cơ quan Tòa án, bao gồm: Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân các cấp ở địa phương và Viện kiểm sát chuyên

ngành.
Theo luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa thì quy định thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn giám đốc thẩm:
Viện kiểm sát nhân dân có quyền giám sát tính hợp pháp trong các phán quyết và
quyết định của Tòa án nhân dân, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, nếu phát hiện vi phạm. Cụ thể
hóa quy định này, Điều 205 BLTTHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nêu:
“ Nếu Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát hiện thấy những sai sót trong bản
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp, hoặc nếu
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên phát hiện thấy những sai xót trong bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp dưới thì có quyền
kháng nghị bản án hoặc quyết định đó đến Tòa án cùng cấp theo thủ tục giám đốc
thẩm”.
Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hò dân chủ nhân dân Trung Hoa quy định
có 3 nhóm chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị, yêu cầu xem xét lại vụ án theo
thủ tục giám đốc thẩm là: đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật hoặc người
thân thích của đương sự có quyền kháng cáo yêu cầu xem xét lại bản án, quyết
định theo thủ tục giám đốc thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị yêu cầu xem
xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm; Tòa án có quyền
yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm.
6


Về căn cứ để xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám
đốc thẩm gồm: Có chứng cứ mới khẳng định các tình tiết trong bản án, quyết định
rõ ràng là sai; Chứng cứ làm cơ sử cho việc buộc tội và tuyên hình phạt là không
đầy đủ và không đáng tin cậy hoặc những chứng cứ quan trọng để chứng minh các
tình tiết trong vụ án mâu thuẫn với nhau; Việc áp dụng pháp luật khi ra bản án,
quyết định rõ ràng là sai; Có căn cứ cho rằng thẩm phán trong khi xét xử các vụ án
có hành vi tham ô, hối lộ hoặc lợi dụng chức vụ quyền hạn để thu lợi cá nhân hoặc

làm sai lệch pháp luật khi ra phán quyết; Có những sai xót rõ ràng trong bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Về thẩm quyền giám đốc thẩm bao gồm:
- Ủy ban thẩm phán Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật xét xử lại vụ án trong các trường hợp: Có kháng cáo của đương sự; theo yêu
cầu của Chánh án Tòa án cùng cấp; theo yêu cầu của Tòa án cấp trên hoặc Tòa án
nhân dân tối cao.
- Tòa án nhân dân cấp trên xét xử lại vụ án của Tòa án nhân dân cấp dưới
trong các trường hợp: theo kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp; thấy cần thiết
phải lấy vụ án của Tòa án cấp dưới lên để xét xử lại.
- Tòa án nhân dân tối cao xét xử lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm trong
các trường hợp: theo kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Thấy cần
thiết phải lấy vụ án của Tòa án cấp dưới lên để xét xử lại.
Qua xét xử giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thẩm quyền:
bác kháng cáo hoặc kháng nghị; sửa bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật; tuyên bị cáo vô tội.
Có thể nhận thấy, quan niệm của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hiện
nay coi giám đốc thẩm không phải là thủ tục để Tòa án cấp trên xét lại bản án có
hiệu lực của Tòa án cấp dưới có vi phạm pháp luật mà là thủ tục Tòa án cấp trên
hoặc chính Tòa án đã ra bản án có vi phạm đó xét xử lại vụ án. Việc quyết định có
xử lại vụ án đó hay không thuộc thẩm quyền của Ủy ban thẩm phán của chính Tòa
án đã ra bản án có sai lầm hoặc Tòa án cấp trên.
Điều này dẫn đến vai trò của Viện kiểm sát nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa có nhiều điểm khác biệt so với pháp luật Việt Nam thực định, bởi lẽ:
7


