Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Giải pháp tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.26 KB, 61 trang )

1

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA XÉT GIẢ
THƯỞNG TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM NĂM 2016
TÊN ĐỀ TÀI: Giải pháp tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững ở Việt Nam hiện
nay
MÃ ĐỀ TÀI: 01
Thuộc nhóm nghành Khoa Học: KD3
SV thực hiện: Nguyễn Thị Hạnh

Nữ

Dân tộc: Kinh
Lớp: CQ52/63.02_ Khoa: Kinh Tế
Ngành học: Kinh tế Luật
Người hướng dẫn: Cô giáo Nguyễn Minh Hạnh


2

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………1
CHƯƠNG I: : LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG VÀ
GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH HỖ TRỢ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
Lý luận chung về giảm nghèo bền vững……………………………3
Một số vấn đề chung về đói nghèo…………………………………..3
Khái niệm nghèo………………………………………………….…………3
Quan niệm về ngưỡng nghèo…………………………………….………..5


Tiêu chí đánh giá đói nghèo…………………………………….…………5
Nguyên nhân của đói nghèo………………………………………………10
Những vấn đề chung về giảm nghèo bền vững……………………12
1.1.2.1.
Quan niệm về giảm nghèo bền vững……………………………….……12
1.1.2.2.
Vai trò của giảm nghèo bền vững………………………………….……12
1.1.2.3.
Các chỉ tiêu đánh giá mức độ bền vững trong giảm nghèo………….12
1.2.
Giải pháp tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững…………………13
1.2.1. Vai trò của giải pháp tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững………..13
1.2.2. Các công cụ tài chính…………………………………………………14
1.2.2.1.
Chính sách đầu tư hỗ trợ giảm nghèo bền vững…………………………14
1.2.2.2.
Chính sách tín dụng hỗ trợ giảm nghèo……………………………..……14
1.2.2.3.
Chính sách trợ cấp……………………………………………………………15
1.2.2.4.
Chính sách Bảo hiểm………………………………………………………..15

1.1.
1.1.1.
1.1.1.1.
1.1.1.2.
1.1.1.3.
1.1.1.4.
1.1.2.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HỖ
TRỢ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG HIỆN NAY
2.1.

Thực trạng chính sách tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững ở Việt

Nam…………………………………………………………………..17
2.1.1.
Thực trạng giảm nghèo ở Việt Nam…………………………………17
2.1.2.
Thực trạng các chính sách tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững…21
2.1.2.1.
Chính sách đầu tư……………………………………………………………21
2.1.2.2.
Chính sách tín dụng hỗ trợ người nghèo…………………………………29
2.1.2.3.
Hỗ trợ về công cụ Bảo hiểm………………………………………………..34
2.1.2.4.
Hỗ trợ tài chính khác……………………………………………………37
2.2.
Đánh giá……………………………………………………..……39
2.2.1.
Những kết quả đạt được………………………….………………39
2.2.2.
Hạn chế và nguyên nhân…………………………...…………….41
2.2.2.1. Hạn chế……………………………………………………………………42
2.2.2.2. Nguyên nhân……………………………………..……………………….45
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH HỖ TRỢ GIẢM NGHÈO BỀN
VỮNG



3

3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.2.
3.2.1.
3.2.1.1.
3.2.1.2.

Định hướng giảm nghèo bền vững ở Việt Nam đến năm 2020……47
Mục tiêu tổng quát…………………………...………………………..47
Mục tiêu cụ thể………………………………..……………………….47
Giải pháp………………………………………………………………49
Các giải pháp tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững…….…………49
Nâng cao chất lượng và hiệu quả vốn tín dụng chính sách.…………..49
Đầu tư hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối
thiểu……………………………………………………………………………51

3.2.1.3. Tăng cường hoạt động hỗ trợ trong sản xuất, giải quyết các chính sách
3.2.2.

về thu nhập, việc làm, đảm bảo an sinh xã hội…………….……………53
Các giải pháp bổ trợ khác………………………………..…………..55

KẾT LUẬN…………………………………………………….……………..59


4


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CPI: Chỉ sô giá tiêu dùng
HDI: Chỉ số phát triển con người
HPI: Chỉ sô nghèo của con người
LĐTBXH: Lao Động Thương Binh Xã Hội
NHCSXH: Ngân Hàng Chính sách Xã hội
ODA: Viện trợ phát triển chính thức
TW: Trung ương
UBND: Ủy Ban Nhân Dân
WB: Ngân Hàng Thế giới
WHO: Tổ chức y tế Thế giới


5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Những năm gần đây, nhờ có
chính sách đổi mới, nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh, đại bộ phận đời sống nhân
dân đã được tăng lên một cách rõ rệt. Song, một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt
dân cư ở vùng cao, vùng sâu vùng xa…đang chịu cảnh nghèo đói, chưa đảm bảo được
những điều kiện tối thiểu của cuộc sống. Sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra mạnh,
là vấn đề xã hội cần được quan tâm. Chính vì lẽ đó xóa đói giảm nghèo là một trong
những giải pháp quan trọng hàng đầu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta,
là mục tiêu quốc gia mà Nhà nước ta đã và đang thực hiện.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới đói nghèo, trong đó có một nguyên nhân quan
trọng đó là nguồn tài chính, chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra những giải
pháp tài chính để hỗ trợ giảm nghèo bền vững. Đó là một mắt xích không thể thiếu

trong hệ thống các chính sách phát triển kinh tế xã hội xoá đói giảm nghèo của Việt
Nam.
Tuy nhiên, sự nghiệp xóa đói giảm nghèo vẫn đang còn ở phía trước, với nhiệm
vụ ngày càng khó khăn, phức tạp. Để giải quyết tốt vấn đề nghèo đói ở Việt Nam nói
chung và giải pháp tài chính cho hộ nghèo nói riêng, đòi hỏi phải được nghiên cứu một
cách có hệ thống, khách quan và khoa học, phải có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước
cũng như toàn xã hội.Vấn đề đặt ra là làm thế nào để người nghèo có thể tiếp cận và
sử dụng được những cơ hội của giải pháp tài chính.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trình bày những lý luận chung về vấn đề giảm nghèo bền vững cũng như những
giải pháp tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững. Phân tích thực trạng giảm nghèo ở
Việt Nam và thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tài chính giúp giảm nghèo bền
vững. Từ đó, đề xuất những giải pháp, giúp những người nghèo và các đối tượng chính
sách có thể tiếp cận những cơ hội dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho họ thoát khỏi cảnh
nghèo và vươn lên làm giàu chính đáng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng tổng hợp những phương pháp lý luận, lý thuyết kết hợp thực
tiễn, tổng hợp phân tích, so sánh số liệu thực tế


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về thực trạng giảm nghèo của Việt Nam
cũng như thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền
vững. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện hơn cho giải pháp tài chính.
+ Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn
2010-2014
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về giảm nghèo bền vững và giải pháp tài chính hỗ
trợ giảm nghèo bền vững.

