Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận bộ luật hình sự 2015 đã hoàn thiện cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.49 KB, 16 trang )

Đề tài: “Bộ luật hình sự 2015 đã hoàn thiện cơ sở pháp lý cho cuộc đấu
tranh phòng chống tham nhũng như thế nào?”
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Tham nhũng là loại tội phạm hết sức nguy hiểm cho xã hội, nó làm phương hại
đến lợi ích quốc gia, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự gia tăng sự bất công trong xã
hội, làm xói mòn niềm tin của người dân đối với Nhà nước. Về đối ngoại, tội phạm
tham nhũng làm giảm niềm tin của các đối tác nước ngoài, uy tín của Việt Nam trong
quan hệ quốc tế, cản trở hoạt động đối ngoại và hạn chế các nguồn đầu tư. Nhận thức
được hiểm họa khôn lường của loại tội phạm này, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã có
những quy định cụ thể để xử lý tội phạm về tham nhũng. Tuy nhiên, thực tiến đấu
tranh phòng chống tham nhũng cho thấy các quy định của BLHS 1999 còn có nhiều
điểm hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm, điều kiện, tình hình phát triển mới về mọi mặt và trong bối cảnh hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng của đất nước. Bộ luật hình sự 2015 ra đời với việc sửa đối, bổ
sung hàng loạt quy định liên quan đến tội phạm tham nhũng, chức vụ đã tạo cơ sở
pháp lý mạnh mẽ cho công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Những vấn đề cơ bản về tham nhũng
1.1. Khái niệm tham nhũng
Theo nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có
chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền
hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là lợi
dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của . Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp
quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) định nghĩa tham nhũng
trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng...
Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam quy định (tại Luật phòng,
chống tham nhũng năm 2005), tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi . Người có chức vụ, quyền hạn chỉ
giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống
chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn,
tài sản của Nhà nước. Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những


hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm,
thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài
sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách
nhiệm của người đứng đầu.
1.2. Đặc trưng của tham nhũng

1


Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có những đặc trưng cơ bản
như
sau:
a) Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn
Đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là người có chức
vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức;
sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần
vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công
vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó (khoản 3, Điều 1, Luật
phòng, chống tham nhũng năm 2005).
Nhìn chung, nhóm đối tượng này có đặc điểm đặc thù so với các nhóm đối
tượng khác như: họ thường là những người có quá trình công tác và cống hiến nên có
nhiều kinh nghiệm; được đào tạo có hệ thống, là những chuyên gia trên nhiều lĩnh vực
khác nhau; là những người có quan hệ rộng và có uy tín xã hội nhất định và thậm chí
có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này của chủ thể hành vi tham nhũng chính là
yếu tố gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng.
b) Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham nhũng.
Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng “chức vụ, quyền hạn

của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình hoặc
cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một người có
chức vụ, quyền hạn nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì không thể có
hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là hành vi tham nhũng. Ở đây có
sự giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần lưu ý khi
phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
c) Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi
Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ
lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi không cố ý thì hành vi đó không là hành vi tham
nhũng. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có
chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng.
Như vậy, khi xử lý về hành vi tham nhũng, không bắt buộc chủ thể tham nhũng phải
đạt được lợi ích.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh giá tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi tham nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ xác định những lợi ích vật chất
mà kẻ tham nhũng đạt được để từ đó quyết định mức độ xử lý. Lợi ích vật chất hiện
nay trong cơ chế thị trường thể hiện ở rất nhiều dạng khác nhau, nếu chỉ căn cứ vào
2


những tài sản phát hiện hoặc thu hồi được để đánh giá lợi ích mà kẻ tham nhũng đạt
được thì sẽ là không đầy đủ. Thêm nữa, các lợi ích vật chất và tinh thần đan xen rất
khó phân biệt; ví dụ như: việc dùng tài sản của Nhà nước để khuyếch trương thanh
thế, gây dựng uy tín hay các mối quan hệ để thu lợi bất chính. Trong trường hợp này,
mục đích của hành vi vừa là lợi ích vật chất, vừa là lợi ích tinh thần...
Đối với khu vực tư, khi có vụ việc tham nhũng xảy ra, pháp luật đã có những sự
điều chỉnh nhất định. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, người có chức vụ, quyền hạn
trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc khu vực tư cấu kết, móc nối với những người
thoái hoá, biến chất trong khu vực công hoặc lợi dụng ảnh hưởng của những người

này để trục lợi. Trong trường hợp đó, họ trở thành đồng phạm khi người có hành vi
tham nhũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.3. Các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật
* Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã phân loại
tham nhũng theo hành vi. Theo đó, những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi
tham nhũng:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn
để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ
lợi.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đã được quy định trong
Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung ngày năm 2009 và có hiệu lực từ
ngày 1-1-2010, bao gồm:

