Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

DIỄN BIẾN và TÍNH CHẤTCỦA ph – EC TRONG đất,nước của các VÙNG lúa – tôm ở bạc LIÊU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.51 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
-oOo-

NGUYỄN THỊ NHÍ

DIỄN BIẾN VÀ TÍNH CHẤT CỦA pH – EC TRONG
ĐẤT, NƯỚC CỦA CÁC VÙNG LÚA – TÔM Ở BẠC
LIÊU

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH KHOA HỌC ĐẤT

Cần Thơ - 2009

-oOo-

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

NGUYỄN THỊ NHÍ

DIỄN BIẾN VÀ TÍNH CHẤT CỦA pH – EC TRONG
ĐẤT, NƯỚC CỦA CÁC VÙNG LÚA – TÔM Ở BẠC
LIÊU
Chuyên ngành Khoa học Đất
Mã số : TT0572A1

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH KHOA HỌC ĐẤT


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGÔ NGỌC HƯNG

Cần Thơ – 2009

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


LÝ LỊCH KHOA HỌC

I. LÝ LỊCH SƠ LƯỢC:
Họ và tên cha: NGUYỄN VĂN SANH

Năm sinh: 1954

Họ và tên mẹ: VÕ THỊ TƯ

Năm sinh: 1957

Họ và tên: NGUYỄN THỊ NHÍ
Ngày, tháng, năm sinh: / / 1986

Nơi sinh: Châu Thành, Hậu Giang

Quê quán: Châu Thành, Hậu Giang

Dân tộc: Kinh


Địa chỉ liên hệ: Châu Thành, Hậu Giang
Di động: 01228168393
Email:
II. QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO:
- Tốt nghiệp Phổ Thông Trung học : 2005
- Thời gian đào tạo tại trường : 2005 - 2009
- Ngành học: Khoa Học Đất
- Hệ đào tạo: Chính quy
Nơi học: Bộ môn Khoa Học Đất và Quản Lý Đất Đai, Khoa Nông nghiệp và Sinh
học Ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ.
Tên luận văn tốt nghiệp: Diễn biến và tính chất của pH - EC trong đất, nước của
các vùng lúa tôm ở Bạc Liêu .
Người hướng dẫn: PGs. Ts. Ngô Ngọc Hưng.
2.Trình độ ngoại ngữ:
Anh ngữ, trình độ B.
Cần Thơ, ngày 05 tháng 06 năm 2009
Người viết

Nguyễn Thị Nhí

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nghề nuôi tôm sú đã và đang phát triển không chỉ ở khu
vực nước lợ quanh năm mà còn ở một số khu vực bị nhiễm mặn vào mùa khô như ở

các tỉnh: Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Đặc điểm sản xuất của vùng này là
trồng lúa vào mùa mưa và thả nuôi tôm sú mùa khô quảng canh cải tiến.
Bạc Liêu là vùng đất còn non trẻ mới được khai thác cách đây 200 năm nhưng là vùng
đất được ngọt hóa vào những năm cuối thế kỷ 20 được chính phủ tập trung chỉ đạo và
khai thác. Đã có những công trình nghiên cứu với quy mô lớn như: công trình 60-02,
70-01, công trình 60B, dự án Quảng lộ- Phụng Hiệp và rất nhiều đề tài nghiên cứu
khác nữa về các biện pháp kỹ thuật canh tác. Song song đó cũng có những công trình
nghiên cứu và mô hình thí điểm của viêc luân canh lúa tôm để nghiên cứu về tính hiệu
quả của nó. Những năm qua, trường Đại học Cần Thơ và Trung tâm nghiên cứu Nông
nghiệp quốc tế Úc (ACIAR) cũng đã tiến hành nhiều nghiên cứu trên lĩnh vực khác
nhau về tính bền vững của mô hình canh tác này.
Hiện tại, mô hình canh tác này mang lại hiệu quả về mặt kinh tế khá cao.Tuy nhiên,
sau một thời gian thực hiện mô hình lúa – tôm, nước mặn có thể xâm nhập vào đất
canh tác lúa - tôm mang nguy cơ làm suy thoái đất (Lê Xuân Thuyên, 1999). Song
song đó tình trang phèn, mặn cũng có thể là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sinh
trưởng và phát triển của mô hình canh tác lúa tôm nhưng đến nay vẫn chưa được đánh
giá cụ thể.
Xuất phát từ tình hình đó, đề tài “Diễn biến và tính chất của pH và EC trong đất, nước
của các vùng lúa tôm ở Bạc Liêu” được thực hiện tại 4 huyện (Phước Long, Vĩnh Lợi,
Hồng Dân, Giá Rai) ở Bạc Liêu nhằm:
- Khảo sát diễn biến của pH và EC trong đất, nước của các vùng lúa tôm ở Bạc Liêu.
-Xác định mối tương quan giữa EC bão hòa và EC trích ở các tỷ lệ đất/nước.
-Xây dựng thang đánh giá độ mặn đất của EC tỷ lệ 1:2,5 và EC tỷ lệ từ EC trích bão
hoà.

1

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version



CHƯƠNG I: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 Sự hình thành đất ĐBSCL
ĐBSCL được hình thành bởi quá trình tạo trầm tích từ sông Mêkong trong suốt thời kì
Halocene cách đây 6000 năm. Trong suốt thời kì của quá trình tạo trầm tích và hình
thành đất, mực nước biển thay đổi đáng kể (Võ Quang Minh, 1995). Trên những vùng
đất canh tác nhờ vào nước mưa, nước biển xâm nhập trong suốt mùa khô, đất bị nhiễm
mặn.Vào đầu mùa mưa, mặc dù mặt đất bị rửa bởi nước ngọt nhưng nước ngầm vẫn
còn mặn. Trong quá khứ, khi sông thay đổi dòng và vài nhánh sông trện vùng đất thấp
được hình thành. Dọc theo nó là vật liệu sulfidic với nồng độ lưu huỳnh và hàm lượng
chất hữu cơ cao, Có 7 nhóm đất chính ở ĐBSCL (Nguyễn Ngọc Trân, 1990).
Bảng 1: Các nhóm đất chính ở ĐBSCL (Nguyễn Ngọc Trân, 1990)
Nhóm đất

Diện tích (ha)

Tỉ lệ (%)

1. Nhóm đất phù sa

1.094.248

28,91

2. Nhóm đất phèn

1.054.342

28,02

3. Nhóm đất mặn


809.034

21,38

4. Nhóm đất phèn mặn

631.430

16,98

5. Nhóm đất than bùn

34.051

0,92

6. Nhóm đất phù sa cổ

108.989

2,84

7. Nhóm đất đồi núi

34.678

0,95

Đặc biệt ở vùng ĐBSCL, quá trình mặn hóa, phèn hóa xảy ra phổ biến. Quá trình này

là kết quả tác động tổng hợp của nhiều yếu tố tự nhiên và hoạt động nhân sinh (Lê
Văn Khoa, 2004). Ở ĐBSCL đất phèn mặn tập trung chủ yếu ở Bán đảo Cà Mau và
vùng Tứ giác Long Xuyên. Phần lớn nhóm đất này thuộc trung tâm Bán đảo Cà Mau,
Về mặt địa mạo, địa chất bao gồm các phức đấm nội địa, bưng lầy…chủ yếu canh tác
một vụ lúa, có nơi canh tác được 2 vụ lúa hoặc lúa mùa – tôm. Vùng có diện tích rộng
lớn còn chưa khai thác sử dụng hết là vùng đất phèn nặng nhiễm mặn thuộc huyện
Hồng Dân tỉnh Bạc Liêu.
Mô hình canh tác lúa - tôm là một mô hình canh tác đặc thù của vùng bị nhiễm mặn
theo mùa trong hơn 50 năm qua (Nguyễn Bảo Vệ et al,, 2005). Nhiều nông dân đã biết
thích ứng với điều kiện tự nhiên bằng cách trồng lúa trong mùa mưa, rồi sử dụng
ruộng lúa để nuôi tôm sú (Penaneus monodon) trong mùa khô. Với phương thức canh
tác này, nông dân đã tạo ra nguồn thu nhập mới mà trước đây không thể có được trong
2

