Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở huyện Quảng Xƣơng, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.51 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
Uỷ ban nhân dân cấp xã đã từng bước được kiện toàn về tổ chức, đổi mới phương
thức hoạt động, phát huy vai trò là cơ quan hành chính của Nhà nước ở cơ sở, thực
hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - văn hóa xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, góp phần nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân.
Việt Nam đang trên con đường hội nhập và phát triển cả về kinh tế và chính
trị, đã và đang tạo được những thành tựu quan trọng, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa
hơn so với các nước phát triển, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước. Chính vì vậy, các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa
phương không ngừng đổi mới toàn diện về mọi mặt để thích nghi, đáp ứng với yêu
cầu của sự phát triển. Nền hành chính nước ta tuy có nhiều đổi mới, nhưng về cơ
bản vẫn chưa thể đảm nhiệm vai trò khai thông các nguồn lực trong từng cá nhân
và cả xã hội để phát triển đất nước. Vì vậy, trong nhiệm vụ xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần thực hiện bước chuyển từ nền hành chính truyền
thống sang nền hành chính phát triển; xây dựng mô hình hành chính công theo các
tiêu chí hiện đại, chủ động, năng động, nhạy bén, thích nghi cao, nhằm đáp ứng
các yêu cầu quản lý và cung cấp dịch vụ tối đa trong điều kiện kinh tế thị trường
phát triển mạnh mẽ và những quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn
nhau. Nền hành chính công truyền thống chú trọng đến hiệu lực của nền hành
chính nhà nước, thực hiện công việc bảo đảm đúng chu trình, đúng quy tắc, thủ tục
hành chính (đầu vào), đánh giá việc quản lý hành chính thông qua xem xét mức độ
thực thi các quy tắc, thủ tục hành chính. Trong khi đó, mục tiêu của hành chính
phát triển là hiệu quả của nền hành chính Nhà nước, bảo đảm kết qua tốt nhất, hiệu
quả cao nhất (đầu ra).
Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước cấp cơ sở, cấp trực
tiếp tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước. Là cấp quan hệ, tiếp xúc thường xuyên với nhân dân nên Ủy
ban nhân dân cấp xã có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức bộ


máy hành chính Nhà nước Việt Nam. Việc nghiên cứu xây dựng và thực hiện các
giải pháp nâng cao hiệu quản quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã
chính là góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao đời sống cho nhân dân, nâng cao sự
hài lòng của người dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước.
Quảng Xương là một huyện anh hùng trong đấu tranh dựng nước và giữ
nước, đặc biệt trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
Trước đây, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, nhưng trong những năm
vừa qua, dưới sự lãnh đạo toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo trực tiếp, sát
sao của Ủy ban nhân dân huyện, sự giám sát của Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt
trận tổ quốc, nhân dân, sự tích cực trong phối hợp của các ngành, đoàn thể, sự cố
gắng của các tầng lớp nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội có bước phát triển, đời
1


sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, an ninh - chính trị,
quốc phòng ở địa phương luôn ổn định. Kết quả đó có sự đóng góp từ hiệu lực,
hiệu quả trong hoạt động quản lý hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Bên
cạnh việc triển khai thực hiện có kết quả sự lãnh đạo của Cấp ủy, nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cùng cấp, sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện, Ủy ban nhân
dân xã đã chủ động hơn, tích cực hơn trong thực hiện nhiệm vụ quản lý hành
chính ở cơ sở; triển khai và đẩy mạnh các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm an ninh - quốc phòng, tăng cường cải cách hành chính, nâng cao năng lực,
trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của công chức, phục vụ nhân dân.
Tuy nhiên, hoạt động quản lý hành chính nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp
xã ở huyện Quảng Xương còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa theo kịp với yêu cầu của sự
phát triển, chưa đáp ứng được mong muốn của nhân dân. Thể hiện từ kết quả hạn chế
trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, trong việc cung cấp các dịch vụ
công, đáp ứng sự hài lòng của người dân, cũng như những hạn chế trong thực hiện

chức năng quản lý nhà nước ở các lĩnh vực khác như tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, cải cách hành chính, truyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Đây cũng là hạn chế phổ biến trong hoạt động
của Ủy ban nhân dân cấp xã trong cả nước.
Do vậy, việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa
có ý nghĩa khoa học, thực tiễn và cần thiết.
Nhận thấy được sự cần thiết và quan trọng của vấn đề đó, tôi đã chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nƣớc của Uỷ ban nhân dân cấp
xã ở huyện Quảng Xƣơng, tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay, việc tăng cường các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã nói riêng và Ủy
ban nhân dân các cấp nói chung đặt ra như một tất yếu khách quan. Chính vì vậy
mà nó đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Tiêu biểu ở một số công trình sau: Bounsouly Loma (20130), Tăng cường
hiệu quả quản lý hành chính nhà nước ở tỉnh Phongsaly Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị và hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội, đã xây dựng được ba tiêu chí đánh giá hiệu
quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; các
yếu tố chủ quan, khách quan ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hành chính, từ đó
xây dựng được sáu giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước
của tỉnh Phongsaly; Nguyễn Quang Thành (2000), Nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước của Ủy ban nhân dân phường, xã tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang,
Luận văn thạc sỹ, Học viện hành chính quốc gia, Hồ Chí Minh, đã tập trung đánh
các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân xã tại
thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang, từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu
quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân xã từ việc nâng cao hiệu quả hoạt
2



động của các yếu tố đó; Nguyễn Hữu Hiếu (2012), Nâng cao hiệu quả hoạt động
của Ủy ban nhân dân cấp huyện từ thực tiễn ở tỉnh Nghệ An, Luận văn Thạc sỹ,
Học viện hành chính, Hà Nội, cũng đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu
quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, từ đó xây dựng các giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện từ
thực tiễn tỉnh Nghệ An; Thang Văn Phúc (2001), Cải cách hành chính nhà nước Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội; Hồ Văn
Thông (1991), Tình hình các tổ chức chính trị ở nông thôn nước ta, Nxb Tư tưởng
văn hóa, Hà Nội; Viện nghiêu cứu được in trong cuốn sách khoa học tổ chức Nhà
nước - Bộ Nội vụ, Hệ thống chính trị cơ sở thực trạng và một số giải pháp đổi
mới", Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông (2005),
Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb chính trị quốc
gia, Hà Nội; Thang Văn Phúc và Chu Văn Thành (2000), Chính quyền cấp xã và
quản lý Nhà nước cấp xã, Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Ban tổ chức cán bộ
chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các nghiên cứu này đã góp phần quan
trọng hình thành cơ sở lý luận và đưa ra các đánh giá thực tiễn về hiệu quả hoạt
động của Ủy ban nhân dân cấp xã, và là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng giúp
tác giả trong quá trình nghiên cứu.
Tuy nhiên, về nâng cao hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân
cấp xã từ thực tiễn ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa thì chưa có đề tài nào
nghiên cứu. Vì vậy, tôi chọn đề tài này để làm luận văn thạc sỹ của mình với
mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào mục tiêu nâng cao hiệu
quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện Quảng Xương, tỉnh
Thanh Hóa.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
Thông qua việc đánh giá hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã ở
huyện Quảng Xương, qua đó nghiên cứu, đề xuất các giải pháp để nâng cao chất
lượng và hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện
Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các

nhiệm vụ cụ thể sau:
- Trình bày được cơ sở lý luận về Ủy ban nhân dân cấp xã, và sự cần thiết
phải nâng cao hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hành chính của Ủy
ban nhân dân cấp xã ở huyện Quảng Xương, bao gồm năng lực hành chính (thể
chế hành chính, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, nguồn lực tài chính);
mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân xã với Cấp ủy, Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ
quốc và các tổ chức đoàn thể cùng cấp; đánh giá thực trạng hiệu quả quản lý hành
chính của Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện Quảng Xương.
- Trên cơ sở những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại, và nguyên
nhân của những hạn chế, tồn tại để đề xuất phương hướng và một số giải pháp

3


nâng cao hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện Quảng
Xương trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động quản lý hành chính của Ủy
ban nhân dân cấp xã.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các xã của huyện Quảng Xương, tỉnh
Thanh Hóa, trong thời gian từ năm 2010 đến 2013.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp luận:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; sử dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin trong
nghiên cứu về hành chính nhà nước; vận dụng những quan điểm, đường lối, chủ
trương Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.

- Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc tài liệu, phân tích tài liệu để thu thập
thông tin và hệ thống hóa các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề
tài.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, phương pháp điều tra xã hội khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận, phương pháp luận về quản lý hành chính
của Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa trong bối
cảnh đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc
tế.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể áp dụng ở nhiều địa phương
trong nước, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân
cấp xã tại huyện Quảng Xương nói riêng và cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về Ủy ban nhân dân cấp xã và hiệu quả hoạt động
quản lý hành chính.
Chương 2: Đánh giá hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân cấp
xã từ thực tiễn ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hành chính
của Uỷ ban nhân dân cấp xã từ thực tiễn ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.