3


- Tham ô tài sản: là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có

trách nhiệm quản lý.
- Nhận hối lộ: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung
gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình
thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa
hối
lộ
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi:
là việc cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn
làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân
- Lạm quyền trong khi thi hành công vụ: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá
nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi: là
việc cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc
sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào, gây hậu quả
nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng ảnh hưởng
của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc
trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không
được phép làm
- Giả mạo trong công tác: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà
lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây:
+ Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;
+ Làm, cấp giấy tờ giả;
+ Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn .
Hành vi thứ 8 đến hành vi thứ 12 mới được bổ sung do đây là những hành vi
đã phát sinh và đang trở nên phổ biến trên thực tế, cần được quy định cụ thể làm
cơ sở pháp lý cho việc xử lý. So với những hành vi tham nhũng tại Pháp lệnh chống
tham nhũng năm 1998 và các tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật hình sự năm

1999; được sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì Luật phòng, chống tham nhũng có bổ sung
5 hành vi tham nhũng mới. Đây là những hành vi xuất hiện ngày càng phổ biến trong
thời gian gần đây. Việc quy định thêm 5 loại hành vi mới này là cần thiết và là cơ sở
pháp lý để đấu tranh với những biểu hiện ngày càng phức tạp của tham nhũng. Tuy
nhiên, không phải mọi hành vi tham nhũng đều bị xử lý về hình sự mà chỉ những hành
vi hội đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự thì mới được
xác định là tội phạm và bị xử lý bằng biện pháp hình sự, (các hành vi được quy định
từ khoản 1 đến khoản 7, Điều 3 của Luật) còn những hành vi khác (từ khoản 8 đến
4


khoản 12, Điều 3 của Luật) được xác định là hành vi tham nhũng nhưng chưa cấu
thành tội phạm thì được xử lý bằng biện pháp kỷ luật.
- Về hành vi “đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ,
quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ
lợi”: Đây là một biểu hiện mới của tệ tham nhũng. Do vẫn còn tồn tại cơ chế “xin cho” trong nhiều lĩnh vực nên có nhiều cá nhân đại diện cho cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc địa phương đã tìm cách hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn phụ trách việc
phê duyệt chương trình, dự án, cấp kinh phí,ngân sách để được lợi cho cơ quan, tổ
chức, đơn vị, địa phương mình và thông qua đó để đạt được các lợi ích cá nhân. Hành
vi này được coi là hành vi tham nhũng. Điều cần lưu ý là hành vi đưa hối lộ, môi giới
hối lộ là tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự không thuộc nhóm các tội
phạm về tham nhũng mà thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ. Còn hành vi đưa hối
lộ, làm môi giới hối lộ được thực hiện bởi chủ thể có chức vụ, quyền hạn để giải
quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi thì mới được
coi là hành vi tham nhũng. Hành vi này vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự
với tội danh tương ứng (nếu hành vi đó cấu thành tội phạm), vừa là hành vi tham
nhũng theo sự điều chỉnh của pháp luật về tham nhũng.
- Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản nhà nước
vì vụ lợi”: Đây là hành vi lợi dụng việc được giao quyền quản lý tài sản của nhà nước
để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người nào đó thay vì phục vụ cho lợi ích

công. Biểu hiện cụ thể của hành vi này thường là cho thuê tài sản như: nhà xưởng, trụ
sở, xe ôtô và các tài sản khác nhằm vụ lợi. Số lượng tài sản cho thuê nhiều khi lớn.
- Về hành vi “nhũng nhiễu vì vụ lợi”: Nhũng nhiễu là hành vi đã được mô tả trong
phần thuật ngữ khái niệm. Cần nhấn mạnh thêm hành vi này xuất hiện trong hoạt
động của một số cơ quan công quyền, nhất là tại các cơ quan hành chính, nơi trực tiếp
giải quyết công việc của công dân và doanh nghiệp. Một số cán bộ, công chức không
thực hiện trách nhiệm với thái độ công tâm và tinh thần phục vụ mà ngược lại thường
tìm cách lợi dụng những sơ hở hoặc không rõ ràng của các thủ tục, thậm chí tự ý đặt
ra các điều kiện gây thêm khó khăn cho công dân và doanh nghiệp để buộc công dân
và doanh nghiệp biếu xén cho mình quà cáp. Thực chất của hành vi này là sự ép buộc
đưa hối lộ được che đậy dưới hình thức tinh vi rất khó có căn cứ để xử lý. Cũng có thể
coi hành vi nhũng nhiễu là hành vi “đòi hối lộ” một cách gián tiếp hoặc ở mức độ
chưa thật nghiêm trọng và có thể dùng biện pháp xử lý hành chính.
- Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi”. Hành vi tham nhũng nhiều khi
được che chắn thậm chí là có sự đồng lõa của những người có chức vụ, quyền hạn ở
cấp cao hơn. Vì vậy, việc phát hiện và xử lý tham nhũng là hết sức khó khăn. Việc bao
che cho người có hành vi tham nhũng, việc cản trở quá trình phát hiện tham nhũng có
khi được che đậy dưới rất nhiều hình thức khác nhau như: thư tay, điện thoại, nhắc
5


