Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích các điều kiện để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào trong phương pháp khấu trừ và liên hệ thực tiễn. Kể từ năm 1997 cho đến nay, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới Luật thuế giá trị gia tăng, các điều kiện khấu trừ thuế đã có

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.3 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Kể từ khi ra đời và có hiệu lực thi hành ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999 cho đến nay, thuế giá trị
gia tăng luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của mọi giới, nhất là các nhà kinh doanh lớn và nhỏ, chứng
tỏ đó là một sắc thuế quan trọng và chiếm tỷ trọng cao góp phần đáng kể trong việc giải quyết nhu cầu
chi tiêu của Chính Phủ. Thuế giá trị gia tăng hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu do điều kiện ưu đãi về
thuế suất tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu được hoàn thuế đầu vào giúp cho nhà xuất khẩu
giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, khuyến khích xuất khẩu, điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh
hội nhập kinh tế nước ta hiện nay. Do đặc thù của cơ chế khấu trừ của thuế giá trị gia tăng buộc các cơ
sở kinh doanh phải sử dụng chứng từ hoá đơn khi bán và mua hàng hoá, từ đó giúp việc quản lý thuế
được chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, cơ chế khấu trừ cũng là kẽ hở để các doanh nghiệp thực hiện việc hành
vi gian lận bằng việc kê khai hoá đơn GTGT và chiếm đoạt tiền thuế Nhà nước. Chính vì vậy mà một
trong những biện pháp để hạn chế gian lận thuế của các DN và thất thoát tiền của ngân sách nhà nước
là thắt chặt các điều kiện để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào trong phương pháp khấu trừ. Do
vậy em xin chọn đề tài nghiên cứu bài tập học kỳ Phân tích các điều kiện để được khấu trừ thuế giá
trị gia tăng đầu vào trong phương pháp khấu trừ và liên hệ thực tiễn. Kể từ năm 1997 cho đến nay,
qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới Luật thuế giá trị gia tăng, các điều kiện khấu trừ
thuế đã có sự thay đổi như thế nào và tại sao lại có những sự thay đổi ấy?

NỘI DUNG
I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.

Định nghĩa “Thuế giá trị gia tăng”

Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng 2008 sửa đổi và bổ sung 2013 quy định
“Điều 2. Thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong


quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.”
Như vậy Thuế giá trị gia tăng là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập
của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hoá, nhận dịch vụ.
Thuế giá trị gia tăng trong tiếng anh là Value added tax, thuế giá trị gia tăng là một loại thuế
hiện đại, được các nhà kinh tế nghiên cứu từ những năm 1920 nhưng đến tận năm 1954 thì phương thức
thu thuế đối với phần giá trị tang thêm của hàng hoá mới được áp dụng đầu tiên ở Pháp. Từ năm 1968,
Pháp mở rộng diện áp dụng đối với dịch vụ. Do có những ưu thế về việc thu không gây ra tình trạng


đánh thuế trùng lặp nên thuế này được nhiều nước áp dụng. Năm 1977, Liên minh Châu Âu ra nghị
quyết số 06 về hoàn thiện cơ chế thu thuế giá trị gia tang và xem việc áp dụng nó là điều kiện gia nhập
cộng đồng. Hiện nay có khoảng 120 quốc gia, vùng lãnh thổ đã áp dụng loại thuế này.
Xét về bản chất, thuế giá trị gia tăng là loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất kinh doanh và
cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dàng lại thực chất là người chịu thuế thông qua
giá cả hàng hoá dịch vụ. Do tính gián thu này mà thuế giá trị gia tăng có khả năng điều tiết tiêu dùng xã
hội. Đây cũng là một loại thuế đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách, Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề
này để quyết định những chính sách thuế hợp lý trong những giai đoạn nhất định đảm bảo khi thực hiện
thuế giá trị gia tăng không gây ra những xáo trộn lớn ảnh hưởng đến người dân.
2.

Khái quát về phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng và đối tượng áp dụng

Căn cứ vào điều 9 Luật thuế giá trị gia tăng 2008 sửa đổi và bổ sung 2013 nhận thấy phương
pháp khấu trừ thuế là một trong hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng. Cụ thể phương pháp khấu
trừ thuế được quy định tại điều 10 Luật thuế giá trị gia tăng 2008 sửa đổi và bổ sung 2013 như sau:
“Điều 10. Phương pháp khấu trừ thuế
1. Phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng được quy định như sau:
a) Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số thuế giá trị gia
tăng đầu ra trừ số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ;
b) Số thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng tổng số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ

bán ra ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng.
Thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng bằng giá
tính thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân với thuế suất thuế giá trị gia tăng của hàng hóa,
dịch vụ đó.
Trường hợp sử dụng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng thì thuế
giá trị gia tăng đầu ra được xác định bằng giá thanh toán trừ giá tính thuế giá trị gia tăng xác định
theo quy định tại điểm k khoản 1 Điều 7 của Luật này;
c) Số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ bằng tổng số thuế giá trị gia tăng ghi trên
hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ, chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập
khẩu và đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 12 của Luật này.”
Đối tượng áp dụng của phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng1 bao gồm hai nhóm đối
tượng:
 Cơ sở kinh doanh đang hoạt động có doanh thu hàng năm từ một tỷ đồng trở lên từ bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ và thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của
pháp luật về kế toán, hóa đơn, chứng từ, trừ hộ, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính
trực tiếp
 Đối tượng đăng ký tự nguyện:
Doanh nghiệp, hợp tác xã đang hoạt động có doanh thu hàng năm từ bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ dưới một tỷ đồng đã thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, sổ sách, hóa đơn, chứng
từ theo quy định.
1 Khoản 2 điều 10 Luật thuế giá trị gia tăng 2008 sửa đổi và bổ sung 2013