4


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
1.1. Uỷ ban nhân dân cấp xã trong bộ máy hành chính nhà nƣớc.

1.1.1. Vị trí, vai trò của Ủy ban nhân dân cấp xã trong bộ máy hành
chính nhà nước.
Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước địa phương cấp cơ
sở, là cấp gần dân nhất, trực tiếp quan hệ, tiếp xúc thường xuyên với nhân dân,
trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đến với người dân, vì vậy, Ủy ban nhân dân cấp xã có vai
trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước
Việt Nam.
1.1.2. Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan hành chính địa phương cấp cơ sở, do
Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân,
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân
dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Ủy ban nhân dân hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, Uỷ ban nhân
dân mỗi tháng họp ít nhất một lần. Các quyết định của Uỷ ban nhân dân phải được
quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành. Uỷ ban nhân
dân thảo luận tập thể và quyết định theo đa số các vấn đề: Chương trình làm việc
của Uỷ ban nhân dân; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách,
quyết toán ngân sách hàng năm và quỹ dự trữ của địa phương; Kế hoạch đầu tư,
xây dựng các công trình trọng điểm ở địa phương; Kế hoạch huy động nhân lực,
tài chính để giải quyết các vấn đề cấp bách của địa phương trình Hội đồng nhân
dân cùng cấp quyết định; Các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân
dân về kinh tế - xã hội; thông qua báo cáo của Uỷ ban nhân dân trước khi trình
Hội đồng nhân dân.
1.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Ủy ban nhân xã có nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Hiến pháp
năm 2013; Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, tại các
Điều 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, và các nhiệm vụ khác theo thẩm quyền
phân cấp. Đối với các nhiệm theo luật định, những nhiệm vụ lớn, Ủy ban nhân dân
xã có trách nhiệm xây dựng chương trình, kế hoạch, đề án, báo cáo Hội đồng nhân

dân cùng cấp thông qua, và trình Ủy ban nhân dân cấp trên phê duyệt để làm cơ sở
triển khai thực hiện.
Ủy ban nhân dân xã có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quốc phòng - an ninh; quản lý xã hội
trên địa bàn theo quy định của pháp luật.

5


1.1.4. Các nội dung hoạt động chủ yếu của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Trong khi nội dung hoạt động chủ yếu của Chính phủ, các bộ, ngành trung
ương là nghiên cứu, xây dựng các quy định, cơ chế, chính sách thông qua hoạt
động ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quản lý xã hội, thì hoạt động chủ
yếu của Ủy ban nhân dân các cấp là tổ chức triển khai thực hiện các quy định, cơ
chế, chính sách của Nhà nước, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật. Để tổ chức
triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước,
và quản lý xã hội, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng tại cơ sở, Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện các nội dung hoạt động
chủ yếu sau:
1.1.4.1. Ban hành văn bản hành chính.
1.1.4.2. Thực hiện công tác cải cách hành chính.
1.1.4.3. Tổ chức tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
1.1.4.4. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.1.4.5. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
1.2. Hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc.
Giáo trình Học viện Hành chính quốc gia: “Hiệu quả quản lý hành chính
nhà nước là mối tương quan giữa kết quả thu được tối đa so với chi phí thực hiện
kết quả đó ở mức tối thiểu”
Trong thực tế, việc đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước rất phức
tạp, khó khăn, có thể đánh giá một cách rõ ràng về định lượng mà hầu như chi
dừng lại ở đánh giá định tính.

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả quản lý hành chính của Uỷ ban
nhân dân cấp xã.
Trong quản lý hành chính nhà nước, việc đánh giá hiệu quả có nhiều cách
khác nhau, dựa trên cơ sở, tiêu chí, các yếu tố ảnh hưởng khác nhau; đánh giá hiệu
quả quản lý hành chính một cách chính xác là vấn đề khó và phức tạp cần nhiều
công trình nghiên cứu chuyên sâu. Tuy nhiên, tại đề tài này sẽ nêu lên một số cơ
sở đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban
nhân dân cấp xã như sau.
1.3.1. Năng lực của cơ quan hành chính nhà nước cấp xã:
1.3.1.1. Thể chế hành chính.
1.3.1.2. Tổ chức bộ máy.
1.3.1.3. Đội ngũ cán bộ, công chức.
1.3.1.4. Nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất..
1.3.2. Các mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân cấp xã với Cấp ủy, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị cùng cấp.
1.3.2.1. Quan hệ với cấp ủy Đảng cùng cấp.
6


1.3.2.2. Quan hệ với Hội đồng nhân dân cùng cấp.
1.3.2.3. Quan hệ với Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn
thể cùng cấp.
1.4. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả quả quản lý hành chính của Ủy ban
nhân dân cấp xã.
1.4.1. Mức độ hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của Ủy ban
nhân dân cấp xã.
1.4.2. Kết quả phát triển kinh tế
1.4.3. Kết quả phát triển văn hóa - xã hội
1.4.4. Công tác bảo đảm quốc phòng - an ninh.
1.4.5. Số lượng, chất lượng quyết định quản lý Hành chính nhà nước.

1.4.6. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
1.4.7. Công tác cải cách hành chính.
1.4.8. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật.
1.4.9. Công tác thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.

7


Chƣơng 2
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CỦA ỦY BAN
NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở HUYỆN QUẢNG XƢƠNG, TỈNH THANH HÓA
2.1. Khái quát về huyện Quảng Xƣơng, tỉnh Thanh Hóa.
Quảng Xương là huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Thanh Hóa, với 36 xã,
thị trấn. Diện tích tự nhiên là 198,2 km2; dân số 247.658 người (năm 2013), chủ
yếu là dân tộc kinh.
Trong thời gian qua, đặc biệt là những những năm gần đây (từ 2010 - 2013),
cùng với sự phát triển của tỉnh, của huyện, tình hình kinh tế - xã hội của các xã, thị
trấn trên địa bàn huyện đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp chung vào
thành tích của cả huyện; những tiềm năng, lợi thế đã được quan tâm, khai thác; đã
huy động được nhiều nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của
nhân dân được cải thiện rõ rệt, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, khang trang.
2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng tới hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban
nhân dân cấp xã ở huyện Quảng Xƣơng.
2.2.1. Năng lực hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã.
2.2.1.1. Thể chế hành chính.
Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
năm 2003, Quyết định số 685/2007/QĐ-UBND ngày 02/3/2007 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Thanh Hóa về việc ban hành quy định phân công, phân cấp quản lý tổ
chức bộ máy và cán bộ, công chức, và các văn bản, quy định có liên quan, đã tạo
hành lang pháp lý thuận lợi cho Ủy ban nhân dân xã thực hiện công tác quản lý

hành chính nhà nước tại cơ sở.
Là cơ quan chịu sự lãnh đạo của Cấp ủy cùng cấp, cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân cùng cấp và chịu sự quản lý, sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban nhân dân
cấp huyện, bên cạnh đó Ủy ban nhân dân xã còn có mối quan hệ liên quan với Ủy
ban mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp.
2.2.1.2. Tổ chức bộ máy.
Các xã của huyện Quảng Xương có từ 01 đến 02 Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân, và có từ 02 đến 05 Ủy viên Uỷ ban nhân dân; có 25 chức danh công chức đối
với các xã loại 1; có 23 chức danh công chức đối với các xã loại 2 và có 21 chức
danh công chức đối với các xã loại 3. Cụ thể như sau:
- Có 9 xã loại một, bao gồm: Quảng Vinh, Quảng Hùng, Quảng Hải, Quảng
Lưu, Quảng Thái, Quảng Lợi, Quảng Thạch, Quảng Nham và Quảng Đại.
- Có 17 xã loại hai, bao gồm: Quảng Thọ, Quảng Châu, Quảng Nhân,
Quảng Lộc, Quảng Chính, Quảng Trung, Quảng Ngọc, Quảng Trường, Quảng
Long, Quảng Hòa, Quảng Yên, Quảng Đức, Quảng Ninh, Quảng Bình, Quảng
Phong, Quảng Tân và Quảng Khê.

