Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

KẾ HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG THÔNG TIN Y TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.69 KB, 99 trang )

BỘ Y TẾ

KẾ HOẠCH TỔNG THỂ
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG THÔNG TIN Y TẾ
Giai đoạn 2014-2020 và tầm nhìn 2030

HÀ NỘI - 2014
1


MỤC LỤC

1. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN HTTTYT
4
2. TỔNG QUAN HỆ THỐNG THÔNG TIN Y TẾ
5
2.1 Cấu phần HTTTYT
6
2.1.1 Nguồn lực của Hệ thống thông tin
6
2.1.2 Chỉ số
8
2.1.3 Nguồn số liệu
9
2.1.4 Quản lý số liệu
9
2.1.5 Các sản phẩm thông tin
9
2.1.6 Phổ biến và sử dụng
10
2.2 Thực trạng Hệ thống thông tin y tế


11
2.2.1 Những thành tựu đã đạt được
11
2.2.1.1 Nguồn lực:
11
2.2.1.2 Chỉ số
15
2.2.1.3 Nguồn thông tin
16
2.2.1.4 Quản lý dữ liệu
17
2.2.1.5 Các sản phẩm thông tin
17
2.2.1.6 Phổ biến và sử dụng thông tin
18
2.2.2 Những khó khăn tồn tại
19
2.2.2.1 Nguồn lực
19
2.2.2.2 Hệ thống chỉ tiêu thống kê y tế
22
2.2.2.3 Nguồn số liệu
22
2.2.2.4 Quản lý số liệu
25
2.2.2.5 Sản phẩm thông tin
26
2.2.2.6 Phổ biến và sử dụng thông tin
26
2.2.2.7 Ứng dụng CNTT và truyền thống trong HTTTYT

28
3. CÁC VẤN ĐỀ ƯU TIÊN
29
3.1 Trong ngắn hạn:
30
3.1.1 Chuyển dịch đầu tư
30
3.1.2 Kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực cho cán bộ thống kê là một yếu
tố chủ chốt.
31
3.1.3 Phương tiện
31
3.1.4 CNTT&TT
31
3.1.5 Xây dựng một kho dữ liệu tích hợp
32
3.1.6 Chuẩn hóa chỉ số
32
3.1.7 Thiết lập một cơ sở dữ liệu trực tuyến
32
3.2 Trong trung hạn
32
3.3.1 Xây dựng bệnh án điện tử
33
3.3.2 Tăng cường chất lượng thông tin phục vụ lãnh đạo và quản trị
33
3.3.3 Tăng cường chất lượng thông tin về nhân lực y tế
34
3.3.4 Tăng cường chất lượng thông tin tài chính
35

3.3.5 Tăng cường thông tin về Dược- Trang thiết bị -Công nghệ
36
2


3.3.6 Tăng cường thông tin trong cung ứng dịch vụ
4. KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN HTTTYT ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN
2030
4.1 Tầm nhìn đến năm 2030
4.2 Sứ mệnh
4.3 Mục tiêu
4.3.1 Mục tiêu tổng quát
4.3.2 Mục tiêu cụ thể
5. DỰ KIẾN KẾT QUẢ ĐẦU RA THEO CÁC MỤC TIÊU
6. KINH PHÍ
7. THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ
8. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

37
39
39
39
39
39
40
41
63
79
97


3


CÁC TỪ VIẾT TẮT
HTTTQL

Hệ thống thông tin quản lý y tế

HTTTYT

Hệ thống thông tin y tế

EC

Liên minh châu Âu

SKBMTE

Sức khỏe bà mẹ trẻ em

CNTT

Công nghệ thông tin

SKSS

Sức khỏe sinh sản

BHYT


Bảo hiểm y tế

TCTK

Tổng cục Thống kê

BYT

Bộ Y tế

WHO

Tổ chức Y tế thế giới

HMN

Hiệp hội, đo lường y tế

CTMTQG

Chương trình mục tiêu quốc gia

KHTC

Kế hoạch tài chính

DSKHHGĐ

Dân số Kế hoạch hóa gia đình


QLKCB

Quản lý Khám, chữa bệnh

JAHR

Báo cáo Tổng quan ngành y tế hàng năm

TYT

Trạm y tế xã/phường

TTYT

Trung tâm Y tế

TCMR

Tiêm chủng mở rộng

YTDP

Y tế dự phòng

HMIS

Hệ thống thông tin thống kê Y tế quản lý

4



1 SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN HTTTYT
Hệ thống thông tin y tế là một bộ phận của hệ thống thông tin Quốc gia và
là một trong 6 trụ cột của ngành y tế với chức năng chính là thu thập, lưu trữ,xử
lý, phân tích, phiên giải, chuyển tải và phổ biến thông tin. Hệ thống thông tin Y
tế không chỉ cung cấp những thông tin về hoạt động của lĩnh vực y tế mà còn
cung cấp các thông tin liên quan đến sức khỏe của con người. Chính vì vậy sản
phẩm của Hệ thống đóng một vai trò quan trọng trong quản lý, điều hành, xây
dựng kế hoạch và hoạch định chính sách của ngành.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của ngành, Hệ thống thông
tin y tế đã có nhiều cố gắng và đạt được những thành tích đáng kể. Thông tin từ
hệ thống đang phát huy tác dụng và là căn cứ quan trọng trong việc phân tích,
đánh giá, xây dựng kế hoạch và hoạch định chính sách chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân. Nội dung hệ thống chỉ tiêu, phương pháp thu thập và xử lý đang
từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn Quốc tế.
Tuy nhiên, trước nhu cầu thông tin y tế phục vụ công tác chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe trong tình hình mới và hội nhập với các nước trong khu vực và Thế
giới, hệ thống thông tin Y tế còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế và bất cập. Quá trình
đổi mới công tác thông tin y tế còn chậm, chưa tương xứng với đổi mới và phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước và cũng như của Ngành. Hoạt động của hệ
thống và các tiểu hệ thống còn mạnh mún, thiếu đồng bộ và thống nhất. Việc
ứng dụng những thành tựu khoa học hiện đại trong các khâu từ thu thập, lưu trữ,
xử lý, tổng hợp, phân tích đến việc phổ biến, lưu trữ thông tin chưa được đẩy
mạnh. Sự phối hợp và chia sẻ thông tin giữa Hệ thống thông tin Y tế tổng hợp
với các tiểu hệ thống và giữa hệ thống thông tin Y tế với hệ thống thông tin của
các Bộ/Ngành chưa thực sự chặt chẽ. Mạng lưới Y tế tư nhân đang phát triển khá
nhanh, song việc thu thập thông tin về hoạt động của cơ sở này vẫn chưa được
thực hiện nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng số liệu. Những hạn chế
bất cập trên không thể giải quyết trong thời hạn ngắn mà đòi hỏi phải có lộ trình
phát triển Hệ thống thông thông tin y tế. Chính vì vậy, việc xây dựng Kế hoạch

tổng thể phát triển Hệ thống thông tin y tế Việt Nam giai đoạn 2014- 2020 và
tầm nhìn 2030 là hết sức cần thiết nhằm xây dựng hệ thống thống tin y tế Việt
Nam đồng bộ, thống nhất theo hướng tin học hóa, đáp ứng được nhu cầu thông
tin của quốc gia và quốc tế. Góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế xã hội; Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
5


Cơ sở để xây dựng Kế hoạch tổng thể phát triển Hệ thống thông tin đến
năm 2020 và tầm nhìn 2030 là dựa trênnhững điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách
thức và nhu cầu của ngành về thông tin trong báo cáo kết quả đánh giá thực trạng
Hệ thống thông tin y tế đã được nhóm đánh giá EC thực hiện; Những kiến nghị
của báo cáo tổng quan ngành y tế năm 2013; Mười điểm trong chiến lược phát
triển hệ thống thông in vùng của Tổ chức y tế Thế giới, Quy hoạch tổng thể phát
triển Hệ thống Y tế giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn 2030; Đề án đổi mới đồng
bộ hóa hệ thống chỉ tiêu thông kê đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 312/QĐ-TTg ngày 2 tháng 3 năm 2010 vàChiến lược phát triển
Thống kê Việt nam giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030
Bản Kế hoạch tổng thể phát triển Hệ thống thông tin y tế giai đoạn 2014
-2020 tầm nhìn 2030 thực chất là bản Kế hoạch tổng thể toàn diện đa ngành, đa
nguồn và lần đầu tiên đượcxây dựng. Trong quá trình xây dựng bản kế hoạch
này đã có sự đóng góp của các Vụ, Cục, Tổng cục trong Bộ Y tế và các bộ ngành
liên quan như: Tổng Cục Thống kê, Bộ Tư pháp, Bảo hiểm xã hội Việt nam và
các nhóm đối tác dưới sự điều phối của Vụ Kế hoạch-Tài chính, Bộ Y tế. Các
mục tiêu trong ngắn hạn, trung hạn cũng như các can thiệp trong bản Kế hoạch
bắt nguồn từ việc phân tích đánh giá thực trạng của từng cầu phần trong Hệ
thống thông tin y tế cũng như các hoạt động ưu tiến để tăng cường sáu trụ cột
của ngành y tế.
2 TỔNG QUAN HỆ THỐNG THÔNG TIN Y TẾ