nhở, tránh không thực hiện trách nhiệm của mình hoặc có thái độ, việc làm bất hợp
tác với cơ quan có thẩm quyền…
- Hành vi “không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” là hành vi thường
được gọi là “bảo kê” của những người có trách nhiệm quản lý, đặc biệt là một số
người làm việc tại chính quyền địa phương cơ sở, đã “lờ” đi hoặc thậm chí tiếp tay
cho các hành vi vi phạm để từ đó nhận lợi ích từ những kẻ phạm pháp.
2. Yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng

2.1. Nguyên nhân, điều kiện của tham nhũng
Để xác định rõ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, trước tiên
chúng ta cần tìm hiểu về nguyên nhân, điều kiện khách quan cũng như chủ quan của
tham nhũng, trên cơ sở đó để ra những yêu cầu đúng đắn cho cuộc đấu tranh phòng
chống tham nhũng.
a) Nguyên nhân, điều kiện khách quan
- Việt Nam là nước đang phát triển, trình độ quản lý còn lạc hậu, mức sống
thấp, pháp luật chưa hoàn thiện
Thực tế cho thấy, tham nhũng thường xuất hiện ở những nước chậm phát triển
hoặc đang phát triển. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, Nhà nước đại diện
cho xã hội quản lý mọi mặt của đời sống. Nếu Nhà nước quản lý xã hội lỏng lẻo sẽ
tạo ra các kẽ hở cho tệ tham nhũng nảy sinh và phát triển.
Qua gần 20 năm đổi mới, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể nhưng trình độ quản lý còn lạc hậu, mức sống thấp. Vì vậy, nạn tham nhũng có
điều kiện xảy ra phổ biến trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều cấp.
- Ảnh hưởng của mặt trái của cơ chế thị trường
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã áp dụng việc quản lý
nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những
thành tích cơ bản, đáng tự hào. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, cơ chế thị
trường đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Đó là sự cạnh tranh khốc liệt, sự chi phối của lợi
ích vật chất làm cho người sản xuất, kinh doanh có xu hướng tối đa hoá lợi nhuận
bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh doanh.
Trong xã hội, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, có những giá trị xã hội bị đảo
lộn, việc kiếm thật nhiều tiền đôi lúc đã trở thành sức ép, làm xuất hiện tâm lý mọi
việc đều có thể mua bán. Những nghiên cứu gần đây cho thấy tác hại to lớn của
những yếu tố tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường đã đến mức báo động. Chính
điều này đã góp phần làm gia tăng tệ tham nhũng thông qua việc thúc đẩy các hành vi
phạm pháp của cán bộ, công chức, ganh đua làm giàu phi pháp, đục khoét tiền của
Nhà nước và nhân dân.
b) Nguyên nhân, điều kiện chủ quan

6


- Hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả
Đây là một trong những nguyên nhân gây nên sự yếu kém và bất cập của quá
trình đổi mới đất nước, trong đó có tham nhũng. Một quốc gia quản lý tốt phải có bộ
máy nhà nước tốt. Ở nước ta, sự quản lý, lãnh đạo, điều hành đất nước là sự thống
nhất và phối hợp giữa vai trò lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm quản lý của Nhà nước
và sự tham gia tích cực, có hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần
chúng. Tuy nhiên, sự chưa rõ ràng trong phân cấp, phân công vai trò, chức năng, hoạt
động giữa các yếu tố trong hệ thống chính trị vẫn đã phần nào làm giảm hiệu quả lãnh
đạo, quản lý, điều hành xã hội. Trong thực tế, vẫn còn tồn tại hiện tượng chồng chéo
lẫn lộn về tổ chức và hoạt động của các yếu tố trong hệ thống chính trị nước ta.
- Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái; công tác
quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên còn yếu kém
Trước tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, nhiều cán bộ, đảng viên do
không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đã có những hành vi phạm pháp, không giữ được
đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính”. Có thể thấy rõ sự đi xuống về đạo đức, phẩm chất
chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên qua đánh giá trong các văn kiện của
Đảng.
- Chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán
Sự nghiệp đổi mới mà trọng tâm là đổi mới quản lý kinh tế, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu hết sức quan trọng là phải
xây dựng một hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật đầy đủ, từng bước hoàn thiện.
Trong khi đó, mặc dù chúng ta đã có rất nhiều cố gắng nhưng việc xây dựng thể chế
pháp luật vẫn không đáp ứng được nhu cầu, chưa phản ánh và điều chỉnh kịp thời
những vấn đề đang đặt ra trong quá trình phát triển. Cơ chế, chính sách, pháp luật
trong thời kỳ đổi mới chưa hoàn thiện, thiếu cụ thể, có nhiều sơ hở và thậm chí có
những vấn đề thiếu nhất quán.
- Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin - cho” trong

