Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

BTN thương mại 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.32 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

ĐỀ BÀI
GĐ CTy HT mua 1000 tấn đường với GĐ Cty TS. Đến thời hạn giao hàng,
Cty TS không giao được hàng, Cty HT không thực hiện được hợp đồng với
đối tác và bị đối tác phạt vi phạm. Cty HT gửi thông báo yêu cầu bồi thường
thiệt hại và phạt giá trị hợp đồng nhưng Cty TS không chấp thuận. Cty HT
quyết định khởi kiện ra Tòa án.
1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực.
2. Biết: Trong hợp đồng các bên có thỏa thuận trọng tài như sau: “Mọi tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại hoặc
tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.” Hãy nhận xét về
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán đường nói trên và
bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài.
3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty Hà Thiêm không? Vì sao?
4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty Hà Thiêm. Nếu yêu cầu bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty Hà Thiêm là hợp pháp, hãy xác
định giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty Thiên Sơn phải
chịu?

1
1


BÀI LÀM
1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực.
Luật Thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng
hoá song có thể xác định bản chất pháp lí của hợp đồng mua bán hàng cũng là
hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự.


Như vậy điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực cũng tương tự
như điều kiện để hợp đồng dân sự có hiệu lực.
Về chủ thể: Các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa phải có năng
lực chủ thể thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Đại diện của các bên giao kết
hợp đồng mua bán phải đúng thẩm quyền.
Về nội dung: Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
không bị cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Về tính tự nguyện: Việc giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán
phải tuân theo các nguyên tắc: tự do giao kết nhưng không trái pháp luật và
đạo đức xã hội; tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng.
Về hình thức: Hình thức hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật.
2. Biết: Trong hợp đồng các bên có thỏa thuận trọng tài như sau:
“Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi
trọng tài thương mại hoặc tòa án theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành.” Hãy nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
trong hợp đồng mua bán đường nói trên và bình luận quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
a) Nhận xét về hiệu lực của thoả thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán
đường
Luật Trọng tài thương mại 2010 không quy định cụ thể về điều kiện có hiệu
lực của thoả thuận trọng tài. Do đó, hiệu lực của thoả thuận trọng tài trong
hợp đồng mua bán đường được xác định khi không thuộc một trong các
2
2


trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu quy định tại Điều 18, Luật Trọng tài
thương mại năm 2010:

“Điều 18. Thoả thuận trọng tài vô hiệu
1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo
quy định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16
của Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập
thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô
hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.”
Cụ thể:
Về đối tượng, đối tượng của thoả thuận trọng tài phải là các lĩnh vực thuộc
thẩm quyền của trọng tài, gồm (i) tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt
động thương mại, (ii) tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt
động thương mại, (iii) tranh chấp khác theo quy định của pháp luật (Điều 2,
Luật Trọng tài thương mại 2010).
Trong trường hợp này, Công ty cổ phần Bách hoá Hà Thiêm và Công ty cổ
phần Thiên Sơn là hai thương nhân, tiến hành mua bán hàng hoá (mua bán
đường) nhằm mục đích sinh lợi, do đó, hoạt động mua bán hàng hoá mà hai
bên thực hiện là hoạt động thương mại (theo quy định tại khoản 1, Điều 3,
Luật Thương mại 2005), đồng thời, tranh chấp về hoạt động mua bán đường
cũng là tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại – đối tượng của thoả
thuận trọng tài.
Vì vậy, tranh chấp của hai công ty hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Trọng tài.
3
3



