Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Đặc thù nền kinh tế mĩ và những nhận định về cơ hội, thách thức đối với DN việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.5 KB, 43 trang )

MỤC LỤC
Lời nói đầu
I: Đặc thù nền kinh tế Mĩ và những nhận định về cơ hội, thách thức đối
với DN Việt Nam.
1: Những nhân tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế Mỹ.
1.1: Nhân tố cấu thành đầu tiên của một hệ thống kinh tế quốc gia là
nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia đó.
1.2: Nhân tố cấu thành thứ hai là lao động, yếu tố chuyển hóa các tài
nguyên thiên nhiên thành hàng hoá.
1.3: Quản lý khoa học.
2: Một nền kinh tế hỗn hợp.
3: Nền kinh tế thương mại điện tử.
4: Nhận định cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam.
II: Phân tích tiến trình phát triển của nền kinh tế Mỹ thông qua GDP, tỷ
lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp.
1: Cái nhìn toàn cảnh sự phát triển của kinh tế Mỹ từ năm 1947 đến
2010.
1.1: Đánh giá chung tiến trình phát triển nền kinh tế Mỹ gần 100 năm
qua.
1.2: Phân tích tình hình nền kinh tế Mỹ qua những con số.
2: Nền kinh tế Mỹ năm 2010, và những tháng đầu năm 2011.
3: Mỹ và những cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử.
3.1: Suy thoái kinh tế Mỹ bắt đầu vào tháng 12/2007 và kết thúc vào
tháng 6/2009, kéo dài 18 tháng.
3.2: Suy thoái đầu năm 2000


3.3: Suy thoái cuối thập kỷ 90
3.4: Suy thoái đầu những năm 1980
3.5: Khủng hoảng dầu mỏ những năm 1973
3.6: Suy thoái năm 1958


3.7: Suy thoái năm 1953
3.8: Suy thoái năm 1947
3.9: Đại suy thoái năm 1930
III: Nền kinh tế Mỹ vận hành như thế nào?
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
1.5.

Những nhân tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế Mỹ
Một nền kinh tế hỗn hợp: Vai trò của thị trường
Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
Sự nghèo đói và bất bình đẳng
Sự phát triển của chính quyền

Kết luận
Tư liệu tham khảo


I: Đặc thù nền kinh tế Mĩ và những nhận định về cơ hội, thách thức đối
với DN Việt Nam.
1: Những nhân tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế Mỹ.
1.1: Nhân tố cấu thành đầu tiên của một hệ thống kinh tế quốc gia là
nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia đó. Nước Mỹ rất giàu
khoáng sản, đất đai canh tác màu mỡ và được phú cho khí hậu ôn hoà.
Nó còn có đường bờ biển trải dài cả hai bên bờ Đại Tây Dương và Thái
Bình Dương cũng như trên vịnh Mêhicô. Những con sông bắt nguồn từ
sâu trong lục địa và hệ thống Hồ Lớn - gồm năm hồ lớn nội địa dọc theo
biên giới của Mỹ với Canada -cung cấp thêm mạng lưới giao thông

đường thuỷ. Những tuyến đường thủy mở rộng này đã giúp nước Mỹ tạo
ra tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm và nối liền 50 bang riêng rẽ thành
một khối kinh tế thống nhất.
1.2: Nhân tố cấu thành thứ hai là lao động, yếu tố chuyển hóa các tài
nguyên
thiên nhiên thành hàng hoá.
-So với châu Âu, văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ có những điểm khác
biệt. Mặc dù đa số người Mỹ là người Anh và người châu Âu di cư,
nhưng khi sang lục địa mới, họ nuôi dưỡng trong mình chí tiến thủ mạnh
mẽ, tinh thần chú trọng thực tế cộng với tinh thần trách nhiệm nghiêm
túc. Tất cả những điều đó đã tạo nên một bản sắc văn hóa mới – bản sắc
văn hóa Mỹ. Người Mỹ cho rằng, ai cũng có quyền lợi hưởng cuộc sống
hạnh phúc tự do bằng sức lao động chính đáng của họ. Bản sắc văn hóa
Mỹ làm cho người ta học được chữ tín trong khế ước và tất cả mọi người
đều bình đẳng về cơ hội phát triển: ai nhanh hơn, thức thời hơn, giỏi
cạnh tranh hơn thì người đó giành thắng lợi. Có thể nói, ý thức suy tôn
tự do, chú trọng hiệu quả thực tế, phóng khoáng, khuyến khích phấn đấu
cá nhân đã trở thành nhịp điệu chung của văn hóa doanh nghiệp nước
Mỹ. Đây là những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu cho các nước
phát triển trong quá trình tạo dựng văn hóa doanh nghiệp nhằm phát
triển đất nước.


-Người Mỹ nói chung là những người có khả năng làm việc độc lập rất
cao. Nếu được giao làm một công việc nào đó theo nhóm, họ họp nhau
lại, phân công công việc cụ thể cho từng người, khi dự án hoàn thành,
mỗi một cá nhân lại trở về công việc của mình, không hề phụ thuộc vào
nhau. Trong quan hệ công việc giữa cấp trên và cấp dưới hình thành một
ranh giới rõ ràng. Các sếp luôn được ưu ái hơn so với nhân viên dưới
quyền ở nhiều điểm: chỗ để xe riêng, phòng ăn riêng, phòng họp riêng,

các chế độ đãi ngộ riêng.
Và đó có lẽ cũng là nét đặc trưng của xã hội Mỹ: chức vụ càng cao, anh
càng khác biệt với những người cấp dưới, và lúc này người có chức vụ
cao thường hạn chế đến mức tối đa các mối quan hệ tiếp xúc với người
cấp dưới. Trong các công ty Mỹ cơ cấu tổ chức rất rõ ràng, mỗi nhân
viên đều có một chức vụ, vị trí nhất định, và họ không được quên rằng
tất cả mọi vấn đề bàn bạc phải được thống nhất với những người lãnh
đạo trực tiếp trước khi được báo cáo lên cho lãnh đạo cao cấp.
-Số lượng nhân công sẵn có, và điều quan trọng hơn là năng suất lao
động của họ, đã góp phần quyết định tình trạng lành mạnh của nền kinh
tế. Xuyên suốt lịch sử của mình, nước Mỹ đã có sự tăng trưởng liên tục
về lực lượng lao động, và chính điều đó lại góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế gần như liên tục. Cho đến ngay sau Chiến tranh thế giới thứ nhất,
hầu hết số lao động là người nhập cư từ châu Âu, con cái họ, hoặc người
Mỹ gốc Phi, những người mà tổ tiên họ bị mang đến Mỹ làm nô lệ. Vào
những năm đầu thế kỷ XX, có một số lượng lớn người châu Á nhập cư
vào Mỹ, và rất nhiều người nhập cư Mỹ Latinh đến vào những năm sau
đó.
Mặc dù nước Mỹ đã trải qua một vài thời kỳ thất nghiệp cao và những
thời kỳ khác thiếu cung về lao động, nhưng khi có rất nhiều việc làm thì
người nhập cư lại có xu hướng đến đây. Họ thường sẵn sàng làm việc
với mức lương thấp hơn đôi chút so với lương lao động có văn hoá; và
họ nhìn chung đều phát đạt, kiếm được nhiều tiền hơn rất nhiều so với ở


quê hương. Nước Mỹ cũng thịnh vượng làm cho nền kinh tế phát triển
nhanh, đủ sức thu hút nhiều người mới đến hơn nữa.
-Đối với sự thành công về kinh tế của một đất nước, chất lượng lao động
sẵn có, mọi người sẵn sàng làm việc chăm chỉ như thế nào và tay nghề
của họ ra sao - ít nhất cũng quan trọng như số lượng lao động. Trong

