Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Luận văn thạc sĩ Kiểm soát chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục qua KBNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.55 KB, 81 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, với mục tiêu cơ bản đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước đã rất chú
trọng vào công tác giáo dục. Giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ có vai
trò quyết định. Phát triển giáo dục là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Một trong những nguồn tài lực quan trọng cho giáo dục là nguồn
NSNN, trong đó hơn 80% là các khoản chi thường xuyên. Để đảm bảo các
khoản chi thường xuyên dành cho giáo dục được chi đúng, chi đủ, chi hợp lý
để từ đó nâng cao chất lượng giáo dục thì quản lý chi thường xuyên NSNN
cho giáo dục của tỉnh thời gian qua được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, do khả
năng hạn hẹp của NSNN cũng như các phương thức quản lý dần bộc lộ các
bất cập đã làm giảm đáng kể hiệu quả chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục. Do đó, việc quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục; đặc biệt là
cơ chế kiểm soát, cấp phát, thanh toán các khoản chi thường xuyên NSNN
cho sự nghiệp giáo dục phải được tăng cường và hoàn thiện hơn nữa cho phù
hợp với tình hình mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm soát chi NSNN cho giáo dục, tôi
đã lựa chọn đề tài: “Kiểm soát chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp giáo dục qua KBNN Ba Đình”, để nghiên cứu và làm luận văn Thạc sĩ Tài
chính - Ngân hàng.
2. Tổng quan nghiên cứu
Đây là một đề tài mang tính thực tiễn cao, phù hợp với yêu cầu của công
cuộc cải cách hành chính và định hướng phát triển ngành Kho bạc. Đã có một
số công trình khoa học nghiên cứu về đề tài trên trong hệ thống KBNN. Như


2


luận văn thạc sĩ: “Quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiệp
giáo dục mầm non huyện Phú Xuyên” của tác giả Nguyễn Thị Trang, Học viện
Tài chính; Luận văn thạc sĩ: “Kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
cho sự nghiệp giáo dục qua kho bạc nhà nước Thái Bình” của tác giả Lê
Hoàng, Học viện Tài chính; Luận văn thạc sĩ: “Quản lý chi thường xuyên ngân
sách nhà nước cho các trường THCS trên địa bàn huyện Kim Sơn” của tác giả
Trần Minh Long, Học viện Tài chính; Luận văn thạc sĩ: “Giải pháp hoàn thiện
công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục qua
KBNN huyện Kiến Xương” của tác giả Dương Văn Quyết, Học viện Tài chính;
Luận văn thạc sĩ: “Quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự
nghiệp giáo dục tỉnh Vĩnh Phúc” của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh; …
Các luận văn này đều là những công trình khoa học có giá trị cao trên
địa bàn được nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu công
tác kiểm soát chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục qua KBNN Ba Đình. Vì vậy,
đề tài vẫn có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài nhằm tìm kiếm phương án trả lời cho các câu hỏi
lớn sau đây:
- Kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN đã được xây dựng
trên cơ sở lý luận, thực tiễn nào?
- Thực trạng kiểm soát chi thường xuyên NSNN cho giáo dục THCS
qua KBNN Ba Đình đã bộc lộ những điểm mạnh, điểm yếu nào?
- Làm thế nào để có thể hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN
cho giáo dục THCS qua KBNN Ba Đình?
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận kiểm soát chi thường xuyên NSNN cho sự
nghiệp giáo dục.


3

- Đánh giá thực trạng kiểm soát chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục THCS qua KBNN Ba Đình giai đoạn 2012 - 2016 với những thành
tựu đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế cần khắc phục để nâng cao hơn
nữa hiệu quả kiểm soát chi thường xuyên NSNN cho hoạt động này.
- Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên
NSNN cho giáo dục THCS qua KBNN Ba Đình.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về chi thường xuyên và kiểm soát chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục qua KBNN.
- Phạm vi nghiên cứu:
+Về nội dung: Nghiên cứu kiểm soát chi thường xuyên NSNN cho giáo
dục Trung học cơ sở.
+ Về không gian: Nghiên cứu kiểm soát chi thường xuyên NSNN cho
sự nghiệp giáo dục qua KBNN Ba Đình và cũng chỉ giới hạn ở bậc: Trung học
cơ sở (THCS)
+ Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng kiểm soát chi
thường xuyên NSNN cho giáo dục THCS qua KBNN Ba Đình trong khoảng
thời gian từ năm 2012 đến năm 2016.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, đồng thời sử dụng các phương pháp
như: phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê, bảng biểu,… để giải quyết tốt
những vấn đề đặt ra trong đề tài.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
luận văn gồm 3 chương:


4

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ NGHIỆP
GIÁO DỤC VÀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN
NSNN CHO GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ QUA KHO BẠC NHÀ
NƯỚC BA ĐÌNH
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG
XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ
SỞ QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC BA ĐÌNH


5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ
KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1. Sự nghiệp giáo dục và vai trò của sự nghiệp giáo dục đối với
phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Khái quát về sự nghiệp giáo dục
1.1.1.1. Khái quát về sự nghiệp giáo dục
Theo quan điểm của giáo dục học, giáo dục là sự hình thành nhân cách
được tổ chức một cách có mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và
các quan hệ giữa nhà giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp người
được giáo dục chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người. Trong đó
hình thành nhân cách là quá trình phát triển con người về mặt sinh lý, tâm lý
và mặt xã hội, mang tính chất tăng trưởng về lượng và biến đổi về chất. Quá
trình này diễn ra do ảnh hưởng của các nhân tố bên trong (bẩm sinh, di
truyền, tính tích cực của chủ thể…), và các nhân tố bên ngoài (ảnh huởng của
hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội, tác động giáo dục), do ảnh hưởng
của các tác động tự phát, ngẫu nhiên (tác động bên trong, bên ngoài chưa

được kiểm soát, điều khiển) và các tác động có mục đích, có tổ chức (kiểm
soát được, điều khiển được).
Có thể hiểu giáo dục theo nhiều khía cạnh, trên nhiều phương diện
nhưng phải hiểu rằng, giáo dục không phải là sự áp đặt các khuôn mẫu,
càng không phải là sự ngăn chặn các nhu cầu hay cái khả năng tự phát mà
giáo dục chính là quá trình bồi dưỡng, nâng đỡ sự trưởng thành về nhận
thức của con người, tạo ra những con người có đầy đủ kiến thức, năng lực
hành vi, có khả năng sáng tạo, nhằm định hướng cho con người đi theo con
đường chính nghĩa.