2


Doanh nghiệp mới thành lập từ dự án đầu tư của cơ sở kinh doanh đang hoạt động
nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ;
Doanh nghiệp, hợp tác xã mới thành lập có thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản cố định,
máy móc, thiết bị, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam theo hợp
đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ theo hướng dẫn của Bộ Tài chính;

Tổ chức kinh tế khác hạch toán được thuế giá trị gia tăng đầu vào, đầu ra.
3.

Thuế giá trị gia tăng đầu vào và nguyên tắc xác định

Thuế giá trị gia tăng đầu vào (VAT đầu vào) là tổng số thuế GTGT ghi trên:
Hóa đơn mua HH DV;
Chứng từ nộp thuế GTGT hàng Nhập khẩu;
Chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài;
Thuế GTGT từ các chứng từ đặc thù.
Không phải mọi thuế giá trị gia tăng đầu vào đều được khấu trừ mà phải dựa theo nguyên tắc
xác định thuế giá trị gia tăng đầu vào được quy định tại khoản 1 điều 12 Luật thuế giá trị gia tăng như
sau:
“Điều 12. Khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào
1. Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được khấu trừ
thuế giá trị gia tăng đầu vào như sau:
a) Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng được khấu trừ toàn bộ, kể cả thuế giá trị gia tăng đầu vào
không được bồi thường của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng bị tổn thất;
b) Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế thì chỉ được khấu trừ số thuế giá trị gia tăng đầu
vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia
tăng. Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ và không
được khấu trừ; trường hợp không hạch toán riêng được thì thuế đầu vào được khấu trừ tính theo tỷ lệ
% giữa doanh thu của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng so với tổng doanh thu hàng hóa,
dịch vụ bán ra;
c) Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ bán cho tổ chức, cá nhân sử dụng
nguồn vốn viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại được khấu trừ toàn bộ;
d) Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho hoạt động tìm kiếm,
thăm dò, phát triển mỏ dầu, khí được khấu trừ toàn bộ;

đ) Thuế giá trị gia tăng đầu vào phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ khi xác
định số thuế phải nộp của tháng đó. Trường hợp cơ sở kinh doanh phát hiện số thuế giá trị gia tăng
đầu vào khi kê khai, khấu trừ bị sai sót thì được kê khai, khấu trừ bổ sung trước khi cơ quan thuế công
bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế.”

3


II.
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC KHẤU TRỪ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐẦU
VÀO TRONG PHƯƠNG PHÁP KHẤU TRỪ VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI VIỆT
NAM
1

Điều kiện để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào trong phương pháp khấu

trừ
Khoản 2 điều 12 Luật thuế giá trị gia tăng quy định:
“2. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào được quy định như sau:
a) Có hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia
tăng ở khâu nhập khẩu;
b) Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng
hóa, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng;
c) Đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a và điểm b
khoản này còn phải có: hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hóa, cung ứng
dịch vụ; hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ; chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt; tờ khai hải quan
đối với hàng hóa xuất khẩu.
Việc thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu dưới hình thức thanh toán bù trừ giữa hàng
hóa, dịch vụ xuất khẩu với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, trả nợ thay Nhà nước được coi là thanh toán
không dùng tiền mặt.”

Ngoài ra điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào được quy định tất rõ tại điều 15
thông tư số 219/2013/TT-BTC, thông tư 119/2014/TT-BTC của Bộ tài chính. Như vậy dựa vào các văn
bản luật và thông tư hướng dẫn có thể thấy các điều kiện để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào trong
phương pháp khấu trừ được hiểu như sau:
Thứ nhất, hoá đơn phải hợp lý, hợp lệ và hợp pháp. Có hoá đơn giá trị gia tăng hợp pháo của
hang hoá, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế GTGT khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế
GTGT thay cho phía nước ngoài.
Hóa đơn chứng từ hợp pháp được hiểu là : Hoá đơn do Bộ Tài chính (Tổng cục thuế) phát
hành và được cơ quan thuế cung cấp cho các cơ sở kinh doanh.
Hoá đơn do các cơ sở kinh doanh tự in theo mẫu quy định và đã được cơ quan thuế chấp
nhận cho sử dụng.
Hóa đơn đã được DN làm thủ tục thông báo phát hành hóa đơn. nếu chưa thông báo phát
hành hóa đơn mà đã sử dụng hóa đơn thì hóa đơn đó là bất hợp phát. Có thể tra cứu tại đường link điện
tử online />Tuy nhiên cần chú ý các vấn đề sau: DN có giao dịch mua bán hàng hóa dịch vụ có thật, hóa
đơn tài chính đầy đủ, thanh toán minh bạch (thanh toán qua ngân hàng) nhưng vẫn có thể gặp phải một
trong các tình huống rủi ro về hóa đơn như sau:
Trường hợp DN cung cấp hàng hóa, dịch vụ nhưng hàng hóa dịch vụ này không nằm trong
phạm vi hoạt động đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp đó.