- Chương 2: Thực trạng sử dụng chính sách tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền
vững ở Việt Nam hiện nay.
- Chương 3: Tăng cường hoàn thiện các giải pháp tài chính hỗ trợ giảm nghèo
bền vững cho Việt Nam hiện nay.


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG VÀ GIẢI
PHÁP TÀI CHÍNH HỖ TRỢ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
1
1
1

Lý luận chung về giảm nghèo bền vững
Một số vấn đề chung về nghèo đói
Khái niệm đói nghèo
Mỗi quốc gia sẽ có điều kiện tự nhiên, thể chế chính trị xã hội và điều kiện kinh
tế khác nhau, theo đó mà tính chất, mức độ nghèo đói cũng khác nhau. Nhìn chung
mỗi quốc gia đều sử dụng một khái niệm để xác định mức độ nghèo và đưa ra các chỉ
số nghèo để xác định giới hạn nghèo. Nó được xác định bằng mức thu nhập tối thiểu
để người dân có thể tồn tại được, đó là mức thu nhập mà một hộ gia đình có thể mua
sắm được những vật dụng cơ bản phục vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết yếu
khác theo mức giá hiện hành.
Tại hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo khu vực Châu Á-Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Cốc Thái Lan tháng 9 năm 1993 đã đưa ra khái niệm về
nghèo đói như sau: “Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ
theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của các địa phương”.
Nhu cầu cơ bản của cuộc sống bao gồm: Ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng,…
và cả khả năng tham gia vào các sinh hoạt của cộng đồng. Theo định nghĩa này thì
mức độ nghèo đói ở các nước khác nhau là khác nhau. Như vậy định nghĩa thống nhất

về định tính, nhưng lại không có tiêu chuẩn chung cho các quốc gia hoặc tiêu chuẩn
chuẩn chung cho các vùng trong quốc gia. Theo số liệu của ngân hàng thế giới thì hiện
nay trên thế giới có khoảng 1,3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó phần lớn
là phụ nữ và trẻ em.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức năm 1995 đưa định
nghĩa về nghèo:"Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới một đô la
mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm cần thiết để
tồn tại."
Còn nhóm nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF trong công trình "Xoá đói
giảm nghèo ở Việt Nam-1995" đã đưa ra định nghĩa:"Nghèo là tình trạng thiếu khả
năng trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham gia vào lĩnh vực kinh tế."
Và ở nước ta căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của nhân dân
trong những năm qua thì khái niệm đói nghèo được xác định như sau: “Nghèo là tình
trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả mãn những nhu cầu tối


thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống của cộng
đồng xét trên mọi phương diện”. Hay nói cách khác thì “Nghèo là một bộ phận dân
cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo”. Tuy nhiên ngưỡng nghèo còn
phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai
đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.
Ở Việt Nam, nghèo được chia thành các mức khác nhau: nghèo tuyệt đối, nghèo
tương đối, nghèo có nhu cầu tối thiểu.
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo không có
khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở, đi lại...
- Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có mức
sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa phương đang xét.
- Nghèo có nhu cầu tối thiểu: Đây là tình trạng một bộ phận dân cư có những
đảm bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số sinh hoạt
hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu.

Ngoài ra còn có khái niệm xã nghèo và vùng nghèo.
* Xã nghèo: là xã có những đặc trưng như sau:
- Tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 40% số hộ của xã.
- Không có hoặc thiếu rất nhiều những công trình cơ sở hạ tầng như: Điện sinh
hoạt, đường giao thông, trường học, trạm ytế và nước sinh hoạt.
- Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ người mù chữ cao.
* Vùng nghèo: là chỉ địa bàn tương đối rộng có thể là một số xã liền kề nhau
hoặc một vùng dân cư nằm ở vị trí rất khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận tiện,
cơ sở hạ tầng thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản xuất đảm bảo cuộc sống và
là vùng có số hộ nghèo và xã nghèo cao.
Từ cách hiểu khái quát về khái niệm nghèo, chúng ta cũng cần hiểu thêm về khái
niệm giảm nghèo, để từ đó có cách nhìn đúng đắn về thực trạng giảm nghèo ở Việt
Nam cũng như đưa ra được những giải pháp sát thực cho vấn đề. Giảm nghèo là tổng
thể những biện pháp chính sách của Nhà nước và xã hội nhằm tạo điều kiện để giúp
những đối tượng thuộc “nghèo” đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của cuộc sống trên cơ
sở đã được quy định ở mỗi địa phương, khu vực, quốc gia.
Có thể thấy công cuộc xóa đói giảm nghèo được Nhà nước đề ra và thực hiện
trong nhiều năm. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề đặt ra là phải “giảm nghèo bền vững”.
Giảm nghèo bền vững là kiên quyết không để tái nghèo, duy trì đẩy nhanh tốc độ để
rút ngắn thời gian xóa đói giảm nghèo, duy trì các nguồn đầu tư và các biện pháp chỉ
đạo tực hiện triển khai liên tục có hướng đích để nghèo không quay trở lại nơi ta đang
thực hiện giảm nghèo.
1.1.1.2. Quan niệm về ngưỡng nghèo


Khi nghiên cứu về vấn đề nghèo, cần có một thước đo cụ thể và phải bao hàm 3
yếu tố: Lựa chọn tiêu chí nghiên cứu và chỉ số phúc lợi; cần lựa chọn một ngưỡng
nghèo: là mức giới hạn mà cá nhân hay hộ gia đình nằm dưới mức đó sẽ bị coi là
nghèo; chọn ra một thước đo đói nghèo được sử dụng để phản ánh cho tổng thể hoặc
một nhóm dân cư.

Về ngưỡng nghèo (hay còn gọi là chuẩn nghèo): Là ranh giới để phân biệt giữa
người nghèo và người không nghèo. Hiện tại ở nước ta, ngưỡng nghèo được tính bằng
tiền. Có hai cách chính để xác định ngưỡng nghèo:
- Ngưỡng nghèo (chuẩn nghèo) tuyệt đối: Là chuẩn tuyệt đối về mức sống được
coi là tối thiểu cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại. Phương pháp chung
để xác định ngưỡng nghèo này là sử dụng một rổ các loại lương thực được coi là cần
thiết để đảm bảo mức độ dinh dưỡng tối thiểu cho con người. Do vậy ngưỡng nghèo
này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm và thường là thấp vì nó không tính
đến chi tiêu cho các sản phẩm phi lương thực khác.
- Ngưỡng nghèo tương đối (chuẩn nghèo chung): Được xác định theo phân phối
thu nhập hoặc tiêu dùng chung trong cả nước để phản ánh tình trạng của một bộ phận
dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng (ví dụ ngưỡng nghèo tương đối có thể
là 50% mức thu nhập trung bình của cả nước). Đến đầu năm 2011, chúng ta đã đưa ra
chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn 2011 - 2015 sẽ là 400.000 đồng/người/tháng đối
với khu vực nông thôn và 500.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị.
1.1.1.3. Tiêu chí đánh giá đói nghèo