buổi ban đầu của nước Mỹ, cuộc sống tại vùng đất hoang vu rộng lớn
này đòi hỏi lao động nặng nhọc, và những gì được xem là nguyên tắc
làm việc của người Tin lành đã củng cố thêm nét đặc biệt này. Sự chú
trọng đặc biệt tới giáo dục, bao gồm cả đào tạo kỹ thuật và dạy nghề,
cũng góp phần đưa đến thành công kinh tế cho nước Mỹ, cũng giống
như ý chí sẵn sàng thử nghiệm và thay đổi.
-Tính lưu động của lao động cũng quan trọng như thế đối với khả năng
của nền kinh tế Mỹ để thích nghi với những điều kiện thay đổi. Khi
người nhập cư tràn ngập thị trường lao động ở bờ biển phía Đông, nhiều
người lao động đã di chuyển vào sâu trong nội địa, và thường là đến các
vùng đất trang trại đang chờ được canh tác. Tương tự như vậy, những cơ
hội về kinh tế trong các thành phố công nghiệp ở miền Bắc đã thu hút
người Mỹ da đen đến từ các trang trại miền Nam vào nửa đầu thế kỷ
XX.
-Chất lượng của lực lượng lao động vẫn tiếp tục là một vấn đề quan
trọng. Ngày nay, người Mỹ coi “vốn nhân lực” là chìa khóa dẫn đến
thành công trong nhiều ngành công nghiệp công nghệ cao, hiện đại. Do
đó, các nhà lãnh đạo chính phủ và các quan chức quản lý kinh doanh
ngày càng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo để
phát triển lực lượng lao động có đầu óc nhanh nhạy và kỹ năng thích
hợp cần thiết cho các ngành công nghiệp mới như tin học và viễn thông.
1.3: Quản lý khoa học.
Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động mới chỉ là một
phần của hệ thống kinh tế. Các nguồn lực đó cần phải được tổ chức và


quản lý để đạt được hiệu quả tối đa. Trong nền kinh tế Mỹ, các nhà quản
lý, người đáp lại các tín hiệu của thị trường, đảm nhận chức năng đó.
Cấu trúc quản lý truyền thống ở Mỹ dựa trên một chuỗi mệnh lệnh từ
trên xuống; quyền lực bắt đầu từ ban lãnh đạo tối cao, những người bảo

đảm cho hoạt động kinh doanh được thông suốt và hiệu quả, xuống tới
các cấp quản lý thấp hơn khác nhau chịu trách nhiệm điều phối các bộ
phận của doanh nghiệp, cho đến người quản đốc tại phân xưởng. Rất
nhiều nhiệm vụ lại được phân công cho các bộ phận khác nhau và người
lao động. Ở nước Mỹ vào đầu thế kỷ XX, tính chuyên môn hóa này, hay
sự phân công lao động, được coi là phản ánh cách “quản lý khoa học”
dựa trên phân tích hệ thống.
Rất nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục vận hành với cấu trúc truyền thống,
nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp khác đã thay đổi quan điểm quản lý.
Đối mặt với tình trạng cạnh tranh gia tăng trên toàn cầu, các doanh
nghiệp Mỹ đang tìm kiếm những cấu trúc tổ chức linh hoạt hơn, đặc biệt
trong các ngành công nghiệp công nghệ cao đòi hỏi tuyển dụng những
lao động tinh xảo và phải phát triển, cải tiến sản phẩm và thậm chí đáp
ứng thị hiếu khách hàng một cách nhanh chóng. Việc phân cấp và phân
công lao động quá mức
ngày càng bị coi là ngăn cản sự sáng tạo. Do vậy, nhiều công ty đã “san
phẳng” cấu trúc tổ chức của họ, giảm số lượng các nhà quản lý và trao
quyền nhiều hơn cho các nhóm công nhân thuộc nhiều lĩnh vực.
2: Một nền kinh tế hỗn hợp.
Nước Mỹ được coi là có một nền kinh tế hỗn hợp, bởi vì cả doanh
nghiệp sở hữu tư nhân và chính phủ đều đóng những vai trò quan trọng.
Quả thực, một số trong những cuộc tranh luận kéo dài nhất của lịch sử
kinh tế Mỹ tập trung vào vai trò tương đối của các khu vực nhà nước và
tư nhân.
Hệ thống doanh nghiệp tự do của Mỹ nhấn mạnh đến sở hữu tư nhân.
Các doanh nghiệp tư nhân tạo ra phần lớn hàng hóa và dịch vụ, và gần
hai phần ba tổng sản lượng kinh tế của quốc gia là dành cho tiêu dùng cá


nhân (một phần ba còn lại được mua bởi chính phủ và doanh nghiệp).

Trên thực tế, vai trò của người tiêu dùng lớn đến mức quốc gia này thỉnh
thoảng được mô tả là có một “nền kinh tế tiêu dùng”. Sự nhấn mạnh này
đối với sở hữu tư nhân xuất phát một phần từ niềm tin của người Mỹ về
tự do cá nhân. Ngay từ thời lập quốc, người Mỹ đã lo sợ quyền lực quá
mức của chính phủ, và họ luôn tìm cách hạn chế uy quyền của chính phủ
đối với cá nhân - bao gồm cả vai trò của chính phủ trong lĩnh vực kinh
tế. Hơn nữa, người Mỹ nhìn chung đều
tin rằng một nền kinh tế được đặc trưng bởi sở hữu tư nhân dường như
hoạt động hiệu quả hơn so với nền kinh tế đặc trưng bởi sở hữu nhà
nước.
Tuy vậy, doanh nghiệp tự do cũng có những hạn chế. Người Mỹ luôn tin
rằng một số dịch vụ do nhà nước đảm nhận sẽ tốt hơn các doanh nghiệp
tư nhân. Chẳng hạn, Chính phủ Mỹ chịu trách nhiệm chủ yếu đối với các
hoạt động về tư pháp, giáo dục (mặc dù có rất nhiều trường học và trung
tâm đào tạo tư nhân), hệ thống đường giao thông, báo cáo thống kê xã
hội và an ninh quốc phòng. Hơn nữa, chính phủ cũng thường được yêu
cầu can thiệp vào nền kinh tế để điều chỉnh những tình huống mà ở đó
hệ thống giá cả không hoạt động. Ví dụ, chính phủ điều tiết các nhà “độc
quyền tự nhiên”, và sử dụng luật
chống độc quyền để kiểm soát hoặc ngăn chặn các tổ hợp kinh doanh trở
nên quá mạnh đến mức chúng có thể chế ngự các lực lượng thị trường.
Chính phủ cũng giải quyết những vấn đề nằm ngoài phạm vi của các lực
lượng thị trường. Nó cung cấp phúc lợi và trợ cấp thất nghiệp cho những
người không có khả năng tự trang trải, do họ gặp rủi ro trong cuộc sống
cá nhân hoặc bị mất việc làm bởi biến động kinh tế đột ngột; nó thanh
toán hầu hết chi phí chăm sóc y tế cho người già và những người sống
trong cảnh nghèo nàn; chính phủ điều tiết ngành công nghiệp tư nhân
nhằm hạn chế sự ô nhiễm không khí và nước; nó cung cấp các khoản
vay với lãi suất thấp cho những người bị thiệt hại do thiên tai; và nó
đóng vai trò đầu tàu trong việc khám phá vũ trụ, một ngành có chi phí

quá cao đối với bất kỳ doanh nghiệp tư nhân nào.