- Theo quy định của Pháp luật TTHS Trung Hoa thì Ủy ban thẩm phán Tòa
án đã ra bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật xét xử lại vụ án khi có đơn
kháng cáo của đương sự đã được thẩm tra thấy có căn cứ để xét xử lại theo thủ tục

giám đốc thẩm. Như vậy, trong trường hợp này, Viện kiểm sát tham gia phiên tòa
giám đốc thẩm ngay cả khi chỉ có kháng cáo của đương sự.
- Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát, Tòa án nhận kháng nghị phải thành
lập Hội đồng xét xử để xét xử lại hoặc yêu cầu Tòa án cấp dưới xét xử lại. Tuy
nhiên thành phần của Hội đồng giám đốc thẩm và trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên
tòa giám đốc thẩm tuân theo các quy định của BLTTHS về thủ tục xét xử sơ thẩm
hoặc phúc thẩm tùy theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị là bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Điều này đồng nghĩa với việc khi
Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giám đốc thẩm không chỉ đơn thuần là việc phát
biểu quan điểm bảo vệ kháng nghị mà Viện kiểm sát tham gia phiên tòa với vai trò
thực hành quyền công tố và giám sát việc tuân theo pháp luật theo thủ tục sơ thẩm
hoặc phúc thẩm.
II. Kinh nghiệm có thể áp dụng vào BLTTHS Việt Nam để nâng cao vai
trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm
Các nước theo truyền thống luật án lệ (common law) quy định sau khi vụ án
được xét xử, nếu không đồng ý với phán quyết của Tòa án, bị cáo có quyền kháng
cáo. Việc kháng cáo có thể tiến hành ở Tòa án các cấp. Thủ tục tố tụng chỉ bao gồm
thủ tục tố tụng tại Tòa sơ thẩm và thủ tục tố tụng tại Tòa kháng cáo. Tuy nhiên, ở
mỗi cấp Tòa án, pháp luật quy định căn cứ, thủ tục kháng cáo khác nhau. Ngược
lại, ở các nước theo truyền thống luật dân sự (civil law) thường thực hiện chế độ
“hai cấp xét xử” như Việt Nam. Theo đó, sau khi vụ án được xét xử theo thủ tục sơ
thẩm, bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực ngay, đương sự
có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát hoặc Viện công tố có quyền kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm. Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chỉ có hiệu lực khi
đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị. Bản
án, quyết định của tòa án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên
án. Tuy nhiên, kể cả sau khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật, nếu phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ
án, Tòa án cấp trên vẫn có quyền xét lại bản án, quyết định đó theo thủ tục luật
định nhằm khắc phục vi phạm của bản án, quyết định đó. Thủ tục xét lại bản án,

8


quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thường được gọi là thủ tục giám
đốc thẩm hoặc thủ tục phá án.
Qua nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới thấy rằng, pháp luật
ở mỗi quốc gia có sự khác nhau dù ngay cả trong cùng một hệt thống pháp luật.
Bởi lẽ, pháp luật là sự phản án chế độ chính trị, nền văn hóa đặc thù của quốc gia
đó, mỗi quy định pháp luật được xây dựng phải phù hợp tình hình kinh tế, chính
trị, trật tự an toàn xã hội và tương xứng với mỗi giai đoạn phát triển. Pháp luật Việt
Nam cũng được hình thành trên nguyên lý đó. Tuy nhiên, để tiếp tục hoàn thiện
pháp luật tố tụng hình sự nói chung, thủ tục giám đốc thẩm nói riêng và đáp ứng
tiền trình cải cách tư pháp, phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam; một mặt
chúng ta phải đánh giá thật đầy đủ, toàn diện thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta
thời gian qua, những ưu điểm và tồn tại so với yêu cầu cần đạt tới, tránh khuynh
hướng “phủ định sạch trơn” những gì chúng ta đang có; mặt khác chúng ta cần
phải nghiên cứu, so sánh và xác định nên tiếp thu những kinh nghiệm gì từ pháp
luật các nước trên thế giới nhưng phải đảm bảo cải cách không chỉ là “sự thay đổi
giản đơn”, sao chép một số quy định pháp luật nước ngoài, xa lạ với điều kiện Việt
Nam.
Về quyền kháng nghị của Viện kiểm sát: Ở những nước quy định Viện Công
tố có quyền kháng nghị giám đốc thẩm (Pháp) thì trong đó các Công tố viên sẽ
được thực hiện quyền này. Ở Việt Nam, quyền kháng nghị giám đốc thẩm của Viện
kiểm sát chỉ giao cho Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao và Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp cao. Với quy định như hiện nay nhiều bất cập trong quá trình áp
dụng pháp luật, giải quyết vụ án. Tuy nhiên, với trình độ pháp luật hiện nay của các
Kiểm sát viên có thể chưa đáp ứng được trách nhiệm này, vì vậy chúng ta cũng
chưa thể ghi nhận quyền kháng nghị giám đốc thẩm cho Kiểm sát viên như pháp
luật của nước Cộng hòa Pháp. Để phù hợp với tình hình thực tế có thể mở rộng
quyền kháng nghị cho Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Phó Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
Về quyền kháng nghị của Tòa án: Pháp luật Liên bang Nga và Pháp không
quy định quyền kháng nghị giám đốc thẩm của Tòa án. Với quan điểm của tác giả,
để đảm bảo cho các phán quyết của Tòa án được khách quan, toàn diện thì việc bãi
bỏ thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm của Tòa án là hợp lý. Bởi lẽ, Tòa án là
cơ quan xét xử, đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm chính là những bản án,
9


quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, nếu Tòa án có quyền kháng nghị
giám đốc thẩm, điều đó có nghĩa là Tòa án kháng nghị chính bản án của Tòa án các
cấp rồi cũng chính các thành viên của Tòa án lại trong Hội đồng xét xử lại. Vì vậy,
để đảm bảo tính khách quan khi đưa ra các phán quyết cũng như tính chất của thủ
tục giám đốc thẩm thì quyền kháng nghị giám đốc thẩm chỉ nên giao cho Viện
kiểm sát.
Về quyền kháng cáo đề nghị xét xử lại theo thủ tục giám đốc thẩm: Pháp
luật Liên Bang Nga quy định chủ thể có quyền kháng cáo là “người bị tình nghi, bị
can, bị cáo, người được Tòa án tuyên vô tội, người bào chữa hoặc người đại diện
hợp pháp của những chủ thể này”. Còn pháp luật Trung Quốc quy định quyền
kháng cáo thuộc về “đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật hoặc người thân
thích của đương sự”. Việc quy định như vậy sẽ đảm bảo tối đa quyền và khả năng
bảo vệ của bên bị buộc tội, xong cho đến nay, pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận
quyền kháng cáo theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo tác giả, chúng ta nên bổ sung
quyền kháng cáo của người bị kết án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự theo thủ
tục giám đốc thẩm, nhưng để việc quy định quyền kháng cáo giám đốc thẩm vẫn
không làm mất đi tính chất đặc biệt của thủ tục giám đốc thẩm, bên cạnh đó cần
phải quy định thêm việc kháng cáo đó không đương nhiên làm phát sinh thủ tục
giám đốc thẩm như kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát và Tòa án mà
pháp luật cần quy định việc kiểm tra, xem xét kháng cáo giám đốc thẩm đó có cơ
sở hay không rồi mới quyết định mở phiên tòa (tương tự quy định trong BLTTHS

Liên bang Nga).
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Từ những phân tích đánh giá ở trên, học viên đã bước đầu làm rõ được chức
năng thực hành quyền công tố trong thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của pháp
luật một số nước trên thế giới, từ đó đánh giá những mặt tiến bộ cũng như hạn chế
so với hoạt động này theo pháp luật Việt Nam. Qua đó rút ra được những kinh
nghiệm để có thể áp dụng vào pháp luật về TTHS ở Việt Nam để nâng cao vai trò
của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố vụ án theo thủ tục giám đốc
thẩm.

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Hoa Kỳ;
Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp;
Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga;
Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Hoa;
Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam;
“Thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”. Luận
án tiến sĩ Phan Thị Thanh Mai. Năm 2007;
“Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm”, TS. Dương Thanh Biểu.

11




×