4


Ví dụ: DN A ký hợp đồng với DN B về việc cung cấp dịch vụ kế toán. Nhưng trong giấy
phép DKKD của DN A lại không đăng ký kinh doanh mảng hoạt động này. Do vậy hóa đơn mà bên A
xuất cho bên B là bất hợp pháp.
Trường hợp DN có hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ của các DN đang nằm trong danh sách
DN tạm dừng kinh doanh hoặc đang bỏ trốn của cơ quan thuế.
Hóa đơn hợp lệ là: Hóa đơn hợp lệ được hiểu là sự phù hợp với các thông lệ. Hoá đơn phải
đảm bảo đầy đủ nội dung các chỉ tiêu và yêu cầu ghi trên hóa đơn như:
Ghi rõ ngày tháng năm lập hóa đơn, họ tên người mua, bán, địa chỉ công ty mua, bán, mã số

thuế, hình thức thanh toán (tiền mặt hoặc chuyển khoản), số tài khoản (nếu có),
Ghi rõ số thứ tự, tên hàng hóa dịch vụ, đơn vị tính, số lượng, đơn giá, thành tiền, thuế suất,
tiền thuế GTGT (nếu có), tổng số tiền thanh toán; số tiền bằng chữ.
Phải có chữ ký người mua, người bán, chữ ký của Giám đốc, nếu không có chữ ký của GĐ
thì phải có giấy ủy quyền và đóng dấu treo vào bên trên góc trái hóa đơn, người được ủy quyền ký vào
đây.
Hoá đơn được lập theo đúng các Nguyên tắc lập hóa đơn GTGT theo Thông tư số
39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 (có hiệu lự từ ngày 1/6/2014). Một vài trường hợp cần lưu ý về hoá
đơn hợp lệ:
Hóa đơn hợp lệ sẽ là căn cứ để xác định chi phí được trừ hay không được trừ khi tính thuế
TNDN. Ngoài việc phải đáp ứng tính hợp lệ như trên trong một số trường hợp phải đáp ứng các yêu cầu
khác như: Không vượt định mức (tiêu hao nguyên vật liệu, ...), không vượt mức khống chế (chi phí
quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới; chi tiếp tân, khánh tiết, hội nghị; chi hỗ trợ tiếp thị,
chi hỗ trợ chi phí, chiết khấu thanh toán; chi báo biếu, báo tặng...)
Tiền ăn trưa của mỗi người lao động: 680.000đ/ng/tháng.
Chi trang phục: 5.000.000đ/ng/năm
Chi phí mua xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi
Đối với những hóa đơn có Giá trị trên 20triệu phải chuyển khoản qua Ngân hàng thì mới
được khấu trừ thuế GTGT và tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ khi tính thuế TNDN.
Hóa đơn hợp lý là: Khi nói đến hoá đơn hợp lý là nói đến chi phí hợp lý. Chi phí có hoá đơn
hợp pháp, hợp lệ vẫn chưa đủ, nó còn phải hợp lý. Nghĩa là nội dung trên hóa đơn phải đúng - phù hợp
với nội dung kinh doanh và có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi được cấp
phép trên GPKD của DN
Ví dụ: Hóa đơn ăn uống mặc dù là hóa đơn hợp pháp nhưng phải xem hóa đơn ấy có liên
quan đến hoạt động SXKD hay không? Nếu hóa đơn ăn uống là do bạn chiêu đãi người thân, gia
đình, ... không liên quan đến hoạt động SXKD thì cho dù có hóa đơn hợp pháp cũng không được xem
là chi phí hợp lý và không được hạch toán vào chi phí, giá thành. Hoặc: Doanh nghiệp không có
phương tiện vận tải mà lại có hóa đơn mua nhiên liệu phục vụ vận tải để kê khai thuế GTGT và hạch
toán chi phí là không hợp lý.
Thứ hai, phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Những hoá đơn có giá trị trên 20 triệu

đồng thì phải thanh toán qua ngân hàng và có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Tức là phải chuyển
khoản từ tài khoản bên mua sang tài khoản bên bán. Chú ý tài khoản ngân hàng của bên mua và tài
khoản của bên bán phải là tài khoản đã đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế. Trường hợp bạn đi
mua hàng có giá trị trên 20 triệu nhưng lại nộp tiền mặt vào tài khoản của bên bán thì không được khấu