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


mùa khô, Đến năm 2000, diện tích canh tác lúa - tôm ở ĐBSCL đạt khoảng 40.000 ha
(Preston et al., 2003).
1.1.1 Sự xâm nhiễm mặn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL)
Vùng ĐBSCL là vùng đất thấp và phẳng được tạo thành bởi đất bồi lắng sông Cửu
Long. Ngoại trừ những dãy cát và những vùng dọc bờ sông, mặt đất của ĐBSCL
không vượt quá 1m so với trung bình mực nước biển dọc bờ biển và không vượt quá
2m so với trung bình mực nước biển ở những vùng phía Bắc. Độ dốc chung của
ĐBSCL khoảng 1%. Đây là điều kiện thuận lợi cho nước biển từ biển Đông và Vịnh
Thái Lan xâm nhập vào ĐBSCL. Vì vậy sự xâm nhập mặn là một trong những nhân tố
quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển ĐBSCL, nhất là thời gian gần đây Nhà
nước có chú trọng cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước mặn ven biển từ Long An,
Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang.
Trong mùa khô, sông Cửu Long chảy chậm đến nỗi nước biển xâm nhập vào những

đoạn sông thấp hơn, làm nước bị lợ, không thích hợp cho việc phát triển cây lúa,(Ngô
Ngọc Hưng, 2007). Theo Võ Quang Minh (1995), có khoảng 2 triệu ha đất bi đe doạ
mặn trong mùa khô, nước mặn đã lấn sâu vào đất liền khoảng 5 km.
1.1.2 Ảnh hưởng của các dòng triều đến việc xâm nhiễm nước mặn vào đất liền ở
ĐBSCL
Đối với những vùng ở gần cửa biển, ngoài ảnh hưởng thủy triều dưới dạng dao động
sóng dài truyền vào sông, còn có sự xâm nhập của nước biển vào kèm theo nước triều
lên hay xuống. Tùy theo từng điều kiện cụ thể có thể có các kiểu xáo trộn nước mặn,
nước ngọt khác nhau:
+ Xáo trộn yếu: Trong đó lưu lượng nước sông lấn át.
+ Xáo trộn vừa: Hình thành dòng chảy hai lớp, có xáo trộn thẳng đứng.
+ Xáo trộn mạnh: Theo chiều thẳng đứng khi lưu lượng triều từ biển vào lấn át.
Đối với sự xâm nhiễm mặn vào nước và đất liền: Vào mùa khô kéo dài khoảng 7
tháng, với nguồn nước mưa ít, đối với những vùng ven biển châu thổ cách biển
khoảng 40 – 50 km thì nước mặn xâm nhập vào sâu trong đất liền. Do ảnh hưởng của
thủy triều, nước mặn từ biển vào sâu trong đất liền và sông gây trở ngại cho sản xuất
nông nghiệp ở vùng tiếp giáp biển vào mùa khô. Việc xáo trộn mặn ngọt ở những
vúng giáp nước đối với ĐBSCL chủ yếu là kiểu xáo trộn mạnh với sự truyền triều có
biên độ lớn vào các cửa sông khá rộng (Võ Thị Gương. 2006).
Nhìn chung ở ĐBSCL đất nhiễm mặn, đất bị nhiễm theo từng thời kỳ, vào mùa khô,
lượng mưa ít kèm theo nhiệt độ cao, độ ẩm thấp, bốc hơi cao, đã tạo điều kiện cho
nước biển theo các kênh rạch, sông ngòi vào sâu trong đất liền, làm cho đất bị nhiễm

3

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


mặn. Vào mùa mưa, với lượng mưa lớn đã tạo điều kiện rửa mặn được tích tụ trên
tầng mặt theo các cửa sông đổ ra biển trở lại hoặc thấm sâu vào đất, hạn chế mức độ

xâm nhiễm của nước biển.
1.2 SƠ LƯỢC VỀ TỈNH BẠC LIÊU
Hiện nay, Bạc Liêu có 7 đơn vị hành chính cấp huyện; bao gồm TP Bạc Liêu và 6
huyện (với 52 xã, phường và thị trấn) là: Phước Long, Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Giá Rai,
Đông Hải, Hòa Bình (mới thành lập tháng 7 năm 2005),
1.2.1 Vị trí địa lý
Tỉnh Bạc Liêu là một trong những tỉnh ven biển của vùng Đồng bằng sông Cửu Long,
nằm ở vùng trũng phèn và thiếu nước ngọt của Bán đảo Cà Mau, ven bờ biển Đông.
Vị trí địa lý tỉnh Bạc Liêu được xác định theo tọa độ từ 9000’00’ đến 9037’30’’ vĩ độ
Bắc và từ 105015’00’’ đến 105052’30’’ kinh độ Đông, cách thành phố Hồ Chí Minh
280km (về phía Bắc). Phía Bắc giáp tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang, phía Đông và
Đông Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, phía Tây và Tây nam giáp tỉnh Cà Mau, phía Đông và
Đông nam giáp biển Đông (Theo Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu, 2002).
1.2.2 Đia hình
Bạc Liêu là vùng đất trẻ, địa hình toàn tỉnh tương đối bằng phẳng và thấp, không đồi,
núi nên không có chấn động địa chất lớn, được hình thành chủ yếu do sự bồi lắng phù
sa ở các cửa biển tạo nên. Phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là đất bằng nằm ở đô
cao trên dưới 1,2m so với mặt biển, còn lại là những giồng cát và một số khu vực
trũng ngập nước quanh năm. Địa hình có xu hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây
Nam và khu vực nội đồng thấp hơn vùng gần biển, cao độ trung bình 0,3-0,6m, Trên
địa bàn tỉnh có nhiều kênh rạch lớn như: kênh Quản Lộ- Phụng Hiệp, kênh Cạnh Đền,
kênh Phó Sinh, kênh Giá Rai, Địa hình Bạc Liêu chia làm 2 khu vực:
- Phía Nam Quốc lộ 1A có địa hình cao hơn, bình quân 0,4-0,8m, do có những giồng
cát biển không liên tục tạo nên khu vực có địa hình cao ven biển hướng nghiêng thấp
dần từ biển vào nội địa.
- Phía Bắc Quốc lộ 1A địa hình thấp hơn, bình quân 0,2-0,3m. Độ nghiêng trung bình
toàn tỉnh từ 1-1,5cm/km. Dạng địa hình như trên tạo thuận lợi tận dụng triều cường
đưa nước mặn vào nội đồng hoặc tạo thành những vùng trũng đọng nước dọc hai bên
kênh Quảng Lộ- Phụng Hiệp, phù hợp cho nuôi trồng thủy sản (Ủy ban nhân dân tỉnh
Bạc Liêu, 2002).

1.2.3 Thổ nhưỡng và đặc điểm thổ nhưỡng
- Thổ nhưỡng

4

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Ở tỉnh Bạc Liêu có các nhóm đất chính sau: đất phèn, đất mặn, đất phù sa, đất cát, đất
tác nhân, Trong đó, nhóm đất mặn và đất phèn chiếm khoảng 90% diện tích của tỉnh.
Đất mặn có diện tích 95.698 ha (chiếm tỷ lệ 38,44%) phân bố chủ yếu ở các huyện:
Đông Hải, Vĩnh Lợi và thi xã Bạc Liêu. Đất phèn có diện tích 124.804 ha (chiếm tỷ lệ
51,74%), phân bố chủ yếu trong nội địa, nơi có địa hình thấp. Đất phù sa có diện tích
5064 ha (chiếm 2,03%), đất cát chiếm diện tích 452 ha (chiếm 0,18%), còn lại là đất
tác nhân chiếm 11330 ha (chiếm 4,55%).
- Đặc điểm thổ nhưỡng
Bạc Liêu có diện tích đất tự nhiên 258.246,62 ha (năm 2005). Trong đó, đất nông
nghiêp chiếm 38,07%, đất nuôi trồng thủy sản và đất muối 46,74%, đất lâm nghiệp
1,87%; đất chuyên dùng 4,38%, đất ở 1,62%, đất chưa sử dụng 7,32% (Cục Thống kê
tỉnh Bạc Liêu, 2006).
Toàn tỉnh Bạc Liêu có 41 đơn vị chú dẫn bản đồ đất được phân chia thuộc 5 nhóm đất
chính: đất cát, đất mặn, đất phèn, đất phù sa và đất liếp. Trong đó nhóm đất phèn
chiếm diện tích lớn nhất trong tỉnh khoảng 50,55% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh,
phân bố chủ yếu ở phía Bắc Quốc lộ 1A và được chia làm 3 nhóm đất phèn: Đất phèn
tiềm tàng, đất phèn hoạt động, đất phèn hoạt động bị thuỷ phân.
Đất phèn: Được hình thành và phát triển trên các trầm tích đầm lầy-Biển và SôngBiển hỗn hợp, có đặc điểm bồi tụ chậm, vật liệu trầm tích chứa nhiều hữu cơ và chất
sinh phèn (FeS2).
Trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, do sự xâm nhập mặn thường xuyên hoặc mặn hoá vào
mùa khô dẫn đến sự hình thành các đất phèn mặn trong nhóm đất phèn. Bên cạnh
nhóm đất phèn, nhóm đất mặn chiếm diện tích khá lớn (35,34% diện tích tự nhiên