Nền kinh tế hỗn hợp này chính là sự thể hiện rõ nhất nguyên tắc cơ bản
trong
các hoạt động kinh tế của Mỹ:
- Thứ nhất, và là điều quan trọng nhất, nước Mỹ vẫn duy trì một “nền
kinh tế thị trường”. Người Mỹ tiếp tục cho rằng một nền kinh tế nhìn
chung vận hành tốt nhất khi các quyết định về sản xuất cái gì và định giá
hàng hóa như thế nào được hình thành thông qua hoạt động trao đổi qua
lại của hàng triệu người mua và người bán độc lập, chứ không phải bởi
chính phủ hay những lợi ích cá nhân có thế lực nào. Người Mỹ tin rằng
trong một hệ thống thị trường tự do, giá cả gần như phản ánh giá trị thật
sự của đồ vật, và bởi
vậy nó có thể là chỉ dẫn tối ưu cho nền kinh tế nên sản xuất cái gì cần
thiết nhất.
- Tuy nhiên, niềm tin của người Mỹ vào “doanh nghiệp tự do” không
loại bỏ vai trò quan trọng của chính phủ. Đôi khi người Mỹ vẫn trông
cậy vào chính phủ để ngăn chặn hoặc điều tiết các công ty xuất hiện
khuynh hướng phát triển quá nhiều quyền lực đến mức không tuân theo
các lực lượng thị trường. Họ dựa vào chính phủ để giải quyết những vấn
đề mà kinh tế tư nhân bỏ qua, từ giáo dục cho đến bảo vệ môi trường.
Và mặc dù ủng hộ tích cực các nguyên lý thị trường, nhưng thỉnh thoảng
họ vẫn sử dụng chính phủ để nuôi dưỡng các ngành công nghiệp mới, và
thậm chí để bảo vệ các công ty Mỹ trong cạnh tranh.
3: Nền kinh tế thương mại điện tử.
Nói đến Mỹ có lẽ không thể không nói đến thương mại điện tử. Các giao
dịch thương mại trên mạng đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Đây là
cơ hội nhưng cũng là thách thức cho tất cả các doanh nghiệp và các quốc
gia. Ở Mỹ hiện nay có thể mua hầu hết mọi thứ trên mạng từ sách vở,

DVD, quần áo, thức ăn, máy vi tính và phụ kiện, các tiện nghi trong gia
đình (bàn ghế) đến vé máy bay, mua tour du lịch, đặt phòng khách sạn,
thuê xe hơi, rồi đến tra bản đồ để tìm đường đi đến địa chỉ cần thiết, các
thông tin về tình hình giao thông (kẹt xe) trên các xa lộ. Tất cả đều trên


mạng. Thời gian đầu khách hàng đều rất ngại mua hàng trên mạng vì
những lý do an toàn thông tin và cảm giác không yên tâm khi đối diện
với các nhà cung cấp “ảo”. Nhưng càng sử dụng họ càng thấy hệ thống
rất ổn định và đáng tin cậy. Thông thường mua hàng trên mạng giá rẻ
hơn và đây là một thị trường trong suốt về giá. Nghĩa là khi mua một sản
phẩm khách hàng trên mạng thường tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau và nguồn nào cho giá rẻ nhất với dịch vụ tốt nhất thì mua.
Trong những cái tên lớn, phải kể đến Amazon.com, không chỉ là nhà
cung cấp rất nhiều chủng loại sản phẩm trên mạng, Amazon còn là một
thị trường tập hợp các nhà cung cấp khác nhau, ai muốn bán sản phẩm
thì đăng ký với Amazon và sẽ được đăng trên mạng này. Khi bán được
sản phẩm nhà cung cấp trích phí cho Amazon. Để đảm bảo chất lượng
cung ứng, sau khi hoàn tất một giao dịch, khách hàng được yêu cầu đánh
giá chất lượng nhà cung cấp và đây là một thông số quan trọng để các
khách hàng chọn nhà cung cấp. Mặt khác, với các giao dịch giá trị lớn
khách hàng được khuyến cáo mua bảo hiểm để tránh rủi ro. Một cái tên
lớn khác – E-bay.com lại là một thị trường bán đấu giá, bán đủ thứ trên
trời dưới đất. Sản phẩm và giá cả rất đa dạng và phản ứng rất theo cung
cầu của thị trường. Cần thấy rằng khi các giao dịch trên mạng phát triển
thì hàng loạt các ngành dịch vụ liên đới như vận chuyển, bưu chính, tính
dụng – ngân hàng, bảo hiểm cũng phát triển theo.
4: Nhận định cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Mỹ là một thị trường mở rộng lớn nhiều tiềm năng cho việc tiêu thụ sản
phẩm với mức giá cả cao cho tất cả các doanh nghiệp muốn tham gia

vào nó, đây là một cơ hội lớn, doanh nghiệp nào cũng muốn nắm bắt.
Nhưng cũng chính vì vậy, đây cũng là thách thức lớn với các doanh
nghiệp Việt khi hoạt động trong một thị trường tự do canh tranh đầy
khốc liệt này, vốn dĩ đã có rất nhiều nhà cung cấp, đa dạng các chủng
loại hàng hóa cung cấp. Vậy nên, cái khó là chúng ta lựa chọn, DN Việt
sẽ bán gì và như thế nào?
Việt Nam có thế mạnh về các mặt hàng truyền thống, các mặt hàng thủy
hải sản tươi sống ngon, giá rẻ và thực tế khách hàng nước ngoài trong đó


có Mỹ rất ưa chuộng mặt hàng mây tre đan cũng như hoa quả, thủy hải
sản của ta. Đây là một hướng đi cho các doanh nghiệp trong nước.
Nhưng trong tương lai, Việt Nam cần tìm hiểu nhiều hơn về thị trường
Mỹ để biết được họ vẫn đang thiếu gì, và ta đang có những lợi thế tương
đối gì để khai thác triệt để. Một cách thức xâm nhập thị trường Mỹ mà
các DN Việt có thể ứng dụng chính là E-Marketing ( Marketing điện tử )
trong một xã hội người dân đã chấp nhận và sử dụng rộng rãi cách thức
giao dịch mua hàng qua mạng. Chúng ta có thể nghĩ đến các cơ hội xâm
nhập thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc
tham gia là nhà cung cấp trên Amazon, hay E-bay. Đây là một con
đường Marketing phù hợp đối với doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia
vào nền kinh tế thương mại điện tử như Mỹ. Có nhiều vấn đề, thách thức
cần giải quyết như vận chuyển quốc tế, thông quan, ngôn ngữ, độ am
hiểu các thủ tục và kỹ thuật giao dịch, giá Tất nhiên là khó nhưng đây là
cơ hội, mà có lẽ sẽ là cơ hội rất quan trọng trong tương lai gần để Việt
Nam có thể tiến bước vào thị trường Mỹ, để hàng Việt Nam được tiếp
nhận và biết đến nhanh hơn với người dân Mỹ, ngoài con đường giao
dịch thương mại truyền thống, vốn dĩ bị chính phủ Mỹ hay gây khó khăn
đối với Việt Nam. Mỹ là một nền kinh tế tự do theo định nghĩa cho các
doanh nghiệp nhưng thực tế là một thị trường “khó chơi” và chơi theo

luật “cá lớn nuốt cá bé”. Và đầy là thách thức rất lớn đối với các doanh
nghiệp Việt Nam – chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ. Điển hình là vụ cá
tra cá basa Việt Nam bị kiện bán phá giá. Ngày 17/6/2003 đã thông báo
quyết định cuối cùng về vụ kiện cá tra, cá basa . Theo đó, DOC cho
rằng, DN Việt Nam đã bán phá giá sản phẩm cá tra, cá basa đông lạnh
vào thị trường này. Sản phẩm trên sẽ phải chịu thuế chống bán phá giá
44,66- 63,88%. Đây là mức thuế bất hợp lý, bất bình đẳng trong xu thế
giao dịch thương mại toàn cầu đang được tuân theo các chế tài của
WTO.
Theo thông tin thu thập được , ngày 6/8, Hiệp hội Chế biến và Xuất
khẩu Thủy sản Việt NamnVASEP cho biết thêm, ngày 5/8, Bộ Nông
nghiệp Mỹ (USDA) đã chính thức công bố khoản trợ cấp 34 triệu USD