Tiêu chí đánh giá nghèo đói của thế giới.
Để xác định các chỉ tiêu về đói nghèo, trên thế giới đã đưa ra những chuẩn mực
đánh giá sau:
+ Thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người (GNP) Chỉ tiêu này do Ngân
hàng thế giới (WB) đưa ra để đánh giá mức độ giầu thời điểm năm 1990 để phân tích
cho thấy - Trên 25.000 USD: nước cực giầu - Trên 20.000 – 25.000: nước giầu - Trên
10.000 – 20.000: nước khá giầu - Trên 2.500 – 10.000: nước trung lưu - Trên 500 –
2.500: nước nghèo - Dưới 500: nước cực nghèo. Ở Việt Nam là gần 400
USD/người/năm (năm 1990) được xếp thứ 110/171 trên thế giới. nằm trong nhóm các
nước cực nghèo. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam khoảng 835
USD/năm, xếp 122/177 quốc gia về thu nhập bình quân đầu người.
+ Chỉ tiểu phát triển con người (HDI) Do chương trình phát triển liên hợp quốc

đưa ra gồm 3 chỉ tiêu chính - Tuổi thọ trung bình dân cư - Trình độ học vấn, bao gồm


tỉ lệ biết đọc, biết viết của dân cư, số năm đi học trung bình của người dân. - Thu nhập
bình quân đầu người. HDI của Việt Nam được đo trong năm 2004 là 0,709 và đứng ở
vị trí 109 trong tổng số 177 nước được xếp hạng. Mới đây, Theo “Báo cáo phát triển
con người năm 2007/2008” của Liên hợp quốc cho thấy, Việt Nam hiện chỉ có chỉ số
phát triển con người HDI ở hạng trung bình, với chỉ số là 0,733. So với năm trước,
Việt Nam đã tăng 4 bậc từ vị trí 109 lên 105 trong số 177 nước.
+ Chỉ tiêu chất lượng cuộc sống (PQLI) Đề cập vào ba điểm có tính phổ biến về
nhu cầu cơ bản của con người: - Tuổi thọ dự báo khi một tuổi - Tỷ lệ tử vong của trẻ
sơ sinh - Tỷ lệ xoá mù chữ Sự kết hợp chỉ tiêu GNP, HDI, PQLI cho phép nhìn nhận
nước giầu nghèo chính xác và khách quan hơn. Nó cho phép đánh giá khách quan và

-

toàn diện sự phát triển con người trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội.
Đánh giá nghèo tuyệt đối về thu nhập
Ngưỡng nghèo hay chuẩn nghèo: Là một mức thu nhập tối thiểu cần thiết để đảm bảo
những nhu cầu vật chât cơ bản cho con người có thể tiếp tục tồn tại. Ngân hàng thế
giới đã đưa ra mức chuẩn nghèo dưới 1USD và 2 USD cho một ngày để có thể chi tiêu
nhằm đảm bảo cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết là 2100 calo/người/ngày. Đây là
ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm. Mức chi tiêu này chỉ đủ đảm bảo cung cấp năng

lượng, mà không đủ chi tiêu cho hàng hóa phi lương thực, thực phẩm.
• Ở Việt Nam có nhiều tổ chức đã đưa ra ngưỡng nghèo khác nhau:
+ Tổng cục Thống kê đã xác định ngưỡng nghèo dựa trên cách tiếp cận của Ngân
Hàng thế giới đã nêu. Theo đó, Tổng cục Thống kê đã đưa ra hai ngưỡng:
1: Nghèo lương thực, thực phẩm là mực thu nhập đảm bảo cung cấp được 2100
calo/người/ngày.

2: Mức nghèo chung được xác định bằng cách kết hợp mức nghèo về lương thực,
thực phẩm như trên (tương đương 70% chi tiêu) với mức chi tiêu cho những nhu cầu
phi lương thực cơ bản (30%). Theo đó nghèo về lương thực, thực phẩm năm 19971998 là 107.000 đồng/người/tháng. Nghèo chung được xác định cho năm 1997-1998 là
149.000 đồng/người/tháng.
+ Bộ Lao Động – Thương binh và Xã hội tiếp cạnh từ khía cạnh thu nhập của
từng khu vực căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và tình trạng giá cả hàng hóa tiêu dùng ở các
khu vực khác nhau. Chuẩn nghèo được xác định cho giai đoạn 2011-2015 là:
Khu vực nông thôn: 400.000 đồng/người/tháng.
Khu vực thành thị: 500.000 đồng/người/tháng.
Ngưỡng nghèo được xác định là cơ sở để thống kê, tính toán số dân sống dưới
ngưỡng nghèo.


-

Chuẩn hộ cận nghèo: Hộ cận nghèo bao gồm những hộ gia đình đã thoát nghèo nhưng
chỉ có mức thu nhập cận ngưỡng nghèo. Trong quá trình đi lên của mỗi quốc gia,
chuẩn nghèo sẽ xó xu hướng tăng, với mức thu nhập như trên các hộ này có thể lại là

những hộ nghèo, thoát nghèo không bền vững.
Chuẩn hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 như sau:
1
Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng đến
2

520.000 đồng/người/tháng.
Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến

-


650.000 đồng/người/tháng.
Tỷ lệ nghèo: Được xác định bằng tỷ lệ giữa số người sống dưới ngưỡng nghèo trên

-

tổng số dân của vùng hoặc quốc gia.
Khoảng cách nghèo: Là mức thiếu hụt của những người thuộc diện nghèo so với
ngưỡng nghèo. Nó cho biết chi phí tối thiểu để đưa tất cả những người nghèo lên mức
sống ngang bằng ngưỡng nghèo.
Khoảng cách nghèo trung bình đo mức thiếu hụt trung bình giữa thu nhập hoặc
chi tiêu của người nghèo so với ngưỡng nghèo, tính bằng tỷ lệ phần trăm so với
ngưỡng nghèo.
Mới đây Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp

dụng cho giai đoạn 2016-2020:
- Hộ nghèo
+ Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
1 Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;
2
Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và
thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở
lên.
+ Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
(1) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
(2) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến
1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản trở lên.
- Hộ cận nghèo
+ Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000
đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp

cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
+ Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000
đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Hộ có mức sống trung bình


+ Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng.
+ Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.300.000
đồng đến 1.950.000 đồng.
Với việc xác định được chuẩn nghèo như trên, chỉ tiêu phổ biến và tổng quát nhất
để đánh giá đói nghèo hiện nay là việc đếm số người sống dưới chuẩn nghèo hay còn
gọi là tỷ lệ hộ nghèo hoặc chỉ số đếm đầu người. Tỷ lệ nghèo (tỷ lệ hộ nghèo) được
tính bằng tỉ lệ phần trăm của số hộ (dân số) có thu nhập dưới chuẩn nghèo trên tổng số
hộ (tổng số dân). Tuy nhiên, để phản ánh được tính chất gay gắt của nghèo đói và có
chính sách cần thiết, hữu hiệu, người ta còn sử dụng chỉ số “khoảng cách nghèo” hay
còn gọi là chỉ số thiếu hụt (so với chuẩn nghèo). Khoảng cách nghèo là phần chênh
lệch giữa mức chi tiêu của người nghèo so với ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so
với ngưỡng nghèo. Khi so sánh các nhóm dân cư trong một nước, khoảng cách nghèo
cho biết tính chất và mức độ nghiêm trọng của nghèo khổ giữa các nhóm khác nhau.
Cùng với đó, người ta còn dùng chỉ số bình phương khoảng nghèo, tức là tăng thêm
trọng số cho những nhóm nghèo nhất trong dân số để thể hiện mức độ nghiêm trọng
(hay cường độ) của đói nghèo cho những nhóm người có khoảng các nghèo lớn hơn
trong số những người nghèo. Cả ba thước đo đói nghèo đều đang được dùng phổ biến
ở nước ta và đều có một tính chất hữu ích chung là nó cho phép phân tách các thước
đo tổng hợp theo vùng hoặc nhóm dân cư. Tuy nhiên, các thước đo trên mới chỉ tập
trung đo lường khía cạnh thiếu thốn về vật chất của người nghèo. Bên cạnh đó còn có
rất nhiều thước đo định tính khác để phản ánh sự thiếu thốn về y tế, giáo dục, nguy cơ
dễ bị tổn thương và tình trạng không có tiếng nói, không có quyền lực của người

nghèo.
1.1.1.4.
Nguyên nhân đói nghèo
• Nhóm các nguyên nhân khách quan

Đầu tiên, phải kể đến là do xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta. Là một nước
nông nghiệp lạc hậu, lại phải trải qua hơn 30 năm chiến tranh, bị tàn phá nặng nề, cơ
sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và nguồn lực của Nhà nước chưa đáp ứng ngay được nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương cũng như việc đảm bảo đầy đủ các
nguồn lực để hỗ trợ người nghèo. Điều này dẫn đến một số vùng, tỉnh, huyện, xã
nghèo không tự tạo ra được những điều kiện cũng như phát huy tiềm năng của mình để


phát triển, do đó làm cho người dân ở địa bàn cũng phải gánh chịu những khó khăn đó
và không thể tự thoát ra khỏi tình trạng nghèo đói.
Thứ hai, người nghèo ở nước ta bị hạn chế về nguồn lực và các yếu tố của sản
xuất. Nguồn vốn nhân lực bị hạn chế cản trở họ thoát khỏi nghèo đói; khả năng tiếp
cận các nguồn vốn tín dụng là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi
mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới...; Thiếu đất sản xuất ảnh hưởng
đến phát triển nông nghiệp và bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như
khả năng đa dạng hoá sản xuất, hướng tới sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi với giá
trị cao hơn. Theo kết quả điều tra xã hội về nguyên nhân nghèo của hộ gia đình cho
thấy:
+ Do thiếu hoặc không có vốn sản xuất 70 – 90% tổng số hộ được điều tra trả lời
không có vốn sản xuất, muốn vay vốn tín dụng nhưng không có tài sản thế chấp. Bởi
vậy họ rất trông chờ vào các tổ chức xã hội, các tổ tự nguyện hoặc thôn đứng ra bảo
lãnh cho vay vốn.
+ Đông con, ít người làm.
+ Thiếu kinh nghiệm làm ăn: Trong thời kì bao cấp hợp tác xã tổ chức tập trung,
người nông dân chỉ biết đi làm lấy công, họ ít quan tâm đến kết quả sản xuất, những

người nông dân nghèo lại càng ít quan tâm hơn. Đến thời kì hiện đại ngày nay, khi họ
tự chủ trong sản xuất, họ trở nên lúng túng cộng thêm thiếu vốn, thiếu lòng tin, thiếu
kinh nghiệm sản xuất khiến họ lại càng gặp khó khăn hơn.
+ Thiếu việc làm: Đây là nguyên nhân phổ biến nhất ở nông thôn, ngoài sản xuất
trồng trọt họ không có vốn để chăn nuôi hay làm ngành nghề gì khác. Ngay trong
trồng trọt, họ cũng bị thiếu vốn đầu tư kĩ thuật.
Thứ ba, người nghèo còn bị hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ
bản, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp.
Thứ tư, người nghèo dễ bị tổn thương khi phải chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão
lũ và các rủi ro khác. Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn
hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng
đồng. Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai khoảng từ 1 - 1,2 triệu
người. Số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo vẫn còn lớn, do
không ít số hộ đang sống bên ngưỡng đói nghèo và rất dễ bị tác động bởi các yếu tố rủi
ro như thiên tai, mất việc làm, ốm đau,... Do đó, việc tìm kiếm các giải pháp giảm nhẹ
hậu quả thiên tai được coi như là một phần quan trọng của quá trình xóa đói giảm
nghèo.


• Nhóm các nguyên nhân chủ quan

Trước tiên, phải kể đến nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân người nghèo.
Đó là nhận thức của người nghèo về vấn đề nghèo đói còn hạn chế, bản thân nhiều
người nghèo ở nước ta không thể tự mình lý giải được nguyên nhân nghèo khó của
mình, hoặc họ không thừa nhận những nguyên nhân do bản thân họ gây ra như: đông
con, lười biếng… mà họ “đổ vạ” cho số phận, cơ chế…
Thứ hai, người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, không có nghề, ít có cơ
hội tìm được việc làm tốt, ổn định. Do vậy, mức thu nhập của họ thấp và hầu như chỉ
đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để nâng cao trình
độ cũng như có tiền để đi học nghề hay trang bị hoặc nâng cao kiến thức của mình

trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp và
không có nghề sẽ ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ,
nuôi dưỡng con cái... đến không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai
- nghèo dai dẳng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Thứ ba, tập quán, thói quen canh tác, sản xuất của người nghèo ở nhiều vùng còn
rất lạc hậu, được truyền từ đời này sang đời khác nên rất khó thay đổi. Tập quán canh
tác lạc hậu, cùng với tư tưởng bảo thủ, cổ hủ, không chịu tiếp thu kiến thức, kinh
nghiệm làm ăn mới... cũng là một trong những nguyên nhân tự thân, khiến người
nghèo, đồng bào dân tộc không thể vươn lên trong phát triển sản xuất, kinh doanh.
Thứ tư, do quy mô hộ gia đình ở nông thôn, đây là "mẫu số" quan trọng có ảnh
hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ nghèo. Đông con vừa
là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo
còn rất cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục,
cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khoẻ sinh sản và gia tăng nhân
khẩu còn hạn chế. Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn
lực về lao động rất thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo
đói của họ. Thứ năm, do tình trạng bất bình đẳng giới còn tồn tại dai dẳng, làm sâu sắc
hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ
và trẻ em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối
với gia đình. Phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường
gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong hộ
gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại công
việc...