Về chủ thể, người xác lập thỏa thuận trọng tài phải có năng lực chủ thể. Nếu
người xác lập thỏa thuận không có thẩm quyền hoặc không có năng lực hành
vi dân sự thì đều dẫn đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Người xác lập thỏa thuận trọng tài trong tình huống này là giám đốc của hai
công ty. Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 157 và Điều 65 Luật doanh nghiệp
năm 2014, giám đốc công ty cổ phần đã thoả mãn điều kiện có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự.
Do đó, thoả thuận trọng tài có hiệu lực khi và chỉ khi giám đốc của hai công
ty có thẩm quyền ký kết thoả thuận trọng tài.
Về tính tự nguyện, trong tình huống không có căn cứ nào cho thấy một trong
các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng
tài, đồng thời, thoả thuận trọng tài là một điều khoản trong hợp đồng mua bán
đường, là thoả thuận của hai bên về phương thức giải quyết tranh chấp. Do
đó, có thể thấy thoả thuận trọng tài trong trường hợp này được xây dựng trên
cơ sở tự nguyện và thống nhất ý chí của cả hai bên.
Về hình thức, thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới hình thức điều
khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng, đồng
thời phải được xác lập dưới dạng văn bản.
Trong trường hợp này, thỏa thuận về trọng tài của các bên được xác lập dưới
dạng điều khoản trong hợp đồng, hoàn toàn thỏa mãn về mặt hình thức.
Về nội dung, thỏa thuận trọng tài không được vi phạm điều cấm của pháp
luật.
Nội dung thoả thuận trọng tài của hai bên là: “Mọi tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại hoặc tòa án theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành.” không vi phạm điều cấm của pháp
luật nên hoàn toàn thoả mãn về mặt nội dung.

4
4



b) Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài.
Thứ nhất, về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong pháp luật
Việt
Nam. Luật Trọng tài thương mại không quy định các điều kiện để thỏa thuận
trọng tài có hiệu lực nhưng Điều 18 lại quy định các trường hợp thỏa thuận
trọng tài vô hiệu, do đó, các thỏa thuận trọng tài không vi phạm Điều 18 thì
được coi là thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Các điều kiện được quy định tại
Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010 khá hợp lý so với tổng thể các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Điều kiện về đối tượng của thoả thuận trọng tài: Trọng tài chỉ có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp khi có thoả thuận giữa các bên và tranh chấp đó thuộc
thẩm quyền giải quyết của trọng tài mà pháp luật quy định. Do đó, hiệu lực
của thoả thuận trọng tài sẽ phụ thuộc rất lớn vào đối tượng của thoả thuận
trọng tài. Quy định này đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài ở một mức độ
nhất định, đồng thời khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm
quyền của trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó bảo đảm
sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Bộ
luật Tố tụng dân sự, Luật thương mại, Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành.
- Điều kiện về năng lực chủ thể: Pháp luật nước ta quy định khá cụ thể về
năng lực chủ thể khi ký kết thỏa thuận trọng tài, theo đó người xác lập thoả
thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự và có thẩm quyền ký kết. Đây
chính là tiêu chí cơ bản để xác định hiệu lực của thỏa thuận thương mại, bởi
chỉ khi có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì các bên
tham gia mới xác định được nội dung của thỏa thuận trọng tài, đảm bảo được
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời, thoả thuận trọng tài chỉ có
hiệu lực pháp lý ràng buộc các bên khi người ký kết thoả thuận trọng tài có
thẩm quyền ký kết. Người ký thoả thuận trọng tài phải là người có quyền