của Chính phủ Mỹ hỗ trợ cho các chủ trại cá nheo Mỹ về các thiệt hại do
"thời tiết không thuận và thiên tai" trong các năm 2001-2002. Như vậy,
một mặt trong đơn kiện nộp cho Bộ Thương mại Mỹ (DOC) và Ủy ban
Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ
(CFA) cố tình che giấu thực tế,
đưa ra các bằng chứng giả, đổ tội cho các doanh nghiệp Việt Nam bán
phá giá filet đông lạnh cá tra, cá basa, gây thiệt hại vật chất cho ngành
nuôi cá nheo Mỹ, để các cơ quan này kết luận sai, áp thuế chống bán phá
giá trừng phạt Việt Nam. Mặt khác, CFA lại chứng minh với USDA rằng
thiệt hại của họ là do thiên tai để xin được hưởng tiền trợ cấp của Chính
phủ Mỹ. VASEP cho rằng việc xử lý của các cơ quan chính quyền Mỹ
cũng tỏ ra không thống nhất, thiếu phối hợp, mang nặng tính bảo hộ sản
xuất trong nước, trái với
tinh thần tự do thương mại và cạnh tranh bình đẳng.
Nhìn rộng ra, mức thuế cao trên không chỉ đe doạ trực tiếp đến người
nuôi cá tra, basa, mà các DN đang xuất mặt hàng này có nguy cơ mất thị

trường Mỹ, nơi vẫn tiêu thụ gần 50% lượng cá tra, basa của Việt Nam.
Việt Nam làm gì để vừa bảo vệ lợi ích của các nhà nuôi catfish Mỹ mà
vẫn đưa được cá basa sang thị trường này?
Và qua đây, chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam có thêm những bài
học về kinh nghiệm khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu. Một thị
trường rộng mở nhưng đầy khó khăn thách thức, không phải cứ mặt
hàng xuất khẩu của ta ngon, rẻ đã là một lợi thế. Sau sự kiện này, chính
phủ Việt Nam, đặc biệt các tham tá thương mại Việt Nam nên cung cấp
cho các doanh nghiệp Việt nhiều thông tin hơn về thị trường quốc tế
cũng như những pháp định của kinh tế nước ngoài, bên cạnh đó có
những chính sách hỗ trợ bảo trợ giúp đỡ các doanh nghiệp Việt xuât
khẩu, để trong những tình huống bất ngờ như vụ kiện cá basa, chúng ta
có thể ứng phó kip thời. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt nói chung cần
có sự kết hợp chặt chẽ với các vùng cung cấp nguyên nhiên liệu để đảm
bảo quy trình quản lý tốt, đảm bảo chất lượng và bảo vệ lợi ích người
nuôi trồng.


II: Phân tích tiến trình phát triển của nền kinh tế Mỹ thông qua GDP, tỷ
lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp.
1: Cái nhìn toàn cảnh sự phát triển của kinh tế Mỹ từ năm 1947 đến
2010.
1.1: Đánh giá chung tiến trình phát triển nền kinh tế Mỹ gần 100 năm
qua.
Trong suốt quá trình phát triển của mình trăm năm qua , Nền kinh tế Mỹ
biến đổi theo những cách thức khác nhau. Dân số và lực lượng lao động
dịch chuyển mạnh từ các trang trại ra thành phố, từ các cánh đồng vào
nhà máy, và trên hết là vào các ngành công nghiệp dịch vụ. Trong nền
kinh tế ngày nay, số lượng các nhà cung cấp dịch vụ công cộng và cá
nhân đông hơn rất nhiều so với số người sản xuất hàng hóa công nghiệp

và nông nghiệp. Do nền kinh tế ngày càng phát triển phức tạp hơn, các
số liệu thống kê cũng
cho thấy một xu thế mang tính dài hạn rõ nét trong thế kỷ qua là chuyển
từ tự hoạt động kinh doanh sang làm việc cho những người khác.
Từ một nước nông nghiệp, nước Mỹ ngày nay được đô thị hóa hơn rất
nhiều so với cách đây 100 năm, thậm chí chỉ 50 năm. Dịch vụ ngày càng
trở nên quan trọng so với ngành công nghiệp truyền thống. Trong một số
ngành công nghiệp, sản xuất hàng loạt đã nhường chỗ cho sản xuất theo
phương thức chuyên môn hóa chú trọng đến tính đa dạng của sản phẩm
và thị hiếu thay đổi của khách hàng
Nước Mỹ bước vào thế kỷ XXI với một nền kinh tế lớn hơn bao giờ hết
và cùng với nhiều số liệu đánh giá là thành công chưa từng có. Nó
không những phải kinh qua hai cuộc chiến tranh thế giới và sự suy thoái
toàn cầu trong nửa đầu thế kỷ XX, mà còn phải vượt qua những thách
thức từ cuộc Chiến tranh Lạnh trong 40 năm với Liên Xô cho đến những
đợt lạm phát sâu sắc, thất nghiệp cao, và thâm hụt ngân sách nặng nề của
chính phủ trong nửa cuối thế kỷ XX. Nước Mỹ cuối cùng đã có được
một giai đoạn ổn định kinh tế vào những năm 1990: giá cả ổn định, thất
nghiệp giảm xuống mức thấp nhất trong vòng gần 30 năm qua, chính


phủ công bố thặng dư ngân sách, và thị trường chứng khoán tăng vọt
chưa từng thấy.
Năm 1998, tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ - gồm toàn bộ sản lượng
hàng hóa và dịch vụ trong nước - đạt trên 8,5 nghìn tỷ USD. Mặc dù
chiếm chưa đến 5% dân số thế giới, nhưng nước Mỹ lại chiếm tới hơn
25% sản lượng kinh tế toàn thế giới. Nhật Bản, nước có nền kinh tế
đứng thứ hai thế giới, cũng chỉ tạo ra gần một nửa sản lượng trên.
Trong khi nền kinh tế Nhật Bản và nhiều nền kinh tế khác vật lộn với
tăng trưởng chậm và các vấn đề khác vào những năm 1990 thì nền kinh

tế Mỹ lại có được thời kỳ phát triển liên tục và kéo dài nhất trong lịch sử
của mình.
Nhưng, Nền kinh tế này cũng phải đối mặt với những thách thức đang
diễn ra liên tục trong dài hạn. Mặc dù nhiều người Mỹ có sự bảo đảm về
kinh tế và một số người tích lũy được rất nhiều của cải, nhưng còn một
số lượng đáng kể - đặc biệt là các bà mẹ không chồng cùng con cái họ tiếp tục sống trong cảnh nghèo khó. Chênh lệch về của cải, tuy không
cao như một số nước khác, nhưng cũng lớn hơn so với rất nhiều nước.
Sự hội nhập kinh tế toàn cầu mang đến những bất ổn nhất định bên cạnh
các lợi thế. Đặc biệt, các ngành công nghiệp chế tạo truyền thống sa sút,
quốc gia bị thâm hụt thương mại lớn và dường như không thể đảo ngược
được trong buôn bán với các nước khác.
1.2: Phân tích tình hình nền kinh tế Mỹ qua những con số.
Những số liệu chỉ giúp đánh giá tình trạng lành mạnh của nền kinh tế,
nhưng chúng không đo được hết mọi phương diện của phúc lợi quốc gia.
GDP cho biết giá trị thị trường của hàng hóa và dịch vụ mà một nền kinh
tế tạo ra, nhưng nó không đo được chất lượng cuộc sống của một quốc
gia và một vài biến số quan trọng - ví dụ như sự bình an và hạnh phúc cá
nhân, hoặc môi trường trong sạch hay sức khỏe tốt - hoàn toàn nằm
ngoài phạm vi của nó.
-Tốc độ tăng trưởng Hoa Kỳ GDP:
Các Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở Hoa Kỳ mở rộng 3,2 phần trăm