6
1.1.1.2. Giáo dục phổ thông trong hệ thống giáo dục Việt Nam
Theo Luật giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14/06/2005 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục số 44/2009/QH12 ngày
25/11/2009, hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam bao gồm bốn cấp. Thời
gian đào tạo và sự liên thông giữa bốn cấp học này được thể hiện chi tiết
trong sơ đồ 1.1

Sơ đồ 1.1: Hệ thống giáo dục quốc dân
Giáo dục phổ thông (GDPT) là một cấp học trong hệ thống giáo dục
quốc dân của Việt Nam, được cấu thành bởi ba bậc học: tiểu học, trung học cơ
sở và trung học phổ thông. GDPT có vai trò cực kỳ quan trọng, là nền tảng
của toàn bộ hệ thống giáo dục quốc gia. GDPT giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách.


7
1.1.2. Vai trò của sự nghiệp giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

*) Sự nghiệp giáo dục góp phần cung cấp nguồn nhân lực cả về số
lượng và chất lượng và là nhân tố cơ bản để phát triển kinh tế - sản xuất:
Sự phát triển xã hội được đặc trưng bởi sự phát triển kinh tế. Mọi xã
hội được xây dựng trên nền tảng của các nền kinh tế và được tạo ra bởi các
yếu tố kinh tế. Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới muốn phát triển về kinh
tế cũng cần có rất nhiều nguồn lực như nguồn lực nhân lực, nguồn lực nguồn
vốn, nguồn lực tài nguyên,…; trong đó nguồn lực nhân lực là quan trọng nhất.
Bởi vì, nếu muốn đưa xã hội càng phát triển, đòi hỏi phải có những người có
trình độ cao, có kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn lao động sản xuất,
có những phẩm chất cần thiết của người lao động mới.
Giáo dục đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến các nguồn lực cần
thiết cho xã hội, làm cho xã hội ngày càng phát triển. Thông qua các quá trình
giáo dục và dạy học, bằng nhiều hình thức khác nhau, giáo dục đã:
+ Đào tạo ra những con người mới, là những người có trình độ văn hóa,
am hiểu về khoa học kỹ thuật – khoa học công nghệ; có khả năng vận dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật – công nghệ vào quá trình sản xuất lao
động. Nhờ vậy làm tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, tạo động lực cho xã hội phát triển.
+ Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra nguồn nhân lực
mới để thay thế những sức lao động cũ bị mất đi do ốm đau, bệnh tật, tuổi
già, tai nạn, …
+ Hiện nay, hầu như các nước trên thế giới đều ý thức được tầm quan
trọng, vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế. Vì thế các nước trên
thế giới đều coi trọng giáo dục, ưu tiên cho giáo dục như: tăng ngân sách cho
giáo dục, trang bị thiết bị giáo dục cho các trường, ….


8
Như đã biết, nguồn nhân lực nước ta dồi dào song chỉ là thô sơ, chưa
qua đào tạo, trình độ không đáp ứng nhu cầu đặt ra đối với sự phát triển kinh

tế. Chính vì vậy một sự nghiệp giáo dục phát triển toàn diện sẽ góp phần tạo ra
một đội ngũ lao động có đủ phẩm chất, trình độ, kỹ năng, có năng lực để tiếp
thu những khoa học công nghệ của nền sản xuất hiện đại phục vụ cho phát triển
kinh tế.
*) Giáo dục góp phần ổn định chính trị, tác động đến cấu trúc xã hội:
Sự phát triển xã hội cũng được thể hiện ở sự ổn định của hệ thống chính
trị của mỗi quốc gia. Giáo dục góp phần đắc lực và làm ổn định hệ thống chính
trị thông qua việc thực hiện chức năng tuyên truyền; làm cho những đường lối,
chính sách, chiến lược, hệ thống luật pháp của nhà nước, … đến được với mọi
tầng lớp của nhân dân; làm thay đổi ý thức, hình thành niềm tin lý tưởng, …
Đó là điều kiện cơ bản để tạo ra sức mạnh tinh thần to lớn đảm bảo cho sự
thành công của sự nghiệp cách mạng của giai cấp.
Trong các xã hội có giai cấp, giáo dục sẽ trực tiếp tác động đến cấu trúc
xã hội, tác động đến việc hình thành các tầng lớp, các nhóm xã hội. Bởi vì
giáo dục ở đây chính là quyền lợi của tầng lớp thống trị, và trong xã hội này
thường tồn tại hệ thống hai nhà trường. Ví dụ, trong xã hội có giai cấp đầu
tiên, xã hội chiếm hữu nô lệ, giáo dục nhằm mục đích đào tạo cho con em
tầng lớp chủ nô trở thành những quan chức, chủ nô nên trường học là dành
cho con em tầng lớp chủ nô, con em của nô lệ thì không được đến trường, chỉ
có thể được bố mẹ chúng dạy ở nhà.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giáo dục luôn có những tác động đến
chính trị - xã hội theo chiều hướng tích cực. Giáo dục có thể nâng cao đến
trình độ văn hóa, vị trí xã hội giữa các thành viên, giúp cho các thành viên
trong xã hội thay đổi nghề nghiệp, tạo ra thế hệ trẻ những người trung thành
với chế độ, có ý thức giác ngộ chính trị cao, có năng lực bảo vệ chế độ chính


9
trị - xã hội. Giúp cho các thành viên trong xã hội nắm vững được các chính
sách, đường lối của đảng và nhà nước; giúp cho công dân nắm vững, ý thức