hoạt động công vụ còn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý
Cơ chế “xin - cho” được nhìn nhận là một trong những nguy cơ của tệ tham nhũng,
hối lộ mà cho đến nay vẫn chưa có cách khắc phục. Công tác quản lý đất đai còn
nhiều yếu kém, việc đăng ký quyền sử dụng đất, cấp đất, giao đất, cho thuê đất,
chuyển giao quyền sử dụng đất, v.v., còn nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho tiêu cực, sai
phạm nảy sinh. Cơ chế quản lý tài chính công, mua sắm công, quản lý đầu tư xây
dựng cơ bản cơ chế kiểm soát lại rất lỏng lẻo, tạo điều kiện cho tiêu cực, tham nhũng,
lãng phí, thất thoát. Chế định kê khai tài sản đối với cán bộ, công chức đã được áp
dụng nhưng chỉ mang tính hình thức.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng, chống tham nhũng trong một số
trường hợp chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên
7


Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn
bản quy phạm pháp luật về đấu tranh chống tham nhũng tuy nhiên việc tổ chức thực
hiện trên thực tế còn nhiều hạn chế.
- Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng hữu hiệu
Cơ chế phối hợp của các cơ quan nói trên còn có những hạn chế; nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong cuộc đấu tranh chung còn chưa rõ
ràng, cụ thể dẫn đến tình trạng lẫn lộn, chồng chéo, thiếu hiệu quả trong hoạt động
phát hiện và xử lý tham nhũng.
Về pháp luật, chúng ta chưa có những quy định cho phép các cơ quan chức
năng áp dụng các biện pháp đặc biệt để có thể phát hiện các hành vi tham nhũng nên
hiệu quả phát hiện tham nhũng chưa cao. Tham nhũng là một loại tội phạm đặc biệt,
chủ thể của nó là những người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ, thực hiện hành vi
tham nhũng rất tinh vi, khó phát hiện và trong nhiều trường hợp kẻ vi phạm dùng
nhiều thủ đoạn, kể cả dưới danh nghĩa nhà nước để cản trở việc điều tra và truy cứu
trách nhiệm. Đặc biệt, việc thu thập chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội tham
nhũng là cực kỳ khó khăn, nhất là đối với hành vi nhận hối lộ. Các cơ quan tiến hành

tố tụng khó khăn trong việc quy trách nhiệm hoặc buộc phải kết luận hành vi sai phạm
của họ là “cố ý làm trái…” hoặc “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Đó là
những hành vi không bị coi là tham nhũng và có mức xử lý nhẹ hơn hành vi tham
nhũng.
2.2. Yêu cầu đặt ra đối với cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng
Tham nhũng là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm
của loại tội phạm này thể hiện ở chỗ nó làm phương hại đến lợi ích quốc gia, đến sự
thụ hưởng các quyền và lợi ích của người nghèo, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự
gia tăng những bất công trong xã hội, làm xói mòn niềm tin của người dân đối với
Đảng và Nhà nước.Về đối ngoại, sự gia tăng tội phạm tham nhũng làm giảm niềm tin
của các đối tác nước ngoài, uy tín của Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
Nhận thức được mối hiểm họa cao của loại tội phạm này, Bộ luật Hình sự
(BLHS) năm 1999 đã dành riêng một chương quy định về các tội phạm về chức vụ
trong đó 01 mục (mục A) với 07 điều luật quy định về các tội phạm tham nhũng và
01 mục (mục B) với 07 điều luật quy định về các tội phạm khác về chức vụ, với chế
tài hết sức nghiêm khắc. Tuy nhiên, quá trình áp dụng BLHS để xử lý các tội phạm
tham nhũng cho thấy, các quy định này còn có nhiều điểm hạn chế, chưa phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm, điều kiện, tình hình phát
triển mới về mọi mặt và trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất
nước. Kết quả rà soát, đánh giá các quy định của BLHS năm 1999 với Công ước của
Liên hợp quốc về chống tham nhũng (Việt Nam ký kết vào năm 2003 và trở thành
thành viên chính thức kể từ ngày 18/9/2009) cũng cho thấy: Pháp luật hình sự của
Việt Nam chưa thực sự tương thích với các yêu cầu về hình sự hóa các quy định tại
8