trong quý IV năm 2010 so với quý trước đó. Từ năm 1947 đến năm 2010
trung bình của Hoa Kỳ tăng trưởng GDP hàng quý đã được 3,30 phần
trăm đạt mức cao lịch sử 17,20 phần trăm trong tháng ba năm 1950 và
kỷ lục ở mức thấp -10,40 phần trăm trong tháng ba năm 1958. Nền kinh
tế của Hoa Kỳ là lớn nhất trên thế giới. Hoa Kỳ là một nền kinh tế thị
trường theo định hướng mà các cá nhân và công ty kinh doanh làm cho
hầu hết các quyết định của chính phủ liên bang và tiểu bang cần thiết

mua hàng hoá và dịch vụ chủ yếu trong thị trường tư nhân.
-Tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ.
Tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ theo báo cáo trong tháng Giêng năm 2011
đạt 9 %. Từ năm 1948 đến năm 2010 Tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ trung
bình là 5,70 % đạt mức cao lịch sử 10,80 % trong tháng mười năm 1982
và ghi lại mức thấp 2,50 % trong tháng Năm của năm 1953. Các lực
lượng lao động được định nghĩa là số lượng người làm việc cộng với
việc số người thất nghiệp nhưng đang tìm kiếm. Các lực lượng không
thuộc lực lượng lao động bao gồm những người không tìm kiếm việc
làm, những người được thể chế hoá và những người phục vụ trong quân
đội.
-Ngoài tỷ lệ thất nghiệp, ta đề cập thêm Tỷ lệ người sống dưới mức
nghèo để hiểu thêm về chất lượng cuộc sống của người dân Mỹ. Tỷ lệ
này giảm từ 22,4% năm 1959 xuống còn 11,4% năm 1978. Từ đó đến
nay nó dao động trong phạm vi tương đối hẹp. Năm 1998, nó ở mức
12,7%. Nhưng thực tế các số liệu tổng quan còn che giấu tình trạng
nghèo đói nghiêm trọng hơn rất nhiều. Năm 1998, hơn một phần tư số
người Mỹ gốc Phi (26,1%) sống trong nghèo đói; mặc dù cao một cách
đáng lo ngại, nhưng số liệu này đã cho thấy một bước cải thiện từ năm
1979, khi có tới 31% người da đen chính thức được coi là nghèo, và đây
là tỷ lệ nghèo đói thấp nhất của nhóm người này kể từ năm 1959. Các
gia đình do các bà mẹ độc thân làm chủ hộ đặc biệt dễ lâm vào cảnh
nghèo túng. Một phần do hiện tượng này mà năm 1997, gần một phần


năm trẻ em (18,9%) thuộc diện nghèo. Tỷ lệ nghèo của trẻ em Mỹ gốc
Phi là 36,7%, của trẻ em gốc Tây Ban Nha là 34,4%.
-Dù trong trường hợp nào, một điều rất rõ rang ta nhận ra là thực tế hệ
thống kinh tế của Mỹ không phân phối công bằng của cải làm ra. Theo
Viện chính sách kinh tế, một tổ chức nghiên cứu có trụ sở tại

Washington, năm 1997, một phần năm số gia đình Mỹ giàu nhất chiếm
tới 47,2% thu nhập quốc dân. Ngược lại, một phần năm số gia đình
nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập quốc dân, và 40% dân số nghèo
nhất chỉ chiếm 14%
thu nhập quốc dân.
-Mặc dù nền kinh tế Mỹ nhìn chung là thịnh vượng, nhưng những lo
lắng về tình trạng bất bình đẳng vẫn tiếp tục kéo dài. Cạnh tranh toàn
cầu tăng lên đe dọa các công nhân trong nhiều ngành sản xuất công
nghiệp truyền thống, và đồng lương của họ bị o ép.
Cùng lúc đó, chính phủ liên bang lại nới lỏng các chính sách thuế, những
chính sách tìm cách hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp bằng chi phí
của các gia đình giàu, và nó cũng cắt giảm chi tiêu cho nhiều chương
trình xã hội trong nước trợ giúp người có hoàn cảnh khó khăn.
2: Nền kinh tế Mỹ năm 2010, và những tháng đầu năm 2011.
-Theo NBER - Cục Nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ (NBER), một tổ
chức phi lợi luận của các nhà kinh tế hàng đầu đến từ các hãng nghiên
cứu, trường đại học và một số cơ quan khác. Cơ quan này luôn chịu
trách nhiệm tính ngày bắt đầu và kết thúc của mỗi cuộc suy thoái kinh
tế, chính thức công bố kinh tế Mỹ bước vào suy thoái kể từ tháng
12/2007 đến tháng 6/2009 đã chấm dứt. Theo một số ý kiến kết luận
rằng từ đó đến nay mọi chuyện đã cải thiện và rằng nền kinh tế đã tăng
trưởng lại ở tốc độ bình thường, nếu kinh tế Mỹ trong tương lai có đi
xuống sẽ là một đợt suy thoái mới chứ không phải tiếp diễn suy thoái đã
bắt đầu vào tháng 12/2007.


-Nhưng có một số ý kiến khác, như Ông Robert Hall, giáo sư kinh tế đại
học
Stnadford kiêm chuyên gia cao cấp tại NBER, cho rằng: “Kinh tế Mỹ
vẫn đang tăng trưởng, nhưng ở tốc độ thấp đáng thất vọng. Hiện còn quá

sớm để tính toán toàn bộ thiệt hại liên quan đến thời kỳ kinh tế đi xuống
vừa qua bởi chúng ta chưa thoát ra khỏi những ảnh hưởng xấu. Rõ ràng,
kinh tế trong khoảng thời gian trên đi xuống chưa từng có tính từ Đại
Khủng hoảng 1930.”
Ông Bruce Kasman, chuyên gia kinh tế trưởng tại JP Morgan Chase,
nhận xét: “Kinh tế Mỹ vẫn phục hồi mong manh và rủi ro đối với kinh tế
toàn cầu không nhỏ. Chúng ta thấy kinh tế vẫn đang tăng trưởng nhưng
rất yếu. Sau 1 năm nữa, tỷ lệ thất nghiệp vẫn sẽ không mấy thay đổi so
với hiện nay.”
Ông Kasman dự báo khả năng kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái lần 2 là
khoảng 25%.
-Nói chung, nền kinh tế Mỹ sau suy thoái kinh tế bắt đầu từ năm 2007 đã
bước đầu ổn định, dù tốc độ hồi phục chậm.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ trong quý thứ 4 năm 2010, theo Cục
Phân tích kinh tế: tổng sản phẩm quốc nội thức tế tăng ở mức hàng năm
là 3,2% trong quý 4 năm 2010, (có nghĩa là, từ quý III đến quý IV), theo
"trước" dự toán phát hành của Cục phân tích kinh tế. Trong quý 3, GDP
thực tăng 2,6%.
Việc tăng GDP thực tế trong quý 4 chủ yếu phản ánh đóng góp tích cực
từ các khoản chi tiêu dùng cá nhân (PCE), xuất khẩu; phản ánh sự suy
giảm mạnh nhập khẩu, tăng tốc trong PCE, và xu hướng tăng một trong
các khoản đầu tư cố định ở phần được bù đắp bởi suy giảm trong đầu tư
tư nhân và chi tiêu chính phủ liên bang và giảm tốc độ một trong các đầu
tư cố định nơi ít dân cư sinh sống. Trước đó, Theo Bộ Thương mại Mỹ,
tăng trưởng kinh tế Mỹ quý 2/2010 chỉ còn 1,6% từ mức 3,7% của quý
1/2010 và 5% trong quý 4/2009. Kinh tế Mỹ đã hồi phục được 70% so
với mức trước khủng hoảng.
Lakshman Achuthan, giám đốc điều hành tại Viện nghiên cứu chu kỳ



