NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
Trong "Lịch triều hiến chương loại chí", Phan
Huy Chú đã nhận định: "Nghệ An núi cao sông sâu,
phong tục trọng hậu, cảnh tượng tươi sáng, gọi là
đất có tiếng hơn cả Nam châu. Người thì thuận hoà
mà chăm học, sản vật thì nhiều thức quả, của lạ.
Những vị thần ở núi, ở biển phần nhiều có tiếng linh
thiêng. Được khí tốt của sông núi, nên sinh ra nhiều
bậc anh hiền". Nhìn suốt quá trình hình thành và
phát triển của xứ Nghệ sẽ thấy, những nhận định của
Phan Huy Chú quả là xác đáng.
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
1. Mai Thúc Loan (? - 726)
1. Mai Thúc Loan (? - 726)
Mai Thúc Loan quê ở xã Nam Thái, huyện Nam Đàn. Sử cũ viết
Mai Thúc Loan quê ở xã Nam Thái, huyện Nam Đàn. Sử cũ viết
rằng: Mai Thúc Loan lớn lên "da đen như sắt", "thân dài hơn
rằng: Mai Thúc Loan lớn lên "da đen như sắt", "thân dài hơn
bảy thước", "khí lộ hùng vĩ", "mọi người đều sợ phục". Bấy
bảy thước", "khí lộ hùng vĩ", "mọi người đều sợ phục". Bấy
giờ, nhân dân ta đang vô cùng khổ cực vì ách thống trị, áp
giờ, nhân dân ta đang vô cùng khổ cực vì ách thống trị, áp
bức, bóc lột nặng nề của nhà Đường. Để được bề trên khen
bức, bóc lột nặng nề của nhà Đường. Để được bề trên khen
ngợi, thăng chức, bọn quan lại người phương Bắc đã chuyên
ngợi, thăng chức, bọn quan lại người phương Bắc đã chuyên
chở các thứ quả ngon, nhất là loại vải tươi từ An Nam (nước
chở các thứ quả ngon, nhất là loại vải tươi từ An Nam (nước
ta) về tận kinh đô Tràng An dâng cho bọn quý tộc, vua chúa.
ta) về tận kinh đô Tràng An dâng cho bọn quý tộc, vua chúa.
Đến mùa vải chín hàng năm, hàng loạt trai tráng bị bắt gánh
Đến mùa vải chín hàng năm, hàng loạt trai tráng bị bắt gánh
vải chạy chuyền nhau vượt rừng qua núi. Nhiều người phải bỏ
vải chạy chuyền nhau vượt rừng qua núi. Nhiều người phải bỏ
mạng dọc đường.
mạng dọc đường.
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
Trước tình cảnh đó, năm 722, Mai Thúc Loan dấy binh khởi
Trước tình cảnh đó, năm 722, Mai Thúc Loan dấy binh khởi
nghĩa đánh đuổi nhà Đường, chiếm phủ thành, tự xưng Hoàng
nghĩa đánh đuổi nhà Đường, chiếm phủ thành, tự xưng Hoàng
đế. Ông giữ vùng hiểm yếu Sa Nam và vùng núi Đụn (Nam
đế. Ông giữ vùng hiểm yếu Sa Nam và vùng núi Đụn (Nam
Đàn) làm căn cứ. Tại đây, ông xây dựng thành Vạn An. Tên đô
Đàn) làm căn cứ. Tại đây, ông xây dựng thành Vạn An. Tên đô
hộ Quang Sở Khách đã nhiều lần đem quân đến đàn áp nhưng
hộ Quang Sở Khách đã nhiều lần đem quân đến đàn áp nhưng
đều bị thất bại. Nghĩa quân ngày càng lớn mạnh và đã đánh
đều bị thất bại. Nghĩa quân ngày càng lớn mạnh và đã đánh
chiếm được phủ lỵ Tống Bình (Hà Nội). Hoảng sợ, chúng phải
chiếm được phủ lỵ Tống Bình (Hà Nội). Hoảng sợ, chúng phải
cầu cứu vua Đường. Năm 722, tên Nội thị Tả môn Tướng quân
cầu cứu vua Đường. Năm 722, tên Nội thị Tả môn Tướng quân
Dương Tư Húc phối hợp với quân của Quang Sở Khách đánh
Dương Tư Húc phối hợp với quân của Quang Sở Khách đánh
vào thành Tống Bình rồi vào Châu Hoan. Nghĩa quân chống
vào thành Tống Bình rồi vào Châu Hoan. Nghĩa quân chống
trả quyết liệt nhưng dần yếu thế, phải rút về vùng rừng núi
trả quyết liệt nhưng dần yếu thế, phải rút về vùng rừng núi
Hùng Sơn. Khi Mai Thúc Loan qua đời, cuộc khởi nghĩa bị đàn
Hùng Sơn. Khi Mai Thúc Loan qua đời, cuộc khởi nghĩa bị đàn
áp và thất bại. Hiện nay, mộ của ông được đặt tại huyện Nam
áp và thất bại. Hiện nay, mộ của ông được đặt tại huyện Nam
Đàn.