Xuất phát từ tầm quan trọng của thông tin trong quản lý, điều hành và
hoạch định chính sách nên ngày từ khi thành lập, Bộ y tế đã quan tâm tới việc
xây dựng và củng cố Hệ thống thông tin Thống kê Y tế. Mạnh lưới thông tin
thống kê đã được bao phủ trong cả nước, gắn liền với mạng lưới cung cấp dịch
vụ y tế. Do đặc thù của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, mạng
lưới cung cấp dịch vụ y tế bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như: Lĩnh vực điều
trị, dự phòng, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kinh doanh và sản xuất dược, đào tạo
và phục hồi chức năng v.v.. Để đẩy mạnh hoạt động cung cấp dịch vụ y tế nhằm
thực hiện mục tiêu, chiến lược của ngành y tế và giải quyết những vấn đề ảnh
hưởng lớn đến sức khoẻ, Chính phủ Việt nam đã đầu tư triển khai nhiều chương
trình mục tiêu y tế quốc gia như chương trình phòng chống Lao, chương trình
sốt rét, chương trình Bướu cổ, chương trình phòng chống phong, chương trình
tiêm chủng mở rộng, chương trình sức khoẻ sinh sản, chương trình dinh dưỡng,
chương trình sức khoẻ tâm thần, chương trình phòng chống sốt xuất huyết,
chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm..., các chương trình trên đều do các, vụ,
viện, bệnh viện chuyên khoa, quản lý và chỉ đạo như chương trình Lao do bệnh
6


viện Lao và bệnh Phổi; chương trình Sốt Rét do viện Sốt Rét KST& CT; chương
trình Bướu cổ do bệnh viện Nội Tiết; chương trình phòng chống Phong do viện
Da Liễu; Chương trình tiêm chủng mở rộng và chương trình phòng chống sốt
xuất huyết do Viện Vệ Sinh Dịch Tế trung ương; Chương trình sức khỏe sinh
sản do vụ SKBMTE; Chương trình phòng chống suy Dinh Dưỡng do viện Dinh
dưỡng; Chương trình sức khỏe Tâm thần do Bệnh viện Tâm Thần Trung ương;
chương trình an tòan thực phẩm do cục an tòan thực phẩm, chương trình phòng
chống HIV/AIDS do cục phòng chống HIV/AIDS. Do yêu cầu quản lý, đánh giá
tiến độ cũng như chỉ đạo chuyên môn của chương trình, lĩnh vực nên mỗi một
chương trình, lĩnh vực đều có một hệ thống thông tin riêng (hệ thống này được
coi là tiểu hệ thống). Thông tin phục vụ phân tích, đánh giá về hoạt động cung

cấp dịch vụ y tế của toàn ngành cũng như tình trạng sức khỏe của người dân do
Hệ thống thông tin thống kê y tế thực hiện. Hệ thống này cònđược gọi là hệ thống
thông tin tổng hợp hay Hệ thống thông tin quản lý y tế (HTTTQL). Hệ thống
thông tin quản lý y tế được coi là xương sống của hệ thống báo cáo dữ liệungành
y tế, do vụ Kế hoạch Tài chính, Bộ Y tế làm đầu mối và chỉ đạo thực hiện.
Hệ thống thông tin Y tế bao gồm 6 cấu phần chính, đó là: Nguồn lực; Chỉ số;
Nguồn số liệu; Quản lý số liệu; Sản phẩm thông tin; Phổ biến và sử dụng số liệu:
2.1
2.1.1

Cấu phần HTTTYT
Nguồn lực của Hệ thống thông tin

Nguồn lực của Hệ thống thông tin nhằm đảm bảo Hệ thống thông tin vận
hành và phát triển. Nguồn lực thông tin bao gồm:
- Các chính sách về Thông tin
Xây dựng và ban hành chính sách về thông tin nói chung và thông tin y tế
nói riêng là nguồn lực quan trọng nhằm tạo hành lang pháp lý trong việc thu
thập, xử lý, cung cấp thông tin của các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập
cũng như các cơ sở ngoài ngành y tế. Chính sách thông tin y tế cần phải được
thể chế hóa, xác định vai trò trách nhiệm cho các đơn vị trong ngành y tế và
giữa ngành y tế với các bộ ngành liên quan trong việc kết nối, chia sẻ và cung
cấp thông tin, đồng thời quy định tính bảo mật, an ninh số liệu và tiếp cận số
liệu. Chính sách thông tin y tế còn phải xác định đạo đức trong việc thu thập,
phổ biến và sử dụng thông tin đảm bảo số liệu cung cấp được trung thực, khách
quan và minh mạch.
- Nguồn lực về tài chính: Hệ thống thông tin Y tế hoạt động và hoạt động
có hiệu quả, có sự đóng góp rất lớn của việc đầu tư tài chính cho thu thập, phân
tích sử dụng số liệu. Đầu tư tài chính cho Hệ thống thông tin Y tế không chỉ là
7



đầu tư kinh phí mua sắm trang thiết bị, in ấn biểu mẫu và tiền công cho người
làm thông tin mà còn phải đầu tư để tiến hành các cuộc điều tra thu thập những
số liệu mà báo cáo định kỳ không thể thực hiện được hoặc phúc tra lại số liệu
của báo cáo định kỳ. Như vậy đầu tư tài chính cho lĩnh vực thông tin tùy thuộc
mức độ phát triển hệ thống Y tế nói chung và Hệ thống thông tin y tế nói riêng
cũng như nhu cầu thông tin của mỗi quốc gia mà đầu tư tài chính cho thích hợp.
Trong “Lời Kêu gọi Hành động” của Hội nghị Quốc tế tổ chức ở Băng Cốc
(2010) và Diễn đàn Cấp cao tổ chức ở Busan, Hàn Quốc (2011) đã khuyến nghị
cần phải huy động các nguồn lực và nguồn đầu tư sao cho ít nhất 5% tổng ngân
sách ngành y tế được dành để phát triển HTTTYT của mỗi đất nước, trong số
đó dành ít nhất 2% để xây dựng một hệ thống đăng ký sinh tử. Theo báo cáo
của Mạng lưới đó lường y tế HMN năm 2006, chi phí hàng năm của một
HTTTYT toàn diện ước tính trong khoảng từ US$ 0.53 đến US$ 2,99/đầu dân.
- Nguồn nhân lực
HTTTYT không thể cải tiến/tiến bộ nếu không chú ý đến các khâu đào
tạo, triển khai, thù lao và phát triển sự nghiệp của nguồn nhân lực ở tất cả
các cấp. Ở cấp quốc gia cần có các chuyên gia dịch tễ học, chuyên gia thống
kê, dân số học, quản lý cơ sở dữ liệu, quản lý và phân tích hệ thống. Những
người làm trong lĩnh vực thông tin y tế tại các tuyến phải có kinh nghiệm
thu thập, xử lý và kiểm tra, giám sát chất lượng số liệu. Bên cạnh phát triển
nguồn nhân lực cho hệ thống HTTTYT cần tăng cường đào tạo sử dụng và phân
tích số liệu nhằm đảm bảo số liệu trở thành bằng chứng. Việc đào tạo này
không chỉ cho lĩnh vực quản lý, cung cấp dịch vụ y tế mà cho cả lĩnh vực sản
xuất thông tin để kích thích họ quan tâm đến chất lượng số liệu.
- Cơ sở hạ tầng
Các đơn vị cung cấp dịch vụ y tế và các đơn vị quản lý ở cấp quốc gia và
địa phương cần được trang bị cơ sở hạ tầng thông tin như: máy tính, đường
truyền Internet, hòm thư điện tử v.v... Lý tưởng nhất là tất cả các cơ sở phải

có khả năng kết nối với nhau. Đối với các cơ quan thống kê y tế cấp quốc
gia và khu vực, tỉnh cần được trang bị phương tiện giao thông và truyền
thông (Telecommunication) tạo điều kiện thu thập số liệu và biên soạn
số liệu kịp thời ở tuyến địa phương.
-Điều phối và chỉ đạo
Thông tin y tế được thu thập từ các lĩnh vực y tế, các chương trình y tế
quốc gia và các Bộ/ngành liên quan vì vậy rất cần có một Ủy ban đại diện Quốc
gia để hướng dẫn, chỉ đạo việc phát triển và duy trì HTTTYT nhằm đảm bảo
thông tin được chia sẻ và sử dụng có hiệu quả, tránh chồng chéo. Ủy ban này
8


phải có các đại diện cấp cao thuộc các vụ, cục, viện và chương trình của BYT,
Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt nam (BHXH)..
2.1.2