kinh tế (ECRI) và là chuyên gia về suy thoái kinh tế, nhận xét kinh tế
Mỹ hiện đã hồi phục được 70% so với trước khủng hoảng.
Tuy nhiên ông cũng thừa nhận đà phục hồi lần này không giống những
lần phục hồi trước đây. Hiện kinh tế Mỹ mới chỉ lấy lại được 9% số
lượng việc làm đã mất trong thời kỳ suy thoái kinh tế.
Khả năng kinh tế rơi vào suy thoái lần 2 khá hiếm. Lần gần nhất kinh tế
Mỹ suy thoái lần 2 là vào năm 1981 – 1982 sau khi kinh tế suy thoái vào
năm 1980. Chỉ số giá cho việc mua bán chung trong nước tăng 2,1%
trong quý thứ tư, so với mức tăng từ 0,7% trong quý ba. Chi tiêu dùng cá
nhân tăng 4,4% trong quý thứ tư, so với mức tăng 2,4 % trong quý ba.
Dù Lạm phát Mỹ tăng 1,5% trong tháng mười hai, năm 2010, nhưng Tỷ
lệ thất nghiệp vẫn đã giảm 0,4 % trong tháng mười hai, và việc làm phi
nông nghiệp tăng lương 103.000 (Cục Thống kê Lao động Mỹ báo cáo).
Việc làm tăng trong giải trí và khách sạn và trong chăm sóc sức khỏe,
nhưng rất ít thay đổi trong ngành công nghiệp lớn khác. Cũng tình trạng
tương tự cuối năm 2010, Theo tính toán của Cục thống kê Lao động của
Mỹ, Lạm phát Mỹ tăng 1,6% trong tháng Giêng, năm 2011, nhưng Tỷ lệ
thất nghiệp Mỹ giảm đến 9% trong tháng Giêng 2011.
3: Mỹ và những cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử.
Dù là cường quốc kinh tế số một hiện nay trên thế giới, nhưng nền kinh
tế Mỹ cũng đã phải trải qua những cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch
sử nước Mỹ. Cường quốc kinh tế số một thế giới không lạ lẫm với cụm
từ suy thoái vì từ sau thế chiến thứ nhất tới nay, đã 8 lần người dân nước
này sống trong tình cảnh này. So sánh những lần kinh tế Mỹ suy thoái
tính từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai
3.1: Suy thoái kinh tế Mỹ bắt đầu vào tháng 12/2007 và kết thúc vào
tháng
6/2009, kéo dài 18 tháng. Suy thoái kinh tế Mỹ tồi tệ nhất trong 70 năm,
bắt đầu từ tháng 12/2007 đã kết thúc vào tháng 6/2009. Từ quý 4/2007
cho đến quý 2/2009, kinh tế Mỹ tăng trưởng âm 4,1%, mức đi xuống tồi

tệ nhất tính từ thập niên 1930. Chi tiêu của các hộ gia đình trong năm


2009 giảm 1,2% và như vậy có mức giảm sâu nhất tính từ năm 1942.
Năm 2007, đánh dấu bởi sự sụp đổ của hoạt động cho vay thế chấp dưới
chuẩn trên thị trường nhà đất, sự đi xuống của thị trường tài chính, suy
thoái kinh tế Mỹ lần vừa qua kéo dài 18 tháng, dài hơn thời kỳ kinh tế
Mỹ đi xuống sau thời kỳ Đại Khủng hoảng 1929
– 1933. Hơn 8 triệu người Mỹ đã mất việc trong thời gian 18 tháng kinh
tế Mỹ suy thoái vừa qua, hậu quả sẽ mất nhiều năm mới có thể khắc
phục được.
Nước Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới vì vậy sự suy sụp của nó dẫn
đến sự suy thoái nền kinh tế cả thế giới. Và đến nay thế giới vẫn đang
gồng mình để tìm lại những con số tăng trưởng GDP cao như trước đây
và hơn thế.
Nền kinh tế suy thoái, chi tiêu người dân thắt chặt, họ thực dụng hơn
trong mua hàng – chính là bất lợi lớn đối với tất cả các doanh nghiệp
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, rất nhiều doanh nghiệp
đã và đang phá sản, và khó khăn này các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu vào thị trường Mỹ cũng phải gánh chịu nặng nề.
3.2: Suy thoái đầu năm 2000
Được châm ngòi bởi sự đổ vỡ của "khủng hoảng chấm com", vụ tấn
công khủng bố 11/9, và scandal kiểm toán, cuộc suy thoái kinh tế tại Mỹ
trong 3 năm từ 2001 tới 2003 không chỉ ảnh hưởng lớn đến kinh tế Mỹ,
mà còn tới nhiều quốc gia châu Âu. Mọi chuyện được châm ngòi bởi sự
đổ vỡ hàng loạt của các công ty trong cuộc "khủng hoảng chấm com",
tạo ra một làn sóng phá sản của các công ty công nghệ và tin học. Kinh
tế Mỹ tiếp tục bị giáng mộtđòn mạnh khi vụ khủng bố 11/9/2001 nổ ra,
từ đó khiến chỉ số công nghiệp Dow Jones và các chỉ báo chính của thị
trường chứng khoán trải qua

tuần tồi tệ nhất trong lích sử.
3.3: Suy thoái cuối thập kỷ 90
Ngày thứ hai đen tối, tháng 9/1987, đà sụt giảm chưa từng có 22,6% trên
chỉ số Dow Jones là phát súng báo hiệu thời kỳ suy thoái tồi tệ nước Mỹ.


Chỉ trong ba năm, sự sụp đổ của thị trường tín dụng, và cho vay đã đe
dọa tiền tiết kiệm của hàng triệu người dân. Một loạt cường quốc chịu
nhiều ảnh hưởng của Mỹ như Canada, Australia, Nhật, hay Anh cũng bị
cuốn theo vòng xoáy suy thoái. Dù thị trường chứng khoán hồi phục khá
nhanh nhưng thị trường bất động sản, lao động, giá năng lượng, cán cân
thương mại và GDP của Mỹ và một số quốc gia khác vẫn đi xuống cho
tới 2 năm sau khủng hoảng.
3.4: Suy thoái đầu những năm 1980
Cuộc cách mạng tại Iran đã đẩy giá dầu thế giới tăng với tốc độ chóng
mặt trong thập niêm 70. Đây chính là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kéo
dàn 30 tháng tại Mỹ và được coi là lần suy thoái tồi tệ nhất kể từ đại
khủng hoảng 1930. Giá năng lượng đi lên kéo theo lạm phát gia tăng, đạt
đỉnh 13,5% trong năm 1980, đã buộc Cục Dự trữ Liên bang
(FED) phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.
Không chỉ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng một cách đáng lo ngại
với từ mức 5,6% của tháng 5/1979 lên 7,5% một năm sau đó. Bất kể
kinh tế bắt đầu hồi phục trong năm 1981, tỷ lệ thất nghiệp vẫn được duy
trì ở mức cao kỷ lục 7,5% và đạt mức lịch sử 10,8% trong năm 1982.
Hậu quả của suy thoái lên ngành công nghiệp xe hơi, nhà đất, và sản
xuất thép tồi tệ đến nỗi các ngành trên liên tục sụt giảm trong 10 năm
sau, cho tới tận khi cuộc khủng hoảng tiếp theo kết thúc.
3.5: Khủng hoảng dầu mỏ những năm 1973
Bắt đầu vào ngày 15/9/1975, khủng hoảng dầu mỏ là hậu quả của việc
các thành viên OAPEC, gồm tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC và hai

nước Ai Cập và Syria, thực hiện cấm vận dầu mỏ với Mỹ và các quốc
gia ủng hộ Israel trong cuộc chiến với Ai Cập và Syria. Trước đó vào
năm 1971, việc Mỹ rút khỏi Chế độ tiền tệ Bretton Woods, hệ thống quy
định chung giữa các cường quốc, trong đó giá vàng chỉ được neo giữ
duy nhất vào đôla với giá 35 đôla một ounce, và tiến hành thả nổi đồng
đôla là tiền đề cho cuộc khủng
hoảng. Lý do là hệ thống Bretton Woods đã giới hạn hoạt động chi tiêu