được vị trí của mình. Giáo dục đã mở rộng các cơ hội để cho mọi thành phần
dân cư, không phân biệt đều được tiếp nhận giáo dục một cách bình đẳng và
dân chủ để phát triển; làm thay đổi vị trí xã hội của mỗi cá nhân và cộng
đồng. Giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện hữu hiệu cho các cuộc
cách mạng xã hội trên phạm vi toàn nhân loại cũng như ở mỗi quốc gia.
*) Sự nghiệp giáo dục phát triển nhân cách con người về mọi mặt, góp
phần nâng cao trình độ văn hóa, nhận thức tư tưởng của con người là cơ sở
đưa xã hội phát triển tốt đẹp hơn:
Giáo dục là nhân tố cơ bản hình thành nhân cách của một con người,
đào tạo con người có lòng yêu nước, tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tiếp thu
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa của loài người, có phẩm
chất đạo đức có trình độ. Giáo dục sẽ làm cho con người sống tốt và có ích
hơn cho xã hội. Chúng ta đều nhận thấy rằng, chỉ khi được giáo dục thì trình
độ của con người mới được nâng lên, được tiếp xúc với những kiến thức mới,
tiếp thu những truyền thống văn hóa dân tộc, nền văn hóa của các nước trên
thế giới từ đó giúp nâng cao dân trí, phát huy được những phẩm chất tốt đẹp.
Bất kỳ xã hội nào muốn có sự ổn định thì một trong những vấn đề cơ bản
là phải giúp cho người dân nhận thức được, nắm được những quy định của xã
hội; những chuẩn mực, giá trị mà xã hội đề ra phải nghiêm túc thực hiện. Giáo
dục với tư cách là một công cụ đấu tranh của giai cấp, trở thành một phương
tiện cơ bản để truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp cho mọi tầng lớp của nhân
dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, giúp cho người dân có nhận thức đúng đắn, định
hướng cho hoạt động của con người. Mặt khác giáo dục còn có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng một hệ tư tưởng chính thống chi phối toàn bộ xã hội,
giáo dục giúp cho họ có đủ vũ khí, bản lĩnh để chống lại mọi âm mưu, luận


10
điệu nhằm chống phá cách mạng, Đảng cộng sản và cản trở con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội; tuyên truyền phản động trái ngược với tư tưởng của giai

cấp. Đặc biệt ở nước ta trong giai đoạn hiện nay thì công tác giáo dục tư tưởng
càng trở nên quan trọng.
Như vậy ta có thể khẳng định rằng giáo dục có vai trò rất quan trọng.
Nó là nền tảng, là động lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội là yếu tố cơ
bản để đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục đối với phát triển
kinh tế của đất nước, Đảng và nhà nước ta đã rất chú trọng đến sự phát triển
của giáo dục và đã có những biện pháp quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển
giáo dục, đặc biệt là vấn đề tài chính. Số chi thường xuyên NSNN cho giáo dục
ngày càng tăng cao trong những năm gần đây. Sự đầu tư thích đáng của NSNN
cho sự nghiệp giáo dục trong tương lai ngày càng tăng lên nhưng nếu không có
chính sách đầu tư và quản lý đúng đắn sẽ dẫn đến đầu tư không đúng trọng
điểm, thất thoát NSNN. Vì vậy, vấn đề quản lý và kiểm soát chi thường xuyên
NSNN cho lĩnh vực giáo dục đang là vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà
nước, các cấp các ngành đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục
1.2.1. Khái niệm, nội dung chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho
sự nghiệp giáo dục
1.2.1.1. Khái niệm chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp giáo dục
Các đơn vị sự nghiệp giáo dục muốn tồn tại và hoạt động thì phải chi trả
cho các phí tổn phát sinh. Tùy theo tính chất có thể chia các loại chi phí thành
hai nhóm: Nhóm các chi phí phát sinh liên tục, đều đặn, có sự ổn định tương
đối, ví dụ như: chi trả lương cho giáo viên, chi điện, nước, dọn dẹp vệ sinh,
v.v…; Nhóm các chi phí phát sinh không đều đặn, ví dụ như: chi trả xây trường


11
lớp, nâng cấp trang thiết bị, v.v… Trong quản lý NSNN, người ta sử dụng thuật
ngữ “chi thường xuyên” để chỉ các khoản chi phát sinh đều đặn và ổn định.

Chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục là quá trình phân phối
và sử dụng vốn từ quỹ NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi gắn với việc thực
hiện các nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về giáo dục.
Quá trình phân phối vốn từ quỹ NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi
thường xuyên thực chất là việc phân bổ và xác lập dự toán kinh phí chi
thường xuyên cho các cấp, các ngành, các lĩnh vực và từng đơn vị thụ hưởng
kinh phí NSNN.
Quá trình sử dụng vốn từ quỹ NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi
thường xuyên thực chất là việc các cơ sở giáo dục thực hiện nhu cầu chi
thường xuyên theo kế hoạch và dự toán được duyệt.
1.2.1.2. Nội dung chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp
giáo dục
Nội dung chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục rất đa dạng,
phức tạp, khó quản lý. Vậy nên trong quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự
nghiệp giáo dục phải lựa chọn các cách phân loại nội dung chi cho phù hợp.
Theo nội dung kinh tế, chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo
dục bao gồm:
+ Các khoản chi thanh toán cá nhân:
Đây được coi là nội dung chi quan trọng đầu tiên để có thể có được một
trong ba yếu tố đầu vào của bất kỳ một trường, trung tâm giáo dục nào muốn
tồn tại và hoạt động. Thuộc các khoản chi cho con người của sự nghiệp giáo
dục, bao gồm: Tiền lương, tiền công, phụ cấp, phúc lợi tập thể, tiền thưởng,
các khoản đóng góp và các khoản thanh toán khác cho cá nhân theo chế độ
Nhà nước quy định đối với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước. Ngoài ra,