1.1.2. Những vấn đề chung về giảm nghèo bền vững
1.1.2.1. Quan niệm về giảm nghèo bền vững
Theo PGS. TS.Trần Đình Thiên - Viện trưởng viện Kinh tế Việt Nam: “không thể
giúp người nghèo bằng cách tặng nhà, tặng phương tiện sống... Đây là cách giảm
nghèo, xóa nghèo nhanh nhưng chỉ tức thời, không bền vững. Muốn giảm nghèo, xóa

nghèo bền vững thì hà nước, cơ quan chức năng cần phải cấp cho người nghèo một
phương thức phát triển mới mà tự họ không thể tiếp cận và duy trì. Bên cạnh đó là sự
hỗ trợ, ngăn ngừa, loại trừ các yếu tố gây rủi ro chứ không chỉ là sự nỗ lực khắc phục
hậu quả sau rủi ro. Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo này phải được xác lập trên nguyên
tắc ưu tiên cho các vùng có khả năng, điều kiện thoát nghèo nhanh và có thể lan tỏa
sang các vùng lân cận”. Tác giả luận văn cũng đồng ý với quan niệm trên về giảm
2

nghèo bền vững.
Vai trò của giảm nghèo bền vững
Giảm nghèo bền vững có vai trò to lớn đối với chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước. Cái đói, cái nghèo đang hiện hữu luôn là nỗi ám ảnh của sự lạc hậu, kém phát
triển của mỗi quốc gia. Thực hiện công cuộc giảm nghèo bền vững có hiệu quả, thành
công sẽ là tiền đề để cả đất nước tiến lên hội nhập và phát triển cộng đồng. Đó là cơ sở
cho xây dựng một nền chính trị vững vàng trong sự nghiệp của dân, do dân và vì dân
do Đảng đặt ra.
Giảm nghèo giúp người nghèo tham gia vào quá trình sản xuất xã hội, giúp họ có
cơ hội việc làm để tăng thu nhập và cải thiện đời sống. Như vậy xóa đói giảm nghèo
một mặt làm tăng thu nhập cho người nghèo, mặt khác nó làm tăng quy mô sản lượng
của nền kinh tế.
Giảm nghèo gắn với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các hộ nghèo từ việc
sản xuất với quy mô nhỏ, quy mô hộ gia đình tự cấp tự túc là chủ yếu sang quy lớn và
theo hướng sản xuất hàng hóa. Từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp nông thôn nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Giảm nghèo không chỉ làm cải thiện đời sống vật chất cho người nghèo mà còn
cải thiện cả về tinh thần. Giúp người nâng cao trình độ dân trí, pháp luật và được chăm
sóc sức khỏe.
1.1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ bền vững trong giảm nghèo
Để đánh giá mức độ bền vững trong giảm nghèo, không thể chỉ đánh giá dựa trên
số lượng người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo giảm xuống mà phải căn cứ

trên nhiều tiêu chí khác nhau.


- Thu nhập thực tế của người nghèo, hộ nghèo được cải thiện, vượt qua được
chuẩn nghèo, hạn chế tối đa tình trạng tái nghèo về thu nhập. Nếu gặp rủi ro hoặc sự
thay đổi của chuẩn nghèo.
- Được tạo cơ hội và có khả năng tiếp cận đầy đủ với các nguồn lực sản xuất
được xã hội tạo ra, các dịch vụ hỗ trợ người nghèo và được quyền tham gia và có tiếng
nói của mình đối với các hoạt động lập kế hoạch phát triển kinh tế, giảm nghèo cho
bản thân và địa phương.
- Được trang bị một số điều kiện "tối thiểu" để có khả năng tránh được tình trạng
tái nghèo khi gặp phải những rủi ro khách quan như thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh… hoặc
sự thay đổi của chuẩn nghèo.
- Được đảm bảo tiếp cận bình đẳng về giáo dục dạy nghề và chăm sóc sức khoẻ
để về lâu dài, người nghèo, người mới thoát nghèo và con em họ có được kiến thức,
2
1

kinh nghiệm làm ăn, tay nghề nhằm tạo ra thu nhập ổn định trong cuộc sống.
Giải pháp tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững
Vai trò của giải pháp tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững
Tài chính có ba vai trò trọng tâm đó là: huy động, phân phối và giám sát.
Thứ nhất, chức năng huy động: Đây là chức năng tạo lập các nguồn tài chính, thể
hiện khả năng tổ chức khai thác các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
của nền kinh tế.
Thứ hai, chức năng phân phối: Chức năng phân phối của tài chính là chức năng
mà nhờ đó, các nguồn tài lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào
các quỹ tiền tệ khác nhau, để sử dụng cho những mục đích khác nhau, đảm bảo những
nhu cầu, những lợi ích khác nhau của đời sống xã hội.
Trên thực tế phân phối được chia thành 3 nhóm:

+ Phân phối có hoàn lại có thời hạn. Ví dụ: Tín dụng
+ Phân phối không hoàn lại. Ví dụ: Ngân sách nhà nước
+ Phân phối hoàn lại có điều kiện. Ví dụ: Bảo hiểm
Thứ ba, chức năng giám sát: Đây là chức năng kiểm tra sự vận động của các
nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Tuy nhiên xét trong mục tiêu giảm nghèo bền vững thì tài chínhvẫn dựa trên ba
chức năng chủ yếu của mình để thực hiện vai trò trong giảm nghèo một cách hiệu quả
nhất. Từ việc huy động các nguồn tài chính sau đó phân phối nguồn tài chính đến các
hộ, các vùng đang còn nghèo đói, khó khăn, giúp họ tiếp cận với nguồn tài chính thực
hiện mục tiêu thoát nghèo. Nhưng những hoạt động đó luôn được thực hiện dưới sự

2
1

giám sát của tổ chức tài chính.
Các công cụ tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững
Chính sách đầu tư công hỗ trợ giảm nghèo


-

Khái niệm: Đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất,
nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài

-

nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.
Cơ sở hạ tầng là đối tượng chính của đầu tư công, là một bộ phận đặc thù của cơ sở vật
chất kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân có chức năng, nhiệm vụ cơ bản là đảm bảo
những điều kiện chung cần thiết cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng được

diễn ra bình thường, liên tục. Có cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại, nền kinh tế mới có
điều kiện để tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững. Trình độ phát triển của cơ sở hạ
tầng có ảnh hưởng đến trình độ phát triển của đất nước, có tác động tích cực đến tăng

2
-

trưởng kinh tế và công tác giảm nghèo bền vững.
Chính sách tín dụng
Khái niệm:“ Tín dụng là một phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau
giữa các pháp nhân và thể nhân trong xã hội dựa trên nguyên tắc hoàn trả có thời hạn