Chỉ số

Mục đích hoạt động của Hệ thống thông tin Y tế không chỉ phục vụ cho
việc quản lý, điều hành các hoạt động cung cấp dịch vụ y tế mà còn phục vụ
phân tích, đánh giá và hoạch định chính sách. Chính vì vậy thông tin Y tế không
chỉ bó hẹp trong ngành Y tế mà nó còn bao gồm nhiều thông tin liên quan từ các
bộ/ngành khác. Nhìn chung, thông tin để tính toán các chỉ số được chia làm 3
nhóm chính, cụ thể:
- Thông tin liên quan đến sức khỏe, bao gồm: Thông tin về Dân số, thông
tin về kinh tế- xã hội, môi trường, hành vi và di truyền hay các yếu tố nguy cơ.
Các thông tin về môi trường trong hoạt động của hệ thống Y tế.
- Thông tin về hoạt động của hệ thống Y tế, bao gồm:
* Thông tin về đầu vào và qúa trình liên quan như chính sách, tổ chức,
nguồn lực và tài chính, cơ sở hạ tầng y tế, trang thiết bị và các phương tiện cho

hoạt động cung cấp dịch vụ y tế.
* Thông tin đầu ra phản ánh sự sẵn có và chất lượng dịch vụ y tế, kết quả
hoạt động của hệ thống Y tế, kể cả độ bao phủ các dịch vụ y tế cơ bản.
- Thông tin về tình hình sức khỏe như tỷ suất mắc bệnh, tỷ suất tử vong,
tỷ lệ tàn tật, tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ khỏe mạnh...
Tiêu chuẩn để chọn chỉ số là những chỉ số liên quan đến sức khỏe được xác định
ở tuyến quốc gia và thường xuyên được sử dụng cho lập kế hoạch, theo dõi và
đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu của toàn ngành và của các chương trình y
tế quốc gia. Chỉ số ở tuyến dưới như quận/huyện và xã là những chỉ số phục vụ
quản lý và điều hành các hoạt động cung cấp dịch vụ y tế. Chỉ số phải được
chuẩn hóa về định nghĩa, phương pháp thu thập theo tiêu chuẩn kỹ thuật Quốc
tế. Khi chọn chỉ số không nên chọn quá nhiều mà nên tập trung vào những chỉ
số cơ bản, thật cần thiết. Bộ chỉ số phải được phân cấp phù hợp với mỗi tuyến.
Các chỉ số được chọn phải có giá trị đáng tin cậy, cụ thể: Phải có độ nhạy, có khả
năng lượng giá/đo lường và những chỉ số đó phải hợp lý, có ích cho việc đưa ra
quyết định ở các tuyến thu thập số liệu hoặc ở tuyến cao hơn.
2.1.3

Nguồn số liệu

Để có thể đáp ứng nhiều nhu cầu thông tin khác nhau, không thể có
phương pháp thu thập hoặc nguồn số liêu duy nhất. Nguồn số liệu phù hợp, tùy
9


thuộc vào nhu cầu thông tin, nguồn kinh phí, sự phối hợp và khả năng thu thập,
quản lý và phổ biến số liệu. Nguồn số liệu cơ bản của Hệ thống thông tin Y tế
bao gồm: hai nguồn chính (1) Xuất phát từ các ước tính dựa trên dân số (Tổng
điều tra dân số và các cuộc điều tra, giám sát hộ gia đình) và (2) Dựa vào hệ
thống ghi chép báo cáo định kỳ của các cơ sở y tế và các cuộc điều tra khảo sát

cơ sở y tế. Các loại thông tin liên quan đến sức khỏe và hoạt động y tế, bao gồm:
- Thông tin về Dân số, Kinh tế-xã hội và Môi trường được thu thập từ
các cuộc tổng điều tra dân số, đăng ký hộ khẩu và các cuộc điều tra hộ gia đình
và giám sát dựa trên dân số. Thông tin về Dân số, Kinh tế, Xã hội và Môi trường
hiện nay do hệ thống Thống kê Nhà nước ( TCTK) thực hiện.
- Thông tin về hoạt động cung cấp dịch vụ y tế thông thường được thu
thập bằng báo cáo định kỳ từ các sổ sách, biểu mẫu báo cáo của các cơ sở y tế
tại các tuyến và các cuộc điều tra chuyên sâu và điều tra y tế để thu thập
những thông tin mà báo cáo định kỳ không thu thập được hoặc phúc tra lại
số liệu báo cáo định kỳ. Thông tin về tình hình mắc chết các bệnh gây dịch
được thu thập thông qua hệ thống giám sát dịch.
2.1.4

Quản lý số liệu

Quản lý số liệu gồm một loạt các quy trình phục vụ việc thu thập, chuyển
tải thông tin (luồng thông tin), lưu trữ, phân tích và phân phối số liệu... Số liệu
chính xác và đầy đủ là điều kiện quan trọng nhất của quản lý số liệu. Số liệu đã
được thu thập thì điều cơ bản là phải có một phương pháp tiếp cận hợp lý trong
quản lý. Trước hết, cần có một cuốn từ điển siêu số liệu. Tiếp theo, các quy
trình lưu trữ số liệu. Quy trình lưu trữ số liệu phù hợp đòi hỏi phải có một cơ
cấu lô-gic được thiết kế chặt chẽ cho phép khai thác và sử dụng số liệu được dễ
ràng và thuận tiện. Đồng thời phải đảm tính bảo mật, an ninh số liệu. Số liệu cần
được phân tích và trình bày hợp lý, bao gồm tính toán các chỉ số và chuẩn bị các
bảng, biểu và sơ đồ. Cuối cùng, số liệu phải có sẵn cho tất cả những ai sử dụng
chúng.
2.1.5

Các sản phẩm thông tin


Kết quả của sản xuất thông tin là sản phẩm thông tin. Sản phẩm thông tin
của hệ thống thông tin y tế hiện nay mới đề cập đến số liệu. Số liệu mới chỉ là
sản phẩm thô. Bản thân số liệu có rất ít giá trị và chỉ khi chúng được làm sạch,
được kiểm soát và phân tích thì mới có giá trị cao. Ở giai đoạn này số liệu mới
trở thành thông tin. Một số thông tin cũng bị hạn chế, nếu như thông tin đó chưa
được lồng với các thông tin khác để đánh giá dưới dạng các vấn đề mà hệ thống
y tế đang phải đối mặt. Ở giai đoạn này thông tin trở thành bằng chứng và được
10


sử dụng cho việc đưa ra các quyết định. Việc tổng hợp bằng chứng vẫn chưa đủ
mà cần được đóng gói, tuyên truyền và phổ biến cho những người chịu trách
nhiệm ra quyết định
2.1.6

Phổ biến và sử dụng

Một chức năng quan trọng của HTTTYT là kết nối việc sản xuất số liệu
với sử dụng số liệu. Các đối tượng sử dụng bao gồm những đối tượng cung cấp
dịch vụ và những người chịu trách nhiệm về việc quản lý, lập kế hoạch, hoạch
định chính, những nhà đầu tư và cả cộng đồng. Chính vì vậy phổ biến thông tin
hết sức quan trọng nhằm đảm bảo các nhóm đối tượng tiếp cận thông tin một
cách dễ ràng và thuận tiện. Để làm tốt nhiệm vụ này thì việc phổ biến cần được
lên kế hoạch một cách khá chi tiết như: theo các đặc điểm của từng loại thông
tin và phương pháp đóng gói, các kênh giao tiếp/tuyên truyền hiệu quả nhất để
chuyển tải thông tin. Thời điểm phổ biến thông tin cần lựa chọn cho phù hợp
với các chu kỳ và nhu cầu lập kế hoạch của các đối tượng sử dụng.
Mối quan hệ của các cấu phần HTTTYT

11



2.2

Thực trạng Hệ thống thông tin y tế

Trong 10 năm qua đã có một số cuộc đánh giá về hệ thống thông tin y tế
như: Năm 2006, Bộ Y tế đã tổ chức cuộc đánh giá toàn diện hệ thống thông tin y
tế theo bộ công cụ đánh giá của Hiệp hội, đo lường y tế (HMN); năm 2010, EC
tài trợ một nhóm chuyên gia đánh giá HTTTYT lần 2 và đánh giá nhân lực
thống kê y tế toàn quốc (Vụ KHTC- 2012); Ngoài ra còn một số cuộc đánh giá
thực hiện trong khuôn khổ hỗ trợ của các nhà tài trợ dành cho một số chương
trình ngành dọc và CTMTQG như chương trình về phòng chống HIV/AIDS,
phòng chống lao, dinh dưỡng, tiêm chủng mở rộng.
Các đánh giá chung về tổng thể hệ thống y tế như Tổng quan ngành y tế
hàng năm (JAHR). Đánh giá Hệ thống y tế được thực hiện tại 6 tỉnh (dự án do
USAID tài trợ -2010) cũng có đưa ra phân tích một số khía cạnh của HTTTYT
Kết quả đánh giá đã chỉ ra những thành tựu đã đạt được, những khó khăn
tồn tại cần giải quyết theo 6 cầu phần của Hệ thống thông tin y tế sau:
2.1.7

Những thành tựu đã đạt được

Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của hệ thống Y tế, hệ thống
thông tin Y tế đã có những bước phát triển đáng kể, cụ thể:
2.2.1.1

Nguồn lực:

- Chính sách liên quan đến công tác thống tin thống kê

Xuất phát từ tầm quan trọng của thông tin trong quản lý, điều hành và
hoạch định chính sách, Chính phủ Việt nam và Bộ Y tế rất quan tâm đến công
tác xây dựng và tăng cường hệ thống thông tin nói chung và hệ thống thông tin
Y tế nói riêng. Một loạt chính sách liên quan đến công tác thông tin thống kê đã
được ban hành:
* Luật thống kê: Luật thống kê số 04/2003/QH11của Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá XI. Luật thống kê ra đời nhằm nâng cao
hiệu quả công tác thống kê, đảm bảo thông tin thống kê trung thực, khách quan,
chính xác, đầy đủ, kịp thời phục vụ các cơ quan nhà nước trong việc đánh giá,
dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế- xã hội và đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá
nhân, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về công tác thống kê. Luật thống kê
ra đời còn là cơ sở cho việc xây dựng và ban hành một loạt các chính sách liên
quan đến thông tin thống kê.
* Quyết định của Bộ trưởng về việc ban hành quy chế thống kê y tế số
379/2002/QĐ-BYT ngày 08 tháng 02 ăm 2002. Quy chế thống kê Y tế là cơ sở
12


pháp lý cho việc thu thập và xử lý thông tin thống kê y tế đồng thời quy định
chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ sở y tế trong cả nước trong việc
thực hiện chế độ ghi chép và báo cáo; Tăng cường trách nhiệm của cán bộ quản
lý và cán bộ tham gia hệ thống thông tin Y tế.
* Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về việc tăng cường và hiện đại hoá công
tác Thống kê số 28/1998/CT-TTG. Chỉ thị này đã yêu cầu Tổng cục Thống kê và
các bộ, ngành cần phải củng cố nâng cấp hệ thống thống kê do mình phụ trách và
đẩy mạnh ứng dựng công nghệ tin học trong xử lý, lưu trữ và chuyển tải thông tin.
* Nghị định số 14/2005/NĐ-CP ngày 04 tháng 2 năm 2005 của Chính
phủ.về xử phát hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê nhằm tăng
cường trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đơn vị và người làm công tác

thông tin thống kê trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin.
* Quyết định số 43/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Hệ thống chỉ tiêu
quốc gia. Trong đó yêu cầu các bộ/ ngành căn cứ chỉ tiêu đã phân công và nhu
cầu thông tin của của từng bộ/ngành, xây dựng hệ thống chỉ tiêu phục vụ quản lý
và điều hành của mỗi bộ, ngành và đảm bảo cung cấp thông tin tính toán chỉ
tiêu thống kê Quốc gia.
* Quyết định của Bộ trưởng về việc ban hành hệ thống biểu mẫu sổ sách
đã được xây dựng từ những năm trước đây và được điều chỉnh nhằm đáp ứng
nhu cầu thông tin và bộ chỉ số quốc gia và quốc tế. Hệ thống sổ sách, biểu mẫu
được xây dựng và ban hành đã giúp cho việc thu thập và báo cáo thống kê định
kỳ đang dần đi vào nề nếp.
Thực hiện Quyết định số 43/2010/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Y tế đã xây dựng và ban hành Danh mục chỉ số thống kê cơ bản ngành y tế y tế
số 06/2006/TT-BYT ngày 14 tháng 2 năm 2014. Bộ chỉ số này cũng đã được
chuẩn hóa về khái niệm, phương pháp thu thập, phân tổ, tính toán nhằm nâng
cao chất lượng của số liệu và tăng cường sử dụng số liệu trong phân tích đánh
giá và hoạch định chính sách.
* Thông tư số 17/2012/TT-BYT ngày 24/10/2012 của Bộ Y tế về quy
định cấp và sử dụng giấy chứng sinh nhằm nâng cao chất lượng thông tin về
sinh đẻ; Chỉ thị số 07/CT-BYT ngày 21 tháng 6 năm 2013 về tăng cường công
tác thông tin thống kê y tế để khắc phục những thiếu sót và hạn chế trong công
tác thống kê và tăng cường công tác thông tin thống kê đáp ứng yêu cầu quản lý
trong tình hình mới. Chỉ thị chấn chỉnh việc ban hành biểu mẫu, báo cáo chưa
tuân theo Luật thống kê, giao Vụ Kế hoạch Tài chính là cơ quan đầu mối, có
trách nhiệm quản lý thống nhất các chỉ số thống kê y tế và hệ thống sổ sách,
biểu mẫu báo cáo thống kê trong toàn ngành y tế.
13


- Những chính sách đẩy mạnh phát triển Công nghệ Thông tin (CNTT)

trong quản lý, xử lý số liệu và điều hành các hoạt động kinh tế xã hội như: Chỉ
thị 58/CT-TW năm 2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển
CNTT; Luật Công Nghệ thông tin; Luật giao dịch điện tử; Nghị định 64 năm
2007 của Chính phủ về việc ứng dụng trong cơ quan nhà nước; Quyết định số
246 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược phát triển
CNTT đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020... Thực hiện chính sách về
đẩy mạnh ứng dụng CNTT/TT của Đảng và Nhà nước, Bộ y tế đã xây dựng một
loạt chính sách liên quan đến CNTT/TT như Chỉ thị số 02/CT-BYT (ngày 25
tháng 2 năm 2009) về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong ngành y tế; Quyết
định ban hành phần mềm quản lý y tế cơ sở số 1833/2002/QĐ-BYT ngày 17
tháng 5 năm 2002; Quyết định ban hành phần mềm thống kê bệnh viện
(Medisoft 2003). Quyết định số: 5573 /QĐ-BYT ngày 29 tháng 12 năm 2006 của
Bộ trưởng Bộ Y tế về tiêu chí phần mềm quản lý bệnh viện...Những chính sách
về CNTT đã có tác dụng tăng cường năng lực trong thu thập, xử lý, quản lý, phổ
biến và chuyển tải thông tin nói chung, trong đó có thông tin thống kê Y tế.
Hệ thống văn bản qui phạm được ban hành kể trên đã là cơ sở pháp lý cho
Hệ thống thông tin y tế hoạt động. Tuy nhiên những chính sách này vẫn chưa
đồng bộ, còn thiếu một số chính sách quan trọng. Chính sách liên quan đến công
tác thông tin thống kê chưa được tuyên truyền rộng rãi.
- Tổ chức và nhân lực của hệ thốngthông tin y tế
Trong mấy năm gần đây tổ chức và nhân lực của Hệ thống thông tin y tế
đã được củng cố và tăng cường.Tại Bộ Y tế, trước đây là tổ thông tin thống kê,
năm 2008 đã chuyển thành Phòng Thông tin thống kê y tế thuộc Vụ Kế hoạchTài chính. Các vụ, cục, viện các chương trình y tế quốc gia và các Sở Y tế, các
cơ sở y tế cũng đã bố trí cán bộ làm công tác thông tin thống kê. Hầu hết cán bộ
làm công tác thông tin thống kê của các đơn vị y tế được biên chế trong phòng
Kế hoạch tổng hợp của đơn vị.
Đội ngũ cán bộ quản lý và làm việc trong lĩnh vực thông tin, thống kế y tế
ở tuyến trung ương và tuyến tỉnh đã được tham dự các lớp đào tạo và đào tạo lại,
có điều kiện làm việc tốt hơn như được trang bị máy tính, điện thoại, internet để
trao đổi và truy cập thông tin.

- Tài chính
Bên cạnh, sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước cho hệ thống thông tin y tế,
một số chương trình, Dự án còn được hỗ trợ từ các nguồn viện trợ nước ngoài
cho hệ thống và các tiểu hệ thống thông qua việc mua sắm thiết bị tính toán, tập

14


huấn, hội thảo…tuy nhiên khoản viện trợ này vẫn còn rất thấp so với nhu cầu
phát triển của hệ thống và các tiểu hệ thống.
- Cơ sở hạ tầng
Những phương tiện chuyển tải thông tin và thiết bị tính toán đã được nhà
nước đặc biệt quan tâm. Cơ sở hạ tầng về CNTT đã được bao phủ trong cả nước.
Hiện nay 100% trạm y tế xã thuộc các tỉnh đồng bằng, trung du và trên 90 %
trạm y tế xã thuộc các tỉnh miền núi đã có điện thọai. Đây là điều kiện thuận tiện
cho việc thông báo tình hình dịch bệnh và những vấn đề đang ảnh hưởng đến
sức khỏe của cộng đồng được nhanh hơn. Các đơn vị y tế tuyền huyện trở lên
đều được trang vị máy tính, internet... Cục Công nghệ thông tin mới thành lập đã
khá nhạy bén và chủ động trong các lĩnh vực về chuẩn hóa cho ngành Y tế.
Trong năm 2012, Cục đã xuất bản một tập sách hướng dẫn quan trọng, trong đó
mô tả và định hướng việc sử dụng các chuẩn về thuật ngữ y tế (ICD-10,
SNOMED), trao đổi thông tin và các bệnh án (HL7) cũng như mã hóa đặc biệt
như LOINC cho phòng thí nghiệm.
Một số phần mềm quản lý và xử lý số liệu đã được xây dựng và đang được
nâng cấp, hoàn thiện để triển khai rộng rãi như: phần mềm xử lý báo cáo số liệu
thống kê y tế cho các tuyến, phần mềm thống kê bệnh viện (Medisoft), phần
mềm quản lý bệnh viện, phần mềm BHYT, phần mềm kế toán tài chính
(MISA), phần mềm quản lý hoạt động trạm y tế xã v.v…Một số lĩnh vực,
chường trình mục tiêu Y tế quốc gia cũng đã đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong
cập nhật, xử lý và chuyển tải thông tin như:

- Chương trình Lao, phòng chống HIV/AIDS và phòng chống sốt rét,sử
dụng ứng dụng phần mềm trực tuyến và độc lập, cho phép cập nhật tên bệnh
nhân, các thông tin liên quan và các dữ liệu phục vụ quản lý
-Tổng cục DSKHHGĐ sử dụng cơ sở dữ liệu trực tuyến (vi tính hóa tại 3
cấp: trung ương, tỉnh, huyện) để ghi nhận và tổng hợp thông tin cơ bản về mỗi
cá nhân trong hộ gia đình (tên, tuổi, dân tộc, địa chỉ, vv...) và dữ liệu về
KHHGĐ để phục vụ công tác quản lý ở tất cả các cấp.
- Cục QLKCB sử dụng cơ sở dữ liệu trực tuyến ghi nhận tên, đặc điểm và
các yếu tố dữ liệu để phục vụ công tác quản lý theo nhóm nhân lực y tế với mục
tiêu hoàn thiện việc kiểm kê cán bộ y tế được cấp chứng chỉ hành nghề.
- Cục YTDP sử dụng cơ sở dữ liệu và thử nghiệm ứng dụng phần mềm thứ
hai trong ghi nhận các ca bệnh, tử vong và dịch bệnh bùng phát
- Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR)sử dụng cơ sở dữ liệu dự kiến
sẽ thực hiện trực tuyến vào giữa năm 2014, với mục tiêu phân phối, tăng diện
bao phủ của TCMR và kiếm soát các trường mắc bệnh có vắc xin phòng ngừa.
15


- Phòng thông tin thống lê, Vụ kế hoạch- tài chính đã xây dựng vả đang sử
dụng phần mềm sử lý báo cáo cho tuyến tỉnh và huyện.
- Điều phối và chỉ đạo
Bộ y tế đã thành lập Ban chỉ đạo tăng cường Hệ thống thông tin y tế do Bộ
trưởng làm trưởng Ban, lãnh đạo các vụ, cục, viện của Bộ Y tế và Tổng cục
Thống kê là thành viên. Bộ cũng đã xây dựng được nhóm làm việc với sự tham
gia của các chuyên viên làm công tác thông tin thống kê, tin học vủa các vụ, cục,
viện trong ngành Y tế và Tổng cục Thống kê là thành viên, vụ Trưởng vụ
KHTC, Bộ Y tế là trưởng nhóm. Quy chế và nội dụng làm việc của Ban chỉ đạo
và nhóm làm việc đã được xây dựng và ban hành. Việc thành lập Ban chỉ đạo và
nhóm làm việc là điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng và phát triển hệ thống,
đặc biệt là sự hợp tác và chia sẻ thông tin.

2.2.1.2

Chỉ số

Năm 2006, được sự hỗ trợ của UNDP và TCTK, Bộ y tế phối hợp với các
vụ, cục, viện, các chương trình y tế quốc gia xây dựng Danh mục chỉ số thống
kê y tế. Bản danh mục này đã được chuẩn hóa về khái niệm, định nghĩa, phương
pháp thu thập, công thức tính toán, nguồn số liệu. Sau một thời gian triển khai,
Bộ Chỉ số Y tế cơ bản đã phát huy tác dụng trong việc phân tích, đánh giá, xây
dựng kế hoạch và hoạch định chính sách. Do có sự thống nhất về khái niệm,
phương pháp thu thập, tính toán nên chất lượng số liệu đã có những cải thiện
đáng kể. Tuy nhiên trước nhu cầu thông tin ngày càng cao của quốc gia và quốc
tế, một số chỉ số đã không cần thiết, trong khi đó lại thiếu một số chỉ số quan
trọng, chính vì vậy năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
43/2010/QĐ-TTg về việc:”Ban hành Hệ thống chỉ tiêu Thống kê Quốc gia”.
Thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế đã xây dựng và hoàn
thiện Bộ chỉ số Y tế cơ ngành y tế và đã được ban hành tại Thông tư số 06 ngày
14 tháng 2 năm 2014. Trong đó có sự phân công trách nhiệm giữa Hệ thống
thông tin Quản lý Y tế và các tiểu hệ thống nhằm hạn chế sự chồng chéo trong
thu thập và xử lý số liệu. Trong 5 năm trở lại đây, một số các Vụ Cục đã tiến
hành rà soát các chỉ số riêng, trong đó,Cục QLKCB,chương trìnhphòng chống
HIV/AIDS(thuộc Cục Phòng chống HIV/AIDS), chương trình lao, dinh dưỡng,
tiêm chủng mở rộng, và Cục YTDP.
Căn cứ Hệ thống chỉ sổ đã ban hành, hàng năm Hệ thống thông tin y tế đã
cố gắng thu thập, tính toán và công bố hàng loạt các chỉ sốphục vụ phân tích,
đánh giá và hoạch định chính sách như: Các chỉ số đánh giá thực hiện mục tiêu
chiến lược của ngành, các chỉ tiêu thống kê Quốc gia phân cho ngành y tế, các
chỉ số hoạt động của các lĩnh vực, các chương trình y tế quốc gia và một số chỉ
16



số đánh giá thực trạng sức khỏe của người dân Việt Nam. Tuy nhiên một số chỉ
số quan trọng chưa được cung cấp thường xuyên và chưa được phân tổ theo yêu
cầu của các nhà quản lý, như: Bệnh tật, tử vong phân theo giới, tuổi, nguyên
nhân hay các chỉ số đánh giá sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe, như đối
tượng sử dụng dịch vụ y tế phân theo dân tộc, vùng hay nhóm thu nhập v.v…
2.2.1.3

Nguồn thông tin

Như trên đã trình bày, thông tin y tế không chỉ thu thập bằng một phương
pháp và từ một nguồn duy nhất, mà phải thu thập từ nhiều nguồn và bằng nhiều
phương pháp khác nhau, cụ thể:
- Điều tra dựa vào cộng đồng
* Tổng điều tra Dân số, thực hiện 10 năm 1 lần; Điều tra dân số giữa kỳ
5năm/lần. Biến động dân cư và kế hoạch hóa gia đình hàng năm; Điều tra MICS
thực hiện 5 năm 1 lần; Điều tra nhân khẩu và sức khỏe 5 năm/ lần; Điều tra mức
sống dân cư hai năm /1 lần...
* Điều tra y tế quốc gia y tế quốc gia, theo dự kiến sẽ tiến hành 10
năm/lần. Cuộc điều tra đầu tiên được tiến hành từ năm 2001 tuy nhiên đến nay
đã hơn 10 năm vẫn chưa thực hiện được điều tra lần 2 do thiếu kính phí; Tổng
điều tra dinh dưỡng 10 năm/lần; Điều tra về tỷ lệ nhiễm HIV và hành vi, kiến
thức về HIV 2 năm/lần v.v...
- Điều tra tại cơ sở y tế:
Điều tra bệnh viện, thực chất là kiểm tra bệnh viện, được tiến hành năm
để thu thập thông tin về hoạt động của bệnh viện và kiểm tra chất lượng cung
cấp dịch vụ y tế của từng bệnh viện.
Các điều tra kể trên đã cung cấp nhiều thông tin quý báu phục vụ phân
tích về kết quả hoạt động của ngành y tế và thực trạng sức khỏe nói của người
dân chung, đặc biệt là sức khỏe phụ nữ và trẻ em.

- Hệ thống báo cáo định kỳ
* Hệ thống báo cáo định kỳ của ngành y tế: Hệ thống sổ sách, biểu mẫu
của Hệ thống thông tin thống kê Y tế quản lý (HMIS) và các tiểu hệ thống đã
được xây dựng và ban hành đã giúp cho việc cập nhật, thu thập và báo cáo thống
kê định kỳ đang dần đi vào nề nếp. Những quy định hiện hành về công tác thông
tin thống kê y tế đã có tác dụng làm cho hệ thống hoạt động đồng bộ hơn và đáp
ứng tốt hơn nhu cầu thông tin cho công tác quản lý y tế, điều hành hoạt động ở
tất cả cơ sở y tế công tại các tuyến, các lĩnh vực và chương trình y tế quốc gia .
* Hệ thống báo cáo định kỳ của các Bộ ngành khác: Hệ thống thông tin
của BHXH để cập nhật về tình hình tham gia BHYT, tình hình thu BHYT và chi
17


trả cho công tác khám chữa bệnh cho những bệnh nhân có BHYT; hệ thống báo
cáo định kỳ của Bộ Tài chính về Ngân sách chi cho ngành y tế; Tổng cục Thống
kê về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người, tổng chi ngân sách
nhà nước v.v...
- Hệ thống giám sát các bệnh truyền nhiễm gây dịch:
Hệ thống này hoạt động khá tốt, thông tin về mắc, tử vong các bệnh
truyền nhiễm gây dịch hoặc các bệnh dịch bùng phát đều được cập nhật và báo
cáo kịp thời.
Ngoài ra thông tin y tế còn phải thu thập từ công cộng thông qua mạng
lưới công tác viên dân số và y tế thôn bản, bao gồm thông tin về sinh tử, bệnh
truyền nhiễm, dịch bùng phát, tai nạn thương tích, vệ sinh môi trường v.v…
2.2.1.4