5


trừ và cho vào chi phí hợp lý. Bên mua không cần phải đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế tài
khoản tiền vay tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo các hình thức thanh toán phù hợp với
quy định của pháp luật hiện hành như sẽ, uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi, uỷ nhiệm thu, nhờ thu, thẻ ngân
hàng, thẻ tín dụng, sim điện thoại ( ví điện tử ) và các hình thức thanh toán khác theo quy định (bao
gồm cả trường hợp bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân
sang tài khoản bên bán nếu tài khoản này đã được đăng ký giao dịch với cơ quan thuế). Theo quy định
từ ngày 15/12/2016 thì Tài khoản ngân hàng không đăng ký với Cơ quan thuế thì vẫn sẽ được khấu trừ
thuế GTGT đầu vào2.
Thứ ba, những hàng hoá, dịch vụ mua trả chậm, trả góp có giá trị trên 20 triệu. Theo thông
tư 119/2014/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 01/09/2014 thì doanh nghiệp căn cứ vào hợp đồng mua hàng
hoá, dịch vụ bằng văn bản, hoá đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán qua ngân hàng để kê khai,
khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời
điểm thanh toán theo hợp đồng hoặc trước ngày 31/12 hàng năm đối với trường hợp thời điểm thanh
toán theo hợp đồng sớm hơn ngày 31/12, DN vẫn được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Đến thời
điểm thanh toán theo hợp đồng hoặc đến ngày 31/12 mà không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng
thì DN phải kê khai điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ. Khi nào có chứng từ thanh
toán thì kê khai điều chỉnh tăng.
Ví dụ Trong năm 2014, công ty kế toán A có phát sinh các hoá đơn GTGT mua hàng theo
hợp đồng trả chậm như sau:
Hoá đơn GTGT mua hàng tháng 3/2014, thời hạn thanh toán là ngày 20/09/2014
Hoá đơn GTGT mua hàng tháng 4/2014, thời hạn thanh toán là ngày 20/10/2014
Hoá đơn GTGT mua hàng tháng 5/2014, thời hạn thanh toán là ngày 20/11/2014

Hoá đơn GTGT mua hàng tháng 6/2014, thời hạn thanh toán là ngày 20/12/2014
Công ty kế toán A đã kê khai khấu trừ thuế GTGT khi nhận được hoá đơn GTGT mua hàng.
Đến thời điểm thanh toán theo các hợp đồng, nếu chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì kê
khai điều chỉnh giảm cho từng hoá đơn. Đến ngày 31/12/2014 nếu chưa có chứng từ thanh toán qua
ngân hàng thì kê khai điều chỉnh giảm cho tất cả 4 hoá đơn GTGT. Khi nào có chứng từ thanh toán thì
kê khai điều chỉnh tăng.
Thứ tư, các trường hợp thanh toán không dùng tiền mặt khác để khấu trừ thuế GTGT đầu
vào gồm:
Hàng hoá, dịch vụ mua vào theo phương thức thanh toán bù trừ giữa giá trị hàng hoá, dịch vụ
mua vào với giá trị hàng hoá, dịch vụ bán ra
Hàng hoá, dịch vụ mua vào theo phương thức bù trừ công nợ như vay, mượn tiền;
Hàng hoá, dịch vụ mua vào được thanh toán uỷ quyền qua bên thứ ba thanh toán qua ngân
hàng
Hàng hoá, dịch vụ mua vào được thanh toán qua ngân hàng vào tài khoản của bên thứ ba mở
tại Kho bạc Nhà nước để thực hiện cưỡng chế bằng biện pháp thu tiền, tài sản do tổ chức, cá nhân khác
đang nắm giữ (theo Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ) thì cũng được khấu trừ thuế
GTGT đầu vào.
2 Quy định tại Thông tư 173/2016/TT-BTC

6


Thứ năm, các trường hợp khác cần chú ý. Đối với trường hợp mua hàng hoá, dịch vụ của một
nhà cung cấp mỗi lần có giá trị nhỏ hơn 20 triệu đồng nhưng mua nhiều lần trong cùng một ngày và
tổng giá trị hơn 20 triệu đồng thì chỉ được khấu trừ thuế đối với những hoá đơn có chứng từ thanh toán
qua ngân hàng. Nhà cung cấp là người nộp thuế có mã số thuế, trực tiếp khai và nộp thuế GTGT. Nếu
mua xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi cho những doanh nghiệp không phải kinh doanh vận tải, hành khách du
lịch mà có gía trị trên 1,6 tỷ đồng chỉ được khấu trừ thuế GTGT phần 1,6 tỷ đồng trở xuống còn phần
vượt trội không được khấu trừ. Đối với những hoá đơn có thu phí, lệ phí chỉ kê khai phần chịu thuế, còn
phấn phí, lệ phí không chịu thuế phải loại phần tiền đó ra.

4.