12
ở một số đơn vị dự toán là các trường còn có khoản chi về học bổng cho học
sinh, sinh viên theo chế độ Nhà nước đã quy định cho mỗi loại trường cụ thể.
Theo quy định của Mục lục NSNN hiện hành thì nội dung chi thanh toán cá

nhân cho sự nghiệp giáo dục được phản ánh theo các mục từ 6000 đến 6400, bổ
sung thêm các tiểu mục 6405, 6406 thuộc tiểu nhóm 0129: Chi thanh toán cá nhân.
+ Các khoản chi về nghiệp vụ chuyên môn:
Được tính vào chi nghiệp vụ chuyên môn của các đơn vị bao gồm nhiều
nội dung chi khác nhau. Song ta cũng có thể nhóm các nội dung chi của nhóm
mục này theo hai tiêu chí gắn liền với mục đích của các khoản chi: Chi nhằm
để đảm bảo cho hoạt động chung của mỗi đơn vị và các khoản chi nghiệp vụ
chuyên môn đặc thù.
Được tính vào chi nhằm đảm bảo cho hoạt động chung của mỗi đơn vị
bao gồm các khoản chi, như: chi tiền điện, tiền nước sạch, tiền vệ sinh phát
sinh tại đơn vị; các khoản chi mà đơn vị phải thanh toán cho bưu chính, viễn
thông; chi lễ tân, khánh tiết; chi tiền chè, nước, văn phòng phẩm dùng chung
cho toàn đơn vị; và các khoản chi thanh toán dịch vụ công cộng khác. Những
nội dung chi này đều có phát sinh ở tất cả các đơn vị. Các đơn vị khác nhau
thì có sự khác nhau về quy mô và tần suất xuất hiện các khoản chi trên trong
cùng một thời gian.
Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn đặc thù của các đơn vị sự
nghiệp Giáo dục - Đào tạo là hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu
khoa học, v.v… Được tính vào chi nghiệp vụ chuyên môn đặc thù phải là
những khoản chi mà xét về nội dung kinh tế của nó phải thực sự phục vụ cho
hoạt động này.
Theo phân loại của Mục lục NSNN hiện hành thì nội dung chi nghiệp vụ
chuyên môn của các đơn vị hành chính - sự nghiệp được phản ánh theo các mục


13
từ 6500 đến 6850, và mục 6900, 7000 thuộc tiểu nhóm 0130- Chi về hàng hóa,
dịch vụ; mục 7850 và 7900 thuộc tiểu nhóm 0132- Các khoản chi khác.
+ Các khoản chi mua sắm, sửa chữa:
Trong quá trình hoạt động, các đơn vị hành chính – sự nghiệp còn phát

sinh các nhu cầu chi về mua sắm công cụ, dụng cụ, hay sửa chữa các tài sản
đang trong quá trình sử dụng, nhằm phục vụ kịp thời cho nhu cầu hoạt động và
nâng cao hiệu suất sử dụng của các tài sản đó. Các nhà kinh tế đều khuyến cáo
rằng: Nếu biết chi những đồng tiền để đáp ứng ngay cho các nhu cầu duy tu, bảo
dưỡng tài sản trong quá trình sử dụng một cách đúng lúc, kịp thời thì sẽ góp
phần tích cực trong việc kéo dài tuổi thọ của tài sản, chất lượng phục vụ của tài
sản không bị sụt giảm; và vì thế hiệu quả của vốn đầu tư được nâng cao đáng kể.
Tuy nhiên, mức chi cho mua sắm, sửa chữa của mỗi đơn vị lại phụ
thuộc vào tình trạng tài sản của đơn vị thuộc diện được sử dụng vốn NSNN và
khả năng nguồn vốn NSNN có thể dành cho nhu cầu chi này ở mức độ nào?
Trong điều kiện hiện tại, được tính vào chi NSNN cho mua sắm, sửa
chữa ở các đơn vị thuộc phạm vi chi thường xuyên chỉ có: “chi mua sắm công
cụ, dụng cụ văn phòng” được ghi ở tiểu mục 6552, mục 6550; và các khoản chi
để thực hiện sửa chữa tài sản cố định được hạch toán theo mục 6900 - “sửa
chữa tài sản phục vụ công tác chuyên môn và duy tu, bảo dưỡng các công trình
cơ sở hạ tầng từ kinh phí thường xuyên” của Mục lục NSNN.
+ Các khoản chi khác:
Thuộc phạm vi các khoản chi khác nằm trong cơ cấu chi thường xuyên
của NSNN, có thể nói một cách khái quát nhất là những khoản chi có thời hạn
tác động ngắn nhưng chưa được đề cập tới ở 03 nhóm mục trên.
Nếu tiếp cận theo hướng từ các đơn vị sử dụng NSNN thì có một số
khoản chi vẫn phát sinh ở một số đơn vị, như: chi đãi ngộ đối với những người


14
có công; chi thăm hỏi đồng bào dân tộc; chi trợ cấp; chi cho công tác Đảng; …
vẫn chưa được phản ánh.
Nếu tiếp cận theo hướng của các cơ quan chức năng về quản lý tài chính
nhà nước, thì cũng bộc lộ nhiều khoản chi chưa được xếp vào cơ cấu của 03
nhóm mục trên, như: các chi phí mà chính quyền nhà nước phải làm để hỗ trợ

kinh tế tập thể và dân cư; chi cho người có công với cách mạng và xã hội; chi trợ
giá theo chính sách của nhà nước; chi lương hưu và trợ cấp Bảo hiểm xã hội; chi
bổ sung cho ngân sách cấp dưới; chi xúc tiến thương mại và các khoản phụ thu;
chi viện trợ; chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính; chi hoàn thuế giá trị gia tăng; chi
xử lý tài sản được xác lập sở hữu nhà nước; chi trả các khoản thu năm trước và
chi trả lãi do trả chậm; chi nộp ngân sách cấp trên; và chi khác (mục 7750).v.v..
Việc phân loại theo nội dung kinh tế là tiêu thức được dùng phổ biến nhất
trong mỗi khâu của chu trình NSNN. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay đòi hỏi
việc quản lý và điều hành NSNN phải theo Luật NSNN hiện hành thì vấn đề cụ
thể hoá từng nội dung chi phải được thể hiện ngay trong dự toán. Mặt khác,
thông qua việc phân loại chi thường xuyên theo nội dung kinh tế các nhà quản lý
có thể thu thập được các thông tin một cách chính xác về tình hình quản lý biên
chế và quĩ lương; tình hình quản lý và sử dụng kinh phí đã hướng vào việc nâng
cao hiệu quả chi thường xuyên đạt ở mức độ nào? Và tình hình tuân thủ các
chính sách chế độ chi NSNN tại mỗi đơn vị thụ hưởng; những bất cập có thể nảy
sinh trong quá trình chấp hành dự toán trong đó có nguyên nhân từ các chính
sách chế độ chi thường xuyên, hay do cơ chế quản lý đối với khoản chi này.
v.v… để kịp thời có được các biện pháp nhằm hạn chế những sai lệch do bất cập
đó có thể gây ra.
1.2.2. Vai trò của chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước đối với sự
phát triển của sự nghiệp giáo dục
1.2.2.1. Vai trò của chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho giáo dục