8


- Có 10 xã loại ba, bao gồm: Quảng Định, Quảng Lĩnh, Quảng Minh, Quảng
Giao, Quảng Hợp, Quảng Trạch, Quảng Phúc, Quảng Vọng, Quảng Văn và thị
trấn Quảng Xương.
2.2.1.3. Về đội ngũ cán bộ, công chức.
Tính đến tháng 12/2013, tổng số cán bộ, công chức cấp xã huyện Quảng
Xương được biên chế là 708 người, trong đó cán bộ chuyên trách là 419 người;
trong số 419 cán bộ chuyên trách có 38 người có trình độ đại học, 5 người có trình
độ Cao đẳng, có 213 người có trình độc Trung cấp, 163 người chưa qua đào tạo;
trong tổng số 289 công chức cấp xã, có 43 người có trình độ Đại học, 17 người có
trình độ Cao đẳng, có 168 người có trình độ Trung cấp, 48 người có trình độ Sơ

cấp, và 13 người chưa qua đào tạo.
2.2.1.4. Về nguồn lực tài chính.
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn xã chủ yếu là các khoản thu phí, lệ
phí, thuế môn bài, thuế tài nguyên, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế từ các
hợp tác xã, kinh tế cá thể, hộ gia đình, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp … Các
nguồn thu này xã được hưởng theo tỷ lệ phần trăm quy định và dùng để chi cho
chế độ con người, hoạt động công tác phí của Ủy ban nhân dân xã. Kinh phí từ
nguồn thu này đạt rất thấp. Hằng năm, ngân sách cấp trên phải bổ sung trung bình
cho các xã từ trên 80% đến 95% tổng chi ngân sách.
2.2.2. Mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân cấp xã với Cấp ủy, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trịnh cùng cấp.
2.2.2.1. Quan hệ với cấp ủy Đảng cùng cấp.
Ủy ban nhân dân cấp xã đã nghiêm túc thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và các văn bản chỉ đạo của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của Đảng ủy cùng cấp; đã tích cực, chủ động đề xuất với Đảng ủy phương
hướng, nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, trật tự an toàn
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân và những vấn đề quan trọng khác ở địa phương.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân cấp xã với cấp ủy cơ sở còn
bộc lộ một số hạn chế: có biểu hiện tâm lý ỷ lại, thụ động trong giải quyết công
việc, nhất nhất phải có ý kiến của cấp ủy cơ sở mới giám giải quyết. Mặt khác
cũng có xã, Bí thư kiêm chủ tịch Uỷ ban nhân dân đã xảy ra hiện tượng Bí thư
xem nhẹ vai trò của Hội đồng nhân dân.
2.2.2.2. Quan hệ với Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Ủy ban nhân dân xã đã nghiêm túc thực hiện quy định của Nhà nước là cơ
quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo
trước Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, Hội đồng nhân dân chưa phát huy được vai
trò, nhiệm vụ của mình trước Ủy ban nhân dân cùng cấp, thể hiện ở các nội dung
hoạt động của Hội đồng nhân dân nhiều lúc mang tính hình thức. Hội đồng nhân
dân chưa phát huy được vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở cơ sở, là
đại biểu trung thành đại diện cho ý chí và nguyện vọng của người dân, chưa thực

hiện tốt vai trò quyết định các vấn đề lớn, quan trọng của cơ sở; chất lượng hoạt
9


động giám sát, chất vấn đối với các hoạt động của Ủy ban nhân dân, các thành
viên Ủy ban nhân dân còn nhiều hạn chế; chất lượng các kỳ họp của Hội đồng
nhân dân chưa đáp ứng được yêu cầu.
2.2.2.3. Mối quan hệ với Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
đoàn thể cùng cấp.
Ủy ban nhân dân cấp xã đã thực hiện có hiệu quả trách nhiệm phối hợp chặt
chẽ với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cấp xã trong thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, tổ chức quản lý xã hội,
chăm lo đời sống và bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, hoạt động tham gia xây dựng chính quyền,
giám sát đối với hoạt động Ủy ban nhân dân của Ủy ban mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể chính trị cấp xã còn mang tính hình thức, chưa phát huy nhiều kết quả.
2.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý hành chính của Ủy ban nhân
dân cấp xã ở huyện Quảng Xƣơng.
2.3.1. Những kết quả đạt được.
2.3.1.1. Về sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của
UBND cấp xã.
- Tỷ lệ người dân hài lòng với tiếp cận dịch vụ hành chính Ủy ban nhân dân
xã cung cấp đạt 65%.
- Tỷ lệ người dân hài lòng với thủ tục hành chính đạt 50%.
- Tỷ lệ người dân hài lòng với sự phục vụ của công chức là 53%.
- Tỷ lệ người dân hài lòng với kết quả giải quyết công việc là 55%.
- Tỷ lệ người dân hài lòng với tiếp nhận và xử lý thông tin phản hồi 61%.
2.3.1.2. Về phát triển kinh tế.
Tình hình phát triển kinh kế của các xã ở huyện Quảng Xương đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng; thu nhập bình quân đầu người tăng cao; số hộ nghèo

giảm nhanh; số hộ giầu tăng nhanh.
Phát triển nông nghiệp đạt được kết quả khá toàn hiện, đã hình thành được
ngành, lĩnh vực sản xuất chủ đạo theo lợi thế của từng vùng, từng xã, như các xã
vùng đồng: Tập trung phát triển trồng lúa năng suất, chất lượng cao, hình thành
các cánh đồng mẫu lớn, áp dụng khoa học kỹ thuật trong canh tác, thu hoạch; bình
quân tổng sản lượng lương thực hằng năm giai đoạn 2010 - 2013 là 120 nghìn tấn.
Sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản bình quân hằng năm, giai đoạn 2010 2013 là 19.390 tấn. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp bình quân
hằng năm, giai đoạn 2010 - 2013 là 476,75 tỷ đồng.
2.3.1.3. Về phát triển văn hóa - xã hội.
- Tính đến tháng 12/2013, các xã trong toàn huyện đã khai trương được
300/360 thôn, khu phố văn hóa, đạt tỷ lệ 83%, trong đó đã công nhận được 207
thôn, khu phố đạt tỷ lệ 58% số thôn, khu phố. Trong đó năm 2010, khai trương
10


được 16 và công nhận được 13 thôn, khu phố; năm 2011 khai trương được 21 và
công nhận được 15 thôn, khu phố; năm 2012 khai trương được 19 và công nhận
được 16 thôn, khu phố; năm 2013 khai trương được 20 và công nhận được 12
thôn, khu phố; tỷ lệ gia đình văn hóa năm 2010 là 60%, năm 2011 là 65%, năm
2012 là 71% và năm 2013 là 75%. Các xã, thị trấn trong huyện có tổng 318 nhà
văn hóa, khu thể thao thôn; tỷ lệ gia đình thể thao đạt 22%; số người luyện tập thể
thao thường xuyên đạt 35%; Công tác bảo tồn, quản lý, phát huy giá trị các di tích
được quan tâm và đạt nhiều kết quả. Trong 4 năm qua, đã phục hồi được 15 di
tích; chống xuống cấp được 24 di tích; đề nghị cấp có thẩm quyền xếp hạng thêm
được 26 di tích, trong đó có 2 di tích cấp quốc gia; khôi phục được 5 lễ truyền
thống, 3 làn điều dân ca, dân vũ.
- Công tác giáo dục và đào tạo đặc biệt được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và
đạt được nhiều kết quả nổi bật. 100% các trường Trung học phổ thông, trung học
cơ sở, tiểu học, mầm non được đầu tư xây dựng kiên cố, nhiều trường có nhà cao
tầng; đội tuyển học sinh giỏi lớp 9, lớp 12 thi cấp tỉnh luôn xếp tốp 3 huyện dẫn

đầu cả tỉnh; tỷ lệ thi tốt nghiệp lớp 12 hằng năm đạt trung bình trên 90%; tỷ lệ học
sinh đậu các trường đạt học đạt cao (năm 2010, đạt 46,5%; năm 2011, đạt 52,5%;
năm 2012, đạt 47,8%; năm 2013 đạt 58,3%); năm 210 có 08 trường hoàn thành
xây dựng trường chuẩn quốc gia, năm 2011 có 11 trường; năm 2012 có 12 trường,
năm 2013 có 8 trường, nâng tổng số toàn huyện có 61 trường chuẩn quốc gia, đạt
tỷ lệ 55%, trong đó có nhiều xã có cả 3 cấp học đều đạt chuẩn.
- Công tác chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh, công tác khám chữa
bệnh cho nhân dân được đẩy mạnh và đạt chất lượng hơn. Cơ sở vật chất, trang
thiết bị y tế được đầu tư, đội ngũ y bác sỹ, cán bộ chuyên môn được tuyển chọn,
bổ sung, thường xuyên được học tập, nâng cao trình độ; 20 trạm y tế có nhà cao
tầng kiên cố (trong năm 2010, đã đầu tư xây dựng được 3 nhà cao tầng; năm 2011,
xây dựng được 4; năm 2012 xây dựng được 3; nam 2013 xây dựng được 5), tính
đến tháng 12/2013, toàn huyện có 36 trạm y tế, trong đó có 20 trạm có nhà cao
tầng kiên cố; có 27 trạm y tế có bác sỹ, đạt tỷ lệ 75% số trạm y tế có bác sỹ.
- Công tác đào tạo nghề giải quyết việc làm được đẩy mạnh và đạt nhiều kết
quả; các chính sách an sinh xã hội được quan tâm triển khai thực hiện và đạt kết
quả, các đối tượng người nghèo, người có công, các đối tượng bảo trợ xã hội được
quan tâm chăm sóc; tổng số tiền chi trả cho các đối tượng hằng năm trung bình là
220 tỷ đồng; năm 2010, các xã của huyện đã xây dựng thêm được 268 ngôi nhà
cho người nghèo và các đối tượng; năm 2011 xây dựng được 405 ngôi nhà; năm
2012 xây dựng được 805 ngôi nhà; năm 2013 xây dựng được 408 ngôi nhà.
2.3.1.4. Về công tác an ninh - quốc phòng.
Tính đến tháng 12/2013, toàn huyện có 172 thôn, khu phố đạt danh hiệu khu
dân cư đạt chuẩn về an ninh trật tự; 64 khu dân cư đạt danh hiệu 5 năm liên tục đạt
chuẩn về an ninh trật tự; số vụ phạm pháp hình sự hằng năm giảm; công tác đấu
tranh phòng chống tệ nạn xã hội được tăng cường, tình hình tệ nạn xã hội cơ bản
được kiềm chế; các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông được đẩy mạnh, góp
11