của Mỹ và thế giới do lượng vàng của là có hạn trong khi nhu cầu sử
dụng tiền lại lớn hơn rất nhiều. Việc Mỹ in tiền phục vụ cho việc tài trợ
cho Chiến tranh Việt Nam hoặc viện trợ cho các nước khác đã khiến
đôla mất giá, và tăng lạm phát. Hậu quả của việc cấm vận dầu lửa là giá
dầu tại thị trường thế giới đã bị đội lên gấp 5 lần từ dưới 20 đôla một
thùng vào 1971 lên 100 đôla một thùng vào 1979, giá xăng trung bình tại
Mỹ cũng tăng 86% chỉ trong 1 năm từ 1973-1974. Cuộc khủng hoảng
đồng thời
tác động xấu đến thị trường tài chính, chứng khoán toàn cầu, vốn đã chịu
nhiều áp lực sau sự sụp đổ của Chế độ Bretton Woods. Thị trường chứng
khoán Mỹ bốc hơi 97 tỷ đôla, số tiền khổng lồ vào thời điểm đó, chỉ sau
một tháng rưỡi. Suy thoái và làm phát diễn ra tràn lan gây ảnh hưởng tới
kinh tế Mỹ và nhiều quốc gia khác cho tới tận thập niên 80.
3.6: Suy thoái năm 1958
Trong 2 năm trước khi khủng hoảng diễn ra, chính sách thắt chặt tiền tệ
và cắt giảm đầu tư tại Mỹ khiến tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Tại Detroit,
trái tim của ngành công nghiệp xe hơi, tỷ lệ thất nghiệp đạt mức 20%
trong tháng 4/1958 . Doanh số bán xe giảm tới 31% trong năm 1957, và
biến năm 1958 thành năm tồi tệ nhất cho các nhà sản xuất xe kể từ sau
kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần II. Nhu cầu nhập khẩu tại Mỹ vẫn cao
trong khi châu Âu lại giảm nhập khẩu từ Mỹ khiến thâm hụt thương mại

leo thang. Tệ hơn nữa, thay vì mặt bằng giá giảm, điều thường xảy ra khi
suy thoái, giá cả trong giai đoạn 1957 đến 1959 lại leo thang. Thực tại
trên đã gây không ít hoang mang cho các nhà kinh tế trong quãng thời
gian này.
3.7: Suy thoái năm 1953
Dù chỉ kéo dài trong 10 tháng, bắt đầu từ quý II /1953 tới quý I/1954,
cuộc suy thoái năm 1953 vẫn gây thiệt hại ước tính lên tới 56 tỷ đôla cho
nước Mỹ. Nguyên nhân suy thoái bắt đầu từ một số biến động chính trị,
kinh tế những năm đầu thập niên 50. Trong đó, lạm phát leo thang bắt
đầu từ 1951, sau chiến tranh Triều Tiên, khiến lãnh đạo FED dự đoán


năm 1952 lạm phát sẽ còn cao hơn. Trước tình hình đó, FED đã áp dụng
chính sách tài khóa thắt chặt, thể hiện ở việc cắt giảm chi tiêu Chính
phủ, tăng thuế, lãi suất, và tích lũy dự trữ. Chính các biện pháp mạnh tay
trên đã tạo ra sự bi quan trong người dân, dẫn đến việc giảm chi tiêu
tăng tiết kiệm, gây suy giảm tổng cầu của nền kinh tế.
3.8: Suy thoái năm 1947
Lần suy thoái này của nước Mỹ bắt nguồn từ những bước tiền thần tốc
của giai đoạn hồi phục kinh tế sau chíến tranh thế giới. Tính tới đầu năm
1947, nước Mỹ chiếm tới 50% tổng sản lượng nông nghiệp toàn thế giới,
trước chiến tranh thế giới con số này chỉ là 30%, tỷ lệ thất nghiệp của
nước Mỹ cũng ở mức thấp kỷ lục khi gần như 100% người lao động có
việc làm. Năm 1947 chính là giai đoạn kinh tế Mỹ đạt đỉnh của chu kỳ
tăng trưởng sau chiến tranh. Cũng từ thời điểm này, ngoại trừ lương
thực, nhu cầu tiêu thụ hàng hóa nói chung của nước Mỹ đã trở nên bão
hòa do hàng hóa được sản xuất nhiều tới mức thừa mứa. Dù Tổng thống
Truman cũng như nội các của ông đã dự đoán được rủi ro từ lạm phát
cũng như những bất ổn kinh tế, nhưng lãnh đạo nước Mỹ lại không tính
tới lạm phát gia tăng tại phần còn lại của thế giới. Dù hậu quả của cuộc

suy thoái 1947 là không quá tồi tệ nhưng nó cũng đủ gây trì trệ kinh tế,
khiến nhiều doanh nghiệp phá sản cũng như tỷ lệ thất nghiệp leo thang.
3.9: Đại suy thoái năm 1930
Cuộc đại suy thoái hay còn gọi là đại khủng hoảng diễn ra cách đây đã
gần 8 thập kỷ nhưng vẫn ghi dấu ấn là giai đoạn suy sụp kinh tế tồi tệ
nhất trong lịch sử hiện đại. Bắt đầu vào năm 1929 và kết thúc vào thởi
điểm chuyển giao giữa hai thập niên 30 và 40, cuộc suy thoái có sức ảnh
hưởng hủy diệt với kinh tế toàn cầu, cả các nước phát triển và đang phát
triển. Mọi khía cạnh của nền kinh tế từ sản xuất, tiêu dùng, thương mại,
thu nhập cá nhân, hoạt động tiêu dùng, thị trường lao động, lạm phát đều
chịu ảnh hưởng xấu. Các nước phụ thuộc nhiều vào công nghiệp chịu tác
động sâu sắc nhất. Ngoài ra khu vực nông nghiệp cũng điêu đứng khi giá
ngô, một trong những nông sản chính tại phương tây, giảm tới 60%.


Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân cho cuộc suy thoái, chẳng
hạn như sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng hay thị trường chứng
khoán, được đánh dấu bằng "ngày thứ ba đen tối" 29/10/1929, hay suy
giảm giao dịch quốc tế do Mỹ tăng thuế. Tuy nhiên, ý kiến chung được
nhiều nhà kinh tế đồng thuận, trong đó có cả đương kim Chủ tịch FED,
ông Ben Bernanke, là do yếu tố cung của nguồn tiền cũng như sai lầm
trong điều hành của FED.
Theo đó, trong thập niên 20, mở rộng cung tiền quá mức đã dẫn đến sự
phát triển bùng nổ nhưng thiều bền vững của khối tài chính. Việc FED
nhận ra rủi ro và thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ là quá muộn để
ngăn chặn suy thoái. Hơn nữa, khi các ngân hàng lớn có dấu hiệu sụp đổ
FED đã không tích cực cứu trợ, từ đó tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền
trong ngành ngân hàng, dẫn đến cạn kiệt đột ngột nguồn tiền. Hệ quả là
nhiều công ty phá sản do thiếu vốn, hoạt động sản xuất, kinh doanh tiêu
dùng bị đình trệ, thất nghiệp tràn lan gây ảnh hưởng to lớn tới kinh tế