Quản lý dữ liệu

Quản lý dữ liệu được chia thành năm bước: i) thu thập và lưu trữ, ii) biên
soạn và tổng hợp, iii) kiểm soát chất lượng, iv) phân tích và trình bày, và v) báo

cáo và phản hổi.
Hiện nay việc quản lý và lưu trữ thông tin của Hệ thống thông tin y tế đã
được thực hiện từ xã, huyện tỉnh và trung ương. Tại xã /phường ( trạm Y tế) lưu
trữ số liệu chủ yếu bằng sổ sách ghi chép ban đầu và biểu mẫu báo cáo. Các cơ
sở y tế từ tuyến huyện trở lên lưu trữ thông tin bằng hai hình thức là lưu trữ trên
máy tính cá nhân và bằng sổ sách, biểu mẫu báo cáo. Một số đơn vị y tế đang sử
dụng phần mềm thì còn lưu trữ trên server. Tuy nhiên việc kiểm tra, giám sát và
quản lý thông tin từ thu thập, xử lý, lưu trữ và công bố số liệu chưa thực sự tốt
cần phải tăng cường. Hệ thống thông tin phản hồi về chất lượng số liệu chưa
được thực hiện đồng bộ và thường xuyên.
2.2.1.5

Các sản phẩm thông tin

Hệ thống thông tin thống kê tổng hợp đã có nhiều sản phẩm thông tin, đặc
biệt là Niên giám thống kê Y tế hàng năm và các ấn phẩm thống kê đã được
xuất bản đều đặn, với việc sử dụng thông tin từ báo cáo thống kê của 63 Sở Y tế
tỉnh, thành phố, số liệu của các Vụ, Viện, Chương trình Y tế Quốc gia và số liệu
của các cuộc điều tra do Tổng cục thống kê thực hiện. Thông tin trong các ấn
phẩm này đã phục vụ đông đảo người sử dụng trong nước cũng như Quốc tế.
Một số tỉnh đã xây dựng Niên giám thống kê Y tế phản ánh hoạt động y tế
trong tỉnh. Các tiểu hệ thống thông tin của các lĩnh vực, các chương trình y tế
quốc gia cũng có sản phẩm thông tin là những báo cáo hàng năm. Hệ thống giám
sát các bệnh dịch lây cũng có Niên giám về mắc chết các bệnh truyền nhiễm gây
kdịch theo tỉnh và theo thời gian.
18


Ngoài ra còn có những báo cáo về kết quả điều tra do Ngành Y tế thực
hiện như: Điều tra Dinh dưỡng 10 năm 1 lần; điều tra Y tế Quốc gia; điều tra

giám sát về HIV/AIDS, tử vong mẹ; điều tra bướu cổ... Các báo cáo nghiên cứu
của các viện, các trường đại học, các báo cáo đề tài nghiên cứu cấp nhà nước,
cấp bộ mà sản phẩm là những công trình nghiên cứu khoa học, luận án có nhiều
giá trị thông tin. Báo cáo hàng tuần về các ca mắc bệnh truyền nhiễm có độ nguy
hiểm cao và/hoặc về sự bùng phát của các bệnh truyền nhiễm được Cục YTDP
thực hiện. Trong suốt thời gian bùng phát bệnh, số ca mắc và tử vong được báo
cáo hàng ngày. Báo cáo JAHR cũng được coi là ấn phẩn quan trọng trong hệ
thống thông tin y tế, có thể phục vụ nhiều mục đích, do tổng hợp thông tin từ
nhiều nguồn với sự tham gia của nhiều bên và được rà soát cẩn thận.
2.2.1.6

Phổ biến và sử dụng thông tin

Việc phổ biến thông tin hiện nay của Hệ thống thông tin y tế chủ yếu là
xuất bản các ấn phẩm như sách, báo cáo một số thông tin quan trọng và các vấn
đề đang ảnh hưởng lớn đến sức khỏe như: các bệnh dịch lây, bệnh mới lạ, ngộ
độc thực phẩm, hóa chất, tai nạn thương tích...đã được đưa lên các thông tin đại
chúng như: Truyền hình, đài, báo, website... Đối với một số cuộc điều tra, ngoài
báo cáo kết quả điều tra còn phổ biến tại các cuộc họp công bố (hội thảo, hội
nghị). Mạng lưới phổ biến thông tin đã được củng cố và tăng cường. Thư viện Y
học đã cung cấp thông tin cho các đối tượng khác nhau thông qua hệ thống của
mình. Mạng lưới truyền thông – Giáo dục sức khỏe đã bao phủ trên cả nước với
nhiệm vụ cung cấp thông tin để tăng cường sự hiểu biết của người dân về chăm
sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe.
Tại Hà Nội, các buổi tọa đàm trực tuyến về tình hình bệnh truyền nhiễm
gây dịch giữa sáu vùng địa lý sinh thái đã được thực hiện hàng tuần tại văn
phòng theo dõi và đánh giá trung ương. Các buổi tọa đàm này còn được thực
hiện thường xuyên hơn khi có bệnh dịch bùng phát hoặc khi có trường hợp khẩn
cấp khác.
Thông tin y tế đã được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau: (1) Thông

tin được các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý vĩ mô sử dụng làm bằng
chứng để xây dựng chính sách, chiến lược và kế hoạch, y tế đồng thời để theo
dõi, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện. (2) Thông tin được sử dụng theo
dõi, giám sát nâng cao chất lượng, hiệu quả các chương trình mục tiêu và kết
quả hoạt động của mạng lưới phòng bệnh, chữa bệnh, chăm sóc SKSS thông qua
cập nhật, hướng dẫn điều trị, danh mục thuốc chủ yếu, quy trình kỹ thuật... (3)
Thông tin được sử dụng để giám sát, đánh giá tác động, hiệu quả, mức độ bao
phủ của các can thiệp chính sách, can thiệp y tế (4) Thông tin được chia sẻ để
tạo ra sự hiểu biết chung về tình hình giữa các ban ngành liên quan để hợp tác
19


giải quyết những vấn đề ảnh hưởng đến sức khỏe (5) Thông tin được sử dụng để
nghiên cứu khoa học và đào tạo. (6) Thông tin được sử dụng để tuyên truyền cho
cộng đồng về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, Hệ thống thông tin vẫn còn
những khó khăn và bất cập cần giải quyết.
2.1.8

Những khó khăn tồn tại

Hệ thống thông tin y tế và các tiểu hệ thống phát triển manh mún, thiếu
đồng bộ. Thêm vào đó là áp lực nhiều từ phía các nhà quản lý, kế hoạch, hoạch
định chính sách của các cơ quan nhà nước hay những nhà đầu tư. Thông tin yêu
cầu từ các chương trình, dự án thường quá nhiều, qúa chi tiết đã gây quá tải cho
các cơ sở y tế. Thông tin y tế hiện nay được thu thập chủ yếu là từ các cơ sở y tế
công. Một số thông tin quan trọng chưa được thu thập thường xuyên và chưa
đảm bảo độ tin cậy cần thiết. Việc sử dụng, phân tích số liệu và dự báo còn
nhiều hạn chế ở tất cả các tuyến. Nguyên nhân của những tồn tại là do: Thiếu sự
phối kết hợp giữa các hệ thống thông tin y tế và giữa hệ thống thông tin y tế với

các hệ thống thông tin của các bộ/ngành liên quan. Nguồn lực đầu tư chưa tương
xứng với yêu cầu hoạt động của Hệ thống, cụ thể: Những chính sách đã ban
hành liên quan đến hệ thống thông tin y tế vẫn còn thiếu đồng bộ; Nhân lực của
làm công tác thông tin thống kê y tế không ổn định, yếu về chuyên môn, thiếu
về số lượng; Việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong xử lý, lưu trữ và chuyển tải
thông còn chậm đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng số liệu, tính kịp thời và
yêu cầu của người sử dụng …Dưới đây là một số vấn đề đang nổi cộm của hệ
thống thông tin y tế.
2.2.1.7

Nguồn lực

- Những chính sách đã ban hành
Mặc dù đã có nhiều chính sách được ban hành liên quan đến Hệ thống
thông tin thống kê nói chung và Hệ thống thông tin y tế nói riêng, song vẫn
chưa bao chùm toàn bộ các khía cạnh và các thành phần của hệ thống thông tin
thống kê y tế, cụ thể: Một số chính sách tuy được ban hành, nhưng chưa được
thực hiện, phần vì những chính sách đưa ra lại thiếu các giải pháp và những điều
kiện triển khai, thiếu quy định về nhân lực và kinh phí thực hiện các chính sách
đó. Việc tuyên truyền vận động thực hiện các chính sách chưa được thường
xuyên và rộng khắp. Các chính sách liên quan đến hệ thống thông tin y tế trên
tuy đã có sự phân công, song chưa quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ thu
thập, xử lý, cung cấp và chia sẻ thông tin giữa các tiểu hệ thống thông tin trong
ngành y tế, đã gây lên sự chồng chéo; Cơ quan thống kê Quốc gia, Bộ Tài chính,
20