phần hạn chế các vụ tai nạn giao thông trên địa bàn huyện, đặc biệt là ở các tuyến
đường liên xã, liên thôn.
Công tác quốc phòng, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, xây dựng, huấn luyện lực
lượng dân quân tự vệ, công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, khơi dậy truyền thống
đấu tranh cách mạng, chống giặc ngoại xâm, tuyên truyền nâng cao nhận thức đối với
các âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, nhà nước được tăng cường; đã huy động
được sự vào cuộc của người dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân
2.3.1.5. Về công tác ban hành văn bản quản lý nhà nước.
Nhìn chung, đa số các văn bản quy phạm pháp luật của xã ở huyện Quảng
Xương ban hành cơ bản đúng thẩm quyền và thể thức theo quy định của pháp luật.
Văn bản ban hành có tính khả thi và đáp ứng tốt yêu cầu về quản lý, điều hành,
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương. Năm
2010, tổng số văn bản các xã ban hành là 1.621, trong đó có 21 văn bản quy phạm
pháp luật; năm 2011, tổng số văn bản ban hành là 1.825, trong đó có 42 văn bản
quy phạm pháp luật; năm 2012, tổng số văn bản ban hành là 1.656, trong đó có 18
văn bản quy phạm pháp luật; năm 2013, tổng số văn bản ban hành là 1.525, trong
đó có 8 văn bản quy phạm pháp luật.
2.3.1.6. Về thực hiện cải cách hành chính.
Đã thực hiện tốt việc rà soát, đánh giá, kiến nghị sửa đổi, loại bỏ những thủ
tục, những hồ sơ không cần thiết, tạo điều kiện cho nhân dân đến giao dịch công việc,
rút ngắn thời gian, kinh phí giải quyết công việc cho người dân; đã có 36/36 xã, thị
trấn xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế "một cửa"; 100% số xã đã bố trí được
phòng làm việc của bộ phận một cửa; trang bị máy vi tính, kết nối internet, công khai
hồ sơ, quy trình giải quyết công việc cho người dân, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả giải quyết công việc cho người dân. Tỷ lệ giải quyết, trả kết quả hồ sơ công
việc cho công dân đúng hẹn là 89%. Trong đó, các xã đạt tỷ lệ cao là Quảng Đại
(98%), xã Quảng Thái (95%), xã Quảng Tân (96%) …
2.3.1.7. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Năm 2010, đã giải quyết 301 đơn thư, đạt tỷ lệ 94%, số còn lại chuyên đến
các cơ quan chức năng cấp trên; năm 2011, đã giải quyết được 332 đơn thư, đạt tỷ

lệ 94%; năm 2012, đã giải quyết được 306, đạt tỷ lệ 83%; năm 2013, đã giải quyết
được 289, đạt tỷ lệ 96%. Số đơn không giải quyết được chủ yếu là do nội dung
vượt quá thẩm quyền, đơn thư không có nội dung chính xác, số còn lại đã giải
quyết nhiều lần nhưng không được nhân dân chấp nhập, số đó chủ yếu là đơn thư
có nội dung khó, phức tạp.
2.3.1.8. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, cùng với thực hiện công tác
hòa giải cơ sở và tủ sách pháp luật cơ sở đã được quan tâm chỉ đạo; 36/36 xã, thị
trấn đã thành lập và thường xuyên kiện toàn Ban hoà giải xã; có 358 tổ hòa giải cơ
sở, và trung bình mỗi thôn có 01 tổ hòa giải; có 2.059 hoà giải viên cơ sở hoạt
động cơ bản hiệu quả. Năm 2010, đã tổ chức hòa giải thành công 156/205 vụ việc;
12


năm 2011, đã hòa giải thành công 186/210 vụ việc; năm 2012, đã hòa giải thành
công 202/218 vụ việc; năm 2013, đã hòa giải thành công 221/268 vụ việc ở cơ sở.
2.3.1.9. Về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Uỷ ban nhân dân xã đã gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong
nhiều nội dung hoạt động, như: tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
trong đầu tư xây dựng; trong thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư; đẩy mạnh cải cách hành chính; xây dựng chính
quyền; công tác thi đua, khen thưởng … Năm 2010, có trên 78% Uỷ ban nhân dân
cấp xã thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở; năm 2011, có 82%; năm 2012 có 88%;
năm 2013 có 91% Ủy ban nhân dân các xã thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở.
2.3.2. Những hạn chế, tồn tại.
2.3.2.1. Về phát triển kinh tế.
Kinh tế ở nhiều xã phát triển chưa nhanh, chưa bền vững, thể hiện ở việc
chưa tạo ra được nền sản xuất hàng hóa lớn, tạo được nhiều việc làm, tăng thu
nhập cho người dân; tốc độ tăng trưởng qua các năm của các xã không đồng đều,
đặc biệt có giảm ở năm 2013, và dự báo năm 2014 vẫn tiếp tục khó khăn; thu nhập

bình quân đầu người các xã, của huyện thấp so với bình quân chung của tỉnh. Đây
chính là sự thể hiện phát triển thiếu bền vững và hiệu quả, giá trị sản xuất của
người dân không cao; phát triển kinh tế, thu ngân sách của các xã phụ thuộc nhiều
vào việc quy hoạch, cấp quyền sử dụng đất, khai thác tài nguyên.
2.3.2.2. Về văn hóa - xã hội.
- Quản lý dạy thêm học thêm chưa nghiêm túc; căn bệnh thành tích trong
giáo dục luôn là áp lực cho giáo viên, học sinh, gia đình và xã hội; việc quá tập
trung vào chất lượng mũi nhọn để báo cáo thành tích có ảnh hưởng đến việc quan
tâm nâng cao chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục phát triển toàn diện cho học
sinh; đôi khi làm lệch hướng năng khiếu, sở trường của học sinh...;
- Chất lượng, số lượng xây dựng gia đình văn hóa, thôn, khu phố văn hóa
vẫn còn hạn chế. Tính đến tháng 12/2013, tỷ lệ gia đình văn hóa của các xã bình
quân đạt 75%, trong đó nhiều xã đạt rất thấp, xã: Quảng Vinh mới đạt 15%, xã
Quảng Vọng đạt 35%, xã Quảng Định đạt 42% , xã Quảng Nham đạt 46%... Tỷ lệ
thôn văn hóa so với tổng số thôn của cả huyện còn thấp, mới đạt 57%, trong đó xã
Quảng Vinh có 2/15 thôn đạt danh hiệu thôn văn hóa, xã Quảng Lưu có 3/16 thôn
đạt danh hiệu thôn văn hóa, xã Quảng Định có 5/15 thôn đạt danh hiệu thôn văn
hóa, xã Quảng Vọng có 3/10 thôn đạt danh hiệu thôn văn hóa, xã Quảng Nham có
4/13 thôn đạt danh hiệu thôn văn hóa …
- Công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân, công tác
phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu đặt
ra. Ở xã, công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, công tác phòng chống dịch bệnh
còn nhiều hạn chế; một số trạm xá được trang bị các thiết bị khám chữa bệnh tốt
nhưng không được khai thác, sử dụng hiệu quả.