-

và có lợi tức.”
Hiểu ngắn gọn thì tín dụng có 3 đặc trưng sau:
+ Tín dụng chỉ thay đổi quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu.
+ Tín dụng có thời hạn.
+ Người sở hữu được nhận một phần thu nhập dưới hình thức là lợi tức.
Khái niệm tín dụng đối với người nghèo là những khoản tín dụng chỉ dành riêng cho
những người nghèo, có sức lao động, nhưng thiếu vốn để phát triển sản xuất trong một
thời gian nhất định phải hoàn trả số tiền gốc và lãi; tuỳ theo từng nguồn có thể hưởng
theo lãi suất ưu đãi khác nhau nhằm giúp người ngèo mau chóng vượt qua nghèo đói
vươn lên hoà nhập cùng cộng đồng. Tín dụng đối với người nghèo hoạt động theo
những mục tiêu, nguyên tắc, điều kiện riêng, khác với các loại hình tín dụng của các
Ngân hàng Thương mại mà nó chứa đựng những yếu tố cơ bản sau:
+ Mục tiêu: Tín dụng đối với người nghèo nhằm vào việc giúp những người
nghèo đói có vốn phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao đời sống, hoạt động vì mục
tiêu giảm nghèo, không vì mục đích lợi nhuận.
+ Nguyên tắc cho vay: Cho vay hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn sản

xuất kinh doanh. Hộ nghèo vay vốn phải là những hộ được xác định theo chuẩn mực
nghèo đói do Bộ LĐ-TBXH hoặc do địa phương công bố trong từng thời kỳ. Thực
hiện cho vay có hoàn trả (gốc và lãi) theo kỳ hạn đã thoả thuận.
+ Điều kiện: Có một số điều kiện, tuỳ theo từng nguồn vốn, thời kỳ khác nhau,
từng địa phương khác nhau có thể quy định các điều kiện cho phù hợp với thực tế.
Nhưng một trong những điều kiện cơ bản nhất của tín dụng đối với người nghèo đó là:
Khi được vay vốn không phải thế chấp tài sản.


3
-

Chính sách trợ cấp
Khái niệm: Trợ cấp là những lợi ích mà Chính phủ đem lại cho một đối tượng nhất
định và có thể lượng hóa về mặt tài chính.
Đối với người nghèo, đó là các khoản trợ cấp về mặt tài chính, trợ cấp thất
nghiệp, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ hướng dẫn trong nông – lâm – ngư nghiệp phù hợp với

4
-

từng vùng để hộ thoát nghèo.
Chính sách bảo hiểm
Khái niệm:
Bảo hiểm được hiểu theo một sô định nghĩa sau:
+ Định nghĩa 1: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít.
+ Định nghĩa 2: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo
hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho
mình hoặc cho người thứ ba trong trường hợp xẩy ra rủi ro sẽ được nhận một khoản
đền bù tổn thất từ một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách

nhiệm toàn bộ đối với rủi ro và đền bù hiệt hại theo phương pháp thống kê.
+ Định nghĩa 3: Bảo hiểm có thể định nghĩa là một phương sách hạ giảm rủi ro
bằng cã kết hợp một số lượng đầy đủ các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể thành
tổn thất cộng đồng và có thể dự tính được
Tuy nhiên các định nghĩa trên thường nghiêng về một khía cạnh nào đó. Tựu
chung lại có thể định nghĩa bảo hiểm như sau:
“ Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp
nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra
rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn
bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo phương pháp của thống kê”.
Trong bối cảnh đất nước còn chưa thoát nghèo hoàn toàn, trong khi mọi nhu cầu
của người dân đều tăng như nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng cao thì tham gia
bảo hiểm như bảo hiểm y tế là một giải pháp an toàn để mọi người dân có thêm điều
kiện trong việc khám chữa bệnh. Đặc biệt đối với các đối tượng còn nghèo và chưa
thoát nghèo hoàn toàn, dưới sự quan tâm của Nhà nước, họ đã được mua và hỗ trợ
rong việc mua Bảo hiểm y tế để được đảm bảo khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe
khi ốm đau.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HỖ
TRỢ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG HIỆN NAY
2.1. Thực trạng chính sách tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững ở Việt
Nam
2.1.1. Thực trạng giảm nghèo ở Việt Nam
• Quy mô của nghèo đói

Bảng 1: tỷ lệ hộ nghèo chung theo các vùng ở Việt Nam từ 2006 đến 2014
STT
1
2

3
4
5
6
7
8
9

Tỷ lệ nghèo
(%)
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
Đồng
bằng
sông Hồng
Trung du miền
núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ
và Duyên hải
miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng
bằng
sông Cửu Long

2006

2008


2010

2011

2012

2013

2014

16,0
3,9
20,4

14,5
3,3
18,7

12,6
5,1
15,9

11,1
3,9
14,4

9,8
12,7
3,7


5,97
11,76
3,0

8,9

8,0

14,2
6,9
17,4
8,3

7,1

6,1

4,9

4,0

32,3

31,6

29,4

26,7


24,2

21,9

18,4

22,3

18,4

20,4

18,5

16,7

14,0

11,8

28,6
3,8

24,1
2,3

22,3
2,3

20,3

1,7

18,6
1,4

16,2
1,1

13,8
1,0

10,3

12,3

12,6

10,1

10,6

9,2

7,9

Nguồn: Niên giám thống kê, NXB Thống kê 2014
Thực trạng quy mô nghèo đói của Việt Nam trong những năm qua có một số đặc
điểm chính sau:
Thứ nhất, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh: Tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam giảm nhanh
qua các năm. Theo tiêu chuẩn của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đã

giảm từ 70% năm 1990 xuống còn 32% năm 2000, năm 2012 còn 11,1%, năm 2013
còn 9,8%, năm 2014 còn 5,97%, ước trong năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống dưới
5%.
Thứ hai, tốc độ giảm nghèo không đồng đều: So với nông thôn, tỷ lệ hộ nghèo ở
thành thị giảm nhanh hơn, giảm còn gần một phần ba, trong khi đó nông thôn giảm
hươn một nửa trong cùng thời kì này. Năm 2008, tỷ lệ hộ nghèo ở thành thị là 3,3% chỉ