Thực tiễn xét duyệt điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào trong phương

pháp khấu trừ tại Việt Nam
Với đạc điểm là đánh thuế rộng khắp và thu ở từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh
doanh nên thuế GTGT đóng góp mọt nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Phương pháp khấu trừ
thuế trong thuế GTGT khuyến khích việc mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh. Toàn bộ thuế đánh vào
chi phí đầu vào của mỗi khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông sẽ được khấu trừ, như vậy số tiền thuế
thu được không phụ thuộc vào chu trình lưu thông sản phẩm nên đã kích thích phát triển các loại dịch
vụ trung gian giữa khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng, từ đó đáp ứng được mục tiêu đề ra khi xây dựng
luạt thuế GTGT là thúc đẩy sản xuất và mở rộng lưu thông hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên theo quy định
thì chỉ những doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế mới được khấu trừ thuế
GTGT đầu vào. Những doanh nghiẹp nọp thuế theo phương pháp trực tiếp sẽ không có cơ sở để khấu
trừ thuế.
Mọt doanh nghiệp muốn được khấu trừ thuế GTGT đầu vào cần phải có hóa đơn GTGT mua
hàng hóa, dịch vụ, hoặc chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu. Hơn nữa, đối với các hàng hóa,
dịch vụ mua từng lần có giá trị trên 20 triẹu đồng còn phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Mạc
dù những quy định về hóa đơn, chứng từ là cần thiết nhưng chủ yếu chỉ có ý nghĩa về m ạt hạch toán kế
toán hơn là khả năng chứng minh cơ sở, tính hợp lệ và nguồn gốc của hàng hóa đầu vào. Thực tế có
nhiều doanh nghiệp được lập ra để mua bán hóa đơn GTGT và hợp thức hóa hàng lạu, hàng trôi nổi
không có nguồn gốc rõ ràng. Chẳng hạn như đối với hàng hóa thủy sản chưa qua chế biến không chịu
thuế GTGT. Nếu các doanh nghiệp mua trực tiếp của người sản xuất không có hóa đơn thì không đ ược
khấu trừ thuế GTGT đầu vào nhưng khi xuất bán cho các nhà máy chế biến thủy sản thì doanh nghiẹp
phải kê khai và nọp thuế GTGT 5%. Hẹ quả là, mọt số doanh nghiẹp đã mua hóa đơn GTGT khống để
làm cơsở khấu trừ thuế GTGT.
Bên cạnh đó, viẹc yêu cầu các giao dịch trên 20 triẹu đồng phải được thanh toán qua ngân
hàng lại mang tính chất hành chính hơn là khả năng làm tăng tính minh bạch trong các giao dịch. Nếu
cần, các doanh nghiẹp có thể chia nhỏ các giao dịch để tránh các thủ tục này để tránh các thủ tục pháp
lý này. Quy định này cũng gây rắc rối đối với hàng hoá, dịch vụ mua trả chạm hoạc trả góp có giá trị

trên 20 triẹu đồng. Trong trường hợp này thì doanh nghiẹp mua hàng sẽ không có được chứng từ thanh
toán qua ngân hàng để thực hiẹn các thủ tục khấu trừ thuế. Hơn nữa, các chứng từ thanh toán qua ngân
hàng chưa hẳn đã chứng minh được tính trung thực của các giao dịch và tất nhiên là không phải lúc nào
tưcách của nhà cung cấp cũng được xác thực.

7


Gian lận để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào cùng những bất cập trong hệ thống quản lý
chứng từ hoá đơn hiện nay thực sự trở thành vấn nạn đáng báo đọng đối với toàn bộ nền kinh tế - xã hội
nước ta, mà trước hết là nguy cơ thất thoát tiền ngân sách nhà nước với số lượng cực lớn.
Thuế giá trị gia tăng đầu vào có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả khấu trừ trong việc tính thuế
GTGT theo phương pháp pháp khấu trừ 3. Kết quả khấu trừ dương hay âm chính là cơ sở để tính toán
hoàn thuế - tức trả lại tiền từ quỹ hoàn thuế, cũng có nghĩa là từ ngân sách nhà nước (NSNN), cho các
doanh nghiệp (DN). Vì vậy không ít các DN đã cố tình vi phạm điều kiện để được khấu trừ thuế GTGT
đầu vào nhằm chuộc lợi cá nhân bòn rút tiền từ ngân sách nhà nước.
DN kê khai khấu trừ thuế GTGT các hoá đơn bất hợp pháp, hoá đơn giả, hoá đơn chưa có giá
trị sử dụng, hết giá trị sử dụng,.. DN khấu trừ thuế GTGT của hàng hoá – dịch vụ không phục vụ trực
tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc kê khai khấu trừ các hoá đơn dùng cho cá nhân, gia đình
không mang tên, mã số thuế của công ty
DN có thể lập hoá đơn GTGT khống đầu vào
Trong thực tế, gian lạn kiểu này đã được thực hiẹn với thủ thuật sử dụng dãy hoá đơn của
hàng loạt DN nối tiếp nhau có địa điểm hoạt động ở các địa phương khác nhau. Trong đó chỉ cần mọt
DN đầu tiên “ma” là được.
Ví dụ: DN1 – bán hàng khống, xuất HĐ GTGT --> DN --> DN3--> DN4 --> xuất khẩu
khống.
Nếu DN4 xuất khẩu khống, xin hoàn thuế. Với phương pháp kiểm tra, đối chiếu hoá đơn hiẹn
nay không thể truy toàn bọ quá trình vận hành của hoá đơn từ DN4 ngược lại đến DN1 nên không thể
phát hiện gian lận. Giả dụ: tất cả các hoá đơn mua bán hàng của các DN1...DN4 đều có giá trị ngang
nhau là 100 đồng + 10% TGTGT. Và trị giá xuất khẩu khống được kê là 98đ. Số tiền ngân sách Nhà