13


- Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm chưa có chuyển biến nhiều;
chất lượng đào tạo nghề yếu kém; việc đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm

chưa tốt; việc tổ chức đào tạo hàng loạt, không gắn liền với nhu cầu thị trường,
đào tạo qua loa, không có chất lượng còn nhiều. Công tác quản lý nhà nước, việc
lập hồ sơ, lưu trữ hồ sơ cho các đối tượng có lúc, có nơi chưa tốt, dẫn đến sai
phạm; việc đầu tư thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ các xã khó khăn, các
xã bãi ngang ven biển có những công trình không phát huy được tác dụng, hiệu
quả kinh tế.
2.3.2.3. Về an ninh - quốc phòng.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có lúc, có nơi còn phức
tạp, trọng án vẫn còn nhiều, đặc biệt đối với các loại đối tượng đánh nhau có tổ
chức, dùng hung khí,... ; tệ nạn xã hội vẫn còn nhiều, đặc biệt là tệ nạn về ma túy
(năm 2010, tổng số có 389 người nghiện ma túy, bắt 11 vụ buôn bán ma túy trên
địa bàn các xã toàn huyện; năm 2011, có 380 người nghiện ma túy, bắt 13 vụ buôn
bán ma túy; năm 2012, có 368 người nghiện và bắt 11 vụ buôn bán ma túy; năm
2013, có 336 người nghiện ma túy, bắt giữ 14 vụ buôn bán ma túy); tình trạng
chơi lô đề, cá độ, đánh bạc … vẫn chưa được kiềm chế và có dấu hiệu gia tăng.
2.3.2.4. Về số lượng, chất lượng quyết định quản lý hành chính.
Tình trạng các xã ban hành văn bản trái thẩm quyền, nội dung, thể thức, quy
trình ban hành văn bản không đúng quy định của pháp luật còn nhiều, chủ yếu là
lĩnh vực về quản lý đất đai, thu phí, lệ phí, huy động đóng góp từ nhân dân … Bên
cạnh đó, một số xã ban hành văn bản quy phạm pháp luật thiếu căn cứ pháp lý,
trình tự ban hành không đúng quy định,… Số lượng văn bản ban hành không đúng
thể thức, kỹ thuật trình bày còn nhiều; chất lượng văn bản còn nhiều hạn chế.
2.3.2.5. Công tác cải cách hành chính.
Tiến độ cải cách hành chính chậm, hệ thống thể chế còn thiếu đồng bộ,
chồng chéo và không thống nhất; thủ tục giấy tờ vẫn còn rườm rà, gây khó khăn
cho người dân và doanh nghiệp. Nhiều nơi, nhiều chỗ, kết quả giải quyết công
việc, trả kết quả, hồ sơ giải quyết chưa đúng hẹn, nhất là trong lĩnh vực đất đai,
xây dựng, … Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động của bộ phận một cửa
của một số xã chưa được quan tâm đầu tư; công tác công khai thủ tục hành chính
chưa tốt, như không đầy đủ, thiếu thông tin, thiếu cập nhật, sửa đổi, bổ sung các

quy định mới, loại bỏ các thủ tục đã được rà soát cắt giảm của cấp có thẩm quyền,
thậm chí có lúc còn thiếu hồ sơ, mẫu đơn. Tỷ lệ công việc, trả hồ sơ kết quả cho
người dân đúng thời gian quy định còn thấp, trung bình các xã, thị trấn chỉ đạt
89%, trong đó xã có một số xã đạt tỷ lệ dưới 70%, như Quảng Minh, Quảng Vinh,
Quảng Châu, Quảng Hùng, Quảng Ngọc ...
2.3.2.6. Về công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư của công dân.
Chưa làm tốt việc công khai lịch thời gian tiếp dân; ở một số xã, việc duy trì
tiếp dân mỗi tuần một lần chưa được thực hiện thường xuyên; năng lực, trình độ,
thái độ tiếp dân của một số lãnh đạo ở một số địa phương chưa cao; kết quả giải
quyết đơn thư của công dân vẫn còn quá thời gian quy định; cơ sở vật chất phục
14


vụ việc tiếp dân chưa đáp ứng được yêu cầu. Năm 2010, số vụ việc khiếu nại vượt
cấp trên địa bàn huyện là 21; năm 2011 là 18; năm 2012 là 17; năm 2013 là 15;
nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài, ảnh hưởng ổn định an ninh tật tự ở cơ sở.
2.3.2.7. Về tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
Chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật có
xã, có lúc chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; tỷ lệ người dân chưa tiếp cận, chưa
hiểu được các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước còn cao
(khoảng trên 35% dân số xã); nhiều người dân vi phạm các quy định, vi phạm
pháp luật có nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết về pháp luật; nhiều người dân đã
không tiếp cận được các chủ trương, quyền lợi, chính sách của nhà nước trong
việc hỗ trợ phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; khi có công việc cần đến
giao dịch với các cơ quan hành chính, người dân đã không nắm rõ được trình tự,
thủ tục hồ sơ.
2.3.2.8. Về thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.
Do việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở một số xã chưa được quan tâm
đúng mức, dẫn đến ở một số lĩnh vực công việc có kết quả không tốt, gây lãng phí
ngân sách, là nguyên nhân dẫn đến sự mất đoàn kết, kiện tụng kéo dài, phức tạp,

… Bên cạnh đó, một số người xấu, năng lực trình độ yếu kém, song đã lợi dụng
Quy chế dân chủ để tuyên truyền, kích động, lôi kéo nhau, đấu đá, tranh dành
quyền lực ở nhiều cơ sở.
2.3.2. Nguyên nhân cơ bản, chủ yếu của những hạn chế, tồn tại là:
- Vai trò lãnh đạo của Cấp ủy đối với hoạt động quản lý hành chính nhà
nước của Uỷ ban nhân dân cấp xã còn nhiều hạn chế, thể hiện sự thiếu quan tâm
lãnh đạo, định hướng trong việc hoạch định, ban hành các chủ trương, nghị quyết
lãnh đạo về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, và các mặt công tác
khác đối Ủy ban nhân dân; một số Cấp ủy, ngoài việc ban hành Nghị quyết đầu
nhiệm kỳ, Nghị quyết đầu năm, thì không xây dựng, ban hành được các nghị quyết
chuyên đề để tập trung lãnh đạo, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết
các vấn đề tồn tại lâu dài, bức xúc trong xã hội để Uỷ ban nhân dân thực hiện;
năng lực, trình độ, sự hiểu biết về công tác quản lý nhà nước của lãnh đạo một số
Cấp ủy còn nhiều hạn chế; việc quy hoạch, đào tạo nguồn cán bộ kế cận, bổ nhiệm
cán bộ quản lý chưa dựa trên quy định, các tiêu chí đánh giá khách quan, vì vậy
chất lượng cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt chưa đáp ứng được yêu
cầu đề ra.
- Chức năng quyết định các chủ trương, vấn đề quan trọng tại cơ sở của Hội
đồng nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở cấp xã chưa được phát
huy, sử dụng đúng mức ở một số cơ sở; chức năng giám sát của Hội đồng nhân
dân, đại biểu Hội đồng nhân dân đối với các hoạt động của Uỷ ban nhân dân còn
nhiều hạn chế, không phát huy được tác dụng; mối quan hệ trong công tác giữa Uỷ
ban nhân dân cấp xã với Cấp ủy, Hội đồng nhân dân với các tổ chức đoàn thể ở xã
chưa rõ ràng, còn nhiều bất cập.

15


- Nền hành chính nhà nước nói chung và cấp xã nói riêng còn nhiều bất cập,
chưa đồng bộ, chưa thuận lợi, chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động của nền hành

chính hiện đại, vẫn coi trọng tính hiệu lực trong hoạt động quản lý hành chính hơn
là tính hiệu quả. Điều này thể hiện ở năng lực, chất lượng của nền hành chính
(tổng hợp các yếu tố về thể chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức, nguồn lực
công bảo đảm cho nền hành chính hoạt động). Trong đó có sự thiếu quy định về
kiểm soát việc ban hành văn bản của Ủy ban nhân dân cấp xã, để xảy ra tình trạng
việc ban hành văn bản trái quy định pháp luật, lợi dụng quyền hạn để ban hành
văn bản nhằm tạo lợi ích cho cá nhân, cho nhóm; chất lượng ban hành văn bản
thấp, việc ban hành văn bản thiếu kịp thời, hoặc không ban hành văn bản để triển
khai thực hiện nhiệm vụ. Đội ngũ công chức cấp xã, ngoài những người được
tuyển dụng theo Quyết định 798/2010/QĐ-UBND ngày 11/3/2010 của Uỷ ban
nhân dân tỉnh Thanh Hóa về chính sách thu hút người có trình độ đại học trở lên
về công tác tại xã, phường, thị trấn và chính sách hỗ trợ đối với công chức cấp xã
chưa đạt chuẩn, thì số còn lại (trên 60%) đều chưa có trình độ đại học, trong đó
còn 11 công chức có trình độ cao đẳng, 203 là trung cấp, và 13 công chức chưa
qua đào tạo về chuyên môn, hoặc chuyên môn không phù hợp với vị trí việc làm;
năng lực, trình độ, chất lượng tham mưu quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế, và
thường không chịu học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ, chuyên môn; tinh thần
trách nhiệm không cao, trong giải quyết công việc cho nhân dân còn gây khó
khăn, phiền hà…
Nguồn lực tài chính bảo đảm cho hoạt động của nền hành chính nói chung
và quản lý hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp xã nói riêng chưa đáp ứng được
yêu cầu, đặc biệt là chế độ tiền lương cho cán bộ, công chức. Với mức lương của
cán bộ công chức hiện nay, chưa bảo đảm được cuộc sống của gia đình, vì vậy cán
bộ, công chức chưa toàn tâm, toàn ý công hiến cho công việc; đồng thời, chính chế
độ tiền lương thấp, cũng là nguyên nhân, cán bộ quản lý thường không đòi hỏi cao
sự cống hiến của cán bộ, công chức; chế độ tiền lương thấp là nguyên nhân nhiều
cán bộ công chức đã cố ý, thường xuyên đòi hỏi, gây khó khăn trong khi giải
quyết công việc cho nhân dân; chế độ tiền lương không đảm bảo là nguyên nhân
dẫn đến nhiều vụ việc tham ô, tham nhũng … Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt
động quản lý hành chính còn nhiều hạn chế, đến nay, vẫn còn nhiều trụ sở Uỷ ban