Mỹ và toàn thế giới.
III: Nền kinh tế Mỹ vận hành như thế nào?
Trong mỗi hệ thống kinh tế, các doanh nhân và nhà quản lý đều sử dụng
những nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động và công nghệ để sản xuất
cũng như phân phối hàng hóa và dịch vụ. Nhưng phương thức tổ chức
và sử dụng các nhân tố khác nhau đó lại phản ánh những ý tưởng chính
trị của mỗi quốc gia và nền văn hóa của nó.
Nước Mỹ thường được mô tả là một nền kinh tế “tư bản”, một khái niệm
do Các Mác - nhà kinh tế và lý thuyết xã hội người Đức thế kỷ XIX - đặt
ra để mô tả một hệ thống trong đó một nhóm ít người kiểm soát một
khối lượng lớn tiền tệ, hoặc vốn, và đưa ra các quyết định về kinh tế
quan trọng nhất. Mác đã đặt các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tương phản
với các nền kinh tế “xã hội chủ nghĩa”, mô hình kinh tế tập trung nhiều
quyền lực hơn vào hệ thống chính trị. Mác và những người theo học
thuyết của ông cho rằng các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tập trung
quyền lực vào tay một số nhà kinh doanh giàu có - những người lấy mục
tiêu chính là tối đa hóa lợi nhuận; ngược lại, các nền kinh tế xã hội chủ


nghĩa dường như đề cao vai trò kiểm soát lớn hơn của chính phủ, có xu
hướng đặt các mục tiêu về chính trị - chẳng hạn như phân phối công
bằng hơn các nguồn tài nguyên của xã hội - lên trên lợi nhuận.
Trong khi các phạm trù này, dù đã bị đơn giản hóa quá mức, có những
nhân tố đúng đắn thì ngày nay chúng cũng đã thay đổi nhiều. Nếu như
chủ nghĩa tư bản thuần túy như Mác mô tả đã từng tồn tại thì nó cũng
biến dạng từ lâu khi các chính phủ ở Mỹ và nhiều quốc gia khác can
thiệp vào nền kinh tế của họ nhằm hạn chế sự tập trung quyền lực và giải
quyết nhiều vấn đề xã hội liên quan đến lợi ích thương mại mang tính cá
nhân không bị kiểm soát. Do vậy, nền kinh tế Mỹ có lẽ tốt hơn được mô
tả như một nền kinh tế “hỗn hợp”, trong đó chính phủ đóng một vai trò

quan trọng cùng với doanh nghiệp tư nhân.

Mặc dù người Mỹ thường bất đồng về ranh giới chính xác giữa lòng tin
của mình với doanh nghiệp tự do và với sự quản lý của chính phủ,
nhưng nền kinh tế hỗn hợp mà họ xây dựng và phát triển đã thu được
những thành công đáng kể.
1.1.

Những nhân tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế Mỹ

Nhân tố cấu thành đầu tiên của một hệ thống kinh tế quốc gia là nguồn
tài nguyên thiên nhiên của quốc gia đó. Nước Mỹ rất giàu khoáng sản,
đất đai canh tác màu mỡ và được phú cho một khí hậu ôn hoà. Nó còn
có đường bờ biển trải dài cả hai bên bờ Đại Tây Dương và Thái Bình
Dương cũng như trên vịnh Mêhicô. Những con sông bắt nguồn từ sâu
trong lục địa và hệ thống Hồ Lớn - gồm năm hồ lớn nội địa dọc theo
biên giới của Mỹ với Canada - cung cấp thêm mạng lưới giao thông
đường thuỷ. Những tuyến đường thủy mở rộng này đã giúp nước Mỹ tạo
ra tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm và nối liền 50 bang riêng rẽ thành
một khối kinh tế thống nhất.


Nhân tố cấu thành thứ hai là lao động, yếu tố chuyển hóa các tài nguyên
thiên nhiên thành hàng hoá. Số lượng nhân công sẵn có, và điều quan
trọng hơn là năng suất lao động của họ, đã góp phần quyết định tình
trạng lành mạnh của nền kinh tế. Xuyên suốt lịch sử của mình, nước Mỹ
đã có sự tăng trưởng liên tục về lực lượng lao động, và chính điều đó lại
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế gần như liên tục. Cho đến ngay sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất, hầu hết số lao động là người nhập cư từ
châu Âu, con cái họ, hoặc người Mỹ gốc Phi, những người mà tổ tiên họ

bị mang đến Mỹ làm nô lệ. Vào những năm đầu thế kỷ XX, có một số
lượng lớn người châu Á nhập cư vào Mỹ, và rất nhiều người nhập cư
Mỹ Latinh đến vào những năm sau đó.
Mặc dù nước Mỹ đã trải qua một vài thời kỳ thất nghiệp cao và những
thời kỳ khác thiếu cung về lao động, nhưng khi có rất nhiều việc làm thì
người nhập cư lại có xu hướng đến đây. Họ thường sẵn sàng làm việc
với mức lương thấp hơn đôi chút so với lương lao động có văn hoá; và
họ nhìn chung đều phát đạt, kiếm được nhiều tiền hơn rất nhiều so với ở
quê hương. Nước Mỹ cũng thịnh vượng làm cho nền kinh tế phát triển
nhanh, đủ sức thu hút nhiều người mới đến hơn nữa.
Đối với sự thành công về kinh tế của một đất nước, chất lượng lao động
sẵn có - mọi người sẵn sàng làm việc chăm chỉ như thế nào và tay nghề
của họ ra sao - ít nhất cũng quan trọng như số lượng lao động. Trong
buổi ban đầu của nước Mỹ, cuộc sống tại vùng đất hoang vu rộng lớn
này đòi hỏi lao động nặng nhọc, và những gì được xem là nguyên tắc
làm việc của người Tin lành đã củng cố thêm nét đặc biệt này. Sự chú
trọng đặc biệt tới giáo dục, bao gồm cả đào tạo kỹ thuật và dạy nghề,
cũng góp phần đưa đến thành công kinh tế cho nước Mỹ, cũng giống
như ý chí sẵn sàng thử nghiệm và thay đổi.
Tính lưu động của lao động cũng quan trọng như thế đối với khả năng
của nền kinh tế Mỹ để thích nghi với những điều kiện thay đổi. Khi
người nhập cư tràn ngập thị trường lao động ở bờ biển phía Đông, nhiều


người lao động đã di chuyển vào sâu trong nội địa, và thường là đến các
vùng đất trang trại đang chờ được canh tác. Tương tự như vậy, những cơ
hội về kinh tế trong các thành phố công nghiệp ở miền Bắc đã thu hút
người Mỹ da đen đến từ các trang trại miền Nam vào nửa đầu thế kỷ
XX.
Chất lượng của lực lượng lao động vẫn tiếp tục là một vấn đề quan

trọng. Ngày nay, người Mỹ coi “vốn nhân lực” là chìa khóa dẫn đến
thành công trong nhiều ngành công nghiệp công nghệ cao, hiện đại. Do
đó, các nhà lãnh đạo chính phủ và các quan chức quản lý kinh doanh
ngày càng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo để
phát triển lực lượng lao động có đầu óc nhanh nhạy và kỹ năng thích
hợp cần thiết cho các ngành công nghiệp mới như tin học và viễn thông.
Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động mới chỉ là một
phần của hệ thống kinh tế. Các nguồn lực đó cần phải được tổ chức và
quản lý để đạt được hiệu quả tối đa. Trong nền kinh tế Mỹ, các nhà quản
lý, người đáp lại các tín hiệu của thị trường, đảm nhận chức năng đó.
Cấu trúc quản lý truyền thống ở Mỹ dựa trên một chuỗi mệnh lệnh từ
trên xuống; quyền lực bắt đầu từ ban lãnh đạo tối cao, những người bảo
đảm cho hoạt động kinh doanh được thông suốt và hiệu quả, xuống tới
các cấp quản lý thấp hơn khác nhau chịu trách nhiệm điều phối các bộ
phận của doanh nghiệp, cho đến người quản đốc tại phân xưởng. Rất
nhiều nhiệm vụ lại được phân công cho các bộ phận khác nhau và người
lao động. Ở nước Mỹ vào đầu thế kỷ XX, tính chuyên môn hóa này, hay
sự phân công lao động, được coi là phản ánh cách “quản lý khoa học”
dựa trên phân tích hệ thống.
Rất nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục vận hành với cấu trúc truyền thống,
nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp khác đã thay đổi quan điểm quản lý.
Đối mặt với tình trạng cạnh tranh gia tăng trên toàn cầu, các doanh
nghiệp Mỹ đang tìm kiếm những cấu trúc tổ chức linh hoạt hơn, đặc biệt
trong các ngành công nghiệp công nghệ cao đòi hỏi tuyển dụng những


×