Đàn.
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
2. Nguyễn Xí (1397 - 1465)
Nguyễn Xí quê ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, xuất thân trong một
gia đình làm nghề muối. Sau khi cha mất, ông cùng anh trai là
Nguyễn Biện ra Thanh Hoá làm gia thần của Lê Lợi. Vì có mưu lược,
lại giỏi võ nghệ nên được Lê Lợi trọng dụng, giao cho chỉ huy đội
quân Thiết đột của nghĩa quân Lam Sơn. Năm 1427, ông lãnh đạo
nghĩa quân đánh trận Xương Giang diệt hơn 5 vạn tên địch, bắt sống
Thôi Tụ, Hoàng Phúc. Với những chiến công lập được trong kháng
chiến chống quân Minh, ông được xếp vào hàng khai quốc công thần
và được Lê Lợi phong Thượng Tướng quân. Không những thế,
Nguyễn Xí còn có công lớn dẹp vụ phản nghịch Nghi Dân, lập vua Lê
Thánh Tông lên ngôi vua, nên được phong làm Tả Tướng quân, Thái
phó Cương Quốc công. Sau khi ông mất, nhân dân đã lập đền thờ
ông tại Nghi Lộc.
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
3. Hồ Sỹ Dương (1622 - 1681)
Ông quê ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu. Năm 1645, ông đỗ
Giải nguyên. Năm 1652, Hồ Sỹ Dương đỗ tiến sĩ và làm quan đến
đến chức Tham Tụng, Thượng thư Bộ hình kiêm Đông các đại
học sĩ, tước Duệ Quận công. ông từng đem quân đi kinh lược
Tuyên Quang chinh phục được thủ lĩnh người dân tộc là Ma
Thúc Lan quy thuận. Năm 1673, ông làm chánh sứ sang Trung
Quốc giải quyết tranh chấp ở biên giới Việt - Trung thắng lợi.
Khi ông mất được thăng Thượng thư Bộ Hộ, Thiếu bảo. Ông
tham dự biên soạn bộ sách "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên".
Không những thế, ông còn để lại nhiều tác phẩm: Hồ thượng thư
gia lễ, Hoan Châu phong thổ ký, Trung san Lam Sơn thực lục,...
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
4. Hồ Sĩ Đống (1733 - 1785)
Hồ Sĩ Đống quê ở Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Ông đỗ Hoàng
giáp khoa thi năm 1772 và làm quan đến chức Thượng thư.
Năm 1777, ông được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh. Khi
đến Động Đình, Chánh sứ là Vũ Trần Thiệu ốm chết. Ông
biết chúa Trịnh Sâm đã bí mật giao nhiệm vụ cho Vũ Trần
Thiệu xin nhà Thanh phong Vương. Vì thế, khi Vũ Trần
Thiệu bị đột tử, Hồ Sĩ Đống đã đốt tờ biểu của Trịnh Sâm.