bằng một phần sáu so với tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn là 18,7%. Trong đó vùng Đông
Nam Bộ có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất còn 1,4% năm 2012.
Giữa các vùng địa lý khác nhau trong cả nước cũng có sự khác biệt đáng kể. Các
vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa,..có tỷ kệ hộ nghèo khá cao. Số hộ nghèo chủ yếu tập
trung tại các vùng Trung du, miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung
và Tây Nguyên. Có thể thấy tỷ lệ hộ nghèo ở vùng cao gấp 1,5 đến 2 lần so với cả
nước. Đó là những vùng tài nguyên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết
cấu hạ tầng kém phát triển, thiếu đồng bộ.
Thứ ba, kết quả xóa đói giảm nghèo chưa bền vững: Phần lớn thu nhập của người
nghèo là từ nông nghiệp với điều kiện nguồn lực hạn chế, trình độ tay nghề thấp, ít có
khả năng tiếp cận với nguồn lực như vốn kĩ thuật công nghệ,…không có điều kiện tiếp
cận với thông tin do vậy khó có khả năng chuyển đổi từ ngành nghè nông nghiệp sang
phi nông nghiệp để có thu nhập cao hơn. Vì vậy tỷ lệ hộ cận nghèo vẫn còn khá lớn và
nếu gặp phải rủi ro hay sự thay đổi của chính sách thì nguy cơ tái nghèo là rất cao.
Theo báo cáo của Bộ Lao Động Thương binh và Xã hội (Bộ LĐTB – XH) cho biết
tính đến năm 2014 tổng số hộ nghèo trên phạm vi cả nước là 1.442.261 hộ giảm
375.628 hộ so với năm 2013 (theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số
09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ban hành về mức hộ nghèo, cận nghèo áp
dụng từ năm 2011-2015. Số hộ nghèo khu vực thành thị là 109.604 hộ, chiếm tỷ lệ
7,71% so với tổng số hộ nghèo cả nước; số hộ nghèo khu vực nông thôn là 1.312.656
hộ, chiếm tỷ lệ 92,29% so với tổng số hộ nghèo cả nước.
Số hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội là 173.902 hộ, chiếm tỷ lệ 12,23%

so với tổng số hộ nghèo cả nước.
Số hộ nghèo thuộc diện chính sách giảm nghèo là 256.701 hộ, chiếm tỷ lệ
18,05% so với tổng số hộ nghèo cả nước, bao gồm: 21.643 hộ nghèo có thành viên
thuộc đối tượng chính sách người có công, chiếm tỷ lệ 1,52% so với tổng số hộ nghèo
cả nước; 235.067 hộ nghèo có thành viên thuộc đối tượng chính sách bảo trợ xã hội,
chiếm tỷ lệ 16,53% so với tổng số hộ nghèo cả nước.
Thứ tư, tốc độ giảm nghèo của nhóm dân tộc thiểu số còn chậm: Mặc dù số hộ
nghèo của dân tộc thiểu số đã giảm nhưng tỷ lệ trong tổng số hộ nghèo cả nước vẫn
tăng lên. Tính đến năm 2012, có khoảng 50% số hộ thuộc các dân tộc thiểu số vẫn


đang sông dưới chuẩn nghèo chung và gần 30% vẫn thiếu đói. Các hộ thuộc nhóm dân
tộc thiểu số chiếm gần 40% tổng số hộ nghèo của Việt Nam và tốc độ giảm nghèo của
họ còn chậm hơn nhiều so với đa số người Kinh. Tính đến năm 2014, số hộ nghèo dân
tộc thiểu số là 663.563 hộ, chiếm tỷ lệ 46,66% so với tổng số hộ nghèo cả nước.
Nghèo dai dẳng là hiện tượng phổ biến của người dân tộc thiểu số nghèo. Tốc độ giảm
nghèo của các dân tộc thiểu số về các khía cạnh khác ngoài thu hập như: giáo dục, y tế,
nước, vệ sinh môi trường và nhà ở cũng chậm hơn so với tốc độ trung bình trên cả
nước.
• Khoảng cách giàu nghèo

Xã hội ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng nhưu tăng trưởng
của các lĩnh vực ngày càng được chú trọng. Thế nhưng khoảng cách chếnh lệch giữa
nhóm 20% người giàu nhất và người nghèo nhất ngày càng gia tăng.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học công bố tại Hội nghị cập nhập nghèo do
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức cuối tháng 3-2007: Khoảng cách giữa các
nhóm người giàu nhất và nhóm người nghèo nhất đang bị nới rộng một cách liên tục
và đáng kể.
Bảng 2 : Thu nhập bình quân đầu người và chênh lệch thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người/tháng theo giá thực tế

(nghìn đồng)
Nhóm thu nhập cao nhất Nhóm thu nhập thấp nhất
1995
1996
1999
2002
2004
2006
2008
2010

519,6
574,7
741,6
872,9
1182,3
1541,7
2458,2
3410,2

74,3
78,6
97,0
107,0
141,8
184,3
275,0
369,4

Chênh lệch thu nhập

giữa nhóm người cao
nhất và thấp nhất( lần)
7,0
7,3
7,6
8,1
8,3
8,4
8,9
9,2

Nguồn: Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình các năm, Tổng cục Thống kê
Xem xét bảng số liệu trên có thể thấy sự chênh lệch thu nhập đã không ngừng gia
tăng giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo. Đáng chú ý là trong giai đoạn từ
2006 – 2010 khoảng cách chênh lệch này tăng mạnh hươn các năm trước. Tính đến
năm 2012 con số này tiếp tục tăng lên tới 9.4 lần.


Điểm đáng quan tâm hơn nữa là, trong khi mức thu nhập vốn đã chênh lệch ngày
càng tăng thì nhóm thu nhập thấp lại có tốc độ tăng thu nhập chậm và ít hơn nhiều so
với các nhóm khác. Tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người/tháng của nhóm 1 từ
năm 2002 – 2010 gấp 3,4 lần, thấp hơn tốc độ tăng của nhóm 4 và 5 (3.9 đến 4 lần)
trong cùng thời kỳ. Như vậy thu nhập bình quân của hộ gia đình tăng lên nhưng sự gia
tăng này không đồng đều và theo xu hướng làm cách biệt giàu nghèo ngày càng tăng.
Năm 1995, thu nhập bình quân đầu người của những hộ gia đình giàu nhất gấp 7
lần so với những hộ gia đình nghèo nhất, thì đến năm 2010 tỷ lệ này đã tăng lên 9.2
lần, đây cũng là nguyên nhân gia tăng của hệ số Gini từ 0.42 năm 2004 lên 0.43 năm
2010. Điều này cho thấy một thực tế là chênh lệch về thu nhập tuyệt đối ở Việt Nam
đang tăng nhanh.
Khoảng cách giàu nghèo không phải chỉ là một chỉ tiêu kinh tế. Nó còn phản ánh

sự gắn kết xã hội và là một thể hiện của sự bình đẳng trong xã hội.
Số liệu thống kê cho kết quả: tỷ trọng này của Việt Nam năm 1995 là 21,1%;
năm 1996 là 21%; năm 1999 là 18,7%; năm 2002 là 18%, năm 2004 là 17,4%. Trong 9
năm, sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm hộ từ tương đối bình đẳng đang tiến
dần về bất bình đẳng vừa.
Như vậy, tình trạng bất bình đẳng có chiều hướng gia tăng có thể dẫn tới những
vấn đề lớn cho Chính phủ trong công tác an sinh xã hội. Hơn nữa, đối tượng chịu ảnh
hưởng của bất bình đẳng chiếm tỷ trọng lớn lại là trẻ em, vùng khó khăn, dân tộc thiểu
số.
2.1.2. Thực trạng các chính sách tài chính hỗ trợ giảm nghèo bền vững ở
Việt Nam trong thời gian qua
Chính sách đầu tư