Công ước. Những vấn đề này đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 về tội
phạm chức vụ nhằm bảo đảm thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng về phòng,
chống tham nhũng, khắc phục những bất cập trong quá trình đấu tranh phòng, chống
tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước, cũng

như bảo đảm thực thi các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết, tạo cơ sở pháp lý cho
việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế.
BLHS năm 2015 đã cơ bản thể chế hóa được những quan điểm, chủ trương đổi
mới của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự, cải cách tư pháp. Bộ luật
cũng đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 theo hướng nâng cao tính
nhân đạo, bảo đảm xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm quyền con người;
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi để người bị kết
án tái hòa nhập cộng đồng, góp phần bảo vệ môi trường sống yên bình cho người dân,
khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát
triển kinh tế, xã hội.
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm chức vụ nói chung, các
tội phạm về tham nhũng nói riêng trong tình hình mới, bảo đảm tính nghiêm minh của
pháp luật, yêu cầu đặt ra đối với việc sửa đổi, bổ sung các tội phạm về tham nhũng,
chức vụ là phải thể chế hóa đầy đủ, toàn diện chủ trương "Quy định trách nhiệm hình
sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi
pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ
càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc
để làm gương cho người khác", trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; "Sửa đổi pháp luật hình
sự theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn hoặc giảm hình phạt khác đối với những
đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu
quả", trong Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa
XI) về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí. Cụ thể hóa quy định "Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và
mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền" khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013.
Tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các điều luật hiện hành
trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế, xã hội, chính trị của đất nước.
3. Bộ luật hình sự 2015 đã hoàn thiện cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh

phòng chống tham nhũng
Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 12/2017/QH14 (sau đây gọi là BLHS năm 2015) đã kế thừa Bộ luật Hình sự
năm 1999 đồng thời sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung mới liên quan đến tội tham
nhũng. Cùng với Luật phòng, chống tham nhũng, những quy định về tội phạm tham
nhũng trong Bộ luật hình sự mới sẽ góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh
9


phòng, chống tham nhũng và khắc phục những bất cập trong quá trình đấu tranh
phòng, chống tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của đất nước
trong giai đoạn hiện nay. Nhóm tội phạm về tham nhũng được quy định tại mục 1
Chương XXIII của Bộ luật hình sự năm 2015 gồm 7 điều, từ Điều 353 đến Điều 359.
Đó là các tội: Tội tham ô tài sản; Tội nhận hối lộ; Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Tội
lạm quyền trong khi thi hành công vụ; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh
hưởng đối với người khác để trục lợi và Tội giả mạo trong công tác. Ngoài ra, Bộ luật
hình sự năm 2015 còn có những quy định liên quan đến một số chính sách xử lý đặc
thù đối với tội phạm tham nhũng tại phần Các quy định chung của Bộ luật.
3.1. BLHS 2015 mở rộng các tội phạm về tham nhũng trong khu vực ngoài
Nhà nước
Theo quy định tại Điều 277 BLHS năm 1999 thì chủ thể của nhóm tội phạm về
tham nhũng phải là những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, những người thi hành công vụ, đại diện
cho quyền lực công (quyền lực Nhà nước). Còn những người có chức vụ, quyền hạn
của nước ngoài, của tổ chức quốc tế hoặc trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà
nước (khu vực tư) như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các công ty 100% vốn
đầu tư nước ngoài, các công ty liên doanh có vốn Nhà nước tham gia, công ty cổ
phần, hợp tác xã như: Giám đốc, phó giám đốc, kế toán, thủ quỹ, thủ kho... không
phải là chủ thể của tội phạm về tham nhũng. Việc BLHS năm 1999 không quy định

tội phạm tham nhũng trong khu vực tư không chỉ không đáp ứng yêu cầu Công ước
của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng mà còn bất cập với tình hình thực tiễn. Bởi
trên thực tế ở Việt Nam đã xuất hiện những trường hợp vì lợi ích của cơ quan, tổ chức
hoặc địa phương mà cá nhân, người Việt Nam đã thực hiện hành vi đưa hối lộ cho
công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ để dành
ưu thế nhất định nhưng Việt Nam không có cơ sở pháp lý để xử lý hình sự đối với các
đối tượng này về hành vi nhận hối lộ cũng như hành vi đưa hối lộ.
Do vậy, để giải quyết được những bất cập nêu trên, đáp ứng yêu cầu của Hiến
pháp năm 2013 đã nêu: "Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác
và cạnh tranh theo pháp luật" (khoản 2 Điều 51), tháo gỡ những vướng mắc trong
thực tiễn xử lý hành vi tham nhũng đối với tài sản của doanh nghiệp có phần vốn góp
của Nhà nước, trong đó có sự đan xen về sở hữu mà trong nhiều trường hợp không thể
tách biệt giữa tài sản, phần vốn góp của tư nhân, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung
theo hướng:
Một là, mở rộng nội hàm khái niệm tội phạm chức vụ bao gồm cả các tội phạm
về chức vụ trong khu vực tư (ngoài Nhà nước), cụ thể là mở rộng chủ thể thực hiện tội
phạm không chỉ là người có chức vụ trong khi thực hiện "công vụ" (đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức trong hệ thông các cơ quan Nhà nước), mà còn là người có chức