nước thất thoát tối đa sẽ có thể là:
Ở DN4: - Số tiền hoàn thuế 10đ (10% x 100 = 10) trừ cho 32% (98 – 100 – chi phí & thuế
xuất khẩu);
Ở các DN trung gian 2, 3...: không ảnh hưởng đến thuế GTGT và TTNDN do giá mua vào
bằng (=) giá bán ra.
Ở DN “ma”: do Nhà nước không quản lý được, nên cả thuế GTGT 10% và 32% thuế TNDN
đối với 100đ hàng bán ra đều thất thu.
Như vậy, gian lận từ dãy DN1...DN4 nêu trên, số thất thu lẫn thất thoát từ NSNN không phải
chỉ 10%, mà có thể lên đến mức tối đa là 97% giá trị hàng xuất khống. (10% thuế GTGT đầu ra + 25%
thuế TN bổ sung + 10% thuế GTGT đầu ra và 32% TTNDN của DN “ma”).
Lợi dụng chính sách của Nhà nước ưu tiên hàng xuất khẩu, cho áp dụng thuế suất thuế GTGT
là 0%, cơ chế miễn kiểm tra hải quan hoặc chỉ kiểm tra tỷ lệ 5% đối với hàng hóa xuất khẩu biên mậu,
các DN đã có những thủ đoạn sau
Tạo dựng nguồn tiền mua hàng xuất khẩu bằng cách lập các hợp đồng vay tiền khống, có trả
lãi hoặc lập danh sách đóng góp vốn, phương án kinh doanh chia lãi...với hợp đồng giả, địa chỉ giả
Làm giả hợp đồng vận chuyển, thanh toán cước vận chuyển hàng hóa trong nội địa và ra cửa
khẩu; tạo dựng hợp đồng mua bán ngoại thương và thanh toán trực tiếp giả hoặc xác nhận thanh toán
không qua ngân hàng (chủ yếu là móc nối với doanh nghiệp không có thật, không rõ địa chỉ ở Trung
Quốc, Lào để làm giả hồ sơ xuất khẩu)
3 Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào

8


Móc nối với một số cán bộ hải quan cửa khẩu để xác nhận khống số hồ sơ xuất khẩu, khai
tăng giá và khối lượng, xuất ít khai nhiều, thậm chí một xe hàng nhưng nhiều doanh nghiệp nhận là của
mình
Bằng những thủ đoạn khác nhau mà trên đây là một vài ví dụ, các DN tìm mọi cách để áp
ứng điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào làm sai lệch số VAT đầu vào để bòn rút tiền từ ngân
sách nhà nước thông qua phương pháp khấu trừ thuế.

III.
SỰ THAY ĐỔI CỦA CÁC ĐIỀU KIỆN KHẤU TRỪ THUẾ TRONG QUÁ
TRÌNH SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BAN HÀNH MỚI LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
KỂ TỪ NĂM 1997
1

Những điểm sửa đổi, bổ sung các điều kiện khấu trừ thuế khi ban hành mới Luật

thuế GTGT kể từ năm 1997
Chú thích: Phần chữ nghiêng in đậm chính là sự thay đổi so với văn bản Luật trước đó
Luật thuế GTGT 1997

Luật thuế GTGT năm 2003

2- Căn cứ để xác định số thuế đầu
2.Căn cứ để xác định số thuế đầu vào được
vào được khấu trừ là:
khấu trừ là số thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn
giá trị gia tăng khi mua hàng hóa, dịch vụ hoặc
a) Số thuế giá trị gia tăng ghi trên chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá
hoá đơn giá trị gia tăng khi mua hàng hoá, nhập khẩu; trường hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào
dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia không có hóa đơn giá trị gia tăng hoặc có hóa đơn
tăng đối với hàng hóa nhập khẩu; đối với giá trị gia tăng nhưng không đúng quy định của
hàng hóa, dịch vụ mua vào không có hóa đơn pháp luật thì cơ sở kinh doanh không được khấu
giá trị gia tăng hoặc hóa đơn không ghi khoản trừ thuế."”
thuế giá trị gia tăng thì không được khấu trừ
thuế;
b) Bản kê hàng hóa mua vào theo
mẫu của cơ quan thuế đối với loại hàng hóa
quy định tại điểm d khoản 1 Điều này.