quyết định phương thức giải quyết tranh chấp hoặc là người được uỷ quyền.
5
5


Bởi lẽ, nếu được ký bởi người không có thẩm quyền, thoả thuận trọng tài sẽ
không còn ý nghĩa.
- Điều kiện về hình thức thỏa thuận trọng tài: Hình thức của thỏa thuận trọng
tài có nghĩa đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài. Để ghi nhận nội dung của thỏa thuận trọng tài thì văn bản là
phương thức thích hợp với ưu thế thể hiện rõ ràng, chính xác ý chí của các
bên; là chứng thư pháp lý cần thiết có những bất đồng về nội dung thỏa thuận
trọng tài cũng như xác định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Ngoài ra Luật
trọng tài cũng thừa nhận các loại văn bản như: telegram, fax, telex, thư điện tử
và các hình thức khác theo quy định của pháp luật nếu nó thể hiện rõ ý chí của
các bên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Quy định văn bản là phương tiện
ghi nhận nội dung của thỏa thuận trọng tài sẽ nâng cao được độ xác thực về
những nội dung đã cam kết. Khi có tranh chấp, thỏa thuận trọng tài bằng văn
bản sẽ tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn cho “quyền lực” của trọng tài, giúp
cho tiến trình trọng tài được dễ dàng, thuận lợi và tránh những mâu thuẫn, bất
động nảy sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp.
- Điều kiện về ý chí tự nguyện của chủ thể: Bản chất của trọng tài là thống
nhất ý chí và bày tỏ ý chí. Điều đó đòi hỏi phải loại trừ trường hợp xác lập
thỏa thuận trọng tài do lừa dối, đe dọa. Thỏa thuận trọng tài cũng là một loại
hợp đồng, một loại giao dich dân sự, trong đó ý chí tự nguyện của chủ thể
đóng vai trò là một nguyên tắc vô cùng quan trọng trong quá trình xác lập. Do
đó, thỏa thuận trọng tài xác lập do bị lừa dối, bị đe dọa không đương nhiên vô
hiệu.
- Điều kiện về nội dung: Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi vi phạm điều cấm
của pháp luật. Theo Bộ luật dân sự 2015, vi phạm điều cấm của pháp luật là

một trong những trường hợp làm cho hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên với khái
niệm “vi phạm điều cấm của pháp luật” lại quá chung chung, do đó quy định
về “Vi phạm điều cấm của pháp luật” nên được quy định rõ ràng cụ thể hơn,

6
6


tránh tình trạng một bên lạm dụng quy định này để yêu cầu hủy quyết định
trọng tài.
Thứ hai, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài độc lập với hiệu lực của hợp đồng
chính.
Theo Điều 19 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định thỏa thuận trọng
tài độc lập với hợp đồng chính: “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với
hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc
không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài”.
Đây là đặc điểm cơ bản của thỏa thuận trọng tài. Tính độc lập của thỏa thuận
trọng tài ở đây xét trong mối quan hệ với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn,
hay huỷ bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực
của điều khoản trọng tài. Như vậy, dù thỏa thuận trọng tài dưới dạng là một
điều khoản trong hợp đồng hay là một thỏa thuận trọng tài riêng biệt đều tồn
tại độc lập với hợp đồng. Có thể nói đây là một nguyên tắc rất quan trọng,
đảm bảo mọi tranh chấp phát sinh đều được giải quyết kể cả khi hợp đồng vô
hiệu. Khác với tòa án vốn có thẩm quyền đương nhiên để giải quyết tranh
chấp nếu các bên không có thỏa thuận khác, Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải
quyết vụ tranh chấp nếu được các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, với việc lựa
chọn trọng tài, các bên đã loại trừ sự can thiệp của tòa án. Do đó, việc xác
định điều khoản trọng tài độc lập với hợp đồng có ý nghĩa quan trọng, bởi vì
đây là cơ sở duy nhất để Hội đồng Trọng tài được thành lập xem xét và quyết
định hợp đồng có hiệu lực hay không. Bằng việc quy định rõ ràng, chi tiết các

trường hợp hợp đồng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng
tài, Luật Trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được những nhược điểm
của Pháp lệnh 2003. Có thể thấy rằng, Việt Nam quy định về vấn đề này khá
tương đồng với các nước trên thế giới.
Thứ ba, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đối với các chủ thể có liên quan.
Đối với cơ quan trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Thông qua
việc chỉ định các trọng tài viên, các bên trao cho hội đồng trọng tài quyền hạn
7
7


để giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận trọng tài trao quyền cho hội đồng trọng
tài quyết định giải quyết một tranh chấp mà các bên có nghĩa vụ đệ trình lên
trọng tài. Quyết định này sẽ ràng buộc các bên và nó có thể được cưỡng chế
thi hành bởi tòa án.
Đối với tòa án quốc gia: Điều 6 Luật Trọng tài thương mại 010 đã quy định về
việc tòa án từ chối thụ lý trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài: “Trong
trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi
kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng
tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Quy định này
đã thể hiện rõ ràng thái độ của nhà nước đối với thỏa thuận trọng tài và nó
như là sự đảm bảo mạnh mẽ từ phía nhà nước để thỏa thuận trọng tài được
các bên tôn trọng. Tuy nhiên, Luật quy định tòa án không được thụ lý vụ kiện
tranh chấp khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài là để khẳng định thẩm quyền
của trọng tài, ngoại lệ được quy định là trường hợp thỏa thuận trọng tài vô
hiệu hoặc không thể thực hiện được. Vậy trường hợp nào được hiểu là thỏa
thuận trọng tài không thể thực hiện được? Ngay cả văn bản dưới luật liên
quan đến lĩnh vực này cũng không hướng dẫn rõ khái niệm này. Thiếu sót này
thật sự là sự cản trở cho các bên trong việc áp dụng pháp luật trường hợp nào
thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, để cân nhắc trước khi xây dựng

thỏa thuận trọng tài. Nghị định 63/2011/NĐ-CP cũng không có hướng dẫn
nào liên quan đến vấn đề này, nên trong thực tế đang tồn tại nhiều cách hiểu
khác nhau về cùng một vấn đề.
Thứ tư, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài khi có sự thay đổi của một bên:
Sau khi thỏa thuận trọng tài được xác lập, có thể có những thay đổi lớn liên
quan đến một bên. Trong trường hợp này, Luật Trọng tài thương mại quy định
thỏa thuận trọng tài tiếp tục có hiệu lực, cụ thể:
Theo khoản 2, khoản 3 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định:
“2. Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc
mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa
8
8


kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có
thoả thuận khác.
3. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt
hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi
hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp
nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác.”
3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty Hà Thiêm không?
Vì sao?
Để xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án trong tranh chấp thương mại
này, trước hết Toà án phải xác định tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết
của hệ thống Toà án nhân dân hay thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài
thương mại.
Cơ sở để phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
của Toà án và trọng tài là thoả thuận trọng tài giữa các bên. Điều 6 Luật Trọng
tài thương mại quy định: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả

thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý,
trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không
thể thực hiện được.”
Khi quyết định thụ lí những tranh chấp mà trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp, các bên có thoả thuận trọng tài, Thẩm phán cần phải xem xét thoả thuận
trọng tài có bị vô hiệu hay không. Thẩm phán cần xem xét hiệu lực của thoả
thuận trọng tài một cách độc lập với hiệu lực của quan hệ pháp luật đang
tranh chấp. Việc thay đổi, gia hạn, huỷ bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng
không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài.
Theo Hướng dẫn tại Nghị quyết số: 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/03/2014 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao trong một số trường hợp, tuy
các bên có thoả thuận trọng tài có hiệu lực nhưng tranh chấp vẫn thuộc thẩm
quyền của Toà án nhân dân.
9
9


”Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện mà
Tòa án xác định người bị kiện, người khởi kiện đã yêu cầu Trọng tài giải
quyết tranh chấp thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường
hợp người bị kiện, người khởi kiện chưa yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh
chấp thì Tòa án xem xét thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.”
Đồng thời, căn cứ Điều 35 Luật Tố tụng dân sự 2015, tranh chấp phát sinh từ
hoạt động thương mại hoàn toàn thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Do
đó, sau khi xác định được tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của hệ
thống Toà án nhân dân, Thẩm phán phải làm rõ tranh chấp giữa các bên có
phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại không, cụ thể, tranh chấp về
hoạt động mua bán đường trong trường hợp này cũng là tranh chấp phát sinh
từ hoạt động thương mại.
Vì công ty Hà Thiêm lựa chọn khởi kiện ra toà án mà không chọn giải quyết

bằng trọng tài thương mại nên Toà án có thể xem xét thụ lý đơn khởi kiện
của công ty Hà Thiêm theo đúng thẩm quyền của mình. Do đó, trong thời hạn
05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện mà Tòa án xác định hai
công ty chưa yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án xem xét thụ lý
giải quyết theo thủ tục chung.
4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu
cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty Hà Thiêm.
Nếu yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty Hà
Thiêm là hợp pháp, hãy xác định giá trị bồi thường thiệt hại và
phạt vi phạm mà công ty Thiên Sơn phải chịu?
a Yêu cầu bồi thường thiệt hại
• Căn cứ pháp lý: Luật Thương mại 2005 quy định:
Điều 302. Bồi thường thiệt hại
1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
10
10