nhân dân xã thiếu phòng làm việc; trang thiết bị phục vụ làm việc như máy tính,
bàn ghế còn thiếu nhiều; ngân sách hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã, chủ
yếu do cấp trên hỗ trợ, điều này vừa thể hiện sự yếu kém trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh tại cơ sở, đồng thời cũng thể hiện sự thiếu chủ động bảo đảm các
nguồn thu phục vụ cho hoạt động quản lý hành chính tại cơ sở.
Cải cách hành chính chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức; nhiều thủ tục
hành chính còn rườm rà, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, gây khó khăn cho
người dân; việc đầu tư cơ sở, vật chất, trang thiết bị cho hoạt động của bộ phận
một cửa tại tất cả Uỷ ban nhân dân các xã, thị trấn còn nhiều thiếu thốn, chưa đáp
ứng được yêu cầu; ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công việc cho
người dân còn hạn chế, chưa theo kịp với xu thế phát triển chung; thời gian giải
quyết công việc cho người dân còn dài, tỷ lệ trả kết quả không đúng hẹn còn cao.
16


Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
TỪ THỰC TIỄN Ở HUYỆN QUẢNG XƢƠNG
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả quản lý hành chính của Ủy ban
nhân dân cấp xã.
3.1.1. Tiếp tục cải cách thể chế hành chính.
Tiếp tục tăng cường cải cách thể chế hành chính theo hướng dân chủ với
thiết lập chế độ công khai, minh bạch; thường xuyên rà soát, sửa đổi bổ sung hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo tính chặt chẽ, thống nhất, thông
suốt, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở
cơ sở, theo hướng đẩy mạnh phân cấp hơn nữa cho chính quyền cấp xã; phát huy
tính tự chủ, năng động của chính quyền cấp xã; phát huy vai trò, trách nhiệm cá
nhân, nhất là người đứng đầu, khắc phục tình trạng quyết định tập thể, vừa không
rõ trách nhiệm, vừa làm trì trệ, giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành
chính, loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo, không phù hợp với điều kiện
thực tế trong đời sống nhân dân, những thủ tục dễ bị lợi dụng để tham nhũng, lãng
phí gây phiền hà cho dân, xóa bỏ những quy định không cần thiết, cải thiện mối
quan hệ giữa cơ quan hành chính cấp xã với nhân dân, thu hút sự quan tâm của
nhân dân đối với các công việc của nhà nước.
Tăng cường thực hiện cơ chế "một cửa" trong giải quyết công việc cho
doanh nghiệp và người dân; thực hiện công khai, minh bạch các thủ tục, quy định,
các lệ phí, phí phải đóng …; cung cấp cho người dân đầy đủ, chính xác các thông
tin về các vấn đề có liên quan đến việc bảo đảm quyền và lợi ích của người dân.
Thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát việc ban hành văn bản của Ủy ban nhân
dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
3.1.2. Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức Ủy ban nhân dân cấp xã.
Tiếp tục kiện toàn bộ máy Ủy ban nhân dân cấp xã bảo đảm tinh, gọn, hợp
lý, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phù hợp với điều kiện tự
nhiên của từng vùng miền.
Rà soát, xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng vị trí
cán bộ, công chức của Ủy ban nhân dân cấp xã, theo hướng một số lĩnh vực,
nhiệm vụ giao cho công chức tự chịu trách nhiệm cá nhân, hạn chế cùng một việc
nhưng liên quan đến nhiều cán bộ, công chức, song quy định trách nhiệm không rõ
ràng, gây phiền hà, kéo dài thời gian giải quyết công việc cho nhân dân, nhưng khi
không hoàn thành nhiệm vụ, hoặc xảy ra sai phạm thì việc khó quy trách nhiệm cá
nhân; loại bỏ các nhiệm vụ chồng chéo, trùng lắp; điều chỉnh, bổ sung những
nhiệm vụ mới cho phù hợp với yêu cầu quản lý của cơ sở.

17


Tăng cường phân cấp quản lý cán bộ, quản lý đầu tư, ngân sách theo hướng
đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa Ủy ban nhân dân cấp huyện với cấp xã, bảo đảm

tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, đồng bộ với nguồn lực tài
chính, phù hợp với năng lực của cán bộ, công chức và các điều kiện cần thiết
khác; đồng thời, loại bỏ tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa cấp huyện và cấp xã.
3.1.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Ủy ban nhân dân
cấp xã.
Xây dựng quy chế quản lý, đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức; xác định
rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi vị trí cán bộ, công
chức. Tiếp tục cải tiến chế độ làm việc, tăng cường trách nhiệm, năng lực của
người đứng đầu cơ quan hành chính và cá nhân từng cán bộ, công chức trong giải
quyết công việc cho tổ chức và công dân.
Xây dựng quy định, chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ,
công chức hoàn thành nhiệm vụ và cơ chế loại bỏ những người không hoàn thành
nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật.
Xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức cấp xã: Xác định vị trí việc làm theo
tiêu chuẩn chức danh, chức vụ và ngạch công chức để làm cơ sở xác định biên
chế, tuyển dụng và quy hoạch đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức.
Quan tâm thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức cho
cán bộ, công chức cấp xã; xây dựng và thực hiện tốt quy định về quy hoạch, bổ
nhiệm cán bộ quản lý.
3.1.4. Tiếp tục cải cách tài chính công, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Tiếp tục thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế
và kinh phí theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ;
nghiên cứu tăng tỷ lệ phần trăm kinh phí cấp quyền sử dụng đất cho cấp xã lên
50% thay vì 30% như hiện nay tại Quyết định số 4549 /2010/QĐ-UBND ngày
17/12/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa về việc quy định phân cấp
nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa các
cấp ngân sách giai đoạn 2011 - 2015, góp phần nâng cao nguồn thu ngân sách cấp
xã trong đầu tư phát triển.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Ủy ban

nhân dân cấp xã. Trang bị đầy đủ cho mỗi cán bộ, công chức 01 máy tính, đạt tỷ lệ
100%, thay vì 35% như hiện nay; đồng thời thường xuyên đào tạo, nâng cao năng
lực, trình độ, kỹ năng sử dụng máy tính cho cán bộ, công chức; bổ sung, cung cấp
các thủ tục hành chính trên trang thông tin điện tử cấp tỉnh, cấp huyện; lựa chọn
một số bộ thủ tục hành chính cấp xã để cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ
ba cho công dân, từng bước tăng dần số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ ba,
tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong giao dịch công việc với cơ quan hành
chính cấp xã, thực hiện mục tiêu của nhà nước về xây dựng Chính phủ điện tử.