BHXH và Bộ Y tế chưa thiết lập cơ chế điều phối và hợp tác trong quá trình thu
thập và chia sẻ thông tin.
- Tổ chức và nhân lực của Hệ thống thống kê y tế

Như trên đã trình bày, Hệ thống thông tin y tế gắn liền với mạng lưới cung
cấp dịch vụ y tế. Song do tổ chức y tế tuyến quận huyện chưa thống nhất, đã gây
những khó khăn trong việc thu thập và cung cấp thông tin. Về nhân lực của hệ
thống thông tin y tế, theo đánh giá năm 2012: “Nhân lực làm công tác thông tin y
tế thiếu về mặt số lượng, yếu về chuyên môn và không ổn định”.Tại Bộ Y tế,
trước đây là tổ thông tin thống kê và mới được chuyển thành Phòng thống kê Y tế
thuộc Vụ Kế hoạch-Tài chính. Phòng Thống kê Y tế là cơ quan chịu trách nhiệm
cao nhất về công tác thống kê Y tế với chức năng: Quản lý Nhà nước về công tác
thống kê Y tế, xây dựng các chính sách liên quan đến công tác thông tin thống kê
y tế; Xây dựng và quản lý thống nhất các chỉ tiêu thống kê y tế, phương pháp thu
thập, ghi chép, quy trình thực hiện, quy chế cung cấp và sử dụng số liệu, hệ thống
biểu mẫu thống kê thống nhất trong toàn Ngành; Hướng dẫn nghiệp vụ thống kê
cho các đơn vị các tuyến; Tổ chức và quản lý các điều tra, đánh giá về các hoạt
động của ngành Y tế cũng như các yếu tố liên quan đến tình trạng sức khoẻ con
người. Tổng hợp và phân tích số liệu thống kê định kỳ: hàng năm, 5 năm, 10 năm.
Biên soạn, xuất bản Niên giám thống kê Y tế và các ấn phẩm thống kê khác; Là
đơn vị duy nhất cung cấp số liệu thống kê Y tế để công bố ở trong và ngoài nước;
Xây dựng và ứng dụng các thành tựu công nghệ tin học trong xử lý, lưu trữ và
truyền tin; Thực hiện chế độ báo cáo thống kê cho các cơ quan thống kê nhà
nước, các cơ quan tổng hợp của Chính phủ và các tổ chức quốc tế. Kiểm tra giám
sát việc thực hiện công tác thống kê của các cơ sở y tế trong toàn quốc v.v... Với
khối lượng công việc được giao lớn như vậy, song chỉ có 5 cán bộ trong biên chế
nhà nước và 1 cán bộ hợp đồng.
Sở Y tế vừa phải tổng hợp số liệu về hoạt động y tế và thực trạng sức khỏe
của nhân dân trong tỉnh, vừa phải chịu trách nhiệm xây dựng mạng lưới thống
kê trong tỉnh cũng chỉ có 1 cán bộ làm công tác thống kê. Các bệnh viện lớn từ
500 giường bệnh trở lên mới có 1 cán bộ thống kê chuyên trách. Còn các vụ,
cục, viên các chương trình y tế quốc gia tại tuyến trung ương, tỉnh, huyện tuy có
bố trí cán bộ làm công tác thống kê nhưng hầu hết họ phải kiêm nhiệm thêm một
số công việc khác như xây dựng kề hoạch, quản lý hành chính, kế toán hoặc

cung cấp dịch vụ y tế v.v...
Do đặc thù của công tác thống kê Y tế, đặc biệt là thống kê bệnh tật, tử
vong trong bệnh viện, thống kê của hệ thống giám sát, thống kê phòng chống
các bệnh xã hội như Lao, phong, Da liễu, tâm thần, sốt rét, HIV...vì phải kiêm
nhiệm một số công việc liên quan đến cung cấp dịch vụ y tế nên nhiều cán bộ
21


làm công tác thông tin thống kê tuy có trình độ chuyên môn về y, dược, song
phần lớn số cán bộ này chưa được tập huấn về nghiệp vụ thu thập, xử lý, phân
tích và sử dụng số liệu kể cả tuyến trung ương. Họ làm việc chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm bản thân hoặc học hỏi những người đã làm việc trong lĩnh vực
thống kê y tế. Trong mấy năm gần đây, Bộ y tế và các lĩnh vực, các chương trình
cũng đã cố gắng tổ chức các lớp tập huấn, nhưng do kinh phí có hạn nên các lớp
tập huấn chủ yếu là hướng dẫn ghi chép biểu mẫu sổ sách, báo cáo và tính toán
một số chỉ tiêu đơn giản. Đây là nguyên nhân chất lượng số liệu, kiến thức phân
tích, đánh giá và dự báo dựa vào số liêu thống kê còn hạn chế.
Cán bộ làm công tác thống kê tin học của các cơ sở y tế không ổn định,
phần do chính sách đãi ngộ cho những cán bộ này thường thấp hơn so với cán
bộ cùng trình độ nhưng làm ở lĩnh vực khác, phần do phải kiêm nhiệm nhiều
việc khác trong khi đó sự quan tâm của các cấp, các ngành đến công tác thông
tin thống kê của các Bộ ngành còn hạn chế. Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ
đã ký Quyết định số 45/2009/QĐ-TTg về việc ban hành chế độ phụ cấp ưu đãi
theo nghề đối với cán bộ, công chức làm công tác thống kê, song Quyết định này
mới được thực hiện ở hệ thống Thống kê Nhà nước. Thêm vào đó kiến thức sử
dụng số liệu của cán bộ quản lý, thống kê các cấp còn yếu. Quan niệm làm
thống kê là để báo cáo cấp trên là phổ biến nên đã không khuyến khích người
làm công tác thông tin thống kê y tế cũng như đầu tư cho lĩnh vực này.
- Ngân sách đầu tư cho hệ thống thông tin y tế
Một số tiểu hệ thống thông tin y tế có Dự án trong nước hoặc Quốc tế,

tuy có sự hỗ trợ về kỹ thuật và trang thiết bị để thu thập và xử lý thông tin, song
sự hỗ trợ này chỉ tập trung ở một số vùng /tỉnh của Dự án và thời gian mà dự án
còn hoạt động nên không bao phủ được toàn bộ hệ thống cùng như tình bền
vững sau khi kết thúc dự án.
Nhìn chung ngân sách đầu tư cho hệ thống và tiểu hệ thống thông tin
thống kê y tế rất thấp và không thường xuyên. Trong kế hoạch phân bổ ngân
sách hàng năm của các tuyến kể cả tuyến trung ương không có dòng ngân sách
dành riêng cho công tác thông tin thống kê y tế. Đây là vấn đề khó khăn mà Hệ
thống không thể tiến hành các cuộc điều tra định kỳ cũng như tổ chức các khóa
đào tạo, mua sắm thiết bị, ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật trong
công tác thông tin thống kê y tế, thậm chí cả in ấn biểu mẫu, đặc biệt là tỉnh
nghèo và vùng khó khăn.
- Cơ sở hạ tầng
Việc trang bị thiết bị tính toán cho các cơ sở y tế nói chung và cho công
tác thông tin thống kê nói riêng tuy đã có sự cải thiện song vẫn còn nhiều bất
cập. Hiện tại, hầu hết các trạm y tế chưa được trang bị máy vi tính. Một số
22


Trung tâm y tế quận huyện, phòng khám bệnh, cán bộ làm công tác thông tin
thống kê chưa được trang bị máy vi tính riêng mà phải sử dụng chung với các bộ
phận khác như kế họach, kế toán, quản lý hành chính v.v... Nhiều bệnh tuyến
tỉnh kể cả tuyến trung ương, tuy được trang bị máy tính song cấu hình rất thấp,
hệ thống mạng quá cũ không đáp ứng yêu cầu của các phần mềm quản lý, xử lý
và chuyển tải thông tin. Phương tiện thông tin liên lạc (Telecommunication) còn
hạn chế.Một số phần mền tuy đã được xây dựng và đưa vào hoạt động nhưng
vẫn còn trục trặc, các phân hệ của phần mềm chưa kết nôi được với nhau.
2.2.1.8

Hệ thống chỉ tiêu thống kê y tế


Mặc dù Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và chỉ tiêu Ngành y tế đã
được chỉnh sửa nhằm đáp ứng nhu cầu của người dung tin, song việc thu thập số
liệu để tính toán các chỉ tiêu vẫn còn gặp nhiều khó khăn, do một số nguyên
nhân: (1) Hệ thống biểu mẫu sổ sách, báo cáo của một số lĩnh vực và chương
trình ban hành đã khá lâu và không thống nhất, đặc biệtbiểu mẫu ghi chép ban
đầu và báo cáo của bệnh viện (hồ sơ bệnh án và sổ sánh ghi chép ban đầu ban
hành từ năm 2001; biểu mẫu báo cáo ban hành từ năm 1997). Chính vì vậy một
số chỉ tiêu thu thập không còn giá trị, trong khi lại thiếu những chỉ tiêu quan
trọng. (2) Việc ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực y tế còn quá chậm nên
không thể cung cấp những thông chi tiết phục vụ phân tổ chỉ tiêu theo đặc điểm
dân số như: (tuổi/giới); theo kinh tế /xã hội (nhóm thu nhập, trình độ văn hóa);
Theo đơn vị hành chính (tỉnh, huyện, xã, nông thôn/ thành thị), cụ thể như bệnh
tật theo tuổi/ giới, nhân lực phân theo tuổi/giới/ dân tộc...(3) Một số chỉ tiêu phải
thu thập bằng phương pháp điều tra nhưng do không có kinh phí để thực hiện
nên không thể thu thập được; (4) Kinh phí đầu tư cho công tác thống thông tin
quá thấp đã có những khó khăn trong việc sửa đổi, triển khai hệ thống biểu mẫu
mới và đầu tư ứng dụng công nghệ tin học cho hệ thống và tiểu hệ thống thông
tin y tế.
2.2.1.9