15
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương xã hội hóa
giáo dục đồng thời gắn với chủ trương đó Nhà nước thực hiện mở rộng đa
dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục kể cả trong nước và nước ngoài.
Trong điều kiện có nhiều nguồn vốn đầu tư cho giáo dục nhưng nguồn vốn từ
NSNN vẫn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Vai trò của chi NSNN đặc biệt là

chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: NSNN là nguồn tài chính cơ bản, to lớn để duy trì và phát
triển hệ thống giáo dục theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước.
Giáo dục là một lĩnh vực hoạt đông xã hội rộng lớn. Thời gian qua Nhà
nước ta đã có chính sách xã hội hóa giáo dục nhưng hiện nay hệ thống các trường
công lập còn nhiều và chiếm một tỷ trọng lớn. Nhà nước khuyến khích mở rộng
các trường bán công, dân lập tư thục nhưng số lượng các trường này chiếm tỷ
trọng rất nhỏ. Đồng thời việc xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục thực hiện chậm,
các thành phần kinh tế phi Nhà nước phát triển chưa mạnh nên sự đóng góp còn
hạn chế. Do đó mọi gánh nặng đều đặt lên vai của Nhà nước - NSNN.
Thứ hai: Chi thường xuyên NSNN góp phần quyết định đến sự tồn
tại và hoạt động của bộ máy nhà trường. Bằng việc chi thường xuyên
NSNN, Nhà nước thực hiện việc cung cấp các phương tiện vật chất, xây
dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hóa các trang thiết bị giảng dạy. Đây
là khoản chi hết sức cần thiết nhằm tạo ra tài sản cố định, nâng cao công
suất hoạt động của tài sản hiện có và có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
công tác giáo dục.
Thứ ba: Chi thường xuyên NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc
củng cố, tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng
dạy. NSNN chính là nguồn tài chính cơ bản đảm bảo đời sống đội ngũ cán bộ
giảng dạy, đội ngũ cán bộ quản lý hành chính của toàn bộ hệ thống giáo dục.
NSNN ngoài việc đảm bảo tiền lương hàng tháng cho cán bộ, giáo viên thì


16
còn dành một phần ưu đãi riêng cho sự nghiệp giáo dục như: phụ cấp giảng
dạy, phụ cấp ưu đãi, phụ cấp dạy thêm giờ, ... Đó là yếu tố có tính chất quyết
định đến chất lượng hoạt động giáo dục.
Thứ tư: Thông qua cơ cấu, định mức chi thường xuyên NSNN để điều
phối cơ cấu giáo dục toàn ngành, thống nhất thời gian dạy, chương trình học

của từng lớp và từng cấp học.
Thứ năm: Sự đầu tư của NSNN tạo điều kiện ban đầu, tạo tiền đề nâng
cao sự hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về vai trò và tác dụng to lớn của giáo
dục đối với con em họ từ đó thu hút sự đóng góp của nhân dân cho giáo dục.
Mặc dù hiện nay NSNN còn hạn hẹp lại được sử dụng chi cho nhiều
lĩnh vực khác nhau, nhu cầu chi tăng không ngừng đòi hỏi vấn đề đầu tư như
thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, cần phải cải tiến phương thức quản
lý sử dụng vốn để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Từ đó có thể thấy tăng
cường quản lý và kiểm soát chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
là rất cần thiết.
1.3. Kiểm soát chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp
giáo dục qua Kho bạc Nhà nước
1.3.1. Kiểm soát chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước qua Kho bạc
Nhà nước là yêu cầu cần thiết khách quan
Kiểm soát chi thường xuyên NSNN là quá trình những cơ quan có thẩm
quyền thực hiện thẩm định, kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN để đảm bảo
các khoản chi đó tuân thủ đúng các chính sách, chế độ, định mức chi tiêu do Nhà
nước quy định.
Các cơ quan có thẩm quyền kiểm soát chi thường xuyên bao gồm: Cơ
quan Tài chính, Cơ quan chủ quản, Thủ trưởng đơn vị, KBNN.
Kiểm soát chi thường xuyên NSNN được đặt ra đối với mỗi quốc gia, dù
đó là quốc gia phát triển hay đang phát triển. Đối với nước ta hiện nay, kiểm


17
soát chi thường xuyên NSNN lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi xuất
phát từ những lý do sau đây:
Thứ nhất, do yêu cầu của công cuộc đổi mới, trong quá trình đổi mới
cơ chế quản lý tài chính nói chung và cơ chế quản lý NSNN nói riêng đòi hỏi
mọi khoản chi thường xuyên của NSNN phải bảo đảm tiết kiệm và có hiệu