1

Hỗ trợ đầu tư vào giáo dục và đào tạo
-

Thứ nhất, đầu tư vào giáo dục được đưa lên quốc sách hàng đầu. Đó là việc thực hiện
có hiệu quả chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ học bổng, trợ cấp xã hội và hỗ trợ
chi phí học tập đối với học sinh nghèo ở các cấp học, nhất là bậc mầm non và con em
dân tộc vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn, tiếp tục thực hiện chính sách tín dụng ưu
đãi đối với học sinh, sinh viên, nhất là sinh viên nghèo. Hàng năm ngân sách trung


ương bố trí khoảng 7 nghìn tỷ đồng để thực hiện chính sách miễn giảm học phí cho
học sinh nghèo, trợ cấp học bổng cho học sinh dân tộc thiểu số, học sinh bán trú và
trường dân tộc bán trú. Trong giai đoạn 2011-2015 đã có trên 10 triệu lượt học sinh
-


được hỗ trợ học phí với tổng kinh phí khoảng 35 nghìn tỷ đồng.
Thứ hai, cần thực hiện chính sách ưu đãi, thu hút đối với giáo viên công tác ở địa bàn
khó khăn; khuyến khích xây dựng và mở rộng “Quỹ khuyến học”; ưu tiên đầu tư trước
để đạt chuẩn cơ sở trường, lớp học ở các xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Bằng thực tế cho thấy tình hình đầu tư vào giáo dục đào tạo trong những năm
2006 – 2010:
Bảng 3: Tình hình thực hiện vốn đầu tư giáo dục đào tạo trong những giai
đoạn 2006-2010
Vốn ĐT toàn xã hội
-Tốc độ tăng
Vốn ĐT cho GD-ĐT
-Tốc độ tăng
Tỷ trọng vốn ĐT cho
GD-ĐT

2006
163.500
25.882
-

2007
180.400
10.34
34.088
31.7

2008
217.600
20.62
37.552

10.2

2009
258.700
18.89
54.223
44.4

2010
324.000
25.24
68.968
27.2

6.3

5.3

5.8

4.8

4.7

Nguồn: Bộ Giáo dục – Đào tạo
Qua bảng số kiệu trên ta thấy rằng tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội tăng lên đáng
kể qua từng năm cùng với đó vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo cũng tăng lên đáng
kể. Qua hằng năm Đảng và Nhà nước luôn dành một lượng vốn khoảng 20% để đầu tư
hỗ trợ cho giáo dục, giúp cải thiện giáo dục cũng như giúp học sinh thuộc hộ nghèo
đặc biệt là số học sinh thuộc dân tộc thiểu số, vùng sâu , vùng xa có cơ hội điều kiện

vượt lên hoàn cảnh. Ngoài ra Nhà nước cũng luôn đổi mới cho phù hợp với điều kiện
để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào giáo dục như vốn ODA, FDI,… đặc biệt là
nguồn vốn ODA đã đóng góp một phần không nhỏ để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Thống
kê cho thấy ngồn vốn ODA chiếm 5% trong tổng nguồn vốn đầu tư cho giáo dục, với
nguồn vốn này, hằng năm đã đóng góp một phần đáng kể vào cải thiện chất lượng giáo
dục.
Điển hình trong năm 2013 tập đoàn Bảo Việt đã đầu tư xây dựng các trường tiểu
học, trường mầm non, trường bán trú tại huyện Pác Nặm, Quế Phong và các tỉnh
nghèo khác trong cả nước với tổng kinh phí hơn 22 tỷ đồng. Bên cạnh việc xây dựng
cơ sở vật chất, Bảo Việt cũng tích cực đẩy mạnh các hoạt động khác cho các em học
sinh khó khăn. Điển hình như chương trình học bổng "An sinh giáo dục" của Bảo Việt


sau 9 năm hoạt động đã huy động được hơn 9 tỷ đồng dành trao tặng cho 6.000 em học
sinh trên cả nước. Hay dự án "Thư viện lưu động" sau 3 năm đã cung cấp 136 thư viện
lưu động cho 136 trường học tại Đà Nẵng; cùng nhiều các chương trình ý nghĩa khác
dành tặng các trẻ em vùng sâu vùng xa.
Trong những năm qua, giáo dục đào tạo thực sự được chú trọng cho đối tượng
người nghèo ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Ngày 25 tháng 5 năm
2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra nghị định số 49/2010/NĐ-CP quy định về miễn,
giảm học phí,hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo
dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 -2011 đến năm học 2014
-2015. Theo đó, học sinh và sinh viên là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo và hộ
có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, học sinh, sinh viên có cha
mẹ thường trú tại các xã biên giới, vùng cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế -xã
hội đặc biệt khó khăn được miễn học phí hoàn toàn. Trường hợp học sinh, sinh viên
có cha mẹ thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo được
miễn giảm 50% học phí. Chính sách này đã mở ra cơ hội học tập cho học sinh và sinh
viên con cái các gia đình nghèo. Chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo đã
góp phần nâng cao dân trí của người nghèo. Tỷ lệ học sinh con các gia đình nghèo

được đến trường tăng lên. Năm 2006, tỷ lệ học sinh từ 15 tuổi trở lên chưa bao giờ
được đến trường trên địa bàn cả nước là 8,1%, trong đó thuộc nhóm nghèo nhất là
18,0%, song tỷ lệ này dần giảm đi và năm 2012, khi tỷ lệ học sinh từ 15 tuổi trở lên
chưa bao giờ đi học của cả nước là 6,0% thì số thuộc nhóm nghèo nhất giảm xuống
còn 15,7%. Đây là một kết quả khẳng định hiệu quả của chính sách hỗ trợ về giáo dục
của Nhà nước. Hơn thế nữa, chính sách miễn giảm học phí của Nhà nước đối với con
em các gia đình thuộc diện hộ nghèo cũng tạo điều kiện để cho con cái của họ có điều
kiện đi học, nâng cao dân trí.
Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2012 của Tổng cục Thống kê cho thấy,
nếu xét theo khu vực thành thị, nông thôn hay 5 nhóm thu nhập, tỷ lệ người được miễn
giảm học phí tăng lên ở tất cả các khu vực và các nhóm. Song nếu xét cụ thể trong
từng nhóm thu nhập, thì nhóm 1, nhóm 2 và nhóm 3 có sự tăng lên về tỷ lệ người đi
học được miễn giảm học phí, đặc biệt là đối với các hộ nghèo, trong khi nhóm 4 và
nhóm 5 có tỷ lệ người đi học được miễn học phí giảm đi. Điều này xảy ra do có sự
thay đổi trong các chính sách của Nhà nước đối với giáo dục vì người nghèo trong


×