Nguồn số liệu

Thông tin y tế được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, cụ thể: Từ các
tiểu hệ thông của các lĩnh vực, các chương trình mục tiêu y tế quốc gia trong
ngành y tế, hệ thống thông tin của các Bộ/Ngành liên quan với các phương pháp
khác nhau như: Điều tra dựa trên dân số, giám sát các bệnh dịch lây, các bệnh
không lây, hệ thống báo cáo định kỳ và khảo sát hồ sơ quản lý của các cơ sở y
tế. Trong những năm qua, Hệ thống thống kê Nhà nước (TCTK) đã tiến hành
nhiều cuộc điểu tra để thu thập những thông tin, trong đó có nhiều thông tin liên

quan đến y tế như: Tổng điều tra Dân số; Điều tra Biến động Dân cư và
KHHGĐ; Khảo sát Mức sống dân cư; Điều tra Nhân khẩu và Sức khỏe ; Điều
23


tra đánh giá mục tiêu về trẻ em và phụ nữ Việt nam (MICS) …Nhìn chung số
liệu của hệ thống thông kê nhà nước đã hỗ trợ cho ngành y tế trong việc phân
tích, đánh giá và hoạch định chính sách phát triển của Ngành. Tuy nhiên, hầu hết
các số liệu thu thập từ các cuộc điều tra trên mới cung cấp ở mức độ Quốc gia
nên đã khó khăn cho các cơ sở y tế tuyến dưới trong việc phân tích đánh giá,
cung cấp dịch vụ y tế và xây dựng kế hoạch, đặc biệt tuyến huyện và xã. Một số
thông tin quan trọng chưa được cung cấp thường xuyên, chưa kịp thời và không
đảm bảo độ tin cậy cần thiết như chết mẹ, chết trẻ em <1 tuổi, <5 tuổi và nguyên
nhân tử vong.
Hệ thống hộ tịch là nguồn thông tin chính về sinh, tử. Số liệu về sinh, tử
của Bộ Tư pháp thu thập dựa vào những người dân chủ động đến khai sinh và
khai tử nên thường chậm và không đầy đủ, do việc thực hiện Luật khai báo sinh,
tử chưa được nghiêm. Theo quyết định ban hành hệ thống biểu mẫu báo cáo của
Bộ tư pháp năm 2006, trong đó có quy định báo cáo về 4 nhóm nguyên nhân
chính, như: chết do bệnh tật, già yếu; chết do tai nạn, chết do tự tử và các trường
hợp khác. Song rất nhiều trường hợp tử vong không khai báo được nguyên nhân
hoặc khai báo không chính xác. Chính vì vậy, năm 2011, Bộ Tư Pháp có ban
hành Thông tư số 08/2011/TT-BTP ngày 5 tháng 4 năm 2011 về việc hướng dẫn
một số nội dung công tác thống kê của ngành Tư pháp, trong thông tư này không
quy định báo cáo nguyên nhân tử vong.
Hệ thống thông tin y tế, hàng năm tuy có thu thập và công bố nguyên
nhân tử nhưng chỉ là nguyên nhân tử vong trong bệnh viện. Số liệu này rất thấp
so với thực tế vì nhiều trường hợp già yếu chết tại nhà hoặc có những trường
hợp nằm bệnh viện đến khi gần tử vong lại xin về nhà chết thì không được thu
thập. Nguyên nhân tử vong là thông tin cực kỳ quan trọng đối với ngành y tế. Số

liệu về nguyên nhân tử vong không chỉ phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch,
hoạch định chính sách mà còn phục vụ nghiên cứu khoa học để có các giải pháp
kịp thời làm giảm những căn bệnh có nguy cơ tử vong cao.
Khắc phục tình trạng thiếu sót trên, Bộ Y tế đã ban hành công cụ thu thập
thông tin tử vong tại cộng đồng (Sổ A6 /YTCS). Theo báo cáo điều tra khảo sát
thực địa của trường ĐHYK Hà nội, trường ĐHYTCC và chương trình PCTNTT,
chương trình PC Bệnh ung thư thì bộ công cụ thu thập thông tin về tử vong tại
cộng đồng do Bộ Y tế xây dựng là khá tốt. Bộ công cụ này có khả năng cung cấp
được thông tin về nguyên nhân tử vong phân theo bệnh tật, đặc điểm dân số
(tuổi/giới), nghề nghiệp, dân tộc, khu vực hành chính (thành thị/nông thôn, vùng
sinh thai và tỉnh, huyện). Song trong biểu mẫu báo cáo của các tuyến không quy
định báo cáo nguyên nhân tử vong từ cộng đồng (Sổ A6/YTCS). Nếu như hệ

24


thống này được củng cố và tăng cường đào tạo đội ngũ nhân viên y tế xã và
thôn bản về cập nhật thông tin thì sẽ cung cấp được số liệu có giá trị.
Bộ Y tế đã tổ chức các cuộc điều tra y tế Quốc gia lần 1 năm 2001 -2002,
dưới sự tài trợ của SIDA- Thụy Điền. Đây là cuộc điều tra đầu tiên của ngành y
tế. Cuộc điều tra đã đánh giá khá toàn diện về hoạt động cung cấp dịch vụ y tế,
thực trạng sức khỏe và các yếu tố nguy cơ hàng đầu đến sức khỏe của người dân
Việt nam. Song trên 10 năm qua, ngành y tế vẫn chưa thể triển khai cuộc điều tra
lần 2 do thiếu kinh phí. Vì vậy đã khó khăn cho việc phân tích và so sánh về sự
tiến bộ trong công tác chăm sóc sức khỏe. Bên cạnh điều tra y tế quốc gia, một
loạt cuộc điều tra chuyên môn được thực hiện như: Điều tra Dinh dưỡng, Điều tra
bướu cổ, điều tra về TNTT, HIV v.v… Các cuộc điều tra trên chủ yếu dựa và
nguồn kinh phí được cấp để tính tóan cơ mẫu điều tra và nội dung điều tra nên kết
quả còn hạn chế. Số liệu điều tra thường cung cấp rất chậm và cũng chỉ ở tuyến
Quốc gia và vùng nên chưa đáp ứng nhu càu thông tin tuyến tỉnh và huyện.

Nguồn số liệu từ hệ thống báo cáo định kỳ, hiện tại mới thu thập được từ
các cơ sở y tế công lập, thiếu số liệu của các cơ y tế ngoài công lập nên số liệu
chưa phản ánh chính xác thực trạng sức khỏe cũng như hoạt động cung cấp dịch
vụ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của toàn lĩnh vực y tế. Bộ Y tế đã xây dựng
được bộ công cụ thu thập số liệu của các cơ sở y tế tư nhân, hy vọng trong các
năm tới chất lượng số liệu sẽ được cải thiện.
Hệ thống giám sát các bệnh truyền nhiễm gây dịch, tiểu hệ thống thông
tin của các lĩnh vực như SKSS; sốt rét; TCMR …tuy đã được xây dựng và hoạt
động từ rất nhiều năm nay, nhưng việc phối hợp và chia sẻ thông tin gữa khoa
lây, khoa sản của các bệnh viện với Hệ thống Giám sát và các tiểu hệ thống tại
các tuyến còn hạn chế. Do việc kết nối, chia sẻ thông tin giữa các hệ thống với
bệnh viện chưa tốt. Một số tỉnh đã yêu cầu trạm y tế xã/phường ngoài việc thu
thập tổng hợp thông tin về hoạt động cung cấp dịch vụ y tế tại trạm y tế còn phải
thu thập thông tin từ bệnh viện nên đã gây sự quá tải cho cán bộ trạm y tế và
chất lượng thông tin chưa thực sự đảm bảo độ tin cậy.
Mô hình bệnh tật của Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự thay
đổi đáng kể, các bệnh truyền nhiễm gây dịch đang có chiều hướng giảm dần
trong khi đó các bệnh không lây như ung thư, tim mạch, đái tháo đường, tai nạn
thương tích, ngộ độc gia tăng. Chính phủ Việt nam đã ban hành nhiều chính sách
nhằm hạn chế mắc và chết của các bệnh trên, song số liệu hiện nay của ngành y
tế chỉ thu thập được các trường hợp mắc/ chết các bệnh trên tại cơ sở khám chữa
bệnh, thiếu thông tin cụ thể về số người mắc, chết. Nguyên nhân của vấn đề này
là do hệ thống ghi nhận một số bệnh không lây chưa được củng cố và tăng
cường. Việc thiếu thông tin hoặc thông tin không đầy đủ về các bệnh không lây
25


×