quả. Nguồn lực của NSNN là có hạn, là tiền của và công sức lao động do
nhân dân đóng góp do đó không thể chi tiêu một cách lãng phí.
Thứ hai, do hạn chế của bản thân cơ chế quản lý chi thường xuyên
NSNN. Cơ chế quản lý, cấp phát thanh toán tuy đã được thường xuyên sửa đổi
và từng bước hoàn thiện, nhưng cũng chỉ có thể quy định được những vấn đề
chung nhất, mang tính nguyên tắc. Vì vậy, nó không thể bao quát hết được tất
cả những hiện tượng nảy sinh trong quá trình thực hiện chi thường NSNN.
Cũng chính từ đó cơ quan tài chính và KBNN thiếu cơ sở pháp lý cụ thể cần
thiết để thực hiện kiểm tra, kiểm soát từng khoản chi thường xuyên NSNN.
Như vậy, cấp phát chi thường xuyên NSNN đối với cơ quan tài chính chỉ mang
tính chất phân bổ NSNN, còn đối với KBNN thực chất chỉ là xuất quỹ NSNN,
chưa thực hiện được việc chi trả trực tiếp đến từng đơn vị sử dụng kinh phí,
chưa phát huy hết vai trò kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN.
Thứ ba, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế xã hội,
công tác chi NSNN cũng ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Điều này cũng
làm cho cơ chế quản lý chi NSNN nhiều khi không theo kịp với sự biến động và
phát triển của hoạt động chi NSNN, trong đó một số nhân tố quan trọng như: hệ
thống tiêu chuẩn định mức chi tiêu còn xa rời thực tế, thiếu đồng bộ, thiếu căn
cứ để thẩm định; chưa có một cơ chế quản lý chi phù hợp và chặt chẽ đối với
một số lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực chi đầu tư xây dựng cơ bản đã tạo ra môi
trường tham nhũng lý tưởng cho những kẻ thoái hóa biến chất. Mặt khác, công
tác kế toán, quyết toán cũng chưa được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ đã tạo ra


18
những kẽ hở trong cơ chế quản lý chi NSNN. Từ đó, một số không ít đơn vị và
cá nhân đã tìm cách lợi dụng, khai thác những kẽ hở đó của cơ chế quản lý để
tham ô, trục lợi, tư túi chia chác với nhau, gây lãng phí tài sản và công quỹ của
Nhà nước. Từ thực tế trên, đòi hỏi những cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc
kiểm tra, giám sát quá trình chi tiêu để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những

hiện tượng tiêu cực của những đơn vị sử dụng kinh phí NSNN cấp; đồng thời
phát hiện những kẽ hở trong cơ chế quản lý để từ đó có những giải pháp và kiến
nghị nhằm sửa đổi, bổ sung kịp thời những cơ chế, chính sách hiện hành, tạo nên
một cơ chế quản lý và kiểm soát chi NSNN ngày càng chặt chẽ và hoàn thiện.
Thứ tư, do ý thức của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN cấp. Một thực
tế khá phổ biến là các đơn vị thụ hưởng kinh phí được NSNN cấp thường có
chung một tư tưởng là tìm mọi cách sử dụng hết số kinh phí được cấp, không
quan tâm đến việc chấp hành đúng mục đích, đối tượng và dự toán đã được
duyệt. Các đơn vị này thường lập hồ sơ, chứng từ thanh toán sai chế độ quy định
như không có trong dự toán chi NSNN đã được phê duyệt, không đúng chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi tiêu; thiếu các hồ sơ, chứng từ pháp lý có liên quan, …
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần thiết phải có một bên thứ ba - cơ quan chức năng có
thẩm quyền, độc lập và khách quan, có kỹ năng nghề nghiệp, có vị trí pháp lý và
uy tín cao - để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát và đưa ra ý kiến nhận xét, kết
luận chính xác đối với khoản chi của đơn vị có nằm trong dự toán được duyệt
hay không; việc sử dụng các khoản chi này có đúng chế độ, định mức, tiêu
chuẩn được duyệt hay không; có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán theo đúng quy
định hay chưa, … qua đó có giải pháp chấn chỉnh và xử lý kịp thời các gian lận,
sai sót, ngăn chặn các sai phạm và lãng phí có thể xảy ra trong việc sử dụng kinh
phí NSNN của các cơ quan, đơn vị, bảo đảm mọi khoản chi của NSNN được tiết
kiệm và có hiệu quả.


19
Thứ năm, do tính đặc thù của các khoản chi thường xuyên NSNN đều
mang tính chất không hoàn trả trực tiếp. Tính chất cấp phát trực tiếp không hoàn
lại của các khoản chi thường xuyên NSNN là một ưu thế cực kỳ to lớn đối với
các đơn vị thụ hưởng NSNN. Trách nhiệm của họ là phải chứng minh được việc
sử dụng các khoản kinh phí bằng các kết quả công việc cụ thể đã được Nhà nước
giao. Tuy nhiên, việc dùng những chỉ tiêu định tính và định lượng để đánh giá và

đo lường kết quả công việc trong nhiều trường hợp là thiếu chính xác và gặp
không ít khó khăn. Vì vậy, cần phải có một cơ quan chức năng có thẩm quyền để
thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi của NSNN, bảo đảm tương
xứng giữa khoản tiền Nhà nước đã chi ra với kết quả công việc mà các đơn vị
thụ hưởng kinh phí NSNN thực hiện.
Thứ sáu, do yêu cầu mở cửa và hội nhập với nền tài chính khu vực và
thế giới. Theo kinh nghiệm quản lý NSNN của các nước và khuyến nghị của
các tổ chức tài chính quốc tế, việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi thường
xuyên NSNN chỉ thực hiện có hiệu quả trong điều kiện thực hiện cơ chế chi
trả trực tiếp từ cơ quan quản lý quỹ NSNN đến từng đối tượng sử dụng ngân
sách, kiên quyết không chuyển kinh phí của NSNN qua các cơ quan quản lý
trung gian. Có như vậy mới có thể bảo đảm đề cao kỷ cương, kỷ luật quản lý
tài chính Nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí của NSNN.
1.3.2. Quy trình kiểm soát chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước
cho sự nghiệp giáo dục qua Kho bạc Nhà nước
*) Quy trình giao dịch một cửa:
Quy trình kiểm soát chi thường xuyên của NSNN cho sự nghiệp giáo dục
thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa người dùng tiền của Nhà nước để tổ chức
các hoạt động giáo dục theo nhiệm vụ Nhà nước giao với người quản lý giữ NSNN.
Do đó, muốn kiểm soát chi hiệu quả thì quy trình, thủ tục nghiệp vụ kiểm soát chi
NSNN được công khai, minh bạch nhờ đó mà người kiểm soát và người bị kiểm


20
soát đều hiểu biết, hiểu và thống nhất thực hiện cùng với quá trình phát triển kinh tế
- xã hội, quy trình kiểm soát chi thường xuyên của NSNN cho sự nghiệp giáo dục
ngày càng được cải tiến, hoàn thiện. Ở nước ta hiện nay đang áp dụng quy trình
giao dịch một cửa. Nội dung chủ yếu của quy trình này là đảm bảo cho các đơn vị
sự nghiệp giáo dục khi đến KBNN chỉ phải liên hệ với một bộ phận chuyên trách từ
khâu hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả (xem Sơ đồ 1.2).