Khi biết chuyện, Trịnh Sâm rất tức giận, nhưng không làm
gì được ông. Ông mất năm 1785, hưởng thọ 52 tuổi.
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
5. Hồ Xuân Hương (1772 - 1822)
5. Hồ Xuân Hương (1772 - 1822)
Nhà thơ Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 tại Quỳnh Đôi, Quỳnh
Nhà thơ Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 tại Quỳnh Đôi, Quỳnh
Lưu. Là nhà thơ kiệt xuất, một hiện tượng, tài năng văn học
Lưu. Là nhà thơ kiệt xuất, một hiện tượng, tài năng văn học
Việt Nam.
Việt Nam.
Thơ của bà được các nhà nghiên cứu sưu tập lại trên 50 bài,
Thơ của bà được các nhà nghiên cứu sưu tập lại trên 50 bài,
phong cách thơ của Hồ Xuân Hương quen dựa vào ca dao,
phong cách thơ của Hồ Xuân Hương quen dựa vào ca dao,
tục ngữ, truyện tiếu lâm, câu đối, nói lái, ẩn dụ của ngôn ngữ
tục ngữ, truyện tiếu lâm, câu đối, nói lái, ẩn dụ của ngôn ngữ
dân gian để sáng tạo nên những áng thơ "nói tục giảng
dân gian để sáng tạo nên những áng thơ "nói tục giảng
thanh" - biểu hiện tinh thần nhân đạo, phê phán xã hội phong
thanh" - biểu hiện tinh thần nhân đạo, phê phán xã hội phong
kiến sâu cay, nghệ thuật ngôn từ điêu luyện. Xuân Diệu gọi Hồ
kiến sâu cay, nghệ thuật ngôn từ điêu luyện. Xuân Diệu gọi Hồ
Xuân Hương là "Bà chúa thơ Nôm", "một tâm hồn thành khẩn,
Xuân Hương là "Bà chúa thơ Nôm", "một tâm hồn thành khẩn,
sâu sắc, có dũng khí, táo gan, một hồn thơ hết sức độc đáo,
sâu sắc, có dũng khí, táo gan, một hồn thơ hết sức độc đáo,
không những có dụng ý tốt, mà những ý tốt ấy lại hoá thành
không những có dụng ý tốt, mà những ý tốt ấy lại hoá thành
thơ hay, thơ rất hay, hay vào loại những thiên tài văn học bậc
thơ hay, thơ rất hay, hay vào loại những thiên tài văn học bậc
nhất của dân tộc ta".
nhất của dân tộc ta".
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
6. Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871)
Nguyễn Trường Tộ quê ở xã Hưng Trung, huyện Hưng
Nguyên. Là người uyên bác đông tây kim cổ, ông được
giám mục Ngô Gia Hậu đưa sang Pháp du học. Năm 1863,
ông về nước. Với khát vọng canh tân đất nước, ông đã
dâng nhiều bản điều trần lên vua Tự Đức, nhưng không
được Tự Đức tin dùng.
Là người theo đạo Thiên Chúa, được chu du khắp thế
giới phương Tây, nhưng ông không bị địch mua chuộc,
mà luôn có ý phụng sự Tổ quốc. Ông giỏi nhiều lĩnh vực,
nhất là nghề kiến trúc, mỏ, địa lý. Ông từng giúp Hoàng
Tá Viêm đào đắp thành công Kênh Sắt vào năm 1896.
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
7. Hồ Bá Ôn (1840 - 1885)
7. Hồ Bá Ôn (1840 - 1885)
Ông sinh năm 1840, quê ở Quỳnh Đôi,
Ông sinh năm 1840, quê ở Quỳnh Đôi,
Quỳnh Lưu. Ông làm quan đến chức
Quỳnh Lưu. Ông làm quan đến chức
án sát tỉnh Nam Định. Năm 1883, khi
án sát tỉnh Nam Định. Năm 1883, khi
Pháp tấn công Nam Định, ông đã cùng
Pháp tấn công Nam Định, ông đã cùng
binh lính và nhân dân chiến đấu cho
binh lính và nhân dân chiến đấu cho
đến lúc bị thương nặng, ông được
đến lúc bị thương nặng, ông được
binh lính đưa về quê và mất tại đó.
binh lính đưa về quê và mất tại đó.