10


vụ trong khi thực hiện "nhiệm vụ" (tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước)
như sau:
"Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của
cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm
vụ" (khoản 1 Điều 352). Đồng thời, làm rõ thuật ngữ người có chức vụ theo hướng
không chỉ gắn với việc bầu, bổ nhiệm, mà còn gắn với vị trí công tác, theo đó: "người
có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức
khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ

nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ" (khoản 2
Điều 352). Việc mở rộng này tạo điều kiện để xử lý toàn diện và triệt để các hành vi
tham nhũng trong khu vực tư, theo xu hướng chung của các nước trên thế giới.
Hai là, để có chính sách xử lý hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng linh
hoạt, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam hiện nay, BLHS
năm 2015 giới hạn phạm vi các tội phạm về chức vụ trong khu vực ngoài Nhà nước
chỉ đối với 04 tội danh gồm: Tội tham ô tài sản, Tội nhận hối lộ, Tội đưa hối và Tội
môi giới hối lộ.
Cụ thể là khoản 6 Điều 353 (Tội tham ô tài sản) quy định "Người có chức vụ,
quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị
xử lý theo quy định tại Điều này"; khoản 6 Điều 354 (Tội nhận hối lộ) quy định
"Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà
nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này"; khoản 6 Điều 364 (Tội đưa lộ)
quy định "Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức
của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài
Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này"; khoản 7 Điều 365 (Tội môi giới
hối lộ) quy định "Người nào mà môi giới hối lộ trong các doanh nghiệp, tổ chức
ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này".
Ý nghĩa của quy định mở rộng phạm vi xử lý:
+ Tăng cường đấu tranh phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và giữ gìn quan
hệ, hợp tác với các nước, tạo điều kiện để một mặt có thể xử lý một cách toàn diện và
triệt để các hành vi tham nhũng trong khu vực tư.
+ Mặt khác, bảo đảm sự nhất quán trong chính sách xử lý các tội phạm về tham
nhũng, là bước tiến để hoàn thiện chu trình cải cách, thúc đẩy sự hài hòa giữa chính
sách với thực tiễn pháp luật hình sự, chuẩn hóa các tội danh trong BLHS Việt Nam
nhằm đạt được tính thống nhất, minh bạch, cũng như phù hợp với những xu hướng
chung trên toàn thế giới về pháp luật hình sự.
3.2. BLHS 2015 nâng mức giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trong
cấu thành định khung cơ bản và định khung tăng nặng
Để phân hóa trách nhiệm hình sự rõ ràng hơn, bảo đảm phù hợp với tình hình

kinh tế, xã hội, với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng trong
11


tình hình mới, BLHS năm 2015 điều chỉnh nâng mức giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích
vật chất khác bị chiếm đoạt trong cấu thành cơ bản cũng như cấu thành tăng nặng
trong hầu hết các tội phạm về tham nhũng mà BLHS hiện hành quy định quá thấp. Cụ
thể là, các Tội tham ô tài sản (Điều 353), Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản (Điều 355) được sửa đổi theo hướng nâng mức giá trị tài sản chiếm đoạt
từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng lên thành từ 2.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng (khoản 1); từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng lên
thành từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng (khoản 2); từ 200.000.000
đồng đến dưới 500.000.000 đồng lên thành từ 500.000.000 đồng đến dưới
1.000.000.000 đồng (khoản
3); từ 500.000.000 đồng trở lên lên thành 1.000.000.000 đồng trở lên (khoản 4).
Đối với Tội nhận hối lộ (Điều 354), Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh
hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358), Tội đưa hối lộ (Điều 364) và Tội
môi giới hối lộ (Điều 365) được sửa đổi theo hướng nâng mức tiền, tài sản hoặc lợi
ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng lên thành từ
2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng (khoản 1); từ 10.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng lên thành từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng (khoản
2); từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng lên thành từ 500.000.000 đồng
đến dưới 1.000.000.000 đồng (khoản 3); từ 300.000.000 trở lên lên thành
1.000.000.000 đồng trở lên (khoản 4).
3.3. BLHS 2015 bổ sung các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm
hình sự và cụ thể hóa các tình tiết có tính "định tính"
Thứ nhất, một số tội về tham nhũng trong BLHS năm 1999 quy định khung
tăng nặng trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ, chưa dự liệu các tình tiết phát sinh trong
thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng (như phạm tội có tổ chức,
phạm tội 02 lần trở lên, tái phạm nguy hiểm...). Do đó, để bảo đảm sự minh bạch, rõ