2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà
bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên
bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Điều 303. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Điều 294. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau

đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao
kết hợp đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách
nhiệm.
Trong trường hợp này,
- Công ty Thiên Sơn có hành vi vi phạm hợp đồng: Đến thời hạn giao
hàng nhưng không giao được hàng cho công ty Hà Thiêm.
- Có thiệt hại thực tế: Công ty Hà Thiêm không thực hiện được hợp đồng
với đối tác và bị đối tác phạt 150 triệu đồng.
- Hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại: Hành vi
không giao hàng đúng thời hạn của công ty Thiên Sơn là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến hậu quả công ty Hà Thiêm không có hàng hóa để thực
hiện được hợp đồng với đối tác và bị phạt vi phạm.
11
11


Do đó, trừ khi hành vi vi phạm của công ty Thiên Sơn thuộc các trường hợp
được miễn trách nhiệm tại Điều 294, yêu cầu bồi thường thiệt hại của công ty
Hà Thiêm là hoàn toàn hợp pháp.
• Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm:
- 150 triệu đồng từ tổn thất thực tế, trực tiếp mà công ty Hà Thiêm phải
chịu.
- Khoản lợi trực tiếp mà công ty Hà Thiêm đáng lẽ được hưởng (dựa trên
hợp đồng của công ty Hà Thiêm với đối tác).

c) Yêu cầu phạt vi phạm
• Căn cứ pháp lý: Luật Thương mại 2005 quy định:
Điều 300. Phạt vi phạm
Phạt vi phạm là việc mà bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản
tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các
trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này.
Điều 301. Mức phạt vi phạm
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8%
giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều
266 của Luật này.
Công ty Hà Thiêm không
Hai bên không có thỏa thuận về

có quyền yêu cầu phạt vi

phạt vi phạm trong hợp đồng

phạm

Phạt vi
Hành vi vi phạm của

phạm

công ty Thiên Sơn không
thuộc Đ294 => Công ty
Hà Thiêm có quyền yêu
Hai bên có thỏa thuận về phạt
12

12

vi phạm trong hợp đồng

cầu phạm vi phạm.


Hành vi vi phạm của
công ty Thiên Sơn thuộc
Đ294 => Công ty Hà
Thiêm không có quyền
yêu cầu phạt vi phạm

Công ty Hà Thiêm chỉ được yêu cầu công ty Thiên Sơn trả tiền phạt vi phạm
khi có thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng.
- Hai bên không thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng thì công ty Hà
Thiêm không có quyền yêu cầu công ty Thiên Sơn trả tiền phạt vi phạm.
- Hai bên có thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng:
+ Hành vi vi phạm của công ty Thiên Sơn không thuộc các trường hợp miễn
trách nhiệm quy định tại Điều 294: Ở trường hợp này, công ty Hà Thiêm hoàn
toàn có quyền yêu cầu phạm vi phạm.
+ Hành vi vi phạm của công ty thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm quy
định tại Điều 294: Để được miễn chịu phạt vi phạm, công ty Thiên Sơn trước
hết phải chứng minh được mình rơi vào trường hợp được miễn trách nhiệm và
phải “thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn
trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra”. Công ty Hà Thiêm không có
quyền yêu cầu phạt vi phạm.
Vì vậy, yêu cầu phạt vi phạm của công ty Hà Thiêm là hợp pháp khi công ty
Hà Thiêm và công ty Thiên Sơn có thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp
đồng và hành vi vi phạm hợp đồng của công ty Thiên Sơn không thuộc một

trong các trường hợp được miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 Luật
Thương mại 2005.
• Giá trị phạt vi phạm:
Trừ trường hợp phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết quả
giám định sai, mức phạt do hai bên công ty thoả thuận trong hợp đồng nhưng
13
13


không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng (tức tối đa 0.8 x 12 000 x 1 000
000 = 960 000 000 đồng).

14
14



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×