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
8. Nguyễn Thức Tự (1848 - 1917)
Nguyễn Thức Tự quê ở xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc. Ông
đỗ cử nhân năm 1868. Là người học giỏi, thông minh hơn
người, ông được bổ nhiệm chức Sơn phòng sứ. Khi vua Hàm
Nghi mất, ông từ quan về làng dạy học. Nguyễn Thức Tự là
người thầy nổi tiếng uyên bác và nhân cách cao đẹp. Ông đã
đào tạo được nhiều bậc nhân sĩ, trí thức, những nhà hoạt
động chính trị có tên tuổi như: Phan Bội Châu, Ngô Đức Kế,
Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Thái Thân, Nguyễn Đức Công, Lê Văn
Huân, Phạm Văn Ngôn, Nguyễn Đình Kiên, Đặng Thúc Hứa,
Đặng Văn Bá,...
Khi ông mất, Phan Bội Châu đang hoạt động ở nước ngoài đã
làm văn bia gửi về, trong đó có câu: Đạo thông trời đất, học
rộng cổ kim, thầy học về kinh truyện dễ có, còn thầy học về
nhân cách khó tìm.
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
9. Phan Bội Châu (1867 - 1940)
9. Phan Bội Châu (1867 - 1940)
Phan Bội Châu sinh ra ở Xuân Hoà, huyện Nam Đàn. Ngay từ
Phan Bội Châu sinh ra ở Xuân Hoà, huyện Nam Đàn. Ngay từ
nhỏ, cậu bé San đã nổi tiếng là người thông minh, mẫn tiệp.
nhỏ, cậu bé San đã nổi tiếng là người thông minh, mẫn tiệp.
Năm 16 tuổi, ông đỗ đầu thi Hương với bài phú "Hồ thương
Năm 16 tuổi, ông đỗ đầu thi Hương với bài phú "Hồ thương
khoá lư", được sỹ tử cả xứ Nghệ lúc đó thuộc lòng. Năm 17
khoá lư", được sỹ tử cả xứ Nghệ lúc đó thuộc lòng. Năm 17
tuổi, ông cùng Trần Văn Lương thành lập đội "Sỹ tử Cần
tuổi, ông cùng Trần Văn Lương thành lập đội "Sỹ tử Cần
Vương" ở quê nhà. Năm 1900, ông đỗ Giải nguyên trường thi
Vương" ở quê nhà. Năm 1900, ông đỗ Giải nguyên trường thi
Nghệ An.
Nghệ An.
Ông được xếp vào "Tứ hổ" của đất Nam Đàn gồm San, Đôn,
Ông được xếp vào "Tứ hổ" của đất Nam Đàn gồm San, Đôn,
Lương, Quý. Ngoài ra, ông còn có bài phú nổi tiếng "Bái thạch
Lương, Quý. Ngoài ra, ông còn có bài phú nổi tiếng "Bái thạch
vi huynh" được Tiến sỹ Trần Ngọc Vương sau này đánh giá:
vi huynh" được Tiến sỹ Trần Ngọc Vương sau này đánh giá:
"Phan Bội Châu quyết định xuất hiện trong tư cách một tay
"Phan Bội Châu quyết định xuất hiện trong tư cách một tay
kiệt liệt giữa trường văn trận bút, cất giọng "áp đảo quần
kiệt liệt giữa trường văn trận bút, cất giọng "áp đảo quần
hùng" với bài phú "Bái thạch vi huynh", một viên ngọc sáng
hùng" với bài phú "Bái thạch vi huynh", một viên ngọc sáng
ngời ném ra làm loá mắt không chỉ sĩ tử toàn quốc mà hết
ngời ném ra làm loá mắt không chỉ sĩ tử toàn quốc mà hết
thảy các nhà khoa bảng đương thời, một sáng tác chứng
thảy các nhà khoa bảng đương thời, một sáng tác chứng
minh ngay lập tức ông là "Người hay chữ nhất nước Nam".
minh ngay lập tức ông là "Người hay chữ nhất nước Nam".