ràng, cá thế hóa trách nhiệm hình sự, có chính sách xử lý nghiêm minh đối với các
trường hợp phạm tội có tính chất nghiêm trọng hơn, BLHS năm 2015 bổ sung tình tiết
định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự "có tổ chức", "phạm tội 02 lần trở lên" vào
Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật
công tác (điểm a, b khoản 2 Điều 361); bổ sung tình tiết định khung tăng nặng "tái
phạm nguy hiểm" vào Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để
trục lợi (điểm c khoản 2 Điều 366). Ngoài ra, theo quy định tại khoản 8 Điều 3 Luật
phòng, chống tham nhũng thì hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi
người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc địa phương vì vụ lợi cũng là hành vi tham nhũng. Do đó, Bộ luật đã bổ sung tình
tiết định khung tăng nặng "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn" vào Tội đưa hối lộ (điểm d
khoản 2 Điều 364) và Tội môi giới hối lộ (điểm đ khoản 2 Điều 365) để xử lý nghiêm
khắc đối với người có chức vụ quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối
lộ hoặc môi giới hối lộ.
12


Thứ hai, những vướng mắc khi thi hành BLHS năm 1999 về các tội phạm tham
nhũng, chính là các tính tiết có tính "định tính" như: Gây hậu nghiêm trọng, rất
nghiệm trọng, đặc biệt nghiêm trọng...Trong khi đó Hiến pháp năm 2013 quy định
mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải do luật định (khoản 2
Điều 14). Do vậy, để đảm bảo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013, BLHS năm
2015 đã thay thế các tình tiết có tính "định tính" trong các tội tham những bằng các
dấu hiệu định lượng thiệt hại cụ thể như sau: Thiệt hại về tính mạng; thiệt hại về sức
khỏe; thiệt hại về tài sản; số tiền thu lợi bất chính; làm mất uy tín của cơ quan, tổ
chức....Đồng thời tách các tình tiết tăng nặng gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng được quy định ở cùng một khung trong BLHS năm 1999 để quy
định ở hai khung hình phạt khác nhau trong BLHS năm 2015. Cụ thể các tình tiết tăng
nặng này trong Tội lạm dụng quyền trong khi thi hành công vụ (khoản 3 Điều 282
BLHS năm 1999) được tách ra để quy định ở hai khung hình phạt khác nhau trong

khoản 3 và khoản 4 của Điều 357 BLHS năm 2015 về Tội lạm dụng quyền trong khi
thi hành công vụ; đồng thời cụ thể hóa các tình tiết định khung tăng nặng này và quy
định mức hình phạt phù hợp cho mỗi khung. Cụ thể là gây thiệt hại về tài sản từ
500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm
(khoản 3); gây thiệt hại về tài sản từ 1.500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 15
năm đến 20 năm (khoản 4).
3.4. BLHS 2015 mở rộng nội hàm “của hối lộ”
Điều 15 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng khuyến nghị các
quốc gia thanh viên áp dụng các biện pháp lập pháp và các biện pháp cần thiết khác
để quy định là tội phạm đối với hành vi trực tiếp hoặc qua trung gian hứa hẹn, chào
mời đưa cho công chức bất kỳ một lợi ích không chính đáng cho chính bản thân công
chức ấy hay cho một người hoặc một tổ chức khác để công chức này làm hoặc không
làm một việc trong quá trình thi hành công vụ. Đồng thời, Công ước cũng quy định rõ
“của hối lộ” là bất kỳ lợi ích nào, có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất. Trong khi
đó, Điều 279 BLHS năm 1999 của Việt Nam về Tội đưa hối lộ chưa mô tả cụ thể hành
vi đưa hối lộ. Hơn nữa, Điều luật này cũng như một số điều luật khác quy định "của
hối lộ" chỉ bao gồm tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà không bao gồm "lợi ích
phi vật chất".
Để đáp ứng yêu cầu của Công ước, đồng thời để đảm bảo xử lý nghiêm, xử lý
sớm hành vi đưa hối lộ, ngay cả khi hứa hẹn đưa hối lộ, BLHS năm 2015 quy định cụ
thể hơn về cấu thành có bản của Tội đưa hối lộ (Điều 364), đó là "Người nào trực tiếp
hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người
khác hoặc tổ chức khác bầy kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn
làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ...".
Đồng thời, Bộ luật bổ sung của hối lộ là "lợi ích phi vật chất" vào cấu thành cơ bản
của Tội nhận hối lộ (Điều 354), Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối
với người khác để trục lợi (Điều 358), Tội đưa hối lộ (Điều 364), Tội môi giới hối lộ
13