Luật thuế GTGT năm 2003

Luật thuế GTGT 2008
2. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia
tăng đầu vào được quy định như sau:

2.Căn cứ để xác định số thuế đầu
a) Có hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng
vào được khấu trừ là số thuế giá trị gia tăng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia
ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng khi mua hàng

9


tăng ở khâu nhập khẩu;
hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị
b) Có chứng từ thanh toán qua ngân
gia tăng đối với hàng hoá nhập khẩu; trường
hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào không có hóa hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng
đơn giá trị gia tăng hoặc có hóa đơn giá trị gia hóa, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi
tăng nhưng không đúng quy định của pháp triệu đồng;
luật thì cơ sở kinh doanh không được khấu trừ
c) Đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu,
thuế."”
ngoài các điều kiện quy định tại điểm a và điểm b
khoản này phải có hợp đồng ký kết với bên ngoài về
việc bán, gia công hàng hóa, cung ứng dịch vụ, hóa
đơn bán hàng hóa, dịch vụ, chứng từ thanh toán
qua ngân hàng, tờ khai hải quan đối với hàng hóa

xuất khẩu.
Việc thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ
xuất khẩu dưới hình thức thanh toán bù trừ giữa
hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu với hàng hóa, dịch vụ
nhập khẩu, trả nợ thay Nhà nước được coi là
thanh toán qua ngân hàng.

Luật thuế GTGT 2008
2. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị
gia tăng đầu vào được quy định như sau:

Luật thuế GTGT 2008 sửa đổi bổ sung
2013
2. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng
đầu vào được quy định như sau:

a) Có hóa đơn giá trị gia tăng mua
hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá
a) Có hoá đơn giá trị gia tăng mua hàng
trị gia tăng ở khâu nhập khẩu;
hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng ở
b) Có chứng từ thanh toán qua ngân khâu nhập khẩu;
hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ
b) Có chứng từ thanh toán không dùng
hàng hóa, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới
tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng
hai mươi triệu đồng;
hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi
c) Đối với hàng hóa, dịch vụ xuất triệu đồng;
khẩu, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a

và điểm b khoản này phải có hợp đồng ký kết
c) Đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu,
với bên ngoài về việc bán, gia công hàng hóa, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a và điểm b
cung ứng dịch vụ, hóa đơn bán hàng hóa, dịch khoản này còn phải có: hợp đồng ký kết với bên nước
vụ, chứng từ thanh toán qua ngân hàng, tờ ngoài về việc bán, gia công hàng hoá, cung ứng dịch
khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu.
vụ; hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ; chứng từ thanh

Việc thanh toán tiền hàng hóa, dịch toán không dùng tiền mặt; tờ khai hải quan đối với

10


vụ xuất khẩu dưới hình thức thanh toán bù trừ
giữa hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu với hàng hàng hoá xuất khẩu.
hóa, dịch vụ nhập khẩu, trả nợ thay Nhà nước
Việc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ xuất
được coi là thanh toán qua ngân hàng.
khẩu dưới hình thức thanh toán bù trừ giữa hàng hóa,
dịch vụ xuất khẩu với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu,
trả nợ thay Nhà nước được coi là thanh toán không
dùng tiền mặt.”

5.

Nguyên nhân Sự thay đổi của các điều kiện khấu trừ thuế trong quá trình sửa đổi,

bổ sung ban hành mới Luật thuế giá trị gia tăng kể từ năm 1997
Luật thuế GTGT năm 1997 cho đến luật thuế GTGT 2003 có thể nhận thấy nhà làm luật chưa
quy định rõ ràng các điều kiện khấu trừ thuế mà mới chỉ quy định đối tượng được khấu trừ thuế giá trị

gia tăng đầu vào theo phương pháp khấu trừ và “căn cứ để xác định số thuế đầu vào được khấu trừ”.
Đến Luật thuế GTGT năm 2008 “điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào” đã được quy định
rõ ràng thành một điều khoản trong luật (khoản 2 điều 12 Luật thuế GTGT 2008). Đồng thời Nhà nước
cũng ban hành các Thông tư, nghị định hướng dẫn thi hành điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Luật thuế GTGT năm 2008 sửa đổi bổ sung 2013 tiếp tục hoàn thiện và bổ sung vào điểm b) c) khoản 2
điều 12 thuật ngữ “chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt”. Sở dĩ việc thay đổi như vậy để Nhà
nước và cơ quan thuế muốn nắm bắt cụ thể những chứng từ được sử dụng trong thanh toán không dùng
tiền mặt của Doanh nghiệp. Bởi thực tế rõ ràng không phải lúc nào trong giao dịch mua bán các Doanh
nghiệp cũng đều thực hiện qua phương thức thanh toán tiền mặt mà hầu hết là thanh toán qua ngân
hàng và các trường hợp thanh toán không dung tiền mặt khác.
Chứng từ thanh toán qua ngân hàng là chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản
của bên mua sang tài khoản của bên bán mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Tài khoản của
bên mua và tài khoản của bên bán là tài khoản đã đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế.
(Thông tư 173 đã bỏ quy định tài khoản của bên mua và tài khoản của bên bán phải là tài
khoản đã đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế thì mới được hoàn thuế).
Trường hợp thanh toán từ tài khoản của bên mua sang tài khoản bên bán mang tên chủ doanh
nghiệp tư nhân hoặc bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân
sang tài khoản bên bán nếu tài khoản đã được đăng ký giao dịch với cơ quan thuế thì thuế giá trị gia
tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ vẫn được khấu trừ4.
Các trường hợp thanh toán không dùng tiền mặt khác bao gồm5:

4 Theo Khoản 10 Điều 1 Thông tư 26/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 15 Thông tư
219/2013/TT-BTC có quy định về chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
5 Theo Khoản 10 Điều 1 Thông tư 26/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Khoản 4 Điều 15 Thông tư
219/2013/TT-BTC quy định các trường hợp thanh toán không dùng tiền mặt khác

11


Hàng hóa, dịch vụ mua vào theo phương thức thanh toán bù trừ giữa giá trị hàng hóa, dịch vụ

mua vào với giá trị hàng hóa, dịch vụ bán ra, vay mượn hàng.
Hàng hóa, dịch vụ mua vào theo phương thức bù trừ công nợ như vay, mượn tiền, cấn trừ
công nợ qua người thứ ba.
Hàng hoá, dịch vụ mua vào được thanh toán uỷ quyền qua bên thứ ba thanh toán qua ngân
hàng.
Hàng hóa, dịch vụ mua vào được thanh toán qua ngân hàng vào tài khoản của bên thứ ba mở
tại Kho bạc Nhà nước để thực hiện cưỡng chế bằng biện pháp thu tiền, tài sản do tổ chức, cá nhân khác
nắm giữ.
Việc sửa đổi này là nhằm cụ thể hoá chi tiết điều kiện để được áp dụng khấu trừ VAT đầu
vào, khắc phục kẽ hở trong việc ban hành luật để tránh tình trạng lách luật trốn thuế bòn rút tiền từ
ngân sách nhà nước đối với những doanh nghiệp lâu nay làm ăn bất chính do tận dụng quy định được
khấu trừ toàn bộ thuế đầu vào trong khi họ bán hàng không xuất hóa đơn đầu ra. Đồng thời thúc đẩy
doanh nghiệp tăng cường biện pháp quản lý, có trách nhiệm với nghĩa vụ nộp thuế của mình đối với
nhà nước. Từ đó cũng đặt ra yêu cầu nâng cao việc quản lý giám sát chứng từ thanh toán chặt chẽ của
các Ngân hàng. Bởi lẽ không thể phủ nhận lợi ích của việc thanh toán không dùng tiền mặt (lợi ích của
nó đã được chứng minh tại rất nhiều nước phát triển tiên tiến trên Thế giới) vì vậy mà Nhà nước mới có
những chính sách định hướng trong việc nhân rộng tạo điều kiện để các DN có thể sử dụng phương
thức thanh toán này. Độ an toàn tiện lợi và tránh bị thanh toán tiền giả, hay việc mất cắp xảy ra ở các cơ
sở kinh doanh cũng hạn chế. Tuy nhiên để phát huy được những lợi ích của việc thanh toán này trong
việc xét điều kiện khấu trừ thuế đầu vào thì vai trò của Ngân hàng là rất lớn trong việc rà soát thủ tục,
thành thạo chuyên môn nghiệp vụ để không bị những thủ đoạn của các Doanh nghiệp lừa đảo qua mắt.

KẾT LUẬN
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế có tác dụng kích thích xuất khẩu hàng hoá nhưng mặt
trái của nó lại thể hiện trong khâu hoàn thuế vì vậy mà việc kiểm soát các điều kiện để được áp dụng
khấu trừ thuế GTGT đầu vào càng cần sự quan tâm gắt gao của cơ quan thuế và các cơ quan có thẩm
quyền liên ngành. Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước để làm chứng từ,
hoá đơn khống với số lượng lớn nhằm đáp ứng đủ điều kiện để được khấu trừ thuế đầu vào, cộng thêm
sự tha hoá biến chất của cán bộ trong ngành thuế và ngành hải quan mà các vụ gian lận trong ngành
thuế ngày càng gia tăng. Những năm gần đây Nhà nước luôn chú trọng việc hoàn thiện cơ sở pháp lý

đội ngũ những nhà làm luật để sửa đổi bổ sung hoàn thiện Luật pháp về thuế GTGT minh chứng là sự
thay đổi trong các điều kiện áp dụng khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã được chứng minh ở trên nhằm
ngăn chặn và hạn chế tối đa sự thất thoát ngân sách Nhà nước vào túi tiền lợi ích riêng của một số
Doanh nghiệp và cá nhân. Trên đây là sự trình bày hiểu biết của em về vấn đề điều kiện khấu trừ thuế
GTGT đầu vào, do vốn hiểu biết còn hạn chế bài làm không tránh khỏi những sai sót mong cô, thầy góp
ý để em sửa chữa và hoàn thiện kiến thức bản thân, em xin chân thành cảm ơn.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2012.

6. Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2013.
7. Luật thuế giá trị gia tăng 1997 bản điện tử.
8. />9. Luật thuế giá trị gia tăng sửa đổi bổ sung 2003 bản điện tử.
10. />11. Luật thuế giá trị gia tăng 2008 bản điện tử.
12. />13. />14. />15. />
13



×