18


3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hành chính của Uỷ ban
nhân dân cấp xã từ thực tiễn ở huyện Quảng Xƣơng, tỉnh Thanh Hóa.
3.2.1. Nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành các thủ tục hành
chính.
Thủ tục hành chính do pháp luật quy định; thủ tục hành chính được nhà
nước xác lập nhằm mục đích thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia quan hệ pháp luật hành chính; thủ tục hành chính là một nhân tố bảo đảm cho
sự hoạt động chặt chẽ, thuận lợi và đúng chức năng quản lý của cơ quan nhà nước;
thủ tục hành chính là yếu tố bảo đảm thực hiện các quyền, nghĩa vụ của cá nhân,
tổ chức, là công cụ bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động chấp hành,
điều hành, và qua đó tạo điều kiện để giám sát, kiểm soát hoạt động của các chủ
thể tiến hành thủ tục hành chính. Mục tiêu của nền hành chính là hướng tới việc
quản lý nhà nước một cách có hiệu lực, hiệu quả, do đó thủ tục hành chính đóng
một vai trò hết sức quan trọng, nó vừa đảm bảo tính pháp chế và đem lại hiệu quả
hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có Ủy ban nhân dân cấp xã. Thủ tục
hành chính quy định càng chặt chẽ, rõ ràng, đơn giản, dễ thực hiện thì càng góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, và giảm thời gian, chi phí cho người
dân và tổ chức. Vì vậy, cần phải nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành thủ

tục hành chính, trong đó có thủ tục hành chính thực hiện ở cấp xã. Những giải
pháp trọng tâm là:
Một là, xác định rõ cấp có thẩm quyền xây dựng và ban hành thủ tục hành
chính. Theo Nghị định 38-CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước
thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức, thì
thẩm quyền ban hành thủ tục hành chính chỉ có ở hai cấp chính quyền, đó là Chính
phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo quy định
này, thì Ủy ban nhân dân cấp xã không có thẩm quyền ban hành thủ tục hành
chính. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có xã tự ý đặt ra các thủ tục hành chính ngoài
quy định của pháp luật. Các loại phí, lệ phí "đóng góp" ngoài quy định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ, đối với trường hợp sinh con thứ ba, Nghị
định 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch không quy
định mức phạt, song vẫn có xã tự ý thu một khoản lệ phí dưới hình thức yêu cầu
nhân dân viết một lá đơn tự nguyện đóng góp vào quỹ trẻ em của xã. Có xã tùy
tiện đặt ra thủ tục hành chính mới, ví dụ đối với trường hợp sinh con ngoài giá thú,
thực chất là thủ tục khai sinh thông thường, song có xã yêu cầu người dân phải
làm thêm đơn khai sinh…
Hai là, tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính để đảm bảo cho thủ tục
hành chính dễ hiểu, dễ tiếp cận, dễ thực hiện.
Đơn giản là một trong những nguyên tắc của thủ tục hành chính nhằm bảo
đảm cho mọi công dân, từ những người hiểu biết về pháp luật cho đến những
người không có điều kiện tìm hiểu, nắm vững các kiến thức pháp luật và hành
chính vẫn có thể tham gia vào thủ tục hành chính để thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân của mình. Với trình độ dân trí không đồng đều như hiện nay, thì việc
đơn giản hóa tới mức tối đa các quy định về thủ tục hành chính có ý nghĩa quan
19


trọng để mọi người dân có thể tiếp cận, dễ dàng thực hiện; mặc khác, đơn giản hóa
thủ tục hành chính còn giúp cho cán bộ, công chức chuyên môn dễ hiểu, dễ thực

hiện, hạn chế sai sót, vận dụng sai trong quá trình thực hiện; đồng thời đơn giản
hóa thủ tục hành chính còn giúp ngăn chặn việc tùy tiện thay đổi quy định về thủ
tục hành chính. Tình trạng cùng một thủ tục hành chính những mỗi nơi thực hiện
mỗi khác.
Giảm số cấp thực hiện thủ tục hành chính. Hạn chế các thủ tục hành chính
yêu cầu người dân phải liên hệ từ hai cấp trở lên. Bằng cách, tiếp tục đẩy mạnh
phân công, phân cấp, ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã giải quyết một số thủ
tục hành chính đủ điều kiện đảm nhận. Đối với các thủ tục hành chính bắt buộc
phải có sự giải quyết từ hai cấp trở lên, nên tổ chức thực hiện theo mô hình giải
quyết liên thông thống nhất một đầu mối tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ; đồng thời
gắn với việc tăng cường áp dụng công nghệ thông tin (mô hình một cửa điện tử
liên thông). Điều này giúp công dân giảm phải đi lại, chuẩn bị nhiều hồ sơ, giấy tờ
cho cùng một thủ tục.
Giảm bớt một số điều kiện, giấy tờ và hành vi hành chính trong quá trình
giải quyết công việc của công dân. Đối với các điều kiện, giấy tờ quy định để thực
hiện thủ tục hành chính cần giảm bớt chính các điều kiện về hộ khẩu, lý lịch nhân
thân, các giấy tờ về độ tuổi; các hành vi hành chính cần giảm bớt như giảm việc
xin xác nhận giấy tờ của một số cơ quan có thẩm quyền, giảm bớt thủ tục thẩm
định, rút ngắn thời gian giải quyết; bớt khâu chứng thực một số giấy tờ thay bằng
việc đối chiếu hành chính.
Thứ ba, dân chủ hóa trong quá trình soạn thảo, ban hành và sửa đổi thủ tục
hành chính.
Việc xem soạn thảo quy phạm thủ tục hành chính như là công việc riêng của
các ngành chức năng, bởi vậy không tránh khỏi quan điểm cục bộ, chủ quan vì lợi
ích, bảo vệ quyền của ngành, của cán bộ, công chức tham gia xây dựng và thực
hiện thủ tục hành chính. Thông thường, các văn bản pháp luật quy định thủ tục
hành chính thường chỉ được lấy ý kiến đóng góp của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân
dân và các cơ quan chuyên môn liên quan; hầu như chưa có thủ tục nào ban hành
hay sửa đổi được đưa ra cho nhân dân góp ý, trong khi chính người dân là chủ thể
tham gia đông đảo nhất vào các thủ tục hành chính, đặc biệt đối với các thủ tục

hành chính đang được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Ngay cả khâu thực
hiện, cũng rất ít thủ tục hành chính được tổ chức lấy ý kiến của nhân dân dưới
dạng điều tra xã hội học, bởi vậy ý kiến phản hồi từ người dân không được coi là
căn cứ chính thức cho tiến trình cải cách thủ tục hành chính. Tổ chức tốt việc lấy ý
kiến của nhân dân không chỉ tránh được thực trạng một thủ tục hành chính được
ban hành rất tốn kém, nhưng lại không thu được hiệu quả cao trong quá trình thực
hiện, hậu quả là vừa phải tổ chức sửa đổi, vừa không bảo đảm tính ổn định lâu dài
của thủ tục hành chính. Hiện nay, việc lấy ý kiến nhân dân, đối tượng chịu sự tác
động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định trong pháp luật
về ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, từ thực tế xây dựng và thực
hiện thủ tục hành chính, cần có quy định riêng về thủ tục lấy ý kiến những người
có liên quan về việc đưa thủ tục hành chính vào thực hiện trong thực tế, đó là các
20


cơ quan, cán bộ, công chức và nhất là tổ chức, công dân chịu trác động, có liên
quan đến thủ tục hành chính đó. Vấn đề này, thiết nghĩ sẽ phải được giải quyết
bằng việc xây dựng Luật thủ tục hành chính, và trước mắt, áp dụng trong quá trình
rà soát, kiến nghị sửa đổi thủ tục hành chính theo kế hoạch đơn giản hóa thủ tục
hành chính.
3.2.2. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với việc ban hành văn
bản của UBND cấp xã.
Từ thực tế những hạn chế, tồn tại trong hoạt động xây dựng, ban hành văn
bản quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở huyện Quảng Xương, việc
tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với công tác ban hành văn bản của Uỷ
ban nhân dân cấp xã là quan trọng và cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng xây
dựng, ban hành văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp xã, đồng thời, hạn chế những
hậu quả gây ra từ việc ban hành văn bản trái quy định.
Vì vậy, cần xây dựng Quy định về thực hiện chế độ báo cáo việc ban hành
văn bản, kể cả văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hành chính thông