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
Không những thế, Phan Bội Châu còn nhà cách mạng tiêu
Không những thế, Phan Bội Châu còn nhà cách mạng tiêu
biểu của Việt Nam đầu thế kỷ XX, người có lối sống bình dị,
biểu của Việt Nam đầu thế kỷ XX, người có lối sống bình dị,
gắn bó với nhân dân lao động. Hoạt động của ông rộng khắp
gắn bó với nhân dân lao động. Hoạt động của ông rộng khắp
cả 3 miền Bắc - Trung - Nam. ông vận động thành lập Hội Duy
cả 3 miền Bắc - Trung - Nam. ông vận động thành lập Hội Duy
Tân, khởi xướng phong trào Đông Du (năm 1905), xuất dương
Tân, khởi xướng phong trào Đông Du (năm 1905), xuất dương
sang Nhật Bản. Năm 1908, ông sang Thái Lan xây dựng căn
sang Nhật Bản. Năm 1908, ông sang Thái Lan xây dựng căn
cứ cách mạng. Cách mạng Tân Hợi (năm 1911), ông sang
cứ cách mạng. Cách mạng Tân Hợi (năm 1911), ông sang
Trung Quốc thành lập "Việt Nam Quang phục Hội" (1912) và
Trung Quốc thành lập "Việt Nam Quang phục Hội" (1912) và
Hội "Chấn Hoa hưng á".
Hội "Chấn Hoa hưng á".
Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt ở Thượng Hải (năm
Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt ở Thượng Hải (năm
1925) rồi áp giải về Hà Nội kết án tù khổ sai chung thân. Hành
1925) rồi áp giải về Hà Nội kết án tù khổ sai chung thân. Hành
động này của thực dân Pháp làm dấy lên phong trào đấu tranh
động này của thực dân Pháp làm dấy lên phong trào đấu tranh
đòi thả Phan Bội Châu nổ ra trên toàn quốc. Vì thế, thực dân
đòi thả Phan Bội Châu nổ ra trên toàn quốc. Vì thế, thực dân
Pháp phải đưa ông về giam lỏng ở Huế cho đến khi ông qua
Pháp phải đưa ông về giam lỏng ở Huế cho đến khi ông qua
đời năm 1940. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá về Phan Bội
đời năm 1940. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá về Phan Bội
Châu như sau: "Phan Bội Châu, bậc anh hùng, vị thiên sứ,
Châu như sau: "Phan Bội Châu, bậc anh hùng, vị thiên sứ,
đấng xả thân vì độc lập, được 20 triệu con người trong vùng
đấng xả thân vì độc lập, được 20 triệu con người trong vùng
nô lệ tôn sùng",...
nô lệ tôn sùng",...
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
NHỮNG CON NGƯỜI LÀM
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
RẠNG DANH XỨ NGHỆ
10. Đặng Thúc Hứa (1870 - 1931)
Ông quê ở xã Thanh Xuân (Thanh Chương), đỗ tú tài
năm 1900. Ông hoạt động cách mạng theo sự chỉ
đạo của Phan Bội Châu trong phong trào Duy Tân,
Đông Du. Năm 1910, ông xuất dương sang Thái Lan
hoạt động, xây dựng cơ sở cách mạng trong Việt
kiều. Năm 1919, với tư cách là thành viên của Việt
Nam Quang phục Hội, ông tiếp thu tư tưởng cách
mạng vô sản và tích cực hoạt động theo sự hướng
dẫn của Bác Hồ. Ông mất năm 1931.