toàn tỉnh), phân bố chủ yếu ở phía Nam Quốc lộ 1A và một phần đất mặn ít mùa khô
dọc theo phía Bắc Quốc lộ 1A.
Đất mặn được hình thành và phát triển trên các trầm tích biển, sông biển hỗn hợp và
trầm tích biển- đầm lầy. Đất chịu ảnh hưởng mặn của nước biển do thuỷ triều hoặc
mặn ngầm mao dẫn. Trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, đất mặn được chia làm 4 loại: Đất
mặn thường xuyên dưới rừng ngập mặn, đất mặn nặng, đất mặn trung bình, đất mặn ít
(Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu, 2002).
+ Đất mặn thường xuyên dưới rừng ngập mặn (Mm): có diện tích 2.027 ha (chiếm
2,25% diện tích nhóm đất mặn), có ở ven biển huyện Vĩnh Lợi, huyện Đông Hải và thị
xã Bạc Liêu, Đất bị nhiễm mặn do ngập triều thường xuyên trong năm, thực vật phổ
biến là Mắm và Đước.
+ Đất mặn nặng (Mn): có diện tích 9,2766 ha (chiếm 10,33% tổng diện tích nhóm đất
mặn), ở huyện Đông Hải, Vĩnh Lợi và thị xã Bạc Liêu, phân bố sau đê biển. Đất bị

5

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


mặn thời kì dài trong năm với độ mặn cao do thủy triều hay do đưa nước mặn vào làm
muối.
+ Đất mặn trung bình (M): có diện tích 6,521 ha (chiếm 6,96% diện tích đất mặn):
phân bố ở nơi địa hình thấp ven sông – rạch. Đất thường bị ảnh hưởng mặn ngầm và
mặn trên mặt vào mùa khô do nước bốc hơi đưa muối lên các tầng gần mặt đất.
+ Đất mặn ít (Mi): có diện tích 72,281 ha (80,46% nhóm đất mặn), Trong đó có
19,975 ha là đất mặn ít có tầng loang lổ đỏ vàng (Mif) và 52,538 ha là đất mặn ít (Mi)
theo phân loại chi tiết ở tỷ lệ bản đồ 1/25.000.
Theo báo cáo “Đánh giá khả năng thích nghi đất đai tỉnh Bạc Liêu” do Ủy ban Nhân
dân tỉnh Bạc Liêu thực hiện vào năm 2001, nhóm đất phèn có diện tích lớn nhất trong
tỉnh: 128.492 ha (chiếm tỷ lệ 50,55 %), phân bố chủ yếu ở phía Bắc Quốc lộ 1A,

thuộc các huyện Hồng Dân, Phước Long, Vĩnh Lợi và Giá Rai. Do ở sâu trong nội địa,
nơi có địa hình thấp, hướng sử dụng thích hợp cho canh tác nông nghiệp và nuôi trồng
thủy sản.
Năm 2006, nông dân tỉnh Bạc Liêu đang đối mặt trước nguy cơ mặn xâm nhập sâu
vào nội đồng làm ảnh hưởng đến diện tích lúa - tôm, lúa mùa và có khả năng nhiều
diện tích lúa - tôm sẽ bị thiệt hại nặng. Tỉnh Bạc Liêu, hiện có gần 19.000 ha lúa trên
đất nuôi tôm, tập trung tại hai huyện Hồng Dân và Phước Long, hiện các trà lúa trong
giai đoạn phát triển, một số ít đã đứng đồng nhưng trước tình trạng nước mặn đang lấn
sâu vào nội đồng đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của cây lúa, đã có trà
lúa bị chết do nhiễm mặn quá cao (Huỳnh Sử, 2006).
Theo số liệu báo cáo của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Giá Rai
(2005) về tình hình sản xuất lúa trong mô hình canh tác lúa - tôm từ năm 2002 đến
2005, diện tích lúa bị thiệt hại chủ yếu do sự mặn hóa đất, cụ thể năm 2002 diện tích
gieo trồng lúa trên đất lúa - tôm là 324 ha, chỉ thu hoạch 50 ha; năm 2003 diện tích
gieo trồng lúa là 384 ha, thu hoạch 300 ha; năm 2004 diện tích gieo trồng là 819 ha,
chỉ thu hoạch 350 ha; năm 2005 diện tích gieo trồng lúa là 87 ha, thu hoạch 87 ha.
Tình hình sản xuất lúa trong mô hình canh tác lúa - tôm gặp rất nhiều khó khăn, sự
mặn hóa làm suy thoái môi trường đất, gây thiệt hại về xã hội, kinh tế của hộ dân canh
tác lúa tôm trong huyện.
Đất mặn thường gây hạn chế trong việc gia tăng cơ cấu mùa vụ do mùa nắng không có
nước ngọt. Do đó, các vùng đất mặn và nhiễm mặn, cơ cấu canh tác ít đa dạng và cây
trồng thường cho năng suất thấp. Ngày nay, các vùng mặn và nhiễm mặn đã được khai
thác rất nhiều trong việc nuôi trồng thủy sản. Trong điều kiện ngập mặn thường xuyên
đất bị hạn chế về nước ngọt, nếu bao đê ngăn mặn trong mùa nắng để sau đó trong
mùa mưa canh tác lúa hay các loại cây trồng khác thì trong trường hợp nước mặn tràn

6

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version



vào sẽ gây thiệt hại cho cây trồng ít nhất là 2 – 3 năm, do nước mặn đã ngấm sâu vào
trong đất qua khe nứt trong mùa khô (Võ Thị Gương, 2006).
1.3 SỰ HÌNH THÀNH ĐẤT MẶN – ĐẤT PHÈN
Ở Việt Nam do tác động của biển, đã hình thành một loại đất đặc biệt, đó là đất mặn.
Nhóm đất này là “đất có vấn đề", tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng ven biển miền
Bắc như: Thái Bình, Thanh Hoá và vùng ven biển miền Nam, từ các tỉnh Bến Tre,
Tiền Giang, xuống Bạc Liêu, Cà Mau lên đến tỉnh Kiên Giang. Dọc ven biển các tỉnh
miền Trung đất cũng bị nhiễm mặn, nhưng do địa hình dốc nên thuỷ triều tràn vào ít
hơn so với ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Nhóm đất mặn có diện tích khoảng 1 triệu ha. Gọi là
đất mặn vì đất bị nhiễm mặn do nước biển và có chứa nhiều loại muối khác nhau,
trong đó muối clorua bao giờ cũng chiếm ưu thế.
Nhiễm mặn và mặn hóa là một trong những trở ngại chính của đất canh tác ở Việt
Nam, xảy ra cho các vùng ven biển của đồng bằng. Quá trình mặn hóa nhiều nhất
những năm gần đây khi phong trào nuôi tôm lên cao người dân đã phá đê ngăn mặn để
đưa nước mặn vào nuôi tôm và đất bị nhiễm mặn trong suốt mùa nuôi tôm (Võ Thị
Gương, 2003).
1.3.1 Các nhóm đất mặn
- Đất mặn ngoài đê biển (đất mặn sú vẹt): Diện tích 105,300ha, thường xuyên ngập
nước biển và chỉ thích nghi với tập đoàn cây rừng ngập mặn, như: đước, sú, vẹt, mắm,
bần…Tuy có diện tích ít nhưng vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ bờ biển và nuôi
trồng thuỷ sản.
Đất mặn ven biển do ảnh hưởng của nước biển mặn theo thủy triều tràn vào hoặc do
mạch nước mặn ngầm (FAO UNESCO) gọi là đất phù sa mặn (Salic Fluvisols) và xác
định đất mặn là đất có đặc tính mặn (salic properties) không có tầng sulfidic trong
vòng 125cm đất mặt (Tôn Thất Chiểu, 1992).
- Đất mặn nội đồng :
+ Đất mặn nhiều: diện tích 139.610ha, phần lớn tập trung ở vùng ven biển Đồng bằng
sông Cửu Long 102.000ha. Những vùng ven biển khác đều có nhưng diện tích ít hơn,
như Đông Nam Bộ 19.590 ha, duyên hải miền Trung 11.420ha, Khu IV cũ 6.600ha,

Hệ thống thuỷ lợi, chế độ thuỷ văn cũng tác động làm thay đổi tính chất và diện tích
đất mặn nhiều.
+ Đất mặn trung bình và ít: diện tích 732.580ha, nằm bên trong vùng mặn nhiều, đại
bộ phận ở địa hình trung bình và cao còn ảnh hưởng của thuỷ triều. Đất được xây
dựng các công trình tưới tiêu, nhiều vùng đã có năng suất lúa cao. Đất này phần lớn
tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 586.420ha (80%), Đồng bằng

7

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


sông Hồng 53.300ha (7,3%), Khu IV cũ 38.350ha (5,2%), duyên hải miền Trung
35.560ha (4,9%) và một ít ở Đông Nam Bộ.
Sự mặn hóa là sự tích tụ của các muối hòa tan trong đất. Ở nhiều vùng khô, các muối
được tích tụ trong đất do sự mao dẫn muối từ nước ngầm nhiễm mặn. Cường độ của
việc bốc thoát hơi nước của nước ngầm và quá trình tích tụ của muối trong đất và
trong nước gia tăng với độ tiếp xúc của mực nước ngầm, và quá trình tích tụ muối đạt
được mức độ cao nhất ở những vùng có đièu kiện khí hậu khô cằn trong khoảng từ
1500 – 3000 trong năm, do đó vượt xa lượng mưa thật sự, đối với những vùng này
lượng mưa hằng năm rất thấp, (Võ Thị Gương, 2006).
Theo Ngô Ngọc Hưng, 2007 thì mặn hoá là quá trình xâm nhiễm và tích tụ của các
muối là các kim loại kiềm trong môi trường đất, nước khi các môi trường này chưa bị
mặn trở nên mặn, Sự mặn hoá có thể bị nhiễm theo 2 yếu tố: Mặn do muối (gồm các
muối NaCl, Na2SO4, CaCl2, CaSO4, MgCl2, NaNO3, Mg(NO3)2…, đó là muối kim loại
kiềm và gốc kiềm thổ có các gốc acid là những anion : Cl-, SO42-, NO3-, CO32-, mà Cl
đóng vai trò chủ đạo, mặn hoá do kiềm (là các kim loại kiềm và kiềm thổ như : Na, k,
Ca, Mg) tích luỹ với hàm lượng cao trong đất nhất là Na.
Đất mặn là đất chứa nhiều muối hòa tan (1 - 1,5 % hoặc hơn) những loại muối tan
thường gặp trong đất mặn là NaCl, MgCl2, NaHCO3, ,,, những loại muối này có nguồn

gốc khác nhau (nguồn gốc lục địa, nguồn gốc biển, nguồn gốc sinh vật, ,,,), nhưng
nguồn gốc nguyên thủy của chúng là từ các thành phần khoáng của đá núi lửa. Trong
quá trình phong hóa đá, những muối này bị hòa tan, di chuyển tập trung ở những dạng
địa hình trũng không thoát nước. Ở vùng nhiệt đới, mưa nhiều như Việt Nam, sự
phong hóa đá xảy ra mạnh mẽ, tất cả các loại muối, kể cả những loại muối khó tan
như CaCO3, CaSO4…cũng bị hòa tan và rửa trôi ra sông, ra biển (Lê Văn Khoa,
2000).
1.3.2 Các dạng đất mặn
+ Đất mặn duyên hải ở vùng ven biển, tính mặn này chủ yếu do sự tràn ngập của nước
biển và nước thường có pH thấp. Đất mặn ven biển thường có tổng số muối tan >5%
(tương đương với >0,15% Cl-).
Nguyễn Văn Bộ et al,,, (2001) cho rằng đất mặn ven biển Việt Nam do muối NaCl
thường có tổng số muối tan biến động từ 0,25 % đến 1 %. Đất mặn chứa hàng loạt các
muối của kim loại kiềm với các gốc Cl-, SO42-, HCO3-, CO32-, song gốc muối HCO3-,
CO32- không đáng kể, chỉ có trong đất mặn sú, vẹt với hàm lượng HCO3- khoảng 0,1 0,2 %. Đất mặn sú, vẹt, đước có phản ứng trung tính đến kiềm, giàu kali và lân, Đất
mặn trung bình và ít thường có hàm lượng mùn, đạm trung bình, lân trung bình đến
nghèo. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả chỉ số phân cấp độ mặn là tổng số

8

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


muối tan, Cl- và EC, còn SO 42-, CO32-, không có ảnh hưởng. Đất mặn nhiều có tổng số
muối tan > 1 %, Cl - > 0,25 % và EC > 10 dS/cm (mmhos/cm).
+ Đất mặn nội địa có những vùng khô và ½ khô, tính mặn ở đây do nước dẫn thủy
hoặc nước ngầm có sự bốc hơi cao dẫn đến muối tập trung ở vùng rễ và đất thường có
pH cao (Yoshida, 1981).
Nhiễm mặn và mặn hóa là một trong những trở ngại chính của đất canh tác ở Việt
Nam, xảy ra cho các vùng ven biển của đồng bằng. Quá trình mặn hóa nhiều nhất

những năm gần đây khi phong trào nuôi tôm lên cao người dân đã phá đê ngăn mặn để
đưa nước mặn vào nuôi tôm và đất bị nhiễm mặn trong suốt mùa nuôi tôm (Võ Thị
Gương, 2003).
1.3.3 Độ mặn của đất (EC)
EC trong đất là một đại lượng để đo độ mặn của đất, biểu thị trực tiếp hoặc gián tiếp
nồng độ muối hoà tan. Đất mặn có nồng độ muối cao, ngoài ra trên đất phèn, do sự tác
động của acid vào khoáng sét, nồng độ muối phèn trong đất có thể cao và gây độc cho
cây (Ngô Ngọc Hưng et al., 2004).
Đất mặn là đất có độ dẫn điện của dung dịch trích bão hòa (EC) là từ 4mmohs/cm trở
lên ở 250C. Đây là ngưỡng mà vượt quá mức này năng suất lúa sẽ giảm đáng kể vì
lượng muối gia tăng (Akba và ponnamperuma, 1980). Các loại ion của muối gồm:
Na+, Ca2+, Mg2+, Cl- và SO42-. Trong đó muối NaCl chiếm ưu thế.
Đất được xem là đất mặn nếu có chứa lượng muối hòa tan đủ lớn làm giảm sự tăng
trưởng của hầu hết các loại cây trồng. Đất ở những vùng khô hạn, do lượng mưa
không đủ để rửa các cation base như: Ca, Mg, K, Na và các dạng muối dễ hòa tan
như: NaCl, CaCl, MgCl2, KCl đưa đế đất mặn và kiềm, pH > 7. Đất mặn thường liên
kết với tính sodic, nghĩa là lượng Na rất cao trên phức hệ hấp thu của đất, gây trở ngại
cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng, gây xáo trộn và mất cân đối sự hấp thu
nước, dưỡng chất và cả tính chất bất lợi về vật lý đất. Tuy nhiên những trở ngại của
đất mặn cò tùy thuộc vào loại cây trồng, cấu trúc đất, khả năng giữ nước của đất và
thành phần muối (Võ Thị Gương, 2006).
Để phân loại độ mặn, người ta thường căn cứ vào 2 chỉ tiêu phối hợp đó là: % tổng số
muối tan hoặc Cl- trong đất. Có hai phương pháp thường được sử dụng đó là:
- Phương pháp hóa học: Xác định tổng số muối tan hoặc hàm lượng các muối thành
phần bằng những phương pháp hóa học. Căn cứ vào hàm lượng tổng số muối tan ở
Việt Nam, các nhà khoa học đất đã đưa ra bảng phân loại độ mặn như sau:

9

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version



Bảng 2: Phân loại độ mặn trong đất theo 2 chỉ tiêu kết hợp (Nguyễn Vy và Trần Khải,
1978)
Phân loại độ mặn của đất

Tổng số muối tan (% trong đất)

Cl- (% trong đất)

Đất rất mặn

>1

> 0,25

Đất mặn

0,5 – 1

0,15 – 0,25

Đất mặn trung bình

0,25 – 0,5

0,05 – 0,15

Đất mặn ít


< 0,25

< 0,05

- Phương pháp điện hóa: Người ta tiến hành đo độ dẫn điện của dung dịch đất
(Electro-conductivity), ký hiệu là EC. Độ dẫn điện thường tỷ lệ thuận với hàm lượng
của tổng số muối tan và áp suất thẩm thấu của dung dịch đất. Thường EC được đo ở
điều kiện chuẩn, khi cho đất bão hòa nước tới giới hạn dính và ở 25ºC.
Bảng 3: Tương quan giữa EC và lượng muối tan (Lê Văn Khoa, 2000),
EC
(millihos/cm)

Tổng số muối tan (ppm)

4

3,000

8

5,000

> 15

10,000

Tôn Thất Chiểu et al,,, (1991) nhận định rằng đất mặn ở ĐBSCL là mặn do muối
trong nước biển, chủ yếu là NaCl. Căn cứ vào độ dẫn điện (EC) và định lượng hàm
lượng Cl- trong đất.
Bảng 4: Phân cấp đất mặn (Tôn Thất Chiểu et al., 1991).

Phân cấp đất mặn

EC (mS/cm)

Cl- (%)

Đất mặn nhiều

>4

> 0,25

Đất mặn trung bình

2-4

0,15 - 0,25

Đất mặn ít

1-2

0,05 - 0,15

Như vậy, tổng muối tan là chỉ tiêu đánh giá độ mặn trực tiếp của đất, thường là các
muối Clo, Sulfate, Bocarbonate của các ion Na+, Ca2+, Mg2+…

10

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version



Hệ số chuyển đổi từ độ dẫn điện (EC)

Nồng độ muối tan (g/L) = EC (mS/cm) x 0,64
Bảng 5: Phân loại độ mặn theo tổng số muối tan (g/l) (Võ Thị Gương, 2006)

Tổng số muối tan (g/l)

Đánh giá

< 1,28

Không mặn

1,28 – 2,56

Hơi mặn

2,56 – 5,12

Mặn

5,12 – 10,24

Khá mặn

> 10,24

Rất mặn


Trong đất mặn và đất mặn sodic, phần trăm Na trên phức hệ hấp thu là trị số được
đánh giá là quan trọng. Trị số này giúp đánh giá tỷ lệ Na được hấp phụ so với tổng
khả năng hấp phụ cation của đất. Tỷ lệ Na chiếm ưu thế trong phức hệ hấp thu đưa
đến nhiều bất lợi trong dinh dưỡng cây trồng và tính chất hóa lý đất. Phần trăm của Na
trên tổng khả năng trao đổi cation (Exchange Sodium Percentage, ESP) được tính toán
dựa trên cơ sở khả năng hấp phụ cation của đất, CEC và Na trao đổi, ESP = 15 là
ngưỡng đánh giá ảnh hưởng của sodic đối với cây trồng.
ESP = (Na+/CEC) X 100
Bên cạnh ESP, tỷ lệ Na hấp phụ SAR (Sodium Adsorbtion Ratio) so với cation Ca và
Mg được kết hợp để đánh giá và phân biệt đất sodic với đất kiềm và đất mặn, SAR
được đánh giá dựa trên cơ sở nồng độ cation Na+, Ca2+ và Mg2+ (mmol/L) trong dung
dịch trích bão hòa.
SAR =

[(Ca

Na +
2+

+ Mg 2+ ) / 2

]

Đơn vị của SAR là (mmol/L)1/2
Hay ta cũng có thể tính chỉ số SAR theo ESP như sau:
ESP/(100 – ESP) = 0,015 x SAR

11


PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Bảng 6: Bảng phân loại tính mặn và tính sodic dựa trên pH, EC, SAR và ESP

Đất mặn

pH < 8,5

ECe > 4

SAR < 13

ESP < 15

Đất kiềm

pH > 8,5

ECe < 4

SAR <13

ESP > 15

Đất mặn kiềm

pH < 8,5

ECe > 4


SAR < 13

ESP > 15

Đất mặn Sodic

pH < 8,5

ECe > 4

SAR > 13

ESP > 15

Đất Sodic

pH > 8,5

ECe < 4

SAR > 13

ESP > 15

Tính chất đất mặn sodic gây nên những tính chất bất lợi cho cây trồng như gây cản trở
sự hấp thu nước và dinh dưỡng của cây trồng vì áp suất thẩm thấu cao, mất cấu trúc
đất, thiếu sự thoáng khí cho vùng rễ, ảnh hưởng đến sinh trưởng cây trồng (Võ Thị
Gương, 2003). Điều này cho thấy đất trong toàn vùng canh tác lúa - tôm bị nhiễm mặn
sau một thời gian canh tác, do tác động của các hộ nông dân đưa nước mặn vào ruộng

để nuôi tôm, mà biện pháp rửa mặn hiện nay thì chưa hiệu quả, gây thiệt hại cho năng
canh tác lúa và làm ảnh hưởng đến tính bền vững của mô hình lúa – tôm.
1.3.4 Mặn và cây trồng
Theo Abrol et al (1998) và Võ Thị Gương (2004) nồng độ muối cao trong đất là
nguyên nhân gây ảnh hưởng xấu đến cây trồng. Ảnh hưởng rõ nhất là nước kém hữu
dụng ở vùng rễ, Điều này do áp suất thẩm thấu của dung dịch đất gia tăng khi nồng độ
muối gia tăng. Ngoài ra, nồng độ đậm đặc của những ion muối có thể gây độc đối với
cây trồng hoặc có thể ngăn cản sự hấp thu của những dưỡng chất cần thiết khác đối
với cây. Khi nồng độ muối gia tăng, sự sinh trưởng của cây trồng giảm cho đến khi
cây trồng bắt đầu vàng và chết. Mỗi loại cây trồng khác nhau về khả năng chịu mặn
trong đất. Mức độ chịu mặn của cây được đánh giá dựa trên năng suất giảm khi so
sánh với năng suất ở đất không mặn.

12

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Bảng 7: Phân loại đất mặn và sự sinh trưởng của cây (Abrol et al, 1998)

Phân loại độ mặn

Độ dẫn điện của dung dịch đất
trích bão hòa (mmoh/cm).

Ảnh hưởng trên cây trồng

Không mặn

0–2


Mặn ảnh hưởng không đáng kể.

2–4

Năng suất (NS) của nhiều loại cây trồng
có thể bị giảm.

Mặn trung bình

4–8

NS của nhiều loại cây trồng bị giới hạn.

Mặn

8 – 16

Chỉ 1 số loại cây trồng chịu đựng được.

Rất mặn

> 16

Chỉ rất ít loại cây trồng chịu đựng mặn.

Mặn ít

Bảng 8: Thang đánh giá độ mặn của Western Agricutural Laboratories 2002.


1: 2 (mmohs/cm)

Trích bão hoà

Ảnh hưởng đến cây trồng

< 0,4

0–1

Không giới hạn năng suất.

0,4- 0,8

1,1 – 2

Không ảnh hưởng cây trồng.

0,81 – 1,2

2,1 – 4

Một số cây có năng suất suy
giảm ở nồng độ này.

1,21 – 1,6

4,1 – 8

Năng suất phần lớn cây trồng bị

hạn chế.

1,61-3,2

8,1 – 16

> 3,3

16,1

Chỉ có một số loại cây trồng
mới chịu được.
Chỉ có một vài loại cây trồng
kháng mới phát triển.

13

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


1.3.5 Đất phèn
- Nguồn gốc
Nhóm đất phèn hay nhóm đất phù sa phèn, tên theo phân loại của FAO là Thionic
Fluvisols là tên gọi dùng để chỉ nhóm đất có chứa các vật liệu mà kết quả của các tiến
trình sinh hoá xảy ra là axít sulfuric được tạo thành hoặc sẽ sinh ra với một số lượng
có ảnh hưởng lâu dài đến những đặc tính chủ yếu của đất (Pons, 1973).
Đất phèn được hình thành trên các sản phẩm bồi tụ phù sa với vật liệu sinh phèn,
Vùng Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, kể cả một số nơi ở Hải Phòng, Thái
Bình. Các nhà khoa học cho rằng, sự ôxy hoá các sản phẩm hữu cơ chứa lưu huỳnh
(xác các cây sú, vẹt, mắm, đước, tràm,,,,) là nguyên nhân chính để sinh ra chất phèn.

Đất phèn được xác định bởi sự có mặt trong phẫu diện đất hai loại tầng chuẩn đoán
chính là tầng sinh phèn. Đất chỉ có tầng sinh phèn gọi là đất phèn tiềm tàng, Đất có
tầng phèn gọi là đất phèn hiện tại.
Về tính chất của đất phèn, trước hết phải là độ chua, Các hợp chất hữu cơ chứa lưu
huỳnh bị phân giải yếm khí tạo nên các sunphua, khi gặp không khí chúng lại bị ôxy
hoá thành các sulphate và axit sulphuric( H 2SO4). Axít này công phá phần khoáng của
đất tạo ra sulphate nhôm (phèn nhôm) và sulphate sắt (phèn sắt).
- Phân loại
Dựa trên sự hình thành và phát triển của đất, Pons (1973) đã chia đất phèn ra làm hai
loại:
+ Đất phèn tiềm tàng: Hình thành trong điều kiện khử. Độ pH của đất phèn tiềm tàng
nằm trong khoảng trung tính do môi trường đất ở điều kiện khử, chưa bị ôxi hóa. Đối
với đất phèn tiềm tàng bị ảnh hưởng mặn ở vùng duyên hải thì giá trị pH đất có thể
lớn hơn 7,0. Tuy nhiên, khi bị oxy hóa thì pH có thể hạ xuống rất nhanh, khi đó pH có
thể hạ thấp dưới 2,0.
+ Đất phèn hoạt động hay đất phèn thật sự: Hình thành trong điều kiện phải có sự ôxi
hóa, Các loại đất và trầm tích dễ trở thành đất phèn, nhất là các loại được hình thành
trong phạm vi 10,000 năm trở lại đây, sau sự kiện dâng lên của nước biển (biển tiến)
lớn nhất gần đây. Khi mực nước biển dâng lên và làm ngập đất, sulfat trong nước biển
trộn lẫn với các trầm tích đất chứa các ôxít sắt và các chất hữu cơ. Trong các điều kiện
hiếm khí pyrite là ổn định cho tới khi nó bị lộ ra ngoài không khí, từ thời điểm này thì
pyrite bị ôxi hóa và sinh ra acid sulfuric. Ảnh hưởng của đất phèn có thể kéo dài trong
một khoảng thời gian lớn, và lên tới đỉnh theo mùa (sau thời kỳ khô hạn và khi bắt đầu
có mưa).

14

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version



Đối với đất phèn hoạt động, pH thấp gây thiệt hại cho cây và ảnh hưởng gián tiếp đến
sự hòa tan Al3+, Fe2+, Fe3+, và độ hữu dụng của lân ở pH < 3,5 - 4 thì cây lúa trồng
trong dung dịch bị ảnh hưởng trực tiếp bởi nồng độ H+.
Đất phèn tiềm tàng luôn ở tình trạng khử, qua quá trình sử dụng và cải tạo đất, người
ta đã thoát nước tạo điều kiện cho oxygen xâm nhập vào trong các tầng có chứa vật
liệu sinh phèn pyrite và oxít hóa tầng này tạo nên đát phèn thật sự và phóng thích ra
một lượng chất gây độc cho cây trồng đáng kể, cùng lúc làm giảm pH xuống rất thấp,
đây là quá trình phèn hóa của đất. Trong quá trình phèn hóa các tác hại sẽ gây độc cho
cây trồng như: gây độc hại trực tiếp do phèn với pH thấp, hàm lượng nhôm, sắt tam,
mangan cao gây độc cho cây trồng, cation base thấp, độ hữu dụng của lân thấp và
thiếu dinh dưỡng. Trong điều kiện ngập nước, cây trồng bị ngộ độc do sắt nhị, H2S và
các acid hữu cơ (Võ Thị Gương, 2003).
Đất sét hay đất thịt với pH > 5 thì tốt để xây dựng ruộng lúa - tôm, Đất phèn có thể
chứa nhiều đốm sinh phèn màu vàng khi khô và sẽ bị rửa trôi tạo ra dung dịch màu đỏ
hay vàng (màu của các loại muối sắt khi gặp nước) (Chanratchakool et al.,1995).
Nghiên cứu của Golez et al, (1997) cho rằng ở những vùng đất không canh tác được
do có nhiều vật liệu sinh phèn có thể tránh được acid hóa bằng cách cho nước ngập từ
2 - 3 cm hơn là làm ráo nước và lộ thiên, đây là nhân tố chính hình thành đất phèn,
Chanratchakool et al., (1995) nhận định rằng đất ruộng cũng có ảnh hưởng đến pH của
nước ruộng, nhất là trường hợp đất phèn tiềm tàng. Trạng thái tự nhiên của đất ruộng
có ảnh hưởng đáng kể đến việc cung cấp chất dinh dưỡng hòa tan trong ruộng cũng
như sự tạo thành NH 3, H2S.
1.4 MÔ HÌNH TÔM LÚA Ở NHỮNG VÙNG BỊ NHIỄM MẶN
1.4.1 Khái quát
Nghề nuôi tôm đã có tư những năm 1970, tuy nhiên, nghiên cứu về hệ thống canh tác
lúa – tôm thì chỉ gần đây mới được quan tâm chỉ đạo. Hệ thống canh tác lúa tôm
tương đối mới so với hệ thống canh tác khác. Gần đây có một vài bài báo cáo nói về
bản chất của hệ thống canh tác này và những vấn đề cốt lõi về sự phát triển bền vững
của nó. Điều quan tâm chủ chốt của nông dân canh tác lúa – tôm là: thiếu tôm giống,
sự mặn hóa đất đai, mất đất trồng lúa do bồi lắng phù sa, các vấn đề quản lý dịch hại

cho lúa do ít dung thuốc hóa học để tránh thiệt hại cho tôm, sự phát triển của rong đáy
và thiếu vốn…Bên cạnh đó, xét về một khía cạnh khác thì theo Trần Thanh Bé (1994)
cũng ghi nhận rằng vấn đề bồi lắng phù sa không phải được xem là tác động xấu đến
môi trường ở tất cả ruộng nuôi tôm. Ở những vùng đất thấp, phù sa bồi lắng được xem
là “quà tặng của thiên nhiên” vì nó làm gia tăng sản lượng lúa.
Chất lượng nước và phù sa trong ruộng là những vấn đề chủ yếu trong mọi hình thức
nuôi tôm. Thế nhưng hầu hết thông tin về nuôi tôm đều từ các hệ thống thâm canh và
15

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


bán thâm canh, nơi mà việc quản lý ao kém thường được coi là yếu tố chính của thất
bại trong nuôi tôm. Việc dẫn nước lợ vào ruộng trong mùa khô đưa đến một số vấn đề
về mặn hóa cho cả chính ruộng đó và những ruộng xung quanh. Kết quả điều tra của
Trần Thanh Bé (1994) thì những nông dân canh tác lúa - tôm cho rằng họ có thể rửa
hết mặn ra khỏi ruộng của họ vào đầu mưa. Tuy nhiên, biện pháp này dẫn đến việc
cấy lúa trễ và nông dân cũng xác định rằng cần có giống cải thiện ngắn ngày chịu mặn
để canh tác. Trong số những nông dân được phỏng vấn, 12 % cho rằng có sự mặn hóa
dần trong ruộng lúa - tôm của họ qua thời gian. Một trong những khía cạnh gây ảnh
hưởng quan trọng đến hệ thống canh tác lúa - tôm là sự mặn hóa đồng ruộng. Chưa có
sẵn số liệu về sự mặn hóa đất hoặc hiệu quả của các biện pháp rửa mặn.
Mô hình canh tác lúa - tôm là hệ thống canh tác đặc thù của những vùng bị nhiễm mặn
theo mùa trong hơn 50 năm qua. Vào mùa mưa nước rửa mặn, ngọt hóa đất ruộng, đây
là thời vụ trồng lúa. Các tháng còn lại đều bị nước mặn xâm nhập, ruộng lúa lại biến
thành vuông tôm với phương thức lấy giống và thức ăn tự nhiên, nước mặn có chứa
các ấu trùng của tôm bạc (Metapenaeus spp,) có trong các hệ thống kênh, rạch, sông
địa phương. Tôm sú lớn lên nhờ thức ăn tự nhiên có sẵn trong các vuông và được thu
hoạch sau 3 - 05 tháng nuôi. Thực ra ở buổi ban sơ nước mặn đưa vào ruộng chỉ nhằm
mục đích giữ chân ruộng ẩm để ngăn chặn sự oxy hóa tầng phèn (pyrite) dưới lớp đất

mặt. Về sau nông dân chú ý khai thác khả năng chứa nước và dinh dưỡng của ruộng
để nuôi tôm dần dần tạo nên kỹ thuật xen canh lúa - tôm ở vùng ven biển. Nông dân
đào mương đắp đê xung quanh ruộng lúa và có hệ thống cống dẫn nước và thoát nước
(Preston et al., 2003 và Nguyễn Bảo Vệ et al., 2005).
Mô hình nuôi tôm sú luân canh với trồng lúa đạt hiệu quả cao so với độc canh lúa. Mô
hình vụ lúa sau vụ tôm sẽ giúp bồi bổ đất và trồng lúa tốt hơn do lượng chất hữu cơ từ
thức ăn tôm lắng đọng đáy ao, đồng thời sau vụ lúa môi trường nuôi tôm sẽ tốt hơn, là
mô hình bền vững, đem lại hiệu quả cao, (Nguyễn Bảo Vệ et al., 2005).
Sự nhiễm mặn đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa
như: giảm sức nảy mầm của lúa, giảm chiều cao và khả năng đẻ nhánh, hệ rễ phát
triển kém, giảm sự cố định đạm sinh học và quá trình khoáng hóa đạm trong đất. Tính
trung bình năng suất lúa có thể giảm tới 20 - 25 %, thậm chí tới 50 % (Trung tâm Tin
học, 2005).
Trong nghiên cứu về “Chất lượng nước và sinh trưởng tôm sú trong ruộng nuôi luân
canh tôm - lúa” của Trương Hoàng Minh et al., (1999) kết luận đặc điểm môi trường
nước ruộng trồng lúa dùng để nuôi tôm sú vào mùa khô là hoàn toàn phù hợp cho sự
sinh trưởng và phát triển của tôm. Việc canh tác một vụ tôm vào mùa khô là có hiệu
quả cao và hoàn toàn có thể ứng dụng cho các vùng nhiễm mặn theo mùa của ĐBSCL.

16

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


1.4.2 Yếu tố ảnh hưởng đến mô hình canh tác lúa - tôm
1.4.2.1 Đặc tính môi trường đất
Theo Võ Thị Gương (2004) thì độ hữu dụng của dưỡng chất đối với cây trồng phụ
thuộc rất lớn vào pH của đất. Đất cung cấp dinh dưỡng cho cây lúa phát triển nhưng
lại không ảnh hưởng trực tiếp đến con tôm mà phải thông qua trao đổi chất diễn ra qua
giao diện đất - nước để tác động đến môi trường sống và chuỗi dinh dưỡng của tôm,

(Lê Xuân Thuyên, 2004).
Đánh giá tính chua hay kiềm của một loại đất, người ta thường nói đến yếu tố đầu tiên
đó là pH, Nếu pH nhỏ hơn 5: đất chua, pH bằng 6 - 7: trung tính, pH lớn hơn 7: đất
kiềm, pH tương quan nghịch theo dạng với Al3+ và Fe2+ (Lê Huy Bá, 2003).
pH đất : là chỉ tiêu đánh giá đất quan trọng vì nó thường ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của cây trồng, với đất, vận tốc các phản ứng hoá học đất, độ hữu dụng của
dưỡng chất đất (Ngô Ngọc Hưng et al., 2004).
Cây lúa nước có thể sinh trưởng trong môi trường pH biến động từ 4 – 9, sinh trưởng
bình thường ở pH từ 5 – 8, nhưng sinh trưởng thích hợp nhất ở pH từ 6 -7. Đáng lưu ý
là khi Eh giảm thì pH, lân dễ tiêu, NH4+, tăng lên ở đất chua. Tuy nhiên quan hệ giữa
pH đất và lân dễ tiêu là một vấn đề khá phức tạp. Nhiều kết quả nghiên cứu sơ bộ kết
luận khi pH từ 5,5 – 6,5 lân sẽ giải phóng nhiều nhất, còn nếu thấp hơn hoặc cao hơn
đều bị cố định khá nhiều.
Cùng với quá trình khử, pH trên đất chua sẽ tăng dần và đạt trị số trung tính ổn định
sau 2-3 tuần ngập nước. Trên đất kiềm, pH giảm dần và ổn định khi pH gần trung tính,
Ở đất chua, pH gia tăng khi ngập nước vì quá trình khử là quá trình tiêu thụ H+ (Trần
Kim Tính, 2000)
Ví dụ : Fe(OH)3 + 2H+ + e = Fe2+ + 3 H2O
Ở đất kiềm, sự giảm pH là do sự gia tăng nồng độ CO2 sau khi ngập, CO2 được sản
sinh do quá trình hô hấp của vi sinh vật. Mối liên hệ giữa pH và áp suất riêng phần
của CO2 (Ponnamperuma, 1965) :
pH = 6,25 – 0,65 log p CO 2. Như vậy khi p CO2 tăng sẽ làm giảm pH.

17

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Bảng 9: Thang đánh giá Washington University- tree Fruit research and Extention
ceter 2002 (tỷ lệ đất/nước là 1:2,5)

pH nước

Đánh giá

<5

Thấp (low)

6 – 7,5

Tối hảo (optimal)

>7,5

Cao (high)

Nuôi tôm nên chọn đất ở những nơi có chứa từ 20 % sét trở lên (mùn hoặc đất sét),
nên tránh những khu vực đất phèn, đất cát, đất hữu cơ hoặc đất than bùn (Boyd,
1998a). Nghiên cứu của Boyd (1995) nhận định rằng phần lớn ruộng nuôi tôm được
xây dựng trên nền đất khoáng chứa không quá 5 - 10 % chất hữu cơ thì nồng độ chất
hữu cơ có khuynh hướng tăng dần theo thời gian trong đất ruộng nhưng đất hữu cơ
thường không phát triển ở đáy ruộng. Trong nghiên cứu sự liên quan của việc hình
thành đất sét trong ao nuôi nước lợ của Golez (1995) cho thấy rằng sự acid hóa của
đất phơi khô diễn ra mạnh hơn đất ngập nước, bởi vì sự oxy hóa khoáng sét (FeS 2) sẽ
tạo thành acid sunfuric (H 2SO4). Trong quá trình oxy hóa, sự acid hóa sẽ tác động lên
pH, làm tăng hàm lượng nhôm và sắt hòa tan, đồng thời cũng làm mất đi một phần
đáng kể hàm lượng kali và lưu huỳnh trong đất.
Chanratchakool et al, (1995) nhận định rằng đất ruộng cũng có ảnh hưởng đến pH của
nước ruộng, nhất là trường hợp đất phèn tiềm tàng. Trạng thái tự nhiên của đất ruộng
có ảnh hưởng đáng kể đến việc cung cấp chất dinh dưỡng hòa tan trong ruộng cũng

như sự tạo thành NH 3, H2S.
1.4.2.2 Đặc tính môi trường nước
Môi trường nước biểu hiện tình trạng của thủy vực và các yếu tố giới hạn sinh lý, sinh
thái của các loài thủy sản. Do đó, việc theo dõi sự biến động cũng như biên độ dao
động của nó là một trong những vấn đề đặc trưng trong nuôi tôm.
+ Độ pH
Chanratchakool et al, (1995) cho rằng pH của nước rất quan trọng, có ảnh hưởng trực
tiếp và gián tiếp đến tôm nuôi và phiêu sinh vật. Giá trị pH ở mức thích hợp cho sự
sinh trưởng tối ưu của tôm sú từ 7,5 – 8,5 và dao động hàng ngày không được vượt
quá 0,5 độ pH. Phạm Văn Tình (1994) tìm thấy pH trong ao thường thấp vào buổi
sáng và cao vào buổi chiều, pH của nước trong ao nuôi tốt nhất là 7,5 - 8,9. Theo
Kungvankij et al., (1986) và Nguyễn Trọng Nho et al., (2002) thì giá trị pH từ 7,5 8,5 là thích hợp cho nuôi tôm sú và biến thiên trong ngày không quá 0,5 đơn vị, pH từ

18

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


4 - 6,5 và 9 - 11 làm cho tôm chậm phát triển và thấp dưới 4 hoặc cao quá 11 là giới
hạn gây cho tôm chết.
+ Độ mặn
Đó là tổng số những nguyên tử kết tinh, hòa tan trong nước và được tính bằng gram
trong một lít hay là phần ngàn, trong đó các nguyên tử chính yếu là Sodium và
Chloride, còn lại là các chất với thành phần ít hơn: Magnesium, calcium, potassium,
sulfate và bicarbonate. Hiển nhiên là áp suất thẩm thấu tăng lên khi độ mặn tăng, nhu
cầu về độ mặn thay đổi tùy theo từng loại tôm và thời điểm trong chu trình sinh sống
của mỗi loại; lúc còn nhỏ tôm dễ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi độ mặn một cách đột
ngột hơn là lúc tôm đã lớn. Tôm sú có thể chịu được sự biến thiên của độ mặn từ 3 45 ‰, nhưng độ mặn lý tưởng cho tôm sú là 18 - 20 ‰ (Vũ Thế Trụ, 2000). Phạm
Văn Trang et al., (2004) cho rằng tôm sú có ngưỡng độ muối từ 0 - 40 ‰, chịu đựng
tốt với sự thay đổi đột ngột của độ muối. Cụ thể tôm sú giống và tôm sú thịt ưa thích

độ muối từ 10 - 25 ‰. Theo Kungvankiji et al., (1986) thì độ mặn tốt nhất để tôm sú
tăng trưởng nhanh là từ 15 - 30 ‰.
Độ dẫn điện (EC) của nước là khả năng cho dòng điện đi qua. Nó còn thể hiện nồng
độ các chất hòa tan, đặc biệt độ dẫn điện còn là chỉ tiêu phản ánh hàm lượng các muối
khoáng hòa tan trong nước khi các phương pháp khác không thể kiểm tra được
(Deborah, 1996).
Độ dẫn điện thường tỷ lệ thuận với hàm lượng của tổng số muối tan, tổng nồng độ
của tất cả ion hòa tan là độ mặn, độ mặn được tính dựa trên độ dẫn điện trong nước
với hệ số chuyển đổi mS/cm x 0,64 = g/l (Nguyễn Bảo Vệ et al., 2005).
+ Chất kiềm (Alkanility)
Đó là tổng số những kết tinh của titratable bases mà chính yếu là bicarbonate và
carbonate được tính bằng mg/l calcium carbonate tương đương. Bicarbonate thường
được hình thành do tác dụng của CO2 với các chất bases trong đá và đất. Ao hồ có độ
kiềm cao có thể chế ngự được sự thay đổi pH. Ao hồ có độ kiềm khoảng 20 - 150 mg/l
thì thích hợp cho phiêu sinh vật (plankton) cũng như tôm cá. Chất kiềm quan trọng
trong ao hồ vì vai trò chất đệm (buffer) và nguồn cung cấp CO2 cho hiện tượng quang
tổng hợp (Nguyễn Bảo Vệ et al., 2005). Trần Văn Hòa et al., (2002) cho rằng độ kiềm
để tôm sú sống được là phải cao hơn 60 mg CaCO3 ,l-1, độ kiềm tối ưu để tôm sú phát
triển là từ 80 - 120 mg CaCO3 ,l-1. Môi trường nước có độ kiềm cao sẽ làm giảm bớt
sự thay đổi pH, mặt nước có lượng kiềm tổng cộng 20 - 150 mg CaCO3 ,l-1 thì thích
hợp cho sự phát triển của phiêu sinh, các loài thủy sản và mức độ dinh dưỡng của ao
tăng lên đồng nghĩa với lượng kiềm tổng cộng tăng (Boyd, 1998b).
+ Oxy hòa tan

19

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Oxy là yếu tố quan trọng nhất cần đặc biệt chú trọng trong kỹ thuật nuôi tôm. Lượng

dưỡng khí thấp trong ao dễ gây cho tôm chết nhiều hơn cả, chỉ cần 05 ppm oxy hòa
tan trong nước là đủ cho tôm hô hấp một cách an toàn (Vũ Thế Trụ, 2000).
+ Độ đục
Trong báo cáo đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình lúa - tôm bền vững tại huyện An
Biên và Hòn Đất tỉnh Kiên Giang” của Nguyễn Bảo Vệ et al., (2005) có nhận định
rằng độ đục của nước được xác định bởi đĩa Secchi và một cách đơn giản kết luận là
độ đục của nước ao thích hợp nếu đĩa Secchi được đọc ở trong khoảng 25 - 40 cm.
Điều này có nghĩa là nếu độ đục trên đĩa Secchi mà ngắn hơn 25 cm thì nước ao quá
đục, ngược lại nếu độ đục này ở mức xa hơn 40 cm thì nước ao lại quá trong, đồng
nghĩa với nước quá nghèo chất dinh dưỡng. Có hai loại độ đục chính trong các ao tôm:
Độ đục gây ra bởi sự phát triển của thực vật phù du và độ đục gây ra bởi chất rắn lơ
lửng trong nước.
+ Chất hydro sulfide
Là một chất khí, được tạo thành dưới điều kiện kỵ khí (anaerobic condition), Hydro
sulfide chia làm 2 nhóm: H2S (un-ionized) và HS-(ionized). Chỉ có dạng un-ionized
của hydro sulfide là chất độc, pH rất có ảnh hưởng tới độ độc của hydro sulfide, ví
dụ: Với ao hồ pH = 5 và nhiệt độ 24ºC người ta thấy 99,1 % hydro sulfide dưới dạng
H2S (un-ionized), trong khi đó pH = 8 với cùng nhiệt độ 24ºC lại chỉ có 08 % lượng
hydro sulfide dưới dạng chất độc. Dù lượng độc sulfide rất nhỏ (0,001 ppm) mà
hiện diện trong một thời gian liên tục vẫn làm giảm sự sinh sản của tôm, cá (Vũ Thế
Trụ, 2000).
+ Hợp chất Nitrogen
Gồm 3 chất chính: amonia, nitrite và nitrate. Amonia trong ao hồ xuất hiện như một
sản phẩm do sự biến dưỡng của động vật trong nước cũng như từ sự phân hủy các chất
hữu cơ với tác dụng của vi khuẩn. Trong nước amonia được phân chia (disssociate)
làm hai nhóm: nhóm NH3 (un-ionized) và nhóm NH4+ (ionized).
* Chỉ có dạng un-ionized của amonia là gây độc cho ao hồ. Sự phân chia này chịu ảnh
hưởng của pH, nhiệt độ và độ mặn nhưng pH ảnh hưởng quan trọng hơn cả. Nếu tăng
1 đơn vị pH thì sẽ tăng 10 lần tỷ lệ của un-ionized amonia. Độ độc của amonia gây ra
không đáng ngại lắm trong ao hồ vì thực vật phiêu sinh (phytoplankton) sẽ giữ cho độ

độc này ở mức thấp, tuy nhiên nếu ao hồ có mật độ cao quá thì mức NH3 vẫn có thể
xuất hiện. Mức độ un-ionized amonia thay đổi về ban đêm đáp ứng sự thay đổi của pH
và nhiệt độ.

20

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


×