thường của Uỷ ban nhân dân cấp xã đối với Uỷ ban nhân dân huyện, đặc biệt trong
lĩnh vực quản lý đất đai, tài chính, xây dựng cơ bản. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, thực hiện công
tác quản lý nhà nước, Uỷ ban nhân dân cấp xã phải ban hành các quyết định quy
phạm pháp luật, quyết định và văn bản hành chính để chỉ đạo, triển khai thực hiện
nhiệm vụ. Tuy nhiên, do một phần năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm của một
bộ phận công chức chuyên môn, lãnh đạo Uỷ ban nhân dân cấp xã còn nhiều hạn
chế; trong một số trường hợp vì tư lợi cá nhân, hoặc do nhận thức, năng lực, thậm
chí vì nể nang trong tập thể lãnh đạo Uỷ ban nhân dân, đã đề xảy ra tình trạng Ủy
ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đã ban hành văn bản trái thẩm quyền,
văn bản vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt trong lĩnh vực
quản lý đất đai, xây dựng, thu chi tài chính (ví dụ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã
ban hành quyết thu hồi đất, giao đất cho cá nhân; quyết định cho thu đóng góp của
nhân dân khi chưa được Hội đồng nhân dân xã nghị quyết thông qua; quyết định
cho thu các khoản phí, lệ phí trái thẩm quyền …). Hiện nay, trước khi Hội đồng
nhân dân xã ban hành Nghị quyết, công chức Tư pháp các xã tham mưu thẩm
định Văn bản cho Hội đồng nhân dân; sau khi ban hành Nghị quyết, Hội đồng
nhân dân xã gửi Nghị quyết lên Thường trực Hội đồng nhân dân huyện, và Uỷ ban
nhân dân huyện để báo cáo. Đối với các Văn bản quy phạm pháp luật và văn bản
hành chính khác, sau khi ban hành, Uỷ ban nhân dân xã không nhất thiết phải báo
cáo Uỷ ban nhân dân huyện. Hằng năm, Uỷ ban nhân dân huyện có tiến hành kiểm
tra thực tế tình hình ban hành văn bản của Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn, song
việc này không được thực hiện thường xuyên, thậm chí có nhiều xã không được
Uỷ ban nhân dân huyện kiểm tra. Vì vậy, việc phát hiện những văn bản ban hành
trái quy định pháp luật của Uỷ ban nhân dân xã không được phát hiện, xử lý kịp
thời, gây hậu quả lớn, lâu dài trong xã hội. Vì vậy, nếu Uỷ ban nhân dân huyện
xây dựng và thực hiện tốt Quy định chế độ báo cáo, kiểm soát việc ban hành văn
bản của Uỷ ban nhân dân xã, sẽ góp phần nâng cao chất lượng ban hành văn bản
của Uỷ ban nhân dân cấp xã, phát hiện, xử lý kịp thời những văn bản ban hành trái
quy định pháp luật của Uỷ ban nhân dân xã, tránh được hậu quả từ việc ban hành

21


văn bản trái quy định của pháp luật; đồng thời, việc giao cho phòng Tư pháp Ủy
ban nhân dân huyện tiếp nhận sự báo cáo việc ban hành văn bản của các xã, tham
mưu cho Ủy ban nhân dân huyện xử lý kịp thời các văn bản ban hành trái quy
định, cũng là cách tạo thêm nhiệm vụ hợp lý cho phòng Tư pháp các huyện, mà
hiện nay đang được xem là vẫn có thể bổ sung và hoàn thành thêm được nhiệm vụ,
công việc.
3.2.3. Xây dựng, thực hiện Quy định đo lường sự hài lòng của người dân,
tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước cấp xã.
Thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban
hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020,
ngày 28/12/2012 Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 1383/QĐ-BNV về việc
phê duyệt Đề án "xây dựng phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân, tổ
chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước"; đến nay, đã có một số
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và triển khai thực hiện Phương
pháp đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan
hành chính nhà nước trên địa bàn, như: Khánh Hòa, Đà Nẵng, Bình Dương, Nam
Định vv… và đã đạt được nhiều kết quả, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành
chính nhà nước trên địa bàn.
Tỉnh Thanh hóa đã giao cho Sở Nội vụ tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh
đang xây dựng Phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với
sự phục vụ của các cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh; và ngày 25/4/2014, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã có văn bản số 3198/UBND-THKH về
việc hướng dẫn triển khai thực hiện Phương án đo lường sự hài lòng của người
dân, tổ chức đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Đây chính
là cơ sở pháp lý quan trọng để Uỷ ban nhân dân cấp xã ở huyện Quảng Xương xây
dựng và thực hiện Quy định, phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân, tổ
chức đối với sự phục vụ của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Trong quy định cần nêu rõ

mục đích, ý nghĩa, cách thức, thời gian, giao nhiệm vụ, chế tài xử lý, quy trách
nhiệm, cũng như chế độ khen thưởng cho những cá nhân, bộ phận được giao
nhiệm vụ; trách nhiệm giải trình, chịu trách nhiệm của người đứng đầu Uỷ ban
nhân dân cấp xã trước Uỷ ban nhân dân huyện, trước pháp luật; đầu tư kinh phí,
đảm bảo các điều kiện để tổ chức tốt việc đo lường sự hài lòng của người dân, của
tổ chức đối với sự phục vụ của Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Việc thực hiện Quy định đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối
với sự phục vụ của Uỷ ban nhân dân cấp xã phải được tiến hành theo định kỳ (có
thể là hàng quý, sáu tháng hoặc một năm, nhưng không được quá một năm; đồng
thời sau những lần tổ chức đánh giá, Uỷ ban nhân dân xã phải tiến hành họp tập
thể, trên cơ sở những kết quả, những nội dung đã thực hiện tốt, cũng như như hạn
chế, tồn tại để làm rõ nguyên nhân, đề ra giải pháp chỉ đạo quyết liệt, phấn đấu
khắc phục những tồn tại; đồng thời tổng hợp, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi
những vấn đề bất cập, chưa phù hợp trong quá trình thực hiện đối với người dân
tại cơ sỏ. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng góp phần nâng cao
chất lượng hoạt động quản lý hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp xã nói riêng và
Uỷ ban nhân dân hành chính các cấp nói chung.
22


KẾT LUẬN
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cấp hành chính nói chung và của Uỷ
ban nhân dân cấp xã nói riêng là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong giai đoạn
hiện nay. Bởi vì, Uỷ ban nhân dân cấp xã có một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
trong hệ thống tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước ta, đó là cấp trực tiếp tổ
chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đến
với người dân; cấp gần dân nhất, trực tiếp giải quyết các vấn đề phát sinh từ cộng
đồng dân cư; quản lý xã hội cơ sở.
Việt Nam sau gần 40 năm hoàn toàn được độc lập, tình hình kinh tế - xã
hội, đời sống nhân dân đã có nhiều đổi thay, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Tuy nhiên, trên cơ sở những tiềm năng, lợi thế của nước ta, cả về vị trí địa lý, tài
nguyên thiên nhiên, con người, thì những kết quả đạt được của đất nước là rất hạn
chế; nước ta vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, và là nước nghèo, tỷ lệ
tham nhũng cao, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, thu nhập bình quân
đầu người thấp ... Những hạn chế, tồn tại trên có nguyên nhân chính từ hiệu quả
hoạt động của các cơ quan hành chính các cấp, trong đó có cấp xã. Trong đề tài
luận văn này, từ việc đánh giá hiệu quả hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở
huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, phân tích nguyên nhân của những hạn chế
tồn tại, từ đó đề xuất một số giải pháp có thể triển khai thực hiện khả thi tại các xã
của huyện Quảng Xương, từ đó đánh giá, áp dụng rộng rãi ở các địa phương trong
nước; những giải pháp đề xuất có liên quan đến thể chế hành chính của đất nước,
cần sự nghiên cứu, quyết định của Đảng, Nhà nước, như: Nâng cao chất lượng xây
dựng và ban hành thủ tục hành chính, và cũng có những giải pháp có thể triển khai
độc lập ở cấp xã, như: Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với việc ban
hành văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp xã; xây dựng Quy định đánh giá sự hài
lòng của người dân đối với hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nội dung quan trọng của
Chương trình tổng thể cải các hành chính của Đảng và nhà nước, và đang được
triển khai thực hiện, từng bước tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết công việc
cho người dân, giúp người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ do nhà nước cung
cấp. Trong các giải pháp để thực hiện hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành
chính thì nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành thủ tục hành chính được xem
là điều kiện đầu tiên, quan trọng nhất, có tác dụng, ảnh hưởng đến tất cả các quy
trình giải quyết thủ tục hành chính, tác động đến hiệu quả giải quyết thủ tục hành
chính, nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành chính nhà nước, đặc biệt đối với
các thủ tục hành chính cấp xã, vì là cấp trực tiếp liên quan, giải quyết công việc
hằng ngày cho người dân. Giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động ban hành văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp xã và thực hiện Quy định đo
lường mức độ hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính
cấp xã là những giải pháp đơn giản, dễ thực hiện, đòi hỏi ít nguồn lực, nhưng có

thể mang lại kết quả quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
quản lý ở cơ sở, nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội,
23


bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân. Thực hiện giải
pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về công tác ban hành văn bản của Uỷ
ban nhân dân cấp xã, góp phần hạn chế tình trạng ban hành văn bản trái thẩm
quyền, chất lượng văn bản thấp, tình trạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ban
hành văn bản nhằm tư lợi cho cá nhân, cho nhóm tổ chức, ban hành văn bản vi
phạm pháp luật như hiện nay của Uỷ ban nhân dân cấp xã huyện Quảng Xương,
cũng như các xã trên cả nước. Việc thực hiện thường xuyên, nghiêm túc Quy định
đo lường mức độ hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành
chính cấp xã sẽ nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã,
là kênh thông tin quan trọng, khách quan để Đảng, nhà nước tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ cải cách hành chính hiệu quả ngay từ cơ sở.

24



×