1

Đơn vị sự
nghiệp giáo dục

Cán bộ kiểm
soát chi

2

KTT

6
5
3
Giám đốc

7
5
Thủ quỹ

4

Thanh toán viên

TT thanh toán

Sơ đồ 1.2 : Quy trình giao dịch một cửa
Chú thích:
: Hướng đi của hồ sơ kiểm soát chi.

: Hướng đi của chứng từ thanh toán.
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ, chứng từ
- Đơn vị sự nghiệp giáo dục gửi hồ sơ, chứng từ cho cán bộ kiểm soát
chi.
- Kiểm soát sơ bộ hồ sơ: cán bộ kiểm soát chi tiếp nhận, kiểm tra sơ bộ
hồ sơ, chứng từ.
- Phân loại hồ sơ và xử lý. Trường hợp hồ sơ đã đầy đủ theo quy định,
cán bộ kiểm soát chi tiếp nhận và xem xét giải quyết ngay.
Bước 2: Kiểm soát chi


21
Cán bộ kiểm soát chi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp và sự chính xác
của hồ sơ chứng từ, kiểm tra số dư tài khoản, số dư dự toán, kiểm tra mẫu
dấu, chữ ký và các điều kiện thanh toán, chi trả đối với từng nội dung chi.
Nếu hồ sơ đáp ứng đủ các điều kiện chi NSNN theo quy định, thực hiện hạch
toán kế toán, ký chứng từ và chuyển toàn bộ hồ sơ, chứng từ cho Kế toán
trưởng hoặc người được ủy quyền theo quy định.
- Nếu số dư tài khoản của Đơn vị sự nghiệp giáo dục không đủ; khoản
chi không đủ điều kiện chi NSNN theo chế độ quy định (sai chế độ, tiêu
chuẩn, định mức chi cho sự nghiệp giáo dục hoặc không đúng theo quy chế
chi tiêu nội bộ của đơn vị, không đúng đối tượng, mục đích theo dự toán được
duyệt), cán bộ kiểm soát chi lập thông báo từ chối thanh toán theo Thông tư
số 161/2012/TT-BTC ngày 02/10/2012 của Bộ Tài chính.
- Đối với các trường hợp phức tạp, chưa đầy đủ căn cứ pháp lý, chưa có
hướng dẫn cụ thể hoặc phải chờ ý kiến của cấp có thẩm quyền thì cán bộ kiểm
soát chi phải báo cáo lãnh đạo phòng (bộ phận) xem xét, chỉ đạo hướng giải
quyết; nếu vượt quá thẩm quyền, phải lập tờ trình báo cáo lãnh đạo đơn vị
KBNN có ý kiến chính thức bằng văn bản trả lời đơn vị sự nghiệp giáo dục.
* Quy trình kiểm soát chi:

- Đối với lệnh chi tiền: Cán bộ kiểm soát chi kiểm tra tính hợp lệ, hợp
pháp lệnh chi tiền của cơ quan Tài chính, KBNN thực hiện xuất quỹ NSNN
và thanh toán cho đơn vị sự nghiệp giáo dục theo nội dung ghi trong lệnh chi
tiền của cơ quan Tài chính.
- Đối với trường hợp rút dự toán: Kiểm tra số dư tài khoản dự toán của
đơn vị, kiểm tra tính đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ, chứng từ; kiểm soát
nội dung chi phù hợp với tiêu chuẩn, định mức chế độ của cấp có thẩm quyền
quy định; kiểm soát mẫu dấu, chữ ký của giấy rút dự toán; kiểm soát đối tượng
và nội dung chi bằng lệnh chi tiền mặt (đối với đề nghị chi bằng tiền mặt).


22
- Đối với tài khoản tiền gửi của đơn vị dự toán:
+ Tiền lệ phí, phí được để lại cho đơn vị sử dụng: KBNN kiểm soát chi
theo quy định tại Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5/2006 sửa đổi, bổ
sung Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 của Bộ Tài chính và các
văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản trên (nếu có).
+ Tài khoản tiền gửi dự toán khác: KBNN kiểm soát ủy nhiệm chi
chuyển tiền phù hợp với hợp đồng kinh tế về tên đơn vị thụ hưởng, ngân hàng
nơi đơn vị thụ hưởng mở tài khoản, số tiền thanh toán, chủ tài khoản, kiểm
soát mẫu dấu, chữ ký.
- Đối với các khoản tiền gửi khác: KBNN chỉ kiểm tra tính hợp lệ, hợp
pháp của chứng từ đề nghị thanh toán, không kiểm soát chi trong trường hợp
thanh toán từ tài khoản này.
Bước 3: Kế toán trưởng hoặc người được ủy quyền ký chứng từ nếu đủ
điều kiện tạm ứng, thanh toán và chuyển hồ sơ, chứng từ cho cán bộ kiểm
soát chi để trình Giám đốc hoặc người được ủy quyền.
Bước 4: Giám đốc hoặc người được ủy quyền ký nếu có đủ điều kiện.
Bước 5: Thực hiện thanh toán.
- Trường hợp thanh toán bằng chuyển khoản: cán bộ kiểm soát chi

thực hiện tách tài liệu, chứng từ kiểm soát chi và chuyển chứng từ cho thanh
toán viên.
- Trường hợp thanh toán bằng tiền mặt, cán bộ kiểm soát chi đóng dấu
kế toán lên các chứng từ, chuyển các liên chứng từ chi tiền cho thủ quỹ theo
đường nội bộ.
Bước 6: Trả tài liệu, chứng từ cho đơn vị sự nghiệp giáo dục.
Cán bộ kiểm soát chi lưu hồ sơ kiểm soát chi và trả tài liệu chứng từ cho
đơn vị sự nghiệp giáo dục.
Bước 7: Chi tiền mặt tại quỹ.