(Điều 365), Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi
(Điều 366).
Ý nghĩa của quy định mở rộng nội hàm “của hối lộ”:
Quy định này cũng hết sức cần thiết và phù hợp với tình hình thực tiễn các tội
phạm chức vụ nói chung và tội phạm tham nhũng nói riêng ở Việt Nam vừa qua. Việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những đối tượng này là vô cùng cần thiết. Để
quy định này sớm đi vào cuộc sống, các cơ quan chức năng cần có sự nghiên cứu, ban
hành các văn bản hướng dẫn luật nhằm tạo cơ sở pháp lý, khoa học, đầy đủ, tránh tình
trạng quy định thì rất tiến bộ song đến khi thực hiện lại rơi vào bế tắc. Vì trên thực tế,
việc xử lý đối với hành vi nhận và đưa hối lộ lợi ích phi vật chất, ví dụ như “hối lộ
tình dục” là điều không đơn giản. Bởi, thông thường, khi nói đến hối lộ thì người ta
thường căn cứ vào giá trị vật chất để xem xét mức hình phạt tương ứng. Còn trong
trường hợp “hối lộ tình dục”, việc chứng minh hành vi phạm tội đã khó, việc định giá
“tài sản” hối lộ còn khó hơn gấp nhiều lần.
3.5. BLHS 2015 nâng mức hình phạt tiền là hình phạt bổ sung và bổ sung
hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính đối với một số tội phạm
về tham nhũng
BLHS năm 2015 nâng mức phạt tiền là hình phạt tiền là hình phạt bổ sung từ
10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng lên thành từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng trong Tội tham ô tài sản (Điều 353), Tội nhận hối lộ (Điều 354), Tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355); nâng mức hình phạt tiền là hình
phạt bổ sung từ 3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng lên thành từ 10.000.000 đồng
đến 100.000.000 đồng trong Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công
vụ (Điều 356), Tội lạm dụng quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357), Tội giả
mạo trong công tác (Điều 359). Bởi vì các tội phạm về tham nhũng luôn luôn gắn liền
với động cơ vụ lợi nên cần phải xử phạt nghiêm để có tác dụng răn đe, giáo dục, đồng
thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng
trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Tuy nhiên, để thể hiện chủ trương của Đảng
về "giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối
với các loại tội ít nghiêm trọng...", trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ luật còn bổ sung
hình phạt tiền và hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính áp dụng đối với
một số tội phạm về tham nhũng như: Tội đưa hối lộ (Điều 364) và Tội môi giới hối lộ
(Điều 365).
3.6. BLHS 2015 bổ sung một số chính sách mới liên quan đến việc xử lý tội
phạm tham nhũng
Một là, để tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, thể hiện thái
độ kiên quyết của Nhà nước trong việc xử lý đến cùng tội phạm tham nhũng, Điều 28
BLHS năm 2015 bổ sung trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm
14


hình sự đối với tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4
Điều 353; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354.
Đối với các trường hợp này, bất kể thời điểm nào phát hiện được tội phạm là có thể xử
lý.
Hai là, nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tử hình trên thực tế, góp phần thực
hiện chủ trương Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị là giảm
hình phạt tử hình, đồng thời khuyến khích người phạm tội tham nhũng khắc phục hậu
quả, nộp lại tiền cho Nhà nước và hợp tác với cơ quan có thẩm quyền phát hiện, điều
tra, xử lý tội phạm để hưởng chính sách khoan hồng. Tại điểm c khoản 3 Điều 40
BLHS năm 2015 quy định "Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối
lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận
hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý
tội phạm hoặc lập công lớn" thì sẽ không thi hành án tử hình đối với người bị kết án
và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
C/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Bộ luật hình sự năm 2015 được ban hành và có hiệu lực pháp luật đã bảo đảm
thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng về phòng, chống tham nhũng, khắc phục
những bất cập trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, phù hợp với điều kiện

phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước, cũng như bảo đảm thực thi các nghĩa
vụ mà Việt Nam đã cam kết, tạo cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế. Từ đó, tạo động
lực mạnh mẽ và hoàn thiện cơ sở vững chắc cho công cuộc đấu tranh, phòng chống
tham nhũng của đất nước.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. BLHS năm 1999.
2. BLHS năm 2015.
3. Hiến pháp (2013), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của
Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
7. Tạp chí kiểm sát số 04 (tháng 02/2016).
8. Tạp chí kiểm sát số 10 (tháng 5/2016).
9. Website: Http://noichinh.vn/cong-tac-phong-chong-tham-nhung/201606/boluat-hinh-su-nam-2015-mot-so-quy-dinh-moi-ve-toi-pham-tham-nhung-300826/
10.Website:Http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phap-luat.aspx?
ItemID=240
11.Website:Http://truongcanbothanhtra.gov.vn/Article/560/Mot-so-diem-moi-cua-Boluat-Hinh-su-nam-2015-ve-cac-toi-pham-tham-nhung-tuong-thich-voi-cong-uoc-cualien-hop-quoc-ve-phong-chong-tham-nhung-uncac.html

16




×