23
Thủ quỹ nhận và kiểm soát chứng từ chi tiền mặt, chi tiền cho đơn vị sự
nghiệp giáo dục.
Nhờ thực hiện giao dịch một cửa với thủ tục hành chính đơn giản, rõ
ràng mà công việc được giải quyết nhanh chóng, thuận tiện cho đơn vị sự
nghiệp giáo dục cũng như KBNN trong quá trình kiểm soát chi.
*) Quy trình kiểm soát các khoản chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo
dục theo dự toán: (Sơ đồ 1.3)
Đơn vị sự
nghiệp giáo dục

(1)
(2a)

KBNN

(2b)

Người cung cấp

hàng hoá, dịch vụ

Sơ đồ 1.3 : Quy trình chi trả, thanh toán theo dự toán từ KBNN
1 - Đơn vị sự nghiệp giáo dục lập giấy rút dự toán NSNN kèm theo các
hồ sơ thanh toán gửi KBNN nơi giao dịch để làm căn cứ kiểm soát, thanh toán.
2 - KBNN kiểm tra, kiểm soát các hồ sơ, chứng từ thanh toán của đơn
vị. Nếu đáp ứng đủ 4 điều kiện nêu trên thì thực hiện thanh toán cho đơn vị.
2a - KBNN thanh toán bằng tiền mặt cho đơn vị sự nghiệp giáo dục.
2b - KBNN thanh toán bằng chuyển khoản trực tiếp cho người hưởng
lương, người cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
Việc thanh toán các khoản chi NSNN bằng tiền mặt thực hiện theo quy
định tại Thông tư số 164/2011/TT-BTC ngày 17/11/2011 của Bộ Tài chính
hướng dẫn quản lý thu, chi tiền mặt qua hệ thống KBNN.
*) Quy trình kiểm soát các khoản chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo
dục theo lệnh chi tiền:
Hiện nay, có ba hình thức thanh toán theo Lệnh chi tiền của cơ quan Tài
chính đó là: Hình thức cơ quan Tài chính thực hiện kiểm soát chi sau đó lập
Lệnh chi tiền đề nghị KBNN xuất quỹ ngân sách thanh toán cho đơn vị thụ


24
hưởng; chi chuyển vốn (cơ quan Tài chính chuyển vốn sang KBNN để KBNN
kiểm soát, thanh toán cho đơn vị sự nghiệp giáo dục) và hình thức cấp kinh
phí uỷ quyền (cơ quan Tài chính uỷ quyền chuyển nguồn cho cơ quan Tài
chính được uỷ quyền để thanh toán cho các nhiệm vụ chi được uỷ quyền).
- Hình thức thứ nhất: Chi trả, thanh toán theo Lệnh chi tiền do cơ quan
Tài chính thực hiện kiểm soát chi:
Quy trình chi trả, thanh toán như sau (Sơ đồ 1.4):
Đơn vị sự nghiệp
giáo dục


(1)

Cơ quan Tài
chính

KBNN

(2)

(3)
Đơn vị thụ hưởng

Sơ đồ 1.4: Quy trình chi trả, thanh toán theo Lệnh chi tiền
do cơ quan Tài chính thực hiện kiểm soát chi
1- Đơn vị sự nghiệp giáo dục gửi hồ sơ, chứng từ thanh toán đến cơ
quan Tài chính để làm thủ tục thanh toán.
2 - Cơ quan Tài chính thực hiện kiểm soát chi theo quy định. Nếu đảm
bảo các điều kiện chi, cơ quan Tài chính lập Lệnh chi tiền gửi KBNN yêu cầu
thanh toán, chi trả cho tổ chức, cá nhân được thụ hưởng ngân sách.
3 - Khi nhận được Lệnh chi tiền do cơ quan Tài chính chuyển sang,
KBNN có trách nhiệm thực hiện kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của Lệnh chi
tiền; căn cứ nội dung trên Lệnh chi tiền, thực hiện xuất quỹ ngân sách, chuyển
tiền vào tài khoản hoặc cấp tiền mặt theo chế độ quy định để chi trả, thanh
toán cho tổ chức, cá nhân được hưởng ngân sách.


25
- Hình thức thứ hai: Chi chuyển vốn của cơ quan Tài chính:
Căn cứ vào Lệnh chi tiền của cơ quan Tài chính chuyển sang, KBNN

thực hiện chuyển nguồn về các đơn vị KBNN trực thuộc. Khi đó, quy trình
kiểm soát, thanh toán cho các đơn vị sự nghiệp giáo dục được thực hiện tương
tự như trường hợp thanh toán theo dự toán từ KBNN nêu trên.
- Hình thức thứ ba: Cấp kinh phí uỷ quyền:
Áp dụng khi cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan
quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình. Khi đó, cơ quan
Tài chính uỷ quyền phải chuyển kinh phí cho cơ quan Tài chính được uỷ
quyền để thực hiện nhiệm vụ được uỷ quyền. Ủy ban nhân dân cấp dưới phân
bổ và giao dự toán kinh phí uỷ quyền cho từng đơn vị theo đúng mục tiêu chi
uỷ quyền, đúng chính sách, chế độ và định mức, tiêu chuẩn chi ngân sách.
Quy trình chuyển vốn, thanh toán thực hiện như sơ đồ 1.5:
Cơ quan Tài chính
uỷ quyền

(1)

KBNN

(2)
Cơ quan Tài chính
được uỷ quyền

(3a)

(3b)

KBNN

(4)


Đơn vị thụ hưởng

Sơ đồ 1.5 : Quy trình cấp kinh phí uỷ quyền
1 - Cơ quan Tài chính lập Lệnh chi tiền đề nghị KBNN chuyển kinh phí
uỷ quyền đến cơ quan Tài chính nhận